|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Công văn 904/TTg-KTTH 2018 trả lời thư của ông Nguyễn Hội về chính sách bảo hiểm xã hội
Số hiệu:
|
904/TTg-KTTH
|
|
Loại văn bản:
|
Công văn
|
Nơi ban hành:
|
Thủ tướng Chính phủ
|
|
Người ký:
|
Vương Đình Huệ
|
Ngày ban hành:
|
16/07/2018
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 904/TTg-KTTH
V/v trả lời thư của
ông Nguyễn Hội
|
Hà
Nội, ngày 16 tháng 07
năm 2018
|
Kính
gửi: Ông Nguyễn Hội.
Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ
nhận được thư của ông Nguyễn Hội tại địa chỉ 39 Trần Quốc Toản, Liên Nghĩa, Đức
Trọng, tỉnh Lâm Đồng như sau:
TÓM TẮT NỘI DUNG HỎI:
Đề nghị xem xét giải quyết về một số
vấn đề liên quan tới chính sách bảo hiểm xã hội.
TRẢ LỜI:
1. Về đề nghị điều
chỉnh lương hưu nhằm giảm khoảng cách chênh lệch lương hưu của người nghỉ hưu
giữa các thời kỳ
Theo quy định của pháp luật bảo hiểm
xã hội thì “mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở
mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm xã hội”, theo đó mức
lương hưu hàng tháng của người lao động được tính trên cơ sở thời gian đóng bảo
hiểm xã hội và mức tiền lương tháng làm căn cứ tính đóng bảo hiểm xã hội. Như vậy,
mức lương hưu của người lao động cao hay thấp sẽ tùy thuộc
vào thời gian đóng và mức tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của người lao động
khi còn làm việc.
Theo quy định hiện hành của Luật Bảo
hiểm xã hội thì lương hưu được điều chỉnh “trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá
tiêu dùng và tăng trưởng kinh tế phù hợp với ngân sách nhà nước và quỹ bảo hiểm
xã hội”. Trong những năm qua, việc điều chỉnh lương hưu được thực hiện theo quy
định của Luật Bảo hiểm xã hội và các Nghị quyết của Quốc hội.
Mặc dù, trong giai đoạn 2003 - 2007
thực hiện Đề án Cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công, việc điều chỉnh lương hưu đã
được thực hiện kết hợp giải quyết chênh lệch lương hưu của người nghỉ hưu giữa
các thời kỳ (người nghỉ hưu giai đoạn trước tháng 9 năm 1985, trước tháng 4 năm
1993 và người có mức lương hưu thấp thì được điều chỉnh ở mức cao hơn), điều
này đã một bước giải quyết bất hợp lý về lương hưu giữa các thời kỳ. Tuy nhiên,
Đề án cải cách chính sách bảo hiểm xã hội trình Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ
7 khóa XII cũng đã chỉ ra một trong những hạn chế là việc điều chỉnh tiền lương
hưu thời gian qua thường được tiến hành đồng thời với điều chỉnh tiền lương khu
vực hành chính nhà nước, mức tăng thường bằng mức tăng của
tiền lương khu vực hành chính nhà nước; điều này làm tăng chi cả từ ngân sách nhà
nước và quỹ bảo hiểm xã hội, tạo ra những bất hợp lý mới như người có mức lương
hưu cao được tăng quá nhiều, người có mức lương hưu thấp được tăng quá ít dẫn đến
gia tăng khoảng cách tuyệt đối về mức lương hưu giữa những người đang hưởng
càng lớn. Chính vì vậy, tại Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23 tháng 5 năm 2018 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội đã quy định
một trong những nội dung cải cách đó là: “... lương hưu cơ bản được điều chỉnh
chủ yếu dựa trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng, khả năng của Quỹ bảo
hiểm xã hội và ngân sách nhà nước; quan tâm điều chỉnh thỏa đáng đối với nhóm đối tượng có mức lương hưu thấp và nghỉ hưu trước
năm 1995 nhằm thu hẹp khoảng cách chênh lệch lương hưu giữa người nghỉ hưu ở
các thời kỳ”. Với quy định nêu trên, quá trình thực hiện điều chỉnh lương hưu
thời gian tới sẽ từng bước khắc phục những bất hợp lý về lương hưu giữa người
nghỉ hưu ở các thời kỳ.
2. Về căn cứ ban
hành Nghị định về việc thực hiện phụ cấp khu vực đối với người hưởng lương hưu,
bảo hiểm xã hội một lần, trợ cấp mất sức lao động và trợ cấp tai nạn lao động bệnh
nghề nghiệp hàng tháng
Chế độ phụ cấp khu vực là một trong
các khoản phụ cấp lương được thực hiện ở những nơi xa xôi, hẻo lánh và khí hậu
xấu, đã được áp dụng đối với những người đang làm việc
(thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định) và những người
nghỉ hưu, hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, thương binh, bệnh binh hưởng
trợ cấp hàng tháng. Từ năm 1985 trở về sau, chế độ phụ cấp khu vực đối với người
hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng được quy định trong các văn
bản quy phạm pháp luật như Nghị định số 235/HĐBT ngày 18 tháng 9 năm 1985, Nghị
định số 236/HĐBT ngày 18 tháng 9 năm 1985 của Hội đồng Bộ trưởng, Thông tư liên
tịch số 11/TTLT-BNV-BLĐTBXH-BTC-UBDT ngày 05 tháng 01 năm
2005 của liên Bộ Nội vụ, Lao động - Thương binh và Xã hội, Tài chính và Ủy ban
dân tộc và một số văn bản khác liên quan.
