ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH
KIÊN GIANG
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 309/KH-UBND
|
Kiên Giang, ngày 15 tháng 10 năm 2024
|
KẾ HOẠCH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ,
HỢP TÁC XÃ TỈNH KIÊN GIANG NĂM 2025
Thực hiện Công văn số 4876/BKHĐT-KTHT ngày 24/6/2024
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế tập thể,
hợp tác xã năm 2025. Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang ban hành Kế hoạch phát triển
kinh tế tập thể tỉnh Kiên Giang năm 2025, với nội dung chủ yếu như sau:
Phần thứ nhất. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ NĂM 2024
I. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ
NĂM 2024
1. Đánh giá dựa trên các chỉ tiêu về hoạt động sản xuất,
kinh doanh của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tổ hợp tác
a) Về số lượng, doanh thu và thu nhập của hợp tác xã,
liên hiệp hợp tác xã, tổ hợp tác (HTX, LH HTX, THT)
Hợp tác xã: Ước đến cuối năm 2024, toàn tỉnh có 523
HTX đăng ký hoạt động, trong đó có 457 HTX nông nghiệp, 14 HTX thương mại dịch
vụ, 23 HTX giao thông vận tải, 03 HTX xây dựng, 07 HTX tiểu thủ công nghiệp và
19 quỹ tín dụng nhân dân. Số HTX thành lập mới là 15 HTX (đạt 100% kế hoạch),
giải thể 04 HTX, sáp nhập 11 HTX lại còn 05 HTX (giảm 06 HTX).
Doanh thu bình quân của một HTX ước thực hiện năm
2024 là 1.800 triệu đồng/năm, tăng 26,8% so với kế hoạch năm 2024, lợi nhuận
bình quân đến cuối năm ước đạt 590 triệu đồng, tăng 5,4% kế hoạch năm 2024, thu
nhập bình quân của người lao động khoảng 60 triệu đồng/năm, đạt 100% kế hoạch
năm 2024.
Liên hiệp HTX: Ước năm 2024, thành lập mới 01 LH HTX,
nâng tổng số LH HTX là 04 LH HTX với tổng vốn điều lệ 600 triệu đồng, có 45 HTX
thành viên tham gia với tổng số 28 lao động. Đến cuối năm 2024, doanh thu bình
quân của một LH HTX ước thực hiện năm 2024 là 350 triệu đồng/năm, lãi bình quân
của LH HTX ước 150 triệu đồng/ năm. Nhìn chung, các LH HTX bước đầu đã đi vào
hoạt động ổn định.
Tổ hợp tác: Ước đến cuối năm 2024, thành lập mới 50
THT đạt 100% so với kế hoạch đề ra, toàn tỉnh có 2.322 THT, trong đó có 1.657
THT nông nghiệp, 665 THT tiểu thủ công nghiệp. Với tổng số 44.422 tổ viên tạo
việc làm cho 7.004 lao động theo thời vụ. Doanh thu bình quân một THT 400 triệu
đồng/năm; lợi nhuận bình quân một THT đạt 60 triệu đồng/năm.
- Có 402 HTX hoạt động có lãi (chiếm tỷ lệ 76,86% tổng
số HTX), 03 LH HTX hoạt động có lãi, thực hiện nghĩa vụ về thuế.
b) Về thành viên, lao động của HTX, LH HTX, THT
Tổng số thành viên HTX ước đến hết năm 2024 là 55.534
người, đạt 99,76% so với kế hoạch năm 2024; tổng số lao động thường xuyên trong
HTX ước đến hết năm 2024 là 11.488 lao động tăng 3,09% so với kế hoạch năm 2024
(trong đó số lao động thường xuyên mới năm 2024 là 600 lao động, số lao động là
thành viên HTX là 10.888 lao động);
Tổng số thành viên Liên hiệp HTX ước đến hết năm 2024
là 45 HTX, đạt 100% so với kế hoạch năm 2024; tổng số lao động thường xuyên
trong LH HTX ước đến hết năm 2024 là 28 lao động (trong đó số lao động thường
xuyên mới năm 2024 là 9 lao động, số lao động là thành viên HTX là 19 lao động).
Tổng số thành viên THT ước đến năm 2024 khoảng 44.422
thành viên, tăng 0,48% so với kế hoạch năm 2024.
Thu nhập bình quân của người lao động trong HTX là 60
triệu đồng/năm, đạt 100% kế hoạch năm 2024. THT là 42 triệu đồng/người/năm.
c) Về trình độ cán bộ quản lý hợp tác xã, liên hiệp hợp
tác xã, tổ hợp tác
Ước đến cuối năm 2024, toàn tỉnh có 3.912 cán bộ quản
lý HTX tăng 0,7% so với kế hoạch năm 2024, phần lớn các HTX thiếu cán bộ có
năng lực quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh, cán bộ HTX có trình độ sơ cấp,
trung cấp 80%; cao đẳng, đại học khoảng 20%. Do đó hoạt động của không ít HTX
còn lúng túng, kế hoạch sản xuất kinh doanh chưa sát thực tế, chưa xây dựng được
chiến lược kinh doanh trung, dài hạn.
Tổng số cán bộ quản lý LH HTX ước đến cuối năm 2024
là 24 người. Trong đó, trình độ cao đẳng, đại học là 6 người; trình độ sơ cấp,
trung cấp là 18 người.
Tổng số cán bộ quản lý THT: 4.368 người. Trong đó,
trình độ cao đẳng, đại học 30; trình độ sơ cấp, trung cấp là 481 người, những
cán bộ còn lại chủ yếu là người lớn tuổi, có kinh nghiệm và thời gian làm việc
lâu năm tại THT. Trình độ, năng lực điều hành của đội ngũ cán bộ quản lý THT
còn hạn chế, thiếu chuyên môn nghiệp vụ.
2. Đánh giá theo lĩnh vực
2.1. Hợp tác xã
a) Lĩnh vực nông nghiệp - thủy sản
Tổng số HTX nông nghiệp ước đến cuối năm 2024 là 457
HTX (thành lập mới 12 HTX, giải thể 02 HTX, sáp nhập 11 HTX lại còn 05 HTX), với
36.465 thành viên; tổng số vốn điều lệ là 199,15 tỷ đồng tạo việc làm cho 4.570
lao động, trong đó số lao động đồng thời cũng là thành viên HTX.
Doanh thu bình quân của HTX: 2.000 triệu đồng/năm;
lãi bình quân của HTX: 700 triệu đồng/năm; thu nhập bình quân của lao động làm
việc thường xuyên trong HTX: 05 triệu đồng/tháng.
Hoạt động của các HTX nông nghiệp - thủy sản đã giải
quyết tốt các quan hệ hợp tác, giúp đỡ nhau trong quá trình sản xuất, quản lý
nguồn lợi thiên nhiên, tuy doanh thu và lợi nhuận của các HTX nông nghiệp không
cao, nhưng đã giúp thành viên áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cơ giới hóa
trong sản xuất, giảm lượng giống, nước, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, công
lao động làm tăng năng suất và thực hiện tốt các khâu dịch vụ hỗ trợ như: bơm
tát, làm đất, thu hoạch, vật tư nông nghiệp, giống cây trồng, vật nuôi và tiêu
thụ sản phẩm giúp giảm chi phí, tăng thu nhập cho thành viên. HTX còn giúp
thành viên tiết kiệm được thời gian để tự tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập
cải thiện đời sống. Tuy nhiên, đa số HTX gặp khó khăn về nhân sự và vốn nên
chưa hỗ trợ được nhiều cho thành viên. Do ảnh hưởng của lạm phát tăng cao, giá
cả nông sản thay đổi liên tục, giá phân bón tăng cao, thời tiết diễn biến thất
thường làm ảnh hưởng đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các hợp tác
xã nông nghiệp.
b) Lĩnh vực giao thông vận tải
Ước đến cuối năm 2024, toàn tỉnh có 23 HTX (thành lập
mới 01HTX), chiếm 4,4% tổng số HTX toàn tỉnh, thu hút hơn 2.376 thành viên tham
gia, có 2.543 phương tiện, góp phần giải quyết việc làm cho 3.696 lao động.
Doanh thu bình quân của HTX: 800 triệu đồng/năm; lãi
bình quân của HTX: 150 triệu đồng/năm; thu nhập bình quân của lao động làm việc
thường xuyên trong HTX: 05 triệu đồng/tháng.
Các HTX hoạt động ổn định, chủ động mở rộng luồng tuyến,
quy mô tổ chức khoa học, công tác điều hành tập trung, xây dựng và duy trì
thương hiệu. Đồng thời, chủ động đầu tư phương tiện, đổi mới chất lượng dịch vụ
để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng
hóa của nhân dân góp phần tích cực trong việc phát triển kinh tế xã hội địa
phương. Tuy nhiên, bên cạnh các HTX hoạt động với số lượng phương tiện lớn, quy
mô tổ chức bài bản, chú trọng và duy trì thương hiệu thì vẫn tồn tại một số HTX
hoạt động trên danh nghĩa, lập các dịch vụ thủ tục giấy tờ cho các hộ để có
phương tiện hoạt động, không tập trung xây dựng thương hiệu và một số thành
viên của HTX chưa quan tâm đến lợi ích tập thể khi tham gia HTX, gia nhập mang
tính hình thức. Bên cạnh đó, hoạt động của các HTX còn thiếu gắn bó, chưa có sự
liên kết hệ thống với nhau và việc liên kết với thành phần kinh tế khác còn ít
và nội dung còn hạn chế.
c) Lĩnh vực xây dựng
Ước đến cuối năm 2024, toàn tỉnh có 3 HTX xây dựng,
chiếm khoảng 0,57% tổng số HTX toàn tỉnh. Giải quyết việc làm cho 1.251 lao động,
trong đó 37 lao động đồng thời là thành viên.
