VĂN PHÒNG CHÍNH
PHỦ
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 329/TB-VPCP
|
Hà Nội, ngày 30
tháng 8 năm 2018
|
THÔNG BÁO
KẾT
LUẬN CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ NGUYỄN XUÂN PHÚC TẠI CUỘC HỌP BAN CHỈ ĐẠO QUỐC GIA
KHẮC PHỤC HẬU QUẢ BOM MÌN VÀ CHẤT ĐỘC HÓA HỌC SAU CHIẾN TRANH Ở VIỆT NAM (BAN
CHỈ ĐẠO 701)
Ngày 07 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Trưởng Ban Chỉ đạo 701 đã chủ trì cuộc họp lần
thứ nhất Ban Chỉ đạo 701 để nghe báo cáo về công tác khắc phục hậu quả bom mìn
và chất độc hóa học sau chiến tranh ở Việt Nam trong năm 2017 và 6 tháng đầu
năm 2018, thảo luận về chương trình công tác 6 tháng cuối năm 2018 và phương hướng,
nhiệm vụ đến năm 2020. Tham dự cuộc họp có các đồng chí thành viên Ban chỉ đạo
701. Sau khi nghe đồng chí Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc
phòng, Ủy viên Thường trực Ban Chỉ đạo 701 báo cáo và ý kiến của các đại biểu
tham dự cuộc họp, Thủ tướng Chính phủ kết luận như sau:
I. VỀ NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Biểu dương tinh thần trách nhiệm của Cơ quan Thường
trực (Bộ Quốc phòng) đã nỗ lực triển khai nhiều nhiệm vụ công việc chặt chẽ, hệ
thống nhằm thực hiện hiệu quả chủ trương chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Ban
Chỉ đạo. Thủ tướng đánh giá cao sự phối hợp giữa các Bộ và cơ quan liên quan
trong việc tổ chức, kiện toàn Ban Chỉ đạo, đặc biệt là Bộ Tài nguyên và Môi trường
không để công việc gián đoạn; các bộ, ngành, cơ quan liên quan đã triển khai
nhiệm vụ, công việc được phân công bài bản, hệ thống.
Trong năm 2017 và 6 tháng đầu năm 2018, công tác chỉ
đạo khắc phục hậu quả bom mìn và chất độc hóa học tồn lưu sau chiến tranh ở Việt
Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực, hiệu quả, cụ thể là:
1. Về kiện toàn tổ chức và xây dựng chương trình, kế
hoạch hoạt động
- Sau khi được kiện toàn theo Quyết định số 701
ngày 24 tháng 5 năm 2017, Bộ Quốc phòng (Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo) đã tiếp
nhận nhiệm vụ Thường trực Ban Chỉ đạo về giải quyết chất độc hóa học sau chiến
tranh từ Bộ Tài nguyên và Môi trường, ổn định bộ máy tổ chức và kịp thời tham
mưu ban hành các văn bản liên quan đến quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo, thành
lập Cơ quan Thường trực và Văn phòng Cơ quan Thường trực.
- Phối hợp tham mưu trình Ban Bí Thư ban hành Chỉ
thị số 14-CT/TW ngày 19 tháng 7 năm 2017 về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác người có công với cách mạng, trong đó giao nhiệm vụ
nghiên cứu, xây dựng chính sách đối với người bị ảnh hưởng chất độc hóa học thế
hệ thứ 3 của người tham gia kháng chiến bị ảnh hưởng chất độc hóa học.
- Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch thực
hiện Chương trình hành động quốc gia khắc phục hậu quả bom mìn sau chiến tranh
giai đoạn 2016-2020 (Quyết định số 213/QĐ-TTg ngày 21 tháng 4 năm 2017); tổ chức
xây dựng Nghị định quản lý và thực hiện hoạt động khắc phục hậu quả bom mìn.
2. Công tác xử lý bom mìn, chất độc hóa học
- Chỉ đạo tổ chức thực hiện dự án điều tra, lập bản
đồ ô nhiễm bom, mìn, vật nổ trên phạm vi toàn quốc (giai đoạn 1). Tập trung triển
khai khắc phục ô nhiễm bom mìn, vật liệu nổ ở một số khu vực trọng điểm. Chỉ đạo
việc phối hợp với các địa phương bị ô nhiễm bom mìn nặng triển khai khảo sát, lập
các dự án rà phá bom mìn để vận động tài trợ quốc tế.
- Tích cực phối hợp với Cơ quan Phát triển quốc tế
Hoa Kỳ (USAID) tổ chức thực hiện dự án xử lý chất độc dioxin tại sân bay Đà Nẵng.