Trong quá trình thực hiện chế độ phụ
cấp khu vực đối với người nghỉ việc hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng
cho thấy:
- Chế độ phụ cấp khu vực không dựa
trên nguyên tắc của pháp luật về bảo hiểm xã hội là hưởng trên cơ sở mức đóng
mà phụ thuộc vào nơi cư trú của họ.
- Mức hưởng phụ thuộc vào từng khu vực
mà người hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng cư trú với các mức
có hệ số phụ cấp là: 0,1; 0,2; 0,3; 0,4; 0,5; 0,7 và 1,0 so với mức lương tối
thiểu chung, không phụ thuộc vào trước đó người lao động có đóng bảo hiểm xã hội
bao gồm phụ cấp khu vực hay không.
Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2007, theo
quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 thì phụ cấp khu vực không nằm trong
cơ cấu tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội. Do vậy, đối với người
lao động nghỉ việc hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội từ ngày 01 tháng 01
năm 2007 trở đi thì tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội để tính
lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội không bao gồm phụ cấp khu vực. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 139 Luật Bảo hiểm xã hội quy định, người đang hưởng
lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng
tháng trước ngày Luật có hiệu lực thì vẫn được thực hiện theo các quy định trước
đây, vì vậy các đối tượng đang hưởng trước ngày 01 tháng 01 năm 2007 vẫn được bảo
lưu mức hưởng chế độ phụ cấp khu vực theo Thông tư liên tịch số 11/2005/TTLT-BNV-BLĐTBXH-BTC-UBDT. Như vậy, phát sinh vướng mắc là có một
bộ phận người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội trước ngày 01 tháng 01
năm 2007 bao gồm cả phụ cấp khu vực nhưng khi nghỉ việc hưởng lương hưu, trợ cấp
bảo hiểm xã hội hàng tháng từ ngày 01 tháng 01 năm 2007 trở đi trong mức lương
hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội không bao gồm phụ cấp khu vực.
Nhằm giải quyết những vướng mắc nêu
trên, trong các năm 2007 và 2008 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp
với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, trình Chính phủ ban hành Nghị định số
122/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 12 năm 2008 quy định về việc thực hiện phụ cấp khu
vực đối với người hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội một lần, trợ cấp mất sức lao
động và trợ cấp tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp hàng tháng. Theo đó, đối với
người đang hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp hàng tháng trước ngày 01 tháng 01 năm 2007, cư trú tại nơi có
phụ cấp khu vực được hưởng phụ cấp khu vực theo mức hiện hưởng (không điều chỉnh
theo mức lương tối thiểu chung) cho đến khi có quy định mới của Chính phủ. Đối
với người lao động nghỉ việc đủ điều kiện hưởng lương hưu hoặc hưởng bảo hiểm
xã hội một lần kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2007 trở đi, mà trước đó đã có thời
gian đóng bảo hiểm xã hội bao gồm phụ cấp khu vực, thì
ngoài hưởng lương hưu hoặc bảo hiểm xã hội một lần theo quy định còn được hưởng
trợ cấp một lần tương ứng với thời gian và số tiền phụ cấp khu vực đã đóng bảo
hiểm xã hội.
Tiếp tục thực hiện nguyên tắc xây dựng
như đã nêu trên, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 và các văn bản hướng dẫn tiếp tục
quy định các nội dung liên quan đến phụ cấp khu vực, được quy định cụ thể tại khoản 2, khoản 3 Điều 123 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 và Điều 21 Nghị định số 115/2015/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2015 của
Chính phủ.
Xin trân trọng cảm ơn ông đã quan
tâm, đóng góp ý kiến nhằm hoàn thiện chính sách, pháp luật của Nhà nước. Kính
chúc ông và gia đình mạnh khỏe./
Nơi nhận:
- Như trên;
- TTgCP, các PTTg;
- Tổng thư ký Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội;
- Các Bộ: LĐTBXH, TC, TP;
- Bảo hiểm xã hội VN;
- VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý TTg, TGĐ Cổng TTĐT, các Vụ: PL, KGVX, QHĐP, TH;
- Lưu: VT, KTTH(3).
|
KT. THỦ TƯỚNG
PHÓ THỦ TƯỚNG
Vương Đình Huệ
|
Công văn 904/TTg-KTTH năm 2018 trả lời thư của ông Nguyễn Hội về chính sách bảo hiểm xã hội do Thủ tướng Chính phủ ban hành
Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh
Công văn 904/TTg-KTTH ngày 16/07/2018 trả lời thư của ông Nguyễn Hội về chính sách bảo hiểm xã hội do Thủ tướng Chính phủ ban hành
2.091
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
info@ThuVienPhapLuat.vn
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng
Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|