Doanh thu bình quân của HTX: 1.550 triệu đồng/năm;
Lãi bình quân của HTX: 120 triệu đồng/năm; Thu nhập bình quân của lao động làm
việc thường xuyên trong HTX: 4,2 triệu đồng/tháng.
Các HTX chấp hành tốt các quy định của pháp luật về
xây dựng, an toàn lao động; hoạt động ổn định, ký kết được các hợp đồng xây dựng
có giá trị với các ban quản lý đầu tư xây dựng từ nguồn vốn ngân sách, đường
giao thông nông thôn thuộc chương trình xây dựng nông thôn mới của địa phương,
nhà dân hoặc nhận thi công lại của các nhà thầu khác. Các HTX đều kinh doanh có
lãi, tăng thu nhập cho thành viên và HTX cũng đã giải quyết việc làm, ổn định
thu nhập cho một bộ phận lao động nông thôn. Bên cạnh đó, HTX xây dựng cũng gặp
nhiều khó khăn do giá vật liệu xây dựng không ổn định và vốn ít, kinh nghiệm hạn
chế nên khâu đấu thầu còn gặp nhiều khó khăn.
d) Lĩnh vực thương mại - dịch vụ
Năm 2024, thành lập mới 02 HTX, toàn tỉnh có 14 HTX
thương mại, với 210 thành viên và tạo việc làm cho 605 lao động.
Doanh thu bình quân của HTX: 1.200 triệu đồng/năm;Lãi
bình quân của HTX: 130 triệu đồng/năm; Thu nhập bình quân của lao động làm việc
thường xuyên trong HTX: 4,5 triệu đồng/tháng.
Các HTX đã từng bước đổi mới phương thức kinh doanh,
mở rộng thị trường, sản phẩm hàng hóa đa dạng; tăng cường liên kết với các HTX
và doanh nghiệp để cung ứng hàng hóa, tạo việc làm, tăng thu nhập cho thành
viên và người lao động. Tuy nhiên, quy mô còn nhỏ, kinh doanh rủi ro, thua lỗ,
nợ khó đòi, khả năng mở rộng kinh doanh chưa cao nên gặp nhiều khó khăn trong cạnh
tranh.
đ) Lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
Ước đến cuối năm 2024, toàn tỉnh có 7 HTX công nghiệp
và tiểu thủ công nghiệp chiếm 1,34% HTX toàn tỉnh, thu hút 147 thành viên tham
gia, giải quyết việc làm cho 901 lao động, trong đó có 175 lao động đồng thời
là thành viên HTX.
Doanh thu bình quân của HTX: 470 triệu đồng/năm; Lãi
bình quân của HTX: 50 triệu đồng/năm; Thu nhập bình quân của lao động làm việc
thường xuyên trong HTX: 3,5 triệu đồng/tháng.
Các HTX đã góp phần tạo việc làm cho lao động nhàn rỗi
ở nông thôn, duy trì được nghề truyền thống và mở rộng đa dạng sản phẩm phù hợp
với thị hiếu của thị trường. Tuy nhiên, nhìn chung HTX quy mô hoạt động còn nhỏ
lẻ, thiếu vốn đầu tư trang thiết bị sản xuất, chất lượng sản phẩm chưa cao, đầu
ra còn khó khăn, tính cạnh tranh thấp, thị trường tiêu thụ chưa ổn định.
e) Lĩnh vực quỹ tín dụng nhân dân (QTDND)
Ước đến cuối năm 2024, toàn tỉnh có 19 tổ chức tín dụng
hoạt động theo mô hình kinh tế tập thể (19 Quỹ tín dụng nhân dân và 01 chi
nhánh Ngân hàng Hợp tác xã, giải thể 02 Quỹ tín dụng) hoạt động tại 65 xã, phường
thuộc 10 huyện, thành phố của tỉnh, với 16.299 thành viên tham gia. Ước đến cuối
năm 2024 tổng nguồn vốn hoạt động đạt 1.169.249 triệu đồng. Doanh thu bình quân
của Quỹ tín dụng ước: 800 triệu đồng/năm. Thu nhập bình quân của lao động làm
việc thường xuyên trong QTDND: 6 triệu đồng/tháng.
Các quỹ đều hoạt động có lãi, duy trì khả năng thanh
toán có 19/19 quỹ có thu nhập lớn hơn chi phí là 15.569 triệu đồng. Thông qua
việc huy động vốn cho vay tại chỗ đối với các thành viên trên tinh thần tương
trợ lẫn nhau, giúp thành viên giải quyết nhu cầu về vốn mở rộng sản xuất, kinh
doanh, tiêu dùng của thành viên trên địa bàn, hạn chế tình trạng vay nặng lãi, ổn
định tình hình kinh tế - xã hội tại địa phương, điển hình có một số HTX hoạt động
tốt như: Quỹ tín dụng nhân dân Vĩnh Thanh Vân, Quỹ tín dụng nhân dân Vĩnh Hiệp
- thành phố Rạch Giá, Quỹ tín dụng nhân dân thị trấn Tân Hiệp, Quỹ tín dụng
nhân dân Bình An. Bên cạnh đó do sự cạnh tranh gay gắt của các tổ chức tín dụng
khác và ý thức tự giác về nghĩa vụ vay, trả nợ của một số thành viên chưa cao,
đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh.
2.2. Liên hiệp Hợp tác xã:
Ước năm 2024, thành lập mới 01 Liên hiệp hợp tác xã
(đạt 100% kế hoạch) với 10 HTX thành viên. Ước đến cuối năm 2024, toàn tỉnh có
04 Liên hiệp hợp tác xã với tổng vốn điều lệ 600 triệu đồng, với tổng diện tích
đất sản xuất 32.720 ha, với 45 hợp tác xã thành viên, có 28 lao động.
Nhìn chung, các Liên hiệp HTX bước đầu đi vào hoạt động
cơ bản đúng với phương hướng sản xuất kinh doanh đề ra.
2.3. Tổ hợp tác (THT):
Ước đến cuối năm 2024, thành lập mới 50/50 THT, đạt
100% so với kế hoạch 2024; với 150 thành viên; 150 triệu đồng vốn góp và 70 ha
đất sản xuất. Hiện toàn tỉnh có 2.322 THT đang hoạt động, với tổng số 44.422 tổ
viên; số vốn góp 17.782 triệu đồng và 64.620 ha canh tác; tạo việc làm cho
7.004 lao động theo thời vụ.
Các THT trên địa bàn tỉnh ngày càng phát triển và
đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, đời sống của các hộ dân, góp vốn xoay
vòng giúp nhau phát triển kinh tế hộ, đua tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng vào
sản xuất kinh doanh, tận dụng các nguồn lực đất đai, nguyên liệu, vốn, lao động
hiện có tại địa phương, tạo ra cách làm ăn mới, giải quyết việc làm, tăng thu
nhập và nâng cao đời sống cho các hộ dân góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, góp phần quan trọng vào giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội ở địa
phương.
Tuy nhiên, còn một số THT thành lập tự phát gây khó
khăn cho việc theo dõi, hướng dẫn tổ chức hoạt động và quản lý của địa phương.
Tổ chức của các THT thiếu chặt chẽ, quan hệ hợp tác lỏng lẻo, không đảm bảo
tính ổn định và bền vững, việc sản xuất với quy mô nhỏ, năng lực điều hành của
đội ngũ quản lý còn hạn chế, đa số THT gặp khó khăn về việc tiếp cận nguồn vốn,
khoa học - công nghệ, thị trường... nhất từ cuối năm 2020 đến nay ảnh hưởng của
đại dịch Covid-19 tổ hợp tác lại càng gặp nhiều khó khăn.
3. Đánh giá tác động của HTX, LH HTX, THT tới thành
viên, kinh tế hộ thành viên (về kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội)
a) Về kinh tế
- Kinh tế tập thể trong tỉnh đến nay có nhiều chuyển
biến tích cực, nhiều HTX, LH HTX, THT phát triển đa dịch vụ, từng bước phát huy
hiệu quả, góp phần xây dựng nông thôn mới, xóa đói, giảm nghèo tại địa phương,
nâng cao đời sống nhân dân, góp phần phát triển kinh tế xã hội trong tỉnh. Đặc
biệt, trong những năm gần đây, với yêu cầu tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp,
HTX, LH HTX, THT đã có bước phát triển mới về số lượng, hiệu quả hoạt động được
nâng cao, với đủ các loại hình dịch vụ thúc đẩy sản xuất kinh doanh ở khu vực
nông thôn phát triển.
- HTX, LH HTX, THT có sự nhận thức đúng đắn về chủ
trương, chính sách, pháp luật của nhà nước về kinh tế hợp tác, cùng với việc lựa
chọn mô hình sản xuất, kinh doanh phù hợp, phương pháp tổ chức hoạt động hiệu
quả, quyền lợi của thành viên gắn liền với quyền lợi của HTX, phần lớn các HTX,
LH HTX, THT hỗ trợ tích cực cho kinh tế hộ phát triển, đáp ứng nhu cầu của
thành viên. Một số HTX đã mở rộng sản xuất, tạo thêm nhiều ngành nghề và tích cực
tham gia các hoạt động xã hội trên địa bàn. Bên cạnh đó, HTX còn là cầu nối đưa
Nghị quyết, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống,
góp phần đảm bảo an ninh trật tự, tham gia tích cực phong trào xây dựng nông
thôn mới ở địa phương. Một số HTX hoạt động có hiệu quả tạo được lòng tin, góp
phần cải thiện đời sống, tăng thu nhập cho thành viên và người lao động.
