Từ khoá: Số Hiệu, Tiêu đề hoặc Nội dung ngắn gọn của Văn Bản...

Đăng nhập

Đang tải văn bản...

Số hiệu: 165/NQ-CP Loại văn bản: Nghị quyết
Nơi ban hành: Chính phủ Người ký: Trần Lưu Quang
Ngày ban hành: 06/10/2023 Ngày hiệu lực: Đã biết
Ngày công báo: Đang cập nhật Số công báo: Đang cập nhật
Tình trạng: Đã biết

Có giải pháp tăng cường đội ngũ công chức làm công tác xây dựng pháp luật, pháp chế

Chính phủ ban hành Nghị quyết 165/NQ-CP ngày 6/10/2023 phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 9 năm 2023, trong đó, yêu cầu có giải pháp tăng cường đội ngũ công chức làm công tác xây dựng pháp luật, pháp chế.

Có giải pháp tăng cường đội ngũ công chức làm công tác xây dựng pháp luật, pháp chế

Theo đó, việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật tiếp tục được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, tạo đột phá trong thời gian tới.

Các bộ, cơ quan ngang bộ cần quyết liệt thực hiện bảo đảm 4 yêu cầu như sau:

(1) Nghiên cứu, thể chế hóa đầy đủ các chủ trương của Đảng; đánh giá, tổng kết kỹ việc thi hành pháp luật; xác định rõ các quy định còn phù hợp để kế thừa; các quy định không còn phù hợp với thực tiễn, yêu cầu quản lý nhà nước và phát triển trong điều kiện hiện nay; nghiên cứu, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, bảo đảm phù hợp với đặc điểm về chính trị và điều kiện thực tế của
Việt Nam, bảo đảm tính khả thi của các chính sách mới.

(2) Hoàn thiện các quy định bảo đảm đơn giản hóa các hồ sơ, quy trình, thủ tục hành chính; cắt giảm tối đa khâu trung gian; quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm; công khai, minh bạch quá trình thực hiện.

Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước giữa cơ quan Trung ương và chính quyền địa phương gắn với phân bổ nguồn lực; tăng cường kiểm tra giám sát, kiểm soát quyền lực; phòng, chống các hành vi tham nhũng, tiêu cực, cục bộ, lợi ích nhóm trong xây dựng pháp luật;

(3) Tiếp tục tổ chức lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức có liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học, người làm công tác thực tiễn; đẩy mạnh công tác truyền thông về chính sách nhằm tạo sự đồng thuận của xã hội, người dân và đối tượng chịu tác động trực tiếp của dự án luật;

(4) Các đồng chí Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ phải trực tiếp phụ trách, lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật, thể chế;
Có các giải pháp cụ thể để tăng cường đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật, pháp chế;

Thực hiện nghiêm quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về nâng cao chất lượng, thời hạn trình văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có các giải pháp đẩy mạnh công tác xây dựng pháp luật tại các Nghị quyết của Chính phủ về Phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 7, tháng 8 năm 2023.

Xem chi tiết tại Nghị quyết 165/NQ-CP có hiệu lực từ ngày 6/10/2023.

 

CHÍNH PHỦ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 165/NQ-CP

Hà Nội, ngày 06 tháng 10 năm 2023

NGHỊ QUYẾT

PHIÊN HỌP CHUYÊN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG PHÁP LUẬT THÁNG 9 NĂM 2023

CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22 tháng 11 năm 2019;

Căn cứ Nghị định số 39/2022/NĐ-CP ngày 18 tháng 6 năm 2022 của Chính phủ ban hành Quy chế làm việc của Chính phủ;

Trên cơ sở thảo luận của các thành viên Chính phủ và kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại Phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật, tổ chức ngày 28 tháng 9 năm 2023,

QUYẾT NGHỊ:

Chính phủ đánh giá cao các bộ, cơ quan ngang bộ đã triển khai nhiều giải pháp, đề xuất nhiều nội dung quan trọng, khó, phức tạp, cấp bách, nhạy cảm để tháo gỡ các vướng mắc, bất cập trong thực tiễn; tạo động lực, cơ hội cho phát triển, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong tình hình mới. Việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật tiếp tục được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, tạo đột phá trong thời gian tới. Các bộ, cơ quan ngang bộ cần quyết liệt thực hiện bảo đảm các yêu cầu sau: (i) Nghiên cứu, thể chế hóa đầy đủ các chủ trương của Đảng; đánh giá, tổng kết kỹ việc thi hành pháp luật; xác định rõ các quy định còn phù hợp để kế thừa; các quy định không còn phù hợp với thực tiễn, yêu cầu quản lý nhà nước và phát triển trong điều kiện hiện nay; nghiên cứu, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, bảo đảm phù hợp với đặc điểm về chính trị và điều kiện thực tế của Việt Nam, bảo đảm tính khả thi của các chính sách mới; (ii) Hoàn thiện các quy định bảo đảm đơn giản hóa các hồ sơ, quy trình, thủ tục hành chính; cắt giảm tối đa khâu trung gian; quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm; công khai, minh bạch quá trình thực hiện. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước giữa cơ quan Trung ương và chính quyền địa phương gắn với phân bổ nguồn lực; tăng cường kiểm tra giám sát, kiểm soát quyền lực; phòng, chống các hành vi tham nhũng, tiêu cực, cục bộ, lợi ích nhóm trong xây dựng pháp luật; (iii) Tiếp tục tổ chức lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức có liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học, người làm công tác thực tiễn; đẩy mạnh công tác truyền thông về chính sách nhằm tạo sự đồng thuận của xã hội, người dân và đối tượng chịu tác động trực tiếp của dự án luật; (iv) Các đồng chí Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ phải trực tiếp phụ trách, lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật, thể chế; có các giải pháp cụ thể để tăng cường đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật, pháp chế; thực hiện nghiêm quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về nâng cao chất lượng, thời hạn trình văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có các giải pháp đẩy mạnh công tác xây dựng pháp luật tại các Nghị quyết của Chính phủ về Phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 7, tháng 8 năm 20231.

Để chuẩn bị cho Phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật này, các Bộ: Công an, Văn hóa Thể thao và Du lịch, Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan chủ động lập hồ sơ Đề nghị xây dựng Luật vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (sửa đổi); Đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quảng cáo và báo cáo về tình hình xử lý các văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết đã có hiệu lực thi hành của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Chính phủ quyết nghị các nội dung như sau:

1. Về Đề nghị xây dựng Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (sửa đổi):

Đánh giá cao Bộ Công an đã chủ trì xây dựng Đề nghị xây dựng Luật Quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (sửa đổi) theo đúng quy định nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp2; kế thừa các quy định còn phù hợp, khắc phục những tồn tại, bất cập, hạn chế; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, góp phần phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật; bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên3.

Cơ bản thống nhất với 04 chính sách trong hồ sơ Đề nghị xây dựng Luật. Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và cơ quan có liên quan tiếp thu tối đa ý kiến của các Thành viên Chính phủ; hoàn thiện theo hướng:

- Tiếp tục nghiên cứu, phân biệt rõ công cụ, dao được coi là vũ khí (có tính sát thương cao) với công cụ, dao sử dụng cho mục đích lao động, sản xuất, sinh hoạt để có cơ chế quản lý phù hợp, khả thi, tránh gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân;

- Tiếp tục rà soát thủ tục hành chính trong cấp phép; nghiên cứu cắt giảm các loại giấy tờ không cần thiết trong hồ sơ cấp phép; xem xét bổ sung quy định thực hiện thủ tục qua môi trường mạng bảo đảm quản lý hiệu quả, khả thi, thuận lợi cho cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện;

- Rà soát các nội dung chính sách bảo đảm đồng bộ với pháp luật liên quan (Bộ luật hình sự, Luật Đầu tư, Luật Quản lý ngoại thương, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, ...).

Giao Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp và các cơ quan liên quan hoàn thiện hồ sơ Đề nghị xây dựng Luật theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Giao Bộ trưởng Bộ Tư pháp thừa ủy quyền Thủ tướng, thay mặt Chính phủ ký Tờ trình đề nghị Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội bổ sung dự án Luật này vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024 để Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7 (tháng 5 năm 2024).

2. Về Đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quảng cáo:

Đánh giá cao Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã chủ trì xây dựng Đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quảng cáo theo đúng quy định nhằm thể chế hóa kịp thời các chủ trương, đường lối của Đảng4; tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thống nhất để phát triển hoạt động quảng cáo, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của hoạt động này trên môi trường mạng (Internet) và các nền tảng xuyên biên giới (trang thông tin điện tử, mạng xã hội, ứng dụng di động như Facebook, TikTok, Youtube ...); đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cải cách thủ tục hành chính và nâng cao trách nhiệm, năng lực của các chủ thể tham gia hoạt động quảng cáo.