Đến nay, dự án đã cơ bản được hoàn thành, được bàn giao kịp thời để thực hiện
xây dựng mở rộng sân bay Đà Nẵng phục vụ Hội nghị cấp cao APEC cuối năm 2017, bảo
đảm an toàn cho sức khỏe nhân dân, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của
thành phố Đà Nẵng.
- Tiếp tục tổ chức thực hiện điều tra, thu gom, xử
lý chất độc CS; xây dựng bản đồ số hóa tất cả các điểm phát hiện được tồn lưu,
đã tiến hành xử lý chất độc CS trên địa bàn các tỉnh thuộc các Quân khu 4, 5,
7, 9.
- Phối hợp tổ chức đánh giá hiện trạng ô nhiễm chất
độc dioxin khu vực sân bay Biên Hòa. Tổ chức ký kết văn bản hợp tác và thỏa thuận
viện trợ không hoàn lại với Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) xử lý đất
nhiễm dioxin tại sân bay Biên Hòa.
3. Công tác giải quyết chính sách, hỗ trợ nạn nhân
- Các bộ, ngành, địa phương tiếp tục tổ chức thực
hiện chính sách trợ cấp ưu đãi đối với nhóm đối tượng người hoạt động kháng chiến
bị nhiễm chất độc hóa học; hướng dẫn khám, giám định bệnh, dị dạng, dị tật có
liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học đối với con người hoạt động kháng
chiến và con đẻ của họ.
- Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo tổ chức thực hiện dự án
“Điều tra giải mã các đơn vị lực lượng vũ trang hoạt động trong các vùng bị
quân đội Mỹ phun rải dioxin tại Việt Nam” nhằm đánh giá ảnh hưởng và sức khỏe của
quân nhân đã hoạt động ở vùng bị phun rải chất độc hóa học trong chiến tranh.
- Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã hỗ trợ thí điểm
Mô hình trợ giúp sinh kế nạn nhân bom mìn hòa nhập cộng đồng, triển khai công
tác hỗ trợ nạn nhân bom mìn hòa nhập cộng đồng tại các địa phương.
4. Công tác tuyên truyền, hợp tác quốc tế, vận động
tài trợ
- Tham mưu cho lãnh đạo Đảng, Nhà nước đưa nội dung
hợp tác khắc phục hậu quả bom mìn, chất độc hóa học sau chiến tranh ở Việt Nam
vào tuyên bố chung giữa Việt Nam với Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc, Isarel...
- Triển khai dự án hợp tác Việt Nam - Hàn Quốc khắc
phục hậu quả bom mìn tại tỉnh Quảng Bình và Bình Định. Thực hiện tốt các hoạt động
hưởng ứng Ngày Thế giới phòng chống bom mìn; tuyên truyền, hợp tác quốc tế, vận
động tài trợ, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ phục vụ công tác khắc
phục hậu quả ô nhiễm bom mìn, chất độc hóa học sau chiến tranh.
- Hội Hỗ trợ khắc phục hậu quả bom mìn Việt Nam đã
tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức phòng tránh tai nạn bom mìn sau chiến
tranh; Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam đã tích cực tham gia các hoạt
động chăm sóc, giúp đỡ nạn nhân, đồng thời tham gia tuyên truyền, góp tiếng nói
đấu tranh vì công lý cho nạn nhân chất độc da cam/dioxin ở Việt Nam.
II. VỀ MỘT SỐ TỒN TẠI, HẠN CHẾ
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác khắc phục
hậu quả bom mìn, chất độc hóa học sau chiến tranh vẫn còn những hạn chế, khó
khăn như: chưa làm chủ được công nghệ xử lý chất độc hóa học/dioxin; nguồn lực
đảm bảo cho khắc phục hậu quả bom mìn, chất độc hóa học còn hạn chế; giải quyết
chế độ chính sách, hỗ trợ y tế cho nạn nhân còn gặp khó khăn; công tác phối hợp
thực hiện nhiệm vụ khắc phục hậu quả bom mìn, chất độc hóa học đạt nhiều kết quả
tốt nhưng chưa phát huy hết được vai trò và trách nhiệm của từng bộ, ngành, địa
phương. Yêu cầu các đồng chí thành viên Ban Chỉ đạo trong thời gian tới cần chủ
động phát hiện những tồn tại, bất cập, hạn chế để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ khắc
phục hậu quả bom mìn, chất độc hóa học sau chiến tranh.