- HTX, LH HTX, THT có vai trò quan trọng trong sự
phát triển kinh tế nói chung, trở thành chỗ dựa cho kinh tế hộ, khắc phục tình
trạng manh mún, nhỏ lẻ, giữ vai trò liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm
và hỗ trợ nâng cao phúc lợi, đảm bảo an sinh xã hội cho thành viên.
b) Về chính trị, văn hóa, xã hội:
- Trong Chương trình xây dựng nông thôn mới có 19
tiêu chí, trong đó có 1 tiêu chí là phải xây dựng HTX sản xuất kinh doanh có hiệu
quả, tiêu chí này không chỉ nâng cao thu nhập cho nông dân mà còn góp phần làm
thay đổi căn bản diện mạo nông thôn thời kỳ hội nhập. Thực tiễn xây dựng nông
thôn mới thời gian qua cho thấy, kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX, nếu phát
triển đúng hướng, sẽ là một yếu tố và động lực cơ bản góp phần tạo nền tảng
thúc đẩy quá trình xây dựng nông thôn mới, ổn định về chính trị, xã hội.
- Các HTX, LH HTX, THT nông nghiệp đã phát huy được
vai trò tập hợp, vận động, thay đổi cách nghĩ, cách làm cho bà con nông dân, ứng
dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao hiệu quả sản xuất và nhất là đã thực
hiện tốt việc liên doanh, liên kết, bảo đảm đầu ra ổn định cho nông sản. Trên một
số lĩnh vực, HTX đã mở rộng sản xuất, tạo thêm nhiều ngành nghề, phát triển
kinh doanh tổng hợp, đầu tư trang thiết bị để nâng cao năng lực sản xuất kinh
doanh, đồng thời tham gia các hoạt động xã hội trên địa bàn, góp phần xóa đói,
giảm nghèo, ổn định chính trị xã hội ở địa phương.
4. Một số mô hình hoạt động hiệu quả theo phương thức
sản xuất gắn với chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ cao
Một số Hợp tác xã điển hình trong mô hình liên kết với
doanh nghiệp sản xuất lúa theo chuỗi giá trị kết hợp tiêu thụ, gồm:
(1) Hợp tác xã Nông nghiệp Tân Thạnh - xã Tân Khánh
Hòa, huyện Giang Thành liên kết với Tập đoàn Lộc Trời.
- Quy mô liên kết: 500 ha/năm, sản lượng bình quân
3.000 tấn lúa sản xuất theo tiêu chuẩn SRP (tiêu chuẩn EU).
- Điểm đặc trưng, nổi bật: Doanh nghiệp bố trí nhân sự
tham gia giữ chức danh Phó Giám đốc Hợp tác xã; doanh nghiệp cung ứng vật tư
nông nghiệp (giống, phân, thuốc bảo vệ thực vật), thực hiện dịch vụ cơ giới hóa
(cày xới, san phẳng mặt ruộng bằng tia lazer, gieo sạ bằng máy sạ cụm, sạ lúa,
phun thuốc bảo vệ thực vật bằng máy bay không người lái, thu hoạch bằng máy gặt
đập liên hợp) và tiêu thụ đầu ra sản phẩm.
- Hiệu quả kinh tế: Thành viên HTX, nông dân tham gia
liên kết được hỗ trợ một phần giống, vật tư nông nghiệp từ dự án hỗ trợ sản xuất
do các cơ quan, đơn vị cấp tỉnh, huyện là chủ đầu tư; được doanh nghiệp cung ứng
vật tư nông nghiệp trả chậm với giá cả hợp lý; chủ động máy móc thiết bị khâu
cơ giới hóa với giá cả dịch vụ ưu đãi; được đảm bảo tiêu thụ sản phẩm đầu ra ổn
định theo giá thị trường và được hưởng chính sách từ 200-250 đồng/kg khi sản phẩm
đạt chuẩn theo yêu cầu. Hợp tác xã được trích hoa hồng theo quy mô liên kết sản
phẩm, hoạt động dịch vụ theo chính sách của doanh nghiệp.
(2) HTX Nông nghiệp Nam Quý, ấp Nam Quý, xã Đông
Thái, huyện An Biên: Mô hình sản xuất của HTX là 01 vụ tôm - 01 vụ lúa, diện
tích 97ha. Từ năm 2018 đến nay, HTX liên kết ổn định với 03 công ty (Công ty
Nông sản tôm lúa Hữu cơ An Giang, Công ty Hồ Quang Trí ở Sóc Trăng và Công ty Hồng
Tân ở Đồng Tháp), diện tích liên kết 58,5 ha theo quy trình sản xuất lúa hữu
cơ, được chứng nhận đạt tiêu chuẩn hữu cơ Hoa Kỳ và Châu Âu (Orgamic USDA &
EU). Các công ty sẽ cung cấp giống, phân bón cho HTX với giá công ty (rẻ hơn thị
trường từ 1.000-2.000 đồng/kg), và thu mua lúa cho HTX với giá cao hơn thị trường
là 2.000 đồng/kg. Hiện tại các Công ty có kế hoạch mở rộng diện tích liên kết với
HTX trong thời gian tới.
(3) HTX nông nghiệp Tân Hưng, huyện Châu Thành và HTX
Đường Gỗ Lộ, huyện Giồng Riềng tổ chức sản xuất theo quy trình kỹ thuật đồng nhất
và mỗi vụ HTX thực hiện đấu thầu công khai việc cày ải, thu hoạch lúa, tiêu thụ
lúa (các doanh nghiệp, cá nhân được tham dự đấu thầu, nếu giá cả hợp lý có lợi
cho HTX và thành viên thì trúng thầu). Với mô hình đấu thầu để tiêu thụ lúa bước
đầu HTX đã định giá được sản phẩm lúa thương phẩm do thành viên HTX sản xuất
ra.
II. KẾT QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ (KTTT, HTX)
1. Kết quả thi hành pháp luật và các văn bản về KTTT,
HTX
Triển khai thi hành Luật Hợp tác xã năm 2012 được Quốc
hội khóa XIII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 20/11/2012, có hiệu lực từ
01/7/2013; Luật Hợp tác xã số 17/2023/QH15 được Quốc hội thông qua ngày
20/6/2023 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2024; Các văn bản dưới luật bao gồm:
Kết luận số 70-KL/TW ngày 09/3/2020 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị
quyết Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
kinh tế tập thể; Nghị định số 92/2024/NĐ-CP ngày 18/7/2024 của Chính phủ về
đăng ký tổ hợp tác, hợp tác, liên hiệp hợp tác xã; Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg
ngày 25/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp
tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn; Nghị
định số 98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018 của Chính phủ về chính sách khuyến khích
phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp;
Quyết định số 1804/QĐ-TTg ngày 13/11/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã giai đoạn 2021 -
2025; Quyết định số 167/QĐ-TTg ngày 03/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ về Phê
duyệt Đề án lựa chọn, hoàn thiện, nhân rộng mô hình hợp tác xã kiểu mới hiệu quả
tại các địa phương trên cả nước giai đoạn 2021 - 2025; Quyết định số
1318/QĐ-TTg ngày 22/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch phát triển
kinh tế tập thể, Hợp tác xã giai đoạn 2021-2025; Quyết định số 340/QĐ-TTg ngày
12/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển kinh tế tập
thể, hợp tác xã giai đoạn 2021 - 2030; Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2022 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới.
Trên cơ sở Luật Hợp tác xã và các văn bản chỉ đạo, hướng
dẫn của Trung ương, tỉnh Kiên Giang đã xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn
thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012, các nghị định, quyết định có liên quan tiêu
biểu như sau:
- Kế hoạch số 105/KH-UBND ngày 17/7/2020 của UBND tỉnh
về định hướng chiến lược phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã giai đoạn
2021-2030.
- Nghị quyết số 337/2020/NQ-HĐND ngày 22/7/2020 của
HĐND tỉnh về quy định chính sách hỗ trợ phát triển HTX nông nghiệp giai đoạn
2020-2025 trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
- Kế hoạch số 148/KH-UBND ngày 29/9/2020 của UBND tỉnh
Kiên Giang về phát triển kinh tế tập thể tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2021-2025.
- Quyết định số 330/QĐ-UBND ngày 05/02/2021 của UBND
tỉnh Kiên Giang về việc phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể
tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2021-2025.
- Kế hoạch số 88/KH-UBND ngày 27/4/2021 của UBND tỉnh
Kiên Giang về việc Triển khai thực hiện Nghị quyết số 340/2020/NQ-HĐND ngày
22/7/2020 của HĐND tỉnh về chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm nông nghiệp giai đoạn 2020-2025 trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
- Kế hoạch số 93/KH-UBND ngày 29/4/2021 của UBND tỉnh
Kiên Giang về việc Triển khai thực hiện Nghị quyết số 337/2020/NQ-HĐND , ngày
22/7/2020 của HĐND tỉnh về quy định chính sách hỗ trợ phát triển HTX nông nghiệp
giai đoạn 2020-2025 trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
- Kế hoạch số 111/KH-UBND ngày 26/5/2021 của UBND tỉnh
về xây dựng thí điểm mô hình cánh đồng lớn gắn với cơ giới hóa đồng bộ theo chuỗi
giá trị lúa gạo tại Hợp tác xã Nông nghiệp 422, ấp Mũi Tàu, xã Bình Giang, huyện
Hòn Đất giai đoạn 2021-2025.