Cơ bản thống nhất với 03 chính sách trong Hồ sơ đề nghị xây dựng Luật. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và cơ quan có liên quan tiếp thu tối đa ý kiến của các Thành viên Chính phủ; hoàn thiện theo hướng:

- Về quản lý đối với hoạt động quảng cáo trên mạng xã hội, công cụ tìm kiếm: Nghiên cứu làm rõ cách thức, biện pháp quản lý đối với hoạt động quảng cáo, trách nhiệm của từng chủ thể (người phát hành quảng cáo, người chuyển tải sản phẩm quảng cáo, trách nhiệm của các cơ quan có liên quan trong việc quản lý nhà nước đối với loại hình quảng cáo này);

- Về bổ sung các yêu cầu cụ thể đối với từng loại hàng hóa, dịch vụ đặc biệt: Rà soát, làm rõ bảo đảm đồng bộ, thống nhất với các luật liên quan (Luật Dược, Luật An toàn thực phẩm, ...);

- Về tăng diện tích quảng cáo trên ấn phẩm báo chí: cần đánh giá tác động kỹ lưỡng, tránh việc các ấn phẩm báo chí mang tính truyền tải thông tin có nhiều nội dung quảng cáo mang tính chất thương mại, gây phản cảm; rà soát các quy định về quảng cáo xuyên biên giới bảo đảm phù hợp với chính sách, pháp luật về an ninh mạng, giao dịch điện tử, cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;

- Về quản lý nhà nước về hoạt động quảng cáo: tiếp tục đánh giá kỹ lưỡng tính chất, phạm vi quản lý, xu thế phát triển dịch vụ quảng cáo để có cơ sở phân công cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm giúp Chính phủ về quản lý hoạt động quảng cáo, đồng thời cần phân định rõ trách nhiệm, sự phối hợp của các cơ quan liên quan trong thực hiện quản lý nhà nước về quảng cáo bảo đảm hiệu quả, không trùng dẫm; đáp ứng yêu cầu phát triển dịch vụ quảng cáo là một lĩnh vực trọng tâm trong Chiến lược phát triển ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 20305;

- Tiếp tục rà soát các quy định về thủ tục hành chính để quảng cáo trên báo in, báo nói, báo hình; quảng cáo ngoài trời, ... thống nhất với các quy định của pháp luật liên quan (Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Xây dựng, ...), bảo đảm yêu cầu quản lý kiến trúc, bảo đảm an toàn sức khoẻ, tính mạng của người dân, đáp ứng yêu cầu thực tiễn;

- Rà soát, nghiên cứu, đánh giá kỹ các nội dung cần sửa đổi, bổ sung để đề xuất sửa đổi toàn diện hoặc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quảng cáo, bảo đảm khắc phục được những hạn chế, vướng mắc; tạo hành lang pháp lý cho phát triển hiệu quả ngành quảng cáo và các ngành nghề có liên quan.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp và các cơ quan liên quan hoàn thiện hồ sơ Đề nghị xây dựng Luật theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Giao Bộ trưởng Bộ Tư pháp thừa ủy quyền Thủ tướng, thay mặt Chính phủ ký Tờ trình đề nghị Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội bổ sung dự án Luật này vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024 để Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 8 (tháng 10 năm 2024).

Giao Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chỉ đạo xây dựng dự án Luật này.

3. Báo cáo về tình hình xử lý các văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết đã có hiệu lực thi hành của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Chính phủ đánh giá cao nỗ lực của các bộ, cơ quan ngang bộ trong việc xây dựng, trình ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy định chi tiết thi hành các luật, pháp lệnh, nghị quyết trong thời gian vừa qua. Việc ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành có ý nghĩa quan trọng trong tổ chức thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quản lý nhà nước của Chính phủ, bảo vệ và bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức. Các nội dung được giao quy định chi tiết thi hành thường là các vấn đề khó, phức tạp, còn nhiều ý kiến khác nhau, chưa có tính ổn định cao, nhiều nội dung cần xin ý kiến của cấp có thẩm quyền, đòi hỏi nỗ lực, quyết tâm, tinh thần trách nhiệm, nhiệt huyết của các cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ đã ban hành được 116/129 văn bản được giao, bao gồm 68 nghị định của Chính phủ, 12 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 36 thông tư của các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Tuy nhiên, tình trạng nợ, chậm ban hành văn bản quy định chi tiết chưa được khắc phục triệt để. Hiện nay vẫn còn nợ ban hành 13 văn bản; một số văn bản đã được ban hành nhưng chưa kịp thời để có hiệu lực đồng thời với thời điểm có hiệu lực của luật, pháp lệnh, nghị quyết; một số văn bản chất lượng chưa bảo đảm, vừa ban hành đã phải sửa đổi, bổ sung, ngưng hiệu lực thi hành, hoặc có bất cập, gây vướng mắc, cản trở sự phát triển; việc xử lý trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân chưa kịp thời, chưa tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm.

