VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN
TỐI CAO
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 989/VKSTC-V1
V/v Hướng dẫn nghiệp vụ áp dụng Điều
304 và Điều 305 BLHS
|
Hà
Nội, ngày 17 tháng 3 năm 2021
|
Kính
gửi: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương
Thời gian qua, việc áp dụng, xử lý “Tội
chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ
khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự” (Điều 304) và
“Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
vật liệu nổ” (Điều 305) gặp một số khó khăn, vướng mắc.
Trên cơ sở tổng hợp những khó khăn,
vướng mắc của Viện kiểm sát nhân dân địa phương, ý kiến tham gia của các đơn vị
có liên quan thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Vụ 1, Vụ
14), Bộ Công an (A09), Tòa án nhân dân tối cao (Vụ 1), Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn nghiệp vụ như sau:
1. Đối với một số vướng mắc chung
Khoản 1 các điều 304,
305 BLHS không quy định mức tối thiểu vật phạm pháp; tại
các khoản 2, 3, 4 các điều 304, 305 BLHS không quy định cụ
thể vật phạm pháp, như: Điều 304 BLHS quy định “Vật phạm
pháp có số lượng lớn hoặc có giá trị lớn” (điểm g khoản 2), “Vật
phạm pháp có số lượng rất lớn hoặc có giá trị
rất lớn” (điểm d khoản 3), “vật
phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn hoặc có
giá trị đặc biệt lớn” (điểm d
khoản 4) hoặc tại Điều 305 BLHS quy định “Các
loại phụ kiện nổ có số lượng lớn” (điểm c khoản 2), “Các loại phụ kiện nổ có số lượng rất lớn” (điểm b khoản 3), “Các loại phụ kiện nổ
có số lượng đặc biệt lớn” (điểm b khoản 4) nhưng đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn áp
dụng các điều luật trên, dẫn đến việc nhận thức, áp dụng pháp luật chưa thống
nhất.
Để áp dụng pháp luật thống nhất, căn
cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội, Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật năm 2015, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có văn bản kiến nghị
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng.
Trong khi chờ hướng dẫn của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; để kịp thời tháo gỡ những
khó khăn, vướng mắc, đối với các trường hợp cụ thể, Viện kiểm sát địa phương cần đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi, động
cơ, mục đích và nhân thân người phạm tội, yêu cầu công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm của địa phương, những tình tiết khác có liên quan để quyết định xử lý;
trường hợp có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau về đường lối giải quyết, cần tổ
chức họp liên ngành tố tụng hoặc báo cáo thỉnh thị liên ngành tố tụng Trung
ương để bảo đảm không làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm.
2. Đối với một số vướng mắc cụ thể
Trên cơ sở tổng hợp vướng mắc của Viện
kiểm sát địa phương, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn một số vấn đề cụ
thể sau:
2.1. Trường hợp tàng trữ quả lựu đạn
(mô hình) nhưng lại lầm tưởng đó là quả lựu đạn thật thì có bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội “Tàng trữ trái phép
vũ khí quân dụng” không?.
Trường hợp trên cần trưng cầu giám định,
nếu kết luận không phải là vũ khí quân dụng thì không có căn cứ để truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội “Tàng trữ trái
phép vũ khí quân dụng”.
2.2. Trường hợp đã tàng trữ vũ khí
quân dụng một thời gian, sau đó giao nộp theo vận động của chính quyền địa
phương thì có bị xử lý hình sự về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” không?
Tùy trường hợp cụ thể để quyết định xử
lý cho phù hợp; căn cứ các điều 63, 67 Luật quản lý, sử dụng vũ
khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ, trường hợp giao nộp vũ khí quân dụng
theo vận động của chính quyền địa phương thì không bị xử lý hình sự về tội “Tàng
trữ trái phép vũ khí quân dụng”, trừ trường hợp người tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng hoặc hành vi
tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng đó liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật
khác, cần thiết phải xử lý hình sự.
2.3. Đối tượng tàng trữ nhiều loại vật
liệu nổ khác nhau, trong đó có 01 loại đã đủ định lượng truy cứu trách nhiệm
hình sự theo khoản 2 Điều 305 BLHS, các loại vật liệu nổ
khác số lượng, trọng lượng mỗi loại đều dưới khoản 2 Điều 305
BLHS thì truy cứu trách nhiệm hình sự như thế nào?
Trường hợp này vẫn truy cứu trách nhiệm
hình sự theo khoản 2 Điều 305 BLHS.