- Kế hoạch số 135/KH-UBND ngày 15/7/2021 của UBND tỉnh
thực hiện Đề án lựa chọn, hoàn thiện, nhân rộng mô hình hợp tác xã kiểu mới hiệu
quả tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2021-2025.
- Quyết định số 1837/QĐ-UBND ngày 22/7/2021 của Ủy
ban nhân dân tỉnh Kiên Giang phê duyệt Đề án phát triển vùng nguyên liệu lúa gạo
các huyện vùng Tứ giác Long Xuyên phục vụ chế biến và xuất khẩu giai đoạn
2021-2025 tỉnh Kiên Giang.
- Chương trình hành động số 34-CTr/TU ngày 08/11/2022
của Đảng bộ Tỉnh Kiên Giang thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2022 của
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới.
- Kế hoạch số 251/KH-UBND ngày 20/10/2023 của UBND tỉnh
Kiên Giang về việc tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập
thể giai đoạn mới.
- Kế hoạch số 275/KH-UBND ngày 28/11/2023 của UBND tỉnh
Kiên Giang về kế hoạch phát triển kinh tế tập thể tỉnh Kiên Giang năm 2024.
- Kế hoạch số 296/KH-UBND ngày 15/12/2023 của UBND tỉnh
Kiên Giang thực hiện Chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã
năm 2024 tỉnh Kiên Giang.
- Luật Hợp tác xã số 17/2023/QH15 được Quốc hội thông
qua ngày 20/6/2023 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2024, đang được tỉnh Kiên
Giang tuyên truyền, triển khai đến các sở, ngành cấp tỉnh, UBND các huyện,
thành phố về những quan điểm, mục tiêu và các nhóm chính sách hỗ trợ khu vực
kinh tế tập thể, hợp tác xã.
2. Công tác quản lý nhà nước về KTTT, HTX
Công tác quản lý nhà nước về KTTT đã được tỉnh quan
tâm chỉ đạo thực hiện, chính quyền địa phương quan tâm đến tình hình KTTT, sự
phối hợp chỉ đạo giữa các ngành và địa phương được tốt hơn; nhiều chủ trương,
chính sách hỗ trợ KTTT được ban hành và chỉ đạo thực hiện nhanh, hiệu quả; công
tác tư vấn, tuyên truyền, hỗ trợ thành lập HTX, THT được chú trọng và có chất
lượng. Các đơn vị đã bố trí công chức kiêm nhiệm hoặc chuyên trách, tham mưu,
theo dõi về phát triển KTTT.
Chức năng của Ban Chỉ đạo giúp Tỉnh ủy, UBND tỉnh
nghiên cứu, chỉ đạo, phối hợp giải quyết những công việc liên quan tới đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT tỉnh; phát triển và hỗ trợ tháo gỡ khó
khăn trong hoạt động của các HTX đăng ký hoạt động theo Luật Hợp tác xã năm
2012 và văn bản hướng dẫn hiện hành.
Bên cạnh đó, công tác quản lý nhà nước về KTTT ở một số
ngành chuyên môn và UBND các huyện, xã có mặt còn hạn chế; công tác theo dõi
báo cáo, thống kê số liệu, tình hình hoạt động của các HTX, THT ở một số nơi
chưa đạt yêu cầu; công tác kiểm tra đối với các HTX về thực hiện pháp luật, chế
độ quản lý tài chính của các HTX chưa thường xuyên, chưa kịp thời tháo gỡ khó
khăn, vướng mắc trong hoạt động của các HTX. Nguyên nhân công chức theo dõi
KTTT ở địa phương phần lớn đều kiêm nhiệm nên chưa có kinh nghiệm, thời gian
nghiên cứu, theo dõi, thống kê tình hình hoạt động của các HTX chưa kịp thời để
tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho các HTX, một số địa phương chưa quan tâm
đến việc hỗ trợ phát triển KTTT.
3. Kết quả triển khai chính sách hỗ trợ, ưu đãi hợp
tác xã
Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các ngành, UBND các
huyện, thành phố triển khai thực hiện tốt chính sách hỗ trợ HTX, đồng thời lồng
ghép các chương trình dự án trên địa bàn hỗ trợ cho khu vực kinh tế tập thể nhằm
tạo điều kiện cho các HTX tiếp cận tốt chính sách của nhà nước và củng cố lại
mô hình hoạt động của các HTX, phát triển tập thể gắn với chuỗi giá trị sản phẩm
và xây dựng nông thôn mới, cụ thể:
- Chính sách đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực: Mở 20 lớp tập huấn với 493
người tham dự tổng chi phí thực hiện ước khoảng 800 triệu đồng, (trong đó có 06
lớp củng cố sáp nhập có 256 người tham dự, 02 lớp tập huấn tại huyện Vĩnh Thuận
về kỹ năng quản lý, báo cáo tài chính HTX có 72 người tham dự, 02 lớp chứng chỉ
nghề cho HTX giao thông vận 165 người tham dự, dự kiến 10 lớp chuyển đổi luật
HTX 2023) giúp củng cố kiến thức cho các chức danh đang làm trong HTX, THT, tổ
chức nâng cao chất lượng hoạt động KTTT, HTX.
- Chính sách xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường:
Tỉnh hỗ trợ
các HTX trên địa bàn xây dựng thương hiệu sản phẩm. Xây dựng nhãn hiệu cho 02
HTX tại huyện Hòn Đất (HTX nuôi thủy sản Thanh Hoa và HTX dịch vụ nông nghiệp
Tân Thuận); xúc tiến thương mại cho sản phẩm của HTX dịch vụ nông nghiệp kênh
10, huyện U Minh Thượng. Giới thiệu cho HTX nông nghiệp Lương Trực, huyện Giồng
Riềng với HTX nuôi trồng thủy sản Ngã Bát, huyện An Minh kết nối cung, cầu
trong hoạt động sản xuất kinh doanh; đầu ra cho củ gừng, sả, khoai... Phối hợp
tổ chức Hội thảo xây dựng chuỗi liên kết canh tác nông nghiệp bền vững cho các
HTX trên địa bàn huyện Hòn Đất. Trong năm 2024, dự kiến hỗ trợ cho 20 HTX tham
gia Hội chợ trong và ngoài tỉnh với tổng kinh phí 600 triệu đồng.
- Chính sách tiếp cận vốn và quỹ hỗ trợ phát triển
HTX: Phối hợp
với Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh triển khai cho 02 HTX vay vốn 2,45 tỷ đồng
theo chương trình hỗ trợ tại Kế hoạch số 93/KH-UBND ngày 29/4/2021 của UBND tỉnh
Kiên Giang về việc Triển khai thực hiện Nghị quyết số 337/2020/NQ-HĐND , ngày
22/7/2020 của HĐND tỉnh về quy định chính sách hỗ trợ phát triển HTX nông nghiệp
giai đoạn 2020- 2025 trên địa bàn tỉnh Kiên Giang nhưng đến nay chưa được giải
ngân. Ngoài ra, tỉnh cũng phối hợp với Qũy phát triển Liên minh HTX Việt Nam hướng
dẫn hồ sơ thủ tục vay vốn cho các HTX trên địa bàn tỉnh Kiên Giang đến thời điểm
có 01 HTX vay với số vốn 3 tỷ đồng.
- Chính sách thành lập mới HTX: Công tác hỗ trợ thành lập mới
thường xuyên được tỉnh quan tâm và đầu tư hỗ trợ. Đến thời điểm hiện nay, đã hỗ
trợ kinh phí thành lập mới cho 08 HTX với tổng số tiền 160 triệu đồng, sáp nhập
cho 06 HTX với tổng kinh phí 75 triệu đồng. Ước đến cuối năm 2024, hỗ trợ thành
lập mới 15 HTX, sáp nhập 06 HTX với tổng số tiền hỗ trợ 360 triệu đồng. Tổ chức
tập huấn, tư vấn cho người dân có nhu cầu thành lập mới, sáp nhập HTX có 724
người tham dự với tổng kinh phí là 315 triệu đồng.
- Hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng, chế biến sản phẩm:
+ Thực hiện Quyết định số 1804/QĐ-TTg ngày 13/11/2020
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể,
hợp tác xã giai đoạn 2021 - 2025 UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 330/QĐ-UBND
về phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã tỉnh
Kiên Giang giai đoạn 2021 - 2025 và hàng năm có ban hành kế hoạch cụ thể để triển
khai thực hiện. Theo Kế hoạch số 296/KH-UBND ngày 15/12/2023 thì kế hoạch vốn
năm 2024 hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng và chế biến sản phẩm cho 04 HTX nông
nghiệp với tổng kinh phí là 15.080 triệu đồng và giao Sở Nông nghiệp và phát
triển nông thôn chủ trì phối hợp với Liên minh Hợp tác xã lựa chọn các HTX đủ
điều kiện, lập danh sách gửi Sở Kế hoạch và Đầu tư để hướng dẫn các bước trình
tự, thủ tục hỗ trợ đầu tư hạ tầng cho các HTX theo quy định.