III. VỀ NHIỆM VỤ TRONG THỜI GIAN
TỚI
Thứ nhất, Đảng, Nhà nước và Chính phủ luôn xác định
công tác khắc phục hậu quả bom mìn, chất độc hóa học sau chiến tranh là nhiệm vụ
cấp bách, thể hiện tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc của một đất nước bị chiến
tranh nhiều năm, góp phần thực hiện tốt mục tiêu bảo vệ tính mạng, sức khỏe, an
toàn cho nhân dân, làm sạch môi trường, tạo điều kiện cho các địa phương bị ảnh
hưởng bom mìn và chất độc hóa học phát triển kinh tế, xã hội bền vững.
Thứ hai, Ban Chỉ đạo 701 cần tiếp tục nghiên cứu rà
soát, hoàn thiện chế độ, chính sách khắc phục hậu quả bom mìn, chất độc hóa học,
nhất là về hỗ trợ y tế, việc làm cho nạn nhân và người có liên quan. Mục tiêu
là không ngừng chăm lo cuộc sống cho người dân bị ảnh hưởng bom mìn, chất độc
hóa học, đặc biệt chú ý đến thế hệ thứ ba bị ảnh hưởng; chỉ đạo tổ chức rà soát
100 % số người tham gia kháng chiến và con cháu của họ có liên quan đến phơi
nhiễm chất độc hóa học/dioxin để lập hồ sơ xác định nạn nhân được hưởng chính
sách.
Tiếp tục triển khai xây dựng Bản đồ ô nhiễm bom mìn
và chất độc hóa học (dioxin) để khoanh vùng ô nhiễm, từ đó xác định lộ trình,
bước đi phù hợp, từng bước khắc phục các khu vực bị ảnh hưởng.
Chỉ đạo và hỗ trợ các địa phương thực hiện dự án hỗ
trợ nạn nhân bom mìn tái hòa nhập cộng đồng, hỗ trợ phục hồi chức năng cho các
nạn nhân bom mìn; tăng cường năng lực cho địa phương trong công tác trợ giúp nạn
nhân bom mìn; cải thiện cơ sở vật chất, bổ sung trang thiết bị y tế cho tuyến
huyện, xã đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh, phục hồi chức năng cho nạn nhân. Xây
dựng Trung tâm xét nghiệm, hỗ trợ điều trị y tế cho nạn nhân bị nhiễm chất độc
hóa học ở khu vực có số lượng nạn nhân lớn.
Thứ ba, tăng cường hợp tác quốc tế, vận động tài trợ
để thu hút các nguồn nhân lực, trang thiết bị, công nghệ phục vụ cho công tác
khắc phục hậu quả bom, mìn và chất độc hóa học sau chiến tranh ở Việt Nam.
Bộ Tư pháp nghiên cứu cơ sở pháp lý, căn cứ khoa học,
tình hình thực tiễn để tham mưu việc đấu tranh giành quyền lợi và công lý cho
các nạn nhân chất độc hóa học/dioxin bảo đảm chặt chẽ về mặt pháp lý, phù hợp với
luật pháp Việt Nam, thông lệ quốc tế và môi trường đầu tư ở Việt Nam.
Thứ tư, các Bộ, cơ quan và địa phương liên quan cần
tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đã được Thủ tướng Chính phủ giao tại cuộc họp ngày
16/3/2017 về công tác khắc phục hậu quả chất độc hóa học và hậu quả bom mìn sau
chiến tranh (Thông báo kết luận số 164/TB-VPCP ngày 28 tháng 3 năm 2017).
IV. VỀ CÁC ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ CỦA
CƠ QUAN THƯỜNG TRỰC
1. Về Chương trình công tác năm 2018, phương hướng
nhiệm vụ giai đoạn 2018-2010: Giao Bộ Quốc phòng - Cơ quan Thường trực Ban chỉ
đạo tiếp thu đầy đủ ý kiến góp ý của các đồng chí thành viên Ban chỉ đạo, hoàn
chỉnh Chương trình công tác, chú trọng đến chủ trương, biện pháp và định hướng
chính sách trong thời gian tới (bao gồm chính sách xã hội, y tế, hợp tác quốc tế,
một số vấn đề về kỹ thuật, môi trường...) trình Thủ tướng Chính phủ, Trưởng Ban
Chỉ đạo phê duyệt.