2.4. Hành vi chế tạo, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt bom, mìn sót lại sau chiến
tranh thì xác định là tội phạm liên quan đến vũ khí quân dụng hay tội phạm liên
quan đến vật liệu nổ?
Trường hợp bom, mìn chưa bị tháo rời
các bộ phận (ngòi nổ, thuốc nổ), kết quả giám định kết luận còn nguyên tính
năng, tác dụng của vũ khí quân dụng thì xác định là tội phạm liên quan đến vũ
khí quân dụng quy định tại Điều 304 BLHS.
Trường hợp bom, mìn đã bị tháo rời
thuốc nổ, ngòi nổ, kết quả giám định kết luận thuốc nổ, ngòi nổ vẫn còn tính
năng, tác dụng của vật liệu nổ thì xác định là tội phạm
liên quan đến vật liệu nổ quy định tại Điều 305 BLHS.
2.5. Đối tượng tàng trữ 01 khẩu súng,
sau đó mang đi bán bị bắt giữ thì xác định tội danh như thế nào?
Trường hợp tàng trữ 01 khẩu súng, sau
đó mang đi bán bị bắt giữ, nếu giám định kết luận khẩu
súng là vũ khí quân dụng, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Tàng
trữ, mua bán trái phép vũ khí quân dụng”.
2.6. “Đầu đạn”, “đầu ngòi nổ đạn” có được coi là đạn không?
Trường hợp này cần phải trưng cầu
giám định cơ quan chuyên môn để kết luận.
2.7. Đối tượng bị Cơ quan Cảnh sát điều
tra Công an cấp huyện khởi tố về 02 tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và
“Tàng trữ trái phép vật liệu nổ”. Theo quy định của pháp luật, tội “Tàng
trữ trái phép vật liệu nổ” thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan An ninh điều
tra. Vậy trường hợp này có phải tách và chuyển vụ án “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ” về Cơ quan An ninh điều
tra Công an tỉnh để điều tra theo thẩm quyền không?
Theo quy định tại Điều
17 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự thì tội “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ” quy định tại Điều 305 BLHS thuộc thẩm quyền điều
tra của Cơ quan An ninh điều tra Công an cấp tỉnh, nếu việc tách vụ án không ảnh hưởng đến việc điều tra, truy tố, xét xử thì tách vụ “Tàng
trữ trái phép vật liệu nổ” để chuyển cho Cơ quan An ninh điều tra Công an cấp
tỉnh thụ lý điều tra theo thẩm quyền.
Trường hợp không thể tách vụ án thì
căn cứ Điều 17, 20, 21 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự;
điểm đ, khoản 6 Điều 9 Thông tư liên tịch số
04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 hướng dẫn về phối hợp giữa Cơ
quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015 thì Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện đó cần
trao đổi, thống nhất với Viện kiểm sát cùng cấp để chuyển toàn bộ vụ án cho Cơ
quan An ninh điều tra cấp tỉnh tiến hành điều tra.
2.8. Quá trình điều tra về hành vi “Mua
bán trái phép vũ khí quân dụng” (01 khẩu súng Rulo) còn phát hiện bị can
còn có hành vi tàng trữ trái phép 50 viên đạn quân dụng. Trong trường hợp này,
về thủ tục tố tụng, cần ra Quyết định khởi tố bổ sung vụ án, bị can về tội “Tàng
trữ trái phép vũ khí quân dụng” hay ra Quyết định thay đổi quyết định khởi
tố vụ án, bị can?
Trong trường hợp này, hành vi tàng trữ
50 viên đạn quân dụng của bị can đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm độc lập là tội
“Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 156 và Điều 180 Bộ luật Tố
tụng hình sự, ra Quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án, Quyết định bổ
sung quyết định khởi tố bị can về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.
Trên đây là hướng dẫn nghiệp vụ của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc áp dụng các điều 304,
305 BLHS, đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương nghiên cứu, thực hiện./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Đ/c Viện trưởng VKSTC (để báo cáo);
- Đ/c Nguyễn Quang
Dũng, PVT VKSTC (để báo cáo);
- A09 Bộ Công an;
- Vụ 1 TAND tối cao;
- Vụ 14 VKSNDTC;
- Các Phòng thuộc Vụ 1;
- Lưu: VT, V1 (P2).
|
TL.VIỆN
TRƯỞNG
VỤ TRƯỞNG
VỤ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA ÁN AN NINH
Nguyễn Tiến Sơn
|