Để khắc phục tình trạng trên, Chính phủ giao:

- Văn phòng Chính phủ chủ trì, nghiên cứu sửa đổi Quy chế làm việc của Chính phủ theo hướng: đẩy nhanh tiến độ soạn thảo, trình, thẩm tra, xem xét xử lý dự thảo văn bản trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu bộ, ngành; làm rõ cơ chế xử lý, quyết định những vấn đề lớn, còn vướng mắc, chưa thống nhất trong dự thảo văn bản. Hoàn thành trong Quý IV năm 2023.

- Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, các cơ quan liên quan khẩn trương nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Nghị định số 34/2016/NĐ-CP và Nghị định số 154/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn nhằm đẩy nhanh việc ban hành, kịp thời giải quyết những vướng mắc, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.

- Đối với 13 văn bản nợ ban hành được nêu tại Báo cáo số 308/BC-BTP ngày 26 tháng 9 năm 2023 của Bộ Tư pháp:

+ Đối với 06 văn bản đã được các bộ, cơ quan trình Chính phủ nhưng chưa ban hành: các Bộ chủ trì giải trình, tiếp thu ý kiến Thành viên Chính phủ, trình lại trước ngày 05 tháng 10 năm 2023; báo cáo Phó Thủ tướng phụ trách xem xét, quyết định ban hành trước ngày 10 tháng 10 năm 2023;

+ Đối với 04 dự thảo Nghị định chưa được các Bộ trình Chính phủ: các Bộ khẩn trương hoàn thiện, trình Chính phủ trước ngày 05 tháng 10 năm 2023, trừ Nghị định về tổ chức đại diện người lao động và thương lượng tập thể đang được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, báo cáo Bộ Chính trị;

+ Đối với 03 Thông tư quy định chi tiết chưa được ban hành: Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ đạo hoàn thiện và ban hành trước ngày 05 tháng 10 năm 2023;

+ Giao Văn phòng Chính phủ theo dõi, đôn đốc nhiệm vụ này.

- Đối với 71 văn bản cần ban hành trong thời gian tới được nêu tại Báo cáo số 308/BC-BTP ngày 26 tháng 9 năm 2023 của Bộ Tư pháp: Các đồng chí Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ cần dành thời gian tối đa chỉ đạo công tác xây dựng các văn bản này, bảo đảm chất lượng, thời hạn trình, ký ban hành theo quy định; không để tiếp tục xảy ra tình trạng nợ, chậm ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành. Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ theo dõi, đôn đốc, báo cáo tại Phiên họp Chính phủ. Trường hợp cần thiết, Văn phòng Chính phủ báo cáo Lãnh đạo Chính phủ tổ chức phiên họp chuyên đề để xử lý nhằm chấm dứt tình trạng nợ ban hành văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội./.


Nơi nhận:
- Ban Bí thư Trung ương Đảng;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP;
- HĐND, UBND các tỉnh, TP trực thuộc TW;
- Văn phòng TW và các Ban của Đảng;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Hội đồng Dân tộc và các UB của Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội;
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- Kiểm toán Nhà nước;
- Ngân hàng Chính sách Xã hội;
- Ngân hàng Phát triển Việt Nam;
- Ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;
- VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý, Thư ký TTg, các PTTg; các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, TGĐ Cổng TTĐTCP;
- Lưu: VT, PL (3b).

TM. CHÍNH PHỦ
KT. THỦ TƯỚNG
PHÓ THỦ TƯỚNG




Trần Lưu Quang



1 Nghị quyết số 115/NQ-CP ngày 28 tháng 7 năm 2023; Nghị quyết số 135/NQ-CP ngày 30 tháng 8 năm 2023.

2 Khoản 2 Điều 14 và Điều 19 Hiến pháp năm 2013 quy định quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng và tính mạng con người được pháp luật bảo hộ; không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật.

3 Nghị định thư Geneva 1925 về việc cấm sử dụng trong chiến tranh các chất làm ngạt, chất độc hoặc các loại vũ khí khác và phương pháp chiến tranh vi trùng (Việt Nam tham gia tháng 12/1980); Công ước cấm phát triển, sản xuất, tàng trữ và sử dụng vũ khí hoá học (Việt Nam tham gia ngày 31/3/1993); Công ước cấm vũ khí sinh học (Việt Nam tham gia tháng 6/1980); Công ước cấm một số vũ khí thông thường gây sát thương quá mức (Việt Nam tham gia năm 1980); Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (Việt Nam tham gia tháng 9/1996).

4 Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của BCH TW khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; Kết luận số 76-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW; Nghị quyết Trung ương 9 Khóa XI; Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII; Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 27/11/2022 của BCHTW Đảng khóa XIII về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045...

5 Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 8/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ.

Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh

Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Nghị quyết 165/NQ-CP Phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 9 ngày 06/10/2023 do Chính phủ ban hành

Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


3.535

DMCA.com Protection Status
IP: 3.15.186.78
Hãy để chúng tôi hỗ trợ bạn!