+ Đề xuất thực hiện dự án phát triển ngành nghề nông
thôn (Dự án hỗ trợ máy móc sơ chế, chế biến nông sản thành thực phẩm và bột thực
phẩm) tại HTX sản xuất, dịch vụ Kênh 10, ấp Minh Kiên A, xã Minh Thuận, huyện U
Minh Thượng với các nội dung hỗ trợ máy móc thiết bị hoàn thiện dây chuyền sơ
chế, chế biến nông sản thành thực phẩm và bột thực phẩm (Máy gọt vỏ nông sản;
máy sấy thực phẩm; máy nghiền bột mịn; máy trộn thực phẩm); HTX Toàn Diện; hỗ
trợ trang thiết bị chế biến sản phẩm rượu từ trái giác, tiêu chuẩn chất lượng
và truy xuất nguồn gốc.
+ Dự án GIC: Hỗ trợ 01 máy gặt đập liên hợp và 01 máy
trộn đảo phân hữu cơ cho 02 Liên hiệp HTX tại huyện An Biên; đồng thời đưa 03
người của LH HTX được nhận máy trộn đảo phân hữu cơ học tập kinh nghiệm tại TP.Cần
Thơ.
4. Kết quả, tình hình thực hiện các Đề án
4.1. Tình hình thực hiện Kế hoạch số 296/KH-UBND ngày 15/12/2023
của UBND tỉnh Kiên Giang thực hiện chương trình hỗ trợ KTTT, HTX năm 2024. Tỉnh
đã triển khai hỗ trợ như sau:
- Công tác tập huấn, tư vấn hỗ trợ thành lập mới 15
cuộc, thành lập mới 9/15 HTX đạt 60% kế hoạch; công tác củng cố tổ chức nâng cao
chất lượng hoạt động, cung cấp thông tin và phổ biến quy định pháp luật về KTTT
cho 05/10 cuộc đạt 50% kế hoạch.
- Công tác củng cố hợp nhất sáp nhập 7/10 lớp đạt 70%
kế hoạch.
- Nhằm nâng cao năng lực cho khu vực KTTT, HTX, LH HTX
tỉnh đang tuyển sinh mở lớp tập huấn nông nghiệp công nghệ cao và hoàn tất hồ
sơ đào tạo 02 thạc sĩ trong nước.
- Công tác bồi dưỡng thành viên và người lao động, mở
03 lớp nghiệp vụ vận tải và báo cáo tài chính cho HTX có 195/650 thanh viên
tham dự đạt 32% so với kế hoạch.
- Xúc tiến thương mại: các sản phẩm tiêu biểu của tỉnh
có xuất xứ hàng hóa, đạt chuẩn OCOP 03 đến 04 sao trưng bày tại các hội chợ triển
lãm, diễn đàn trong nước từ đầu năm đến nay là 03/05 cuộc đạt 60% kế hoạch
(trong đó Hội chợ thương mại tại Hà Nội 02 cuộc, Quy Nhơn 01 cuộc).
- Tỉnh hỗ trợ xây dựng nhãn hiệu cho 02/08 HTX (HTX
nuôi thủy sản Thanh Hoa và HTX dịch vụ nông nghiệp Tân Thuận, huyện Hòn Đất) đạt
25% kế hoạch.
- Hỗ trợ chi phí thuê địa điểm vận hành, giới thiệu
bán sản phẩm cho các tổ chức tại địa phương đã xét chọn 08/08 điểm ở các huyện
trong tỉnh đạt 100% kế hoạch.
4.2. Tình hình thực hiện Kế hoạch số 135/KH-UBND ngày 15/7/2024 của
UBND tỉnh về thực hiện Đề án lựa chọn, hoàn thiện, nhân rộng mô hình hợp tác xã
kiểu mới hiệu quả tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2021 - 2025
Căn cứ Quyết định số 167/QĐ-TTg ngày 03/02/2021 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án lựa chọn, hoàn thiện, nhân rộng mô hình hợp
tác xã kiểu mới hiệu quả tại các địa phương trên cả nước giai đoạn 2021-2025,
UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 135/KH-UBND ngày 15/7/2021 thực hiện Đề án lựa
chọn, hoàn thiện, nhân rộng mô hình hợp tác xã kiểu mới hiệu quả tỉnh Kiên
Giang giai đoạn 2021 - 2025. Ngày 03/02/2022, UBND tỉnh có Quyết định số
1381/QĐ-UBND phê duyệt danh sách HTX thí điểm tham gia đề án (HTX Ngã Bát, huyện
An Minh; HTX nông nghiệp Tân Hưng, huyện Châu Thành; HTX sản xuất - dịch vụ
nông nghiệp Kênh 10, huyện U Minh Thượng) gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn để tổng hợp. Hiện nay tỉnh Kiên Giang đang tiếp
tục triển khai giai đoạn 2 của Đề án.
5. Hợp tác quốc tế về KTTT
Khuyến khích, tăng cường đẩy mạnh các hình thức hợp
tác quốc tế trong phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, để học tập kinh nghiệm
quản lý, mô hình phát triển hợp tác xã bền vững của các nước. Chủ động tiếp thu
kinh nghiệm tốt của các nước, vùng lãnh thổ có phong trào hợp tác xã mạnh.
Trong đó, chú ý tập trung tiếp thu các hỗ trợ kỹ thuật phát triển trong việc
thành lập và nâng cao năng lực hợp tác xã, thành lập và nâng cao năng lực cơ cấu
trợ giúp tổ chức kinh tế tập thể.
III. DỰ KIẾN KHẢ NĂNG HOÀN THÀNH CÁC MỤC TIÊU KẾ HOẠCH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ GIAI ĐOẠN 2021-2025
Tỉnh đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ phát triển
kinh tế tập thể, giai đoạn 2021-2025 đạt được một số kết quả tiêu biểu như sau:
- Tình hình phát triển kinh tế tập thể, HTX: Giai đoạn
2021-2025, toàn tỉnh thành lập mới 113/105 HTX (đạt 107,6% kế hoạch giai đoạn
2021-2025), trong đó có 81/80 HTX nông nghiệp (đạt 101,25% kế hoạch) 560
THT gắn với cánh đồng lớn (đạt 100% kế hoạch), 05/01 LH HTX (tăng 5 lần so với
kế hoạch), trong đó 55 HTX khá giỏi 40% HTX trung bình hạn chế thấp nhất HTX yếu
kém tổng số lao động thường xuyên của 9.129/11.488 thành viên, tổng số lao động
THT là 14.106/44.422 người. Riêng đối với chỉ tiêu 90% HTX có lãi chưa đạt do
phần lớn các HTX nông nghiệp làm dịch vụ hỗ trợ cho thành thành viên nguồn thu
ít chỉ đủ chi phí điều hành HTX và trả lương cho Hội đồng quản trị, Ban giám đốc
theo mùa vụ. Bên cạnh đó thời tiết diễn biến thất thường và giá phân bón, thuốc
trừ sâu tăng cao ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh của các HTX nông
nghiệp dẫn đến việc giải thể, tạm ngưng, sáp nhập các HTX trong những năm gần
đây tăng lên.
-100% số HTX, LH HTX tổ chức hoạt động theo quy định
của Luật HTX đạt
- 20% cán bộ quản lý HTX tốt nghiệp đại học, cao đẳng
trở lên trong tất các ngành, lĩnh vực, đạt 100% kế hoạch.
- 50% tổng số tổ chức KTTT có liên kết với doanh nghiệp,
tổ chức KTTT khác.
- Xử lý dứt điểm tình trạng các HTX ngừng hoạt động
và các HTX chưa chuyển đổi, tổ chức lại theo quy định Luật HTX.
- 90% mô hình KTTT ứng dụng công nghệ cao, có sản phẩm
gắn với chuỗi giá trị, phát triển bền vững chưa đạt. Hiện nay, rất nhiều doanh
nghiệp đang gặp khó trong việc thực hiện liên kết do không tìm được hợp tác xã
nông nghiệp đủ năng lực tài chính, trình độ để có thể đứng ra làm đầu mối, nên
doanh nghiệp phải hợp đồng trực tiếp với từng hộ nông dân, dẫn đến chi phí cao
và dễ gặp rủi ro. Bên cạnh đó, trình độ và năng lực cho cán bộ quản lý chủ chốt
của HTX về trình độ quản trị, kỹ năng xây dựng phương án sản xuất kinh doanh,
kiến thức quản trị còn hạn chế; công tác đào tạo về chuyên môn kỹ thuật cho
thành viên HTX áp dụng quy trình công nghệ cao, sản xuất theo tiêu chuẩn, chất
lượng an toàn vệ sinh thực phẩm, bảo vệ môi trường chưa được triển khai. Đã đến
việc xây dựng mô hình KTTT ứng dụng công nghệ cao, có sản phẩm gắn với chuỗi
giá trị còn ít.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Kết quả đạt được
- Kinh tế tập thể của tỉnh có bước chuyển biến khá,
nhiều loại hình kinh tế tập thể phát triển đa dạng trên các lĩnh vực như: các
loại hình HTX, THT, LH HTX thành lập mới năm 2024 đạt 100% kế hoạch; số lao động
thường xuyên trong HTX năm 2024 tăng 5,5%; số HTX giải thể, sáp nhập giảm 72,3%
với cùng kỳ năm 2023. Nội dung, phương thức hoạt động của các hợp tác xã có nhiều
bước đổi mới, cơ bản tổ chức thực hiện đúng những nguyên tắc của Luật Hợp tác
xã. Kinh tế tập thể từng bước phát huy hiệu quả góp phần phát triển kinh tế xã
hội của tỉnh, nhất là sản xuất nông nghiệp, huy động được các nguồn lực xây dựng
kết cấu hạ tầng nông thôn, xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo, nâng cao đời sống
của nhân dân, xây dựng tình đoàn kết tương trợ lẫn nhau, giữ vững an ninh,
chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng và củng cố hệ thống chính trị ở cơ
sở vững mạnh.