2. Về rà soát, bổ sung, hoàn thiện các chương trình
hành động, kế hoạch quốc gia khắc phục hậu quả bom mìn, chất độc hóa học sau
chiến tranh: Giao Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành rà soát
đánh giá và đề xuất sửa đổi/thay thế cho phù hợp tình hình hiện nay; giao Cơ
quan Thường trực Ban Chỉ đạo chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường,
Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức nghiên cứu, nâng cao năng lực đánh giá, làm chủ
công nghệ xử lý bom mìn, chất độc hóa học; hoàn thiện các quy định, quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia về môi trường liên quan đến xử lý triệt để chất độc hóa học/dioxin.
3. Về đề nghị nâng cấp, kiện toàn (không tăng biên
chế) theo hướng đổi tên Trung tâm Công nghệ xử lý môi trường/Bộ Tư lệnh Hóa học
thành Trung tâm Hành động quốc gia xử lý chất độc hóa học và môi trường trực
thuộc Ban Chỉ đạo 701: Giao Bộ Quốc phòng trao đổi, thống nhất với Bộ Nội vụ về
nội dung này trên cơ sở các quy định hiện hành. Trường hợp vượt thẩm quyền báo
cáo Thủ tướng Chính phủ.
4. Đối với việc sửa đổi các chủ trương, chính sách
xác định và giải quyết chính sách, hỗ trợ y tế đối với nạn nhân chất độc da
cam/dioxin; chi trả chế độ cho người tham gia kháng chiến bị phơi nhiễm với chất
độc da cam/dioxin và con đẻ của họ; tăng cường chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức
năng, cung cấp dụng cụ trợ giúp, quản lý sức khỏe đối với nạn nhân chất độc hóa
học, bom mìn: Giao Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ
Y tế rà soát, sửa đổi, bổ sung phù hợp theo chức năng của từng Bộ. Trường hợp vượt
thẩm quyền báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
5. Đối với việc xây dựng và triển khai thực hiện một
số dự án trọng tâm:
a) Về công bố kết quả Dự án xử lý môi trường ô nhiễm
dioxin tại khu vực sân bay Đà Nẵng: Giao Bộ Tài Nguyên và Môi trường chủ trì,
phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Quốc phòng tổ chức đánh giá và công
bố kết quả dự án.
b) Về Dự án hợp tác Việt Nam - Hoa Kỳ xử lý chất độc
dioxin sân bay Biên Hòa với nguồn vốn đối ứng từ ngân sách nhà nước và vốn ODA không
hoàn lại của Hoa Kỳ: Giao Bộ Quốc phòng khẩn trương hoàn chỉnh hồ sơ Dự án
trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên
và Môi trường nghiên cứu đảm bảo nguồn vốn đối ứng cho Dự án.
c) Về Dự án di dân, tái định cư khu vực giáp sân
bay Biên Hòa để bàn giao mặt bằng thực hiện dự án xử lý dioxin: Đồng ý về chủ
trương, giao Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai chủ trì xây dựng dự án theo quy định,
báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
d) Về dự án thử nghiệm công nghệ xử lý chất độc hóa
học/dioxin tại sân bay Biên Hòa: Đồng ý về chủ trương cho phép Bộ Quốc phòng chủ
trì xây dựng và triển khai dự án. Giao Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp
với Bộ Tài nguyên và Môi trường đánh giá công nghệ và khả năng áp dụng công nghệ
tại Việt Nam.
đ) Về việc bổ sung Dự án xây dựng Trung tâm xét
nghiệm, hỗ trợ điều trị y tế cho nạn nhân chất độc da cam/dioxin (dự kiến đặt
trong các bệnh viện quân y) vào kế hoạch trung hạn 2018-2020: Giao Bộ Quốc
phòng chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Y tế, Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội và các cơ quan liên quan tổ chức thực hiện; trước mắt làm
thí điểm tại Bệnh viện Quân y 103.
e) Về dự án xây dựng khu chứng tích chất độc hóa học
sau chiến tranh và hỗ trợ Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xử lý dioxin sau
chiến tranh tại sân bay A So, huyện A Lưới: Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì,
phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài nguyên và Môi trường và Ủy ban
nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế nghiên cứu, đề xuất nguồn vốn để thực hiện.
g) Về Dự án khảo sát kỹ thuật và rà phá bom mìn khắc
phục hậu quả chiến tranh tại 5 tỉnh (Hà Giang, Lào Cai, Cao Bằng, Quảng Nam, Quảng
Trị) bằng nguồn vốn ODA của Chính phủ Hungary: Giao Bộ Quốc phòng phối hợp với
Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm việc cụ thể với phía Hungary; đưa vấn đề này vào nội
dung chuyến thăm Hungary của Tổng Bí thư trong thời gian tới.
h) Về việc thực hiện dự án truyền thông với hãng
Discovery: Đồng ý chủ trương nghiên cứu hợp tác với hãng Discovery về truyền
thông khắc phục hậu quả bom mìn và chất độc hóa học sau chiến tranh ở Việt Nam.
Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo 701 tiếp tục thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ tại văn bản số 12832/VPCP-NC ngày 20 tháng 11 năm 2017 của Văn phòng
Chính phủ; làm rõ mục tiêu truyền thông, kinh phí do hãng Discovery tài trợ (là
chủ yếu), kinh phí đối ứng của phía Việt Nam và kinh phí xã hội hóa, báo cáo Thủ
tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
i) Về đầu tư nâng cao năng lực Trung tâm Nhiệt đới
Việt - Nga và Phòng phân tích dioxin (Bộ Tài nguyên và Môi trường): Giao Bộ Quốc
phòng chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường làm rõ sự cần thiết,
nhu cầu nâng cao năng lực cả về cơ sở vật chất và con người, rà soát nội dung
công việc đề xuất phương án sử dụng ngân sách nhà nước phù hợp với từng nguồn vốn
(vốn nghiên cứu khoa học, vốn sự nghiệp môi trường, vốn đầu tư phát triển) theo
hướng dẫn tại Điểm 6, Điều 1 Quyết định số 651/QĐ-TTg ngày 01
tháng 6 năm 2012.
6. Đối với đề nghị phê duyệt danh mục các dự án khắc
phục hậu quả bom mìn, chất độc hóa học sau chiến tranh để Bộ Quốc phòng, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, Bộ Ngoại giao và các bộ, ngành chức năng kêu gọi tài trợ trong
nước, quốc tế giai đoạn 2018-2020: Đồng ý về nguyên tắc danh mục dự án. Giao Bộ
Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng và các bộ ngành tiếp tục
triển khai vận động nguồn lực để đẩy nhanh công tác khắc phục hậu quả bom mìn
và chất độc hóa học sau chiến tranh.
7. Đối với đề nghị tăng cường hợp tác với các nước,
tổ chức quốc tế để huy động các nguồn lực về vốn, trang thiết bị, công nghệ phục
vụ cho khắc phục bom mìn, chất độc hóa học: Giao Bộ Quốc phòng - Cơ quan Thường
trực Ban Chỉ đạo chủ trì, phối hợp chặt chẽ với Bộ Ngoại giao, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư và các bộ, ngành triển khai thực hiện.
8. Đối với đề xuất tổ chức hội thảo quốc tế tại Hoa
Kỳ để tuyên truyền về nỗ lực của Việt Nam và sự hợp tác với các nước về khắc phục
hậu quả chiến tranh và các hội thảo về công bố kết quả Dự án xử lý dioxin tại
sân bay Đà Nẵng về hạn chế phơi nhiễm, chẩn đoán và điều trị khắc phục hậu quả
nhiễm chất độc da cam dioxin: Đồng ý về chủ trương. Giao Bộ Quốc phòng chủ trì,
phối hợp với Bộ Ngoại giao đề xuất, báo cáo cụ thể phương án tổ chức hai Hội thảo
quốc tế tại Liên hợp quốc và Washington DC và xây dựng kế hoạch, tổ chức Hội thảo
công bố kết quả Dự án xử lý dioxin tại sân bay Đà Nẵng, Hội thảo tại Học viện
Quân y về hạn chế phơi nhiễm, chẩn đoán và điều trị khắc phục hậu quả nhiễm chất
độc da cam dioxin.
Văn phòng Chính phủ thông báo để các Bộ, cơ quan
liên quan và các thành viên Ban Chỉ đạo 701 biết, thực hiện./.
Nơi nhận:
- Thủ tướng, các PTTg Chính phủ (để
b/c);
- Các thành viên BCĐ 701;
- Các Bộ: QP, CA, TNMT, LĐTBXH, NV, NG, KHĐT, TC, VHTTDL, KHCN, TP, TTTT, Y tế;
- UBND thành phố Đà Nẵng;
- UBND tỉnh Đồng Nai;
- UBND tỉnh Thừa Thiên Huế;
- VP CQTT BCĐ 701 (Bộ Quốc phòng);
- VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý TTg, các Vụ: KGVX, QHQT, KTTH, TCCV, TH;
- Lưu: VT, NC(3). Kh
|
BỘ TRƯỞNG, CHỦ
NHIỆM
Mai Tiến Dũng
|