- Tỉnh đã kịp thời ban hành các văn bản chỉ đạo, điều
hành kế hoạch triển khai các đề án, quyết định, văn bản chỉ đạo của Trung ương
về hỗ trợ, phát triển kinh tế tập thể; bố trí vốn hỗ trợ các HTX theo các Kế hoạch,
đề án được phê duyệt.
- Các nội dung hỗ trợ HTX bước đầu đã phát huy được
hiệu quả, mang lại lợi ích thiết thực giúp các HTX nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh; mở rộng sản xuất theo chuỗi liên kết, đẩy mạnh chuyển giao ứng dụng
khoa học công nghệ.
2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Kinh tế tập thể chiếm tỷ trọng chưa cao trong nền
kinh tế của tỉnh, đa số các mô hình kinh tế tập thể có quy mô nhỏ lẻ, vốn ít, sự
cạnh tranh thấp hơn so với các mô hình kinh tế khác; chưa xây dựng được hợp tác
xã tiên tiến điển hình có quy mô lớn.
Nguồn kinh phí từ ngân sách trung ương hỗ trợ cho các
hợp tác xã còn hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu của các HTX.
Một số hợp tác xã tổ chức và hoạt động chưa tuân thủ
đầy đủ theo quy định của pháp luật, công tác tài chính còn lỏng lẻo; tính minh
bạch, dân chủ trong tổ chức và hoạt động của hợp tác xã chưa đảm bảo. Hiệu quả
hoạt động của một số hợp tác xã còn thấp, còn tư tưởng trông chờ vào sự hỗ trợ
của Nhà nước nên chưa chủ động trong sản xuất kinh doanh.
Doanh thu của liên hiệp hợp tác xã chưa đạt so với kế
hoạch năm 2024, các LH HTX bước đầu đi vào hoạt động ổn định. Tuy nhiên, các LH
HTX trên địa bàn hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, do ảnh hưởng của điều kiện
thời tiết diễn biến thất thường, lạm phát tăng cao dẫn đến chi phí đầu vào như
giống, thuốc trừ sâu cũng tăng cao làm kết quả sản xuất kinh doanh của các LH
HTX không đạt kế hoạch.
Những khó khăn nội tại của hợp tác xã chậm được khắc
phục, đặc biệt là khó khăn về vốn, cơ sở vật chất, ứng dụng khoa học công nghệ,
trình độ quản lý, nguồn nhân lực. Phần lớn các HTX còn thiếu cán bộ có năng lực
quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh cho HTX. Hoạt động của các hợp tác xã
còn thiếu gắn bó, chưa có sự liên kết với nhau về kinh tế và tổ chức; các hoạt
động liên doanh, liên kết giữa các hợp tác xã còn ít.
Một số chính sách hỗ trợ HTX triển khai trong thực tế
còn chậm như: chính sách hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng cho các HTX nông nghiệp; đề
án hoàn thiện, nhân rộng mô hình HTX kiểu mới, chính sách tiếp cận vốn vay cho
các HTX từ Ngân hàng Chính sách xã hội...
IV. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
Để công tác hỗ trợ, phát triển kinh tế tập thể, hợp
tác xã tốt hơn trong thời gian tới, tỉnh Kiên Giang đề xuất, kiến nghị với
Trung ương một số nội dung sau:
Ưu tiên bố trí ngân sách trung ương hỗ trợ cho các hợp
tác xã tham gia Đề án lựa chọn, hoàn thiện, nhân rộng mô hình hợp tác xã kiểu mới
hiệu quả và hỗ trợ cho cả HTX nông nghiệp đầu tư kết cấu hạ tầng theo Quyết định
số 1804/QĐ-TTg ngày 13/11/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hỗ
trợ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã giai đoạn 2021-2025.
Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế tập thể,
củng cố tổ chức bộ máy, cán bộ các cơ quan có liên quan từ trung ương đến tỉnh
theo hướng trung ương có Cục Quản lý nhà nước về kinh tế tập thể thì ở cấp tỉnh
phải có phòng quản lý nhà nước về kinh tế tập thể.
Tiếp tục rà soát, hoàn thiện các chính sách hỗ trợ
kinh tế tập thể theo hướng tập trung, đơn giản quy trình thực hiện.
Luật Hợp tác xã ngày 20/6/2023 có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/7/2024 và các văn bản hướng dẫn thi hành, do có nhiều sự đổi mới, nên
bước đầu cán bộ phụ trách lĩnh vực Kinh tế tập thể, Hợp tác xã còn lúng túng
trong công tác cấp giấy chứng nhận Hợp tác xã, tổ hợp tác cho các HTX, THT cũng
như hướng dẫn HTX đăng ký hồ sơ qua mạng điện tử. Để công tác đăng ký HTX, THT
được thuận lợi, đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư mở các lớp tập huấn về nghiệp vụ
đăng ký HTX, THT cho các cán bộ đăng ký kinh doanh cấp huyện, thành phố.
Thường xuyên mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho công
chức làm công tác quản lý nhà nước về kinh tế tập thể.
Phần thứ hai. KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP
TÁC XÃ NĂM 2025
I. MỘT SỐ YÊU CẦU ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PHÁT
TRIỂN KTTT, HTX NĂM 2025
1. Phát triển KTTT cả về số lượng và chất lượng, trong đó chú
trọng chất lượng, bảo đảm sự hài hòa trong tất cả các ngành, lĩnh vực, địa bàn;
thực hiện có hiệu quả chính sách hỗ trợ các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp, gán
hoạt động sản xuất kinh doanh với chuỗi giá trị sản phẩm, ứng dụng khoa học -
công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, phát triển kinh tế xanh, kinh tế
tuần hoàn; tăng cường liên kết giữa các HTX và các thành viên HTX với các thành
phần kinh tế khác hình thành các LH HTX không giới hạn về quy mô địa bàn; thu
hút ngày càng nhiều nông dân, hộ gia đình, cá nhân và tổ chức tham gia KTTT; tạo
ra nhiều sản phẩm, dịch vụ, việc làm mới cho tổ viên, thành viên góp phần tăng
thêm thu nhập và nâng cao chất lượng đời sống.
2. Tập trung chỉ đạo củng cố tổ chức, đổi mới nội dung phương
thức hoạt động của KTTT, bảo đảm nguyên tắc tự nguyện cùng có lợi. Tập trung
phát triển lực lượng sản xuất trong khu vực KTTT nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động,
khai thác tốt hơn các tiềm năng lợi thế của địa phương.
3. Năm 2025 là năm cuối thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế
tập thể, hợp tác xã giai đoạn 2021-2025. Do đó, kế hoạch phát triển KTTT năm
2025 phải bám sát kế hoạch phát triển KTTT 5 năm, các Nghị quyết của Trung
ương, các Chương trình của Tỉnh ủy và Kế hoạch của Ủy ban nhân dân tỉnh về hỗ
trợ, phát triển KTTT.
II. NỘI DUNG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KTTT, HTX NĂM 2025
1. Dự báo những thuận lợi, khó khăn
1.1. Thuận lợi
Được sự quan tâm chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và
các Bộ ngành liên quan, cùng với sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị và toàn
thể nhân dân khu vực kinh tế tập thể tỉnh nhất là những năm gần đây có bước
phát triển cả về số lượng và chất lượng, đa dạng trên các lĩnh vực, cơ bản khắc
phục được tình trạng yếu kém kéo dài, tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa đói, giảm
nghèo cho các thành viên, góp phần xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an sinh, an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, từng bước khẳng định vị trí, vai trò nền tảng của
khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã trong nền kinh tế quốc dân... Trong thời
gian tới môi trường đầu tư kinh doanh ngày càng được cải thiện; công tác cải cách
hành chính trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động của các thành phần kinh tế,
trong đó có lĩnh vực KTTT được quan tâm.
Có nhiều chủ trương, chính sách tạo thuận lợi cho
KTTT phát triển, đặc biệt là các chính sách mới ban hành trong lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động KTTT.
1.2. Khó khăn
Tình hình chính trị thế giới bất ổn, suy giảm kinh tế
toàn cầu, lạm phát tăng ở nhiều nước, tổng cầu trong và ngoài nước suy giảm mạnh;
áp lực cạnh tranh cao, sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn, giá cả sản phẩm,
hàng hóa tăng giảm thất thường, chi phí sản xuất cao, lợi nhuận thấp đã tác động
không nhỏ đến khu vực KTTT.
Công tác chỉ đạo điều hành, công tác phối hợp giữa
các cơ quan quản lý nhà nước chưa chặt chẽ; trình độ, năng lực của công chức quản
lý HTX ở một số nơi còn hạn chế, số lượng công chức chưa đảm bảo với khối lượng
công việc.
Các HTX, THT hoạt động còn đơn điệu, thiếu chiến lược
trong sản xuất, kinh doanh, mối liên kết giữa các HTX với nhau và giữa HTX với
các thành phần kinh tế khác còn nhiều hạn chế; năng lực nội tại của các HTX còn
yếu,... Đội ngũ quản lý HTX, THT vừa thiếu, vừa yếu chưa đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ; một số cán bộ, nhân dân và một số thành viên HTX, THT chưa hiểu biết
vai trò của KTTT; hiệu quả phát triển KTTT chưa thật sự có tính thuyết phục
cao, nguồn lực hỗ trợ cho KTTT có hạn chưa đáp ứng được nhu cầu.
2. Định hướng chung về phát triển KTTT, HTX
Tập trung phát triển kinh tế tập thể trong các ngành,
các lĩnh vực thuộc thế mạnh của tỉnh, ứng dụng khoa học công nghệ phục vụ sản
xuất, kinh doanh; sản xuất theo chuỗi giá trị, liên kết với doanh nghiệp; bảo đảm
lợi ích thành viên...
Đổi mới, cải tiến kỹ thuật, cách thức tổ chức sản xuất,
kinh doanh, nâng cao trình độ quản lý và điều hành của cán bộ HTX, LH HTX từ đó
nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX, LH HTX; không ngừng nâng cao năng lực
cạnh tranh của các HTX để đáp ứng đòi hỏi ngày càng khắt khe của thị trường.
3. Mục tiêu tổng quát
Tiếp tục phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức,
loại hình, quy mô và trình độ khác nhau trong các ngành, các lĩnh vực. Tập
trung chỉ đạo củng cố tổ chức, đổi mới nội dung phương thức hoạt động của các
HTX, LH HTX, khắc phục những hạn chế, yếu kém để nâng cao chất lượng hoạt động
khu vực KTTT, HTX. Trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tự nguyện cùng có lợi. Mở rộng
quy mô thành viên HTX, LH HTX THT thông qua thu hút nhân dân tham gia HTX, nhất
là các hộ nông dân nông thôn; đẩy mạnh phát triển HTX, LH HTX gắn với chuỗi giá
trị sản phẩm chủ lực của tỉnh. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người
dân nông thôn, góp phần đạt các chỉ tiêu xây dựng nông thôn mới, giải quyết việc
làm tạo thu nhập cho người lao động và ổn định an sinh xã hội.
Phát triển kinh tế tập thể để hỗ trợ đắc lực cho kinh
tế hộ, kinh tế trang trại phát triển, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho
thành viên và người lao động; mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết với
các loại hình kinh tế khác. Khẳng định được vai trò, vị trí quan trọng của kinh
tế tập thể trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
4. Một số mục tiêu cụ thể
- Thành lập mới 50 THT, 15 HTX gắn với xây dựng cánh
đồng lớn, trong đó có từ 13 HTX nông nghiệp ; 01 LH HTX.
- Thu hút 250 thành viên THT, 600 thành viên HTX, 10
HTX thành viên LH HTX.
- Doanh thu bình quân của 1 HTX trên 1.800 triệu đồng/năm,
LH HTX là 400 triệu đồng/năm, THT là 240 triệu đồng/năm.
- Thu nhập bình quân của người lao động trong HTX
trên 60 triệu đồng/năm, LH HTX là 65 triệu đồng/năm, THT là 34 triệu đồng/năm.
- Củng cố 10 - 15 HTX yếu lên trung bình.
- Phấn đấu trên 90% hợp tác xã có lãi, trong đó 55% hợp
tác xã khá giỏi, 40% hợp tác xã trung bình, hạn chế thấp nhất hợp tác xã yếu
kém.
- Tiếp tục duy trì các mô hình KTTT hoạt động có hiệu
quả, phấn đấu mỗi xã, phường, thị trấn xây dựng từ 01 đến 02 mô hình KTTT bền vững
và làm ăn có hiệu quả.
- Tập trung đầu tư, phát triển các hợp tác xã có tiềm
năng gắn với các ngành, lĩnh vực như môi trường, thủy sản, nông nghiệp hữu cơ,
thủ công mỹ nghệ, dịch vụ thuộc các địa bàn trọng điểm: Thành phố Hà Tiên, Gò
Quao, Vĩnh Thuận,...
- Phấn đấu trong thời gian tới tăng năng suất, giảm
giá thành, tăng sức cạnh tranh, nâng cao năng lực hoạt động của các HTX; cải
thiện đời sống thành viên và cộng đồng; tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc
sống, tăng cường tình đoàn kết xã hội trên cơ sở cùng chia sẻ lợi ích lâu dài
giữa các thành viên HTX, THT.
5. Các giải pháp phát triển kinh tế tập thể năm 2025
Liên minh Hợp tác xã tỉnh, các sở, ngành, Ủy ban nhân
dân các huyện, thành phố và các đơn vị có liên quan, triển khai thực hiện các
giải pháp sau:
5.1. Tuyên truyền nâng cao nhận thức về KTTT; tập huấn
các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành và nâng cao nguồn nhân
lực HTX
Tiếp tục quán triệt tuyên truyền, triển khai thực hiện
nghiêm túc nội dung của Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 16/6/2022, Hội nghị lần thứ
năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới, Nghị quyết số 09/NQ-CP
ngày 02/02/2023 của Chính phủ Ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực
hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2022, Hội nghị lần thứ năm, Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
kinh tế tập thể trong giai đoạn mới; Luật Hợp tác xã số 17/2023/QH15 được thông
qua ngày 20/6/2023 và Chương trình hành động số 34-CTr/TU, ngày 08/11/2022 của
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 16/6/2022 Hội
nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới; Kế hoạch số
251/KH-UBND ngày 20/10/2023 của UBND tỉnh Kiên Giang về việc tiếp tục đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể giai đoạn mới, xác định rõ nội
dung, nhiệm vụ chủ yếu để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, toàn diện, đồng
bộ, tạo sụ chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động của cả hệ thống chính
trị và các tầng lớp nhân dân, đi đối với nâng cao vai trò, trách nhiệm, tính tiên
phong, gương mẫu của người đứng đầu các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị, gắn với
phát huy tốt sức mạnh của tập thể để thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển
KTTT.
Tăng cường tuyên truyền vai trò, vị trí của kinh tế tập
thể, các điển hình tiên tiến, mô hình HTX mới đến đông đảo cán bộ, đảng viên,
quần chúng nhân dân và người lao động, làm chuyển biến nhận thức, trách nhiệm đối
với việc lãnh đạo, chỉ đạo tham gia xây dựng phát triển kinh tế tập thể mà nòng
cốt là HTX. Hoạt động của HTX phải gắn với chủ trương, Nghị quyết của các cấp ủy
đảng, chính quyền ở từng địa phương và phục vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội trong từng thời kỳ.
Xây dựng các mô hình phát triển KTTT, các gương điển
hình, các HTX tiêu biểu; tổ chức tốt các đợt thi đua, các phong trào làm kinh tế
giỏi; hàng năm tổ chức hội nghị tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện chính
sách hỗ trợ, ưu đãi HTX gắn với công tác tuyên dương, khen thưởng các HTX, cán
bộ quản lý và các thành viên tiêu biểu có nhiều đóng góp cho công tác phát triển
kinh tế của địa phương.
Liên minh Hợp tác xã tỉnh, các Sở, ngành, UBND các
huyện, thành phố, các đơn vị liên quan theo chức năng nhiệm vụ tổ chức tuyên
truyền, tập huấn và phát tài liệu Luật Hợp tác xã, Nghị định số 92/2024/NĐ-CP ,
Thông tư số 09/2024/TT-BKHĐT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư các văn bản có liên quan
trong các quy định mới của Luật Hợp tác xã, kết hợp mở các lớp ngắn hạn trong
công tác quản lý, điều hành, báo cáo tình hình hoạt động HTX, báo cáo tài chính
HTX, nghiệp vụ kế toán HTX cho đối tượng là cán bộ quản lý HTX.
5.2. Hoàn thiện khung khổ pháp lý, cơ chế chính sách
Thực hiện và tiếp tục hoàn thiện chính sách ưu đãi, hỗ
trợ phát triển HTX, phù hợp với bản chất (tránh bao cấp), nhu cầu, trình độ
phát triển của tổ chức HTX và phù hợp với khả năng nguồn lực của Nhà nước; tập
trung nguồn lực Nhà nước hỗ trợ xây dựng thí điểm một số chuỗi giá trị hàng hóa
chủ lực để từ đó nhân rộng...
5.3. Tổ chức triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ,
ưu đãi phát triển HTX
Chính sách đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực: Mở các
lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý HTX, LH HTX, THT; kỹ năng tổ chức các dịch
vụ trong HTX; xây dựng chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; soạn thảo
hợp đồng kinh tế; hỗ trợ HTX đăng ký chất lượng sản phẩm, nhãn hiệu thương mại
và thiết kế mẫu mã bao bì cho HTX.
Triển khai thực hiện tốt Kế hoạch số 88/KH-UBND , ngày
27/4/2021 của UBND tỉnh Kiên Giang về việc Triển khai thực hiện Nghị quyết số
340/2020/NQ-HĐND , ngày 22/7/2020 của HĐND tỉnh về chính sách hỗ trợ liên kết sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp giai đoạn 2020-2025 trên địa bàn tỉnh
Kiên Giang; Kế hoạch số 93/KH-UBND, ngày 29/4/2021 của UBND tỉnh Kiên Giang về
việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 337/2020/NQ-HĐND , ngày 22/7/2020 của
HĐND tỉnh về quy định chính sách phát triển HTX nông nghiệp giai đoạn 2020-2025
trên địa bàn tỉnh Kiên Giang; các chương trình hỗ trợ, phát triển KTTT.
5.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực KTTT
Các sở, ban, ngành và UBND các huyện, thành phố, Liên
minh hợp tác xã và các đơn vị liên quan căn cứ chức năng nhiệm vụ, tổ chức thực
hiện các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX, LH HTX, THT như:
Rà soát tình hình hoạt động của HTX, LH HTX hướng dẫn các huyện thực hiện giải
thể các HTX, LH HTX đã ngừng hoạt động; tư vấn xây dựng phương án sản xuất,
kinh doanh và điều lệ theo quy định của Luật HTX năm 2012; thu hút, kết nạp
thêm tổ viên, thành viên và tăng vốn góp để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất,
kinh doanh, mở thêm các dịch vụ phù hợp với địa phương; đầu tư kết cấu hạ tầng
phục vụ sản xuất, chế biến sản phẩm cho các HTX; từng bước mở rộng quy mô hoạt
động của các HTX,... Phát triển các hình thức hợp tác liên kết, đa dạng, phù hợp,
hình thành chuỗi giá trị từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm.
Tiếp tục nâng cao năng lực tổ chức, hoạt động của các
HTX, LH HTX thông qua các hoạt động tăng cường năng lực tổ chức, điều hành, hoạt
động, kinh doanh các HTX: phát triển mô hình HTX sản xuất theo chuỗi giá trị.
Khuyến khích các HTX đẩy mạnh, nâng cao chất lượng bảo quản và chế biến nông sản.
Tư vấn, khuyến khích, hướng dẫn HTX đóng gói, gắn tem nhãn phục vụ cho việc
truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Giới thiệu và nhân rộng các mô hình HTX điển hình
tiên tiến trên địa bàn tỉnh, hướng dẫn các THT, HTX mới thành lập và đang hoạt
động chọn lựa mô hình sản xuất, kinh doanh phù hợp, phương pháp tổ chức hoạt động
hiệu quả, quả trên từng lĩnh vực, từng ngành nghề để khai thác tối đa tiềm
năng, thế mạnh của địa phương. Tổ chức tham quan học tập kinh nghiệm trong và
ngoài tỉnh các mô hình quản lý và phát triển HTX.
Tăng cường đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ quản
lý HTX để nâng cao năng lực, tổ chức, điều hành hoạt động HTX; thực hiện đưa
cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng về làm việc có thời hạn tại HTX. Tăng cường
năng lực quản trị hợp tác xã theo hướng công khai, minh bạch; củng cố, nâng cao
năng lực kế toán.
5.5. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về KTTT
Củng cố tổ chức bộ máy, cán bộ các cơ quan có liên
quan từ tỉnh đến cơ sở để theo dõi, giám sát, hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể,
HTX. Các cấp, ngành, địa phương hàng năm xây dựng chương trình, kế hoạch phát
triển kinh tế tập thể gắn với phát triển kinh tế - xã hội của từng cấp, từng
ngành và địa phương. Tập trung chỉ đạo tổ chức lại sản xuất theo hướng quy mô gắn
với tái cơ cấu nông nghiệp, gắn với sinh kế người dân ở từng vùng, từng điều kiện,
từng nguồn lực. Tăng cường tập huấn bồi dưỡng kiến thức về kinh tế tập thể cho
cán bộ HTX, LH HTX và cán bộ quản lý nhà nước làm công tác theo dõi kinh tế tập
thể cần được tạo điều kiện đào tạo căn bản, nâng cao năng lực, phục vụ tốt hơn
cho sự phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã của tỉnh.
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể,
tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân, đoàn, hội viên tự nguyện tham gia các
tổ hợp tác, hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã. Nâng cao hiệu quả các chương
trình phối hợp liên tịch giữa Liên minh Hợp tác xã với Mặt trận, đoàn thể và
các sở, ban, ngành. Tích cực tham gia xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách
cũng như giải pháp để phát triển kinh tế hợp tác, HTX trên địa bàn tỉnh.
5.6. Về huy động nguồn lực xã hội để phát triển KTTT,
HTX
Huy động mọi nguồn lực cho phát triển HTX; khuyến
khích, tạo điều kiện để các HTX và các thành phần kinh tế khác đầu tư vào HTX đổi
mới công nghệ, thiết bị sản xuất, ứng dụng và chuyển giao các tiến bộ khoa học,
kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, hạ giá
thành, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh. Lồng ghép, kết
hợp các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình phát triển kinh tế - xã
hội trên địa bàn tỉnh, nhằm thu hút các nguồn lực phát triển các hình thức tổ
chức kinh tế hợp tác, liên kết. Hình thành chuỗi giá trị trong liên kết sản xuất,
chế biến, tiêu thụ sản phẩm và xuất khẩu gắn với xây dựng cánh đồng lớn theo chủ
trương của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Quan tâm xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm,
hàng hóa chủ lực, có quy mô lớn của tỉnh.
5.7. Về phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận tổ quốc,
các đoàn thể, hội, hiệp hội trong phát triển KTTT
Cấp ủy và chính quyền các cấp hỗ trợ, tạo điều kiện
và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể, hội, hiệp hội trong việc
tuyên truyền, vận động thành viên tham gia HTX; động viên, khuyến khích các
đoàn viên, hội viên đi đầu tham gia xây dựng các mô hình điểm về KTTT như: HTX,
LH HTX, THT trên các lĩnh vực, nhất là nông nghiệp; phối hợp với các bộ, ngành
trong việc tuyên truyền các chính sách, pháp luật về KTTT tới các hội viên; đưa
các nội dung này thành các trọng tâm trong chương trình, kế hoạch hoạt động hằng
năm của các cấp đoàn, hội...
5.8. Về tăng cường vai trò, trách nhiệm và nâng cao
hiệu quả hoạt động của Liên minh Hợp tác xã tỉnh
- Tăng cường công tác phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa
các cơ quan, tổ chức, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể các cấp trong việc thực hiện
Nghị quyết, các quy định pháp luật, thúc đẩy phát triển KTTT, HTX. Đẩy mạnh
công tác giám sát, phản biện và tham gia xây dựng các cơ chế, chính sách về
kinh tế tập thể, HTX; vận động thành lập HTX, LH HTX và xây dựng mô hình HTX hoạt
động có hiệu quả.
- Tăng cường tuyên truyền, vận động phát triển HTX;
tư vấn, hỗ trợ và cung cấp dịch vụ, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ
cho việc hình thành và phát triển HTX; đổi mới, nâng cao năng lực của Liên minh
Hợp tác xã tỉnh, tăng cường các cán bộ có trình độ chuyên sâu về HTX, phải nắm
vững được những nội dung cơ bản về Luật Hợp tác xã, nguyên tắc, tổ chức của
HTX, cũng như các kỹ năng hỗ trợ HTX.
5.9. Về tăng cường hợp tác quốc tế về KTTT
Khuyến khích hợp tác quốc tế trong phát triển kinh tế
tập thể, nhất là trong việc tiếp thu kinh nghiệm tốt của các nước, vùng lãnh thổ
có phong trào HTX mạnh. Từng bước mở rộng hoạt động và phát huy vai trò HTX, LH
HTX trong phát triển quan hệ với các tổ chức quốc tế, trước hết là Liên minh
HTX quốc tế (ICA), Tổ chức lao động quốc tế (ILO) và các nước Đông Nam Á.
5.10. Triển khai thực hiện chương trình, dự án mang
tính đột phá
Triển khai thực hiện tốt chương trình hỗ trợ phát triển
KTTT, HTX giai đoạn 2021-2025; Đề án “Lựa chọn, hoàn thiện, nhân rộng mô hình
HTX kiểu mới tại các địa phương”.
5.11. Thực hiện phân loại và đánh giá hợp tác xã: Theo Thông tư số 01/2020/TT-BKHĐT
ngày 19/02/2020 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
5.12. Về các giải pháp khác.
Hỗ trợ xúc tiến thương mại, tiêu thụ sản phẩm đối với
HTX. Tiếp tục hỗ trợ để nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến thương mại của kinh
tế hợp tác và HTX, trong đó tập trung vào việc cung cấp thông tin về thị trường
và khách hàng, tích cực tham gia diễn đàn trao đổi kinh nghiệm của các HTX
trong và ngoài tỉnh, các hoạt động triển lãm, hội chợ; xây dựng và quảng bá
thương hiệu cho HTX và liên hiệp HTX; hỗ trợ một số HTX có điều kiện xúc tiến
thương mại ra thị trường trên thế giới; tiếp tục hỗ trợ nhãn hiệu thương mại và
truy xuất nguồn gốc sản phẩm cho HTX.
6. Nguồn vốn thực hiện
Tổng nhu cầu vốn thực hiện theo các Kế hoạch, chương
trình, đề án, dự án hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể năm 2025 là 20.610 triệu
đồng. Trong đó tổng nguồn vốn từ ngân sách địa phương là 20.610 triệu đồng (đính
kèm phụ lục III, IV).
Trên đây là kế hoạch phát triển kinh tế tập thể, hợp
tác xã tỉnh Kiên Giang năm 2025./.
|
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Giang Thanh Khoa
|
FILE ĐƯỢC ĐÍNH
KÈM THEO VĂN BẢN
![](00642061_files/image001.gif)
|