|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Quyết định 482/QĐ-UBND-HC 2022 Ngân hàng tên đường và công trình công cộng Đồng Tháp
Số hiệu:
|
482/QĐ-UBND-HC
|
|
Loại văn bản:
|
Quyết định
|
Nơi ban hành:
|
Tỉnh Đồng Tháp
|
|
Người ký:
|
Đoàn Tấn Bửu
|
Ngày ban hành:
|
11/05/2022
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
Ngày công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Số công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG THÁP
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 482/QĐ-UBND-HC
|
Đồng Tháp, ngày
11 tháng 5 năm 2022
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN HÀNH NGÂN HÀNG TÊN ĐƯỜNG VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH ĐỒNG THÁP
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
Căn cứ Luật Tổ chức chính
quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22 tháng
11 năm 2019;
Căn cứ Nghị định số
91/2005/NĐ-CP , ngày 11/7/2005 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế đặt tên, đổi
tên đường, phố và công trình công cộng;
Căn cứ Thông tư số
36/2006/TT-BVHTT , ngày 20/3/2006 của Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch) về việc hướng dẫn thực hiện một số điều của Quy chế đặt
tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng ban hành kèm theo Nghị định số
91/2005/NĐ-CP , ngày 11/7/2005 của Chính phủ;
Căn cứ Quyết định số
27/2015/QĐ-UBND ngày 12 tháng 3 năm 2015 của Ủy ban nhân dân Tỉnh ban hành Quy
chế đặt tên, đổi tên đường và công trình công cộng tại các đô thị trên địa bàn
tỉnh Đồng Tháp;
Căn cứ Quyết định số
116/QĐ-UBND.TL ngày 13 tháng 7 năm 2021 của Ủy ban nhân dân Tỉnh về việc thành
lập Hội đồng tư vấn đặt tên, đổi tên đường và công trình công cộng trên địa bàn
tỉnh Đồng Tháp (sau đây gọi tắt là Hội đồng tư vấn);
Theo đề nghị của Giám đốc Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch tại Tờ trình số 1223/TTr-SVHTTDL ngày 28 tháng 4
năm 2022.
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1.
Phê duyệt và ban hành kèm theo Quyết định này Ngân
hàng tên đường và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp (có danh
mục kèm theo), với nội dung chính như sau:
Tổng số: 408 tên, bao gồm:
- Danh mục tên nhân vật lịch sử
của đất nước: 154 tên;
- Danh mục tên nhân vật lịch sử
gắn liền với tỉnh Đồng Tháp: 177 tên;
- Danh mục tên danh từ, địa
danh, phong trào đấu tranh, sự kiện lịch sử - văn hóa tiêu biểu của đất nước và
Quốc hiệu nước ta qua các thời kỳ lịch sử: 51 tên;
- Danh mục tên địa danh, di
tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu tỉnh Đồng Tháp: 26 tên.
Điều 2.
Tổ chức thực hiện
1. Sở Văn hóa, Thể thao
và Du lịch chủ trì, phối hợp với các Sở, ban, ngành liên quan và UBND các huyện,
thành phố:
- Tổ chức tuyên truyền, phổ biến
về giá trị, ý nghĩa của Ngân hàng tên đường và công trình công cộng trên địa
bàn Tỉnh.
- Hướng dẫn việc sử dụng Ngân
hàng tên theo các quy định hiện hành; định kỳ hàng năm (kể từ năm 2022) tổ chức
nghiên cứu, lựa chọn tên để bổ sung vào Ngân hàng tên đường và công trình công
cộng trên địa bàn Tỉnh.
Việc lựa chọn tên để đưa vào
Ngân hàng tên phải đảm bảo các tiêu chí theo quy định tại Điều 10 Nghị định
91/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ.
2. Các Sở, Ban, ngành, tổ
chức chính trị - xã hội, đơn vị và UBND các huyện, thành phố được giao nhiệm vụ
quản lý các đường và công trình công cộng có trách nhiệm nghiên cứu, lựa chọn dữ
liệu trong Ngân hàng tên đường và công trình công cộng đã được phê duyệt để tiến
hành đặt tên, đổi tên theo trình tự, thủ tục quy định.
Điều 3.
Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.
Điều 4.
Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh; Giám đốc Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch; Chủ tịch Hội đồng tư vấn đặt tên, đổi tên đường và
công trình công cộng Tỉnh; Thủ trưởng các Sở, ban, ngành Tỉnh; Chủ tịch Ủy ban
nhân dân các huyện, thành phố; Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị có liên quan chịu
trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
Nơi nhận:
- Như Điều 4;
- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;
- TT/TU, TT/HĐND Tỉnh;
- Chủ tịch, các PCT/UBND Tỉnh;
- Các sở, ngành, tổ chức CT-XH Tỉnh;
- UBND các huyện, thành phố;
- Báo ĐT, Đài PTTH ĐT, Cổng TTĐT Tỉnh;
- Lãnh đạo VP/UBND Tỉnh;
- Lưu: VT, THVX. (VD).
|
TM. ỦY BAN NHÂN
DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Đoàn Tấn Bửu
|
NGÂN HÀNG TÊN ĐƯỜNG VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
ĐỒNG THÁP
(Ban
hành kèm theo Quyết định số 482/QĐ-UBND-HC ngày 11/5/2022 của UBND tỉnh Đồng
Tháp)
A. CĂN CỨ
PHÁP LÝ, NGUYÊN TẮC PHÂN LOẠI VÀ NHÓM TÊN
1. Căn cứ xây dựng Ngân hàng
tên đường và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
- Căn cứ Nghị định số
91/2005/NĐ-CP , ngày 11/7/2005 của Chính phủ ban hành Quy chế đặt tên, đổi tên
đường, phố và công trình công cộng;
- Căn cứ Thông tư số 36/2006/TT-BVHTT ,
ngày 20/3/2006 của Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch)
về việc hướng dẫn thực hiện một số điều của Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố
và công trình công cộng ban hành kèm theo Nghị định số 91/2005/NĐ-CP , ngày
11/7/2005 của Chính phủ;
- Căn cứ Quyết định số
27/2015/QĐ-UBND ngày 12 tháng 3 năm 2015 của Ủy ban nhân dân Tỉnh ban hành Quy
chế đặt tên, đổi tên đường và công trình công cộng tại các đô thị trên địa bàn
tỉnh Đồng Tháp;
- Căn cứ Quyết định số
116/QĐ-UBND.TL ngày 13 tháng 7 năm 2021 của Ủy ban nhân dân Tỉnh về việc thành
lập Hội đồng tư vấn đặt tên, đổi tên đường và công trình công cộng trên địa bàn
tỉnh Đồng Tháp;
- Căn cứ Kế hoạch số
2126/KH-HĐTV ngày 14 tháng 09 năm 2021 của Hội đồng tư vấn vấn đặt tên, đổi tên
đường và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp về việc Xây dựng Ngân
hàng tên đường và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp năm 2021;
2. Nguyên tắc phân loại
- Xếp theo loại tên.
- Xếp theo thứ tự A, B, C.
3. Nhóm tên
- Danh mục tên nhân vật lịch sử
của đất nước: 154 tên;
- Danh mục tên nhân vật lịch sử
gắn liền với tỉnh Đồng Tháp: 177 tên;
- Danh mục tên danh từ, địa
danh, phong trào đấu tranh, sự kiện lịch sử - văn hóa tiêu biểu của đất nước và
Quốc hiệu nước ta qua các thời kỳ lịch sử: 51 tên;
- Danh mục tên địa danh, di
tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu tỉnh Đồng Tháp: 26 tên.
B. DANH MỤC
TÊN ĐƯỜNG VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
I. NHÂN VẬT
LỊCH SỬ CỦA ĐẤT NƯỚC (154 tên )
Stt
|
Tên nhân vật lịch sử
|
Tóm tắt thân thế, sự nghiệp
|
Tên dự kiến đặt
|
Nguồn trích dẫn
|
1
|
CHU VĂN AN
|
Chu Văn An (1292-1370): Người
thầy giáo tiêu biểu, nổi tiếng. Ông tự Linh Triệt, hiệu là Tiều Ẩn, quê xã Thanh
Liệt, Thanh Trì (Hà Nội). Thời trẻ, ông học giỏi, tính tình thẳng thắn, không
màng công danh, ở nhà dạy học. Ông là người thầy giỏi, nhưng nghiêm khắc, trọng
tài năng của học trò. Vua Trần Minh Tông nghe tiếng đã mời ông ra làm Tư nghiệp
(thời Trần là hiệu trưởng) Quốc Tử Giám và dạy Thái tử học. Thời Trần Dụ Tông
chính sự suy đồi, nịnh thần lũng đoạn, làm nhiều điều sai trái, ông dâng sở
xin chém 7 nịnh thần (Thất trảm sớ), vua không nghe. Ông ben treo ấn, từ quan
về sống núi ở Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương) cho tới khi mất. Chu Văn An
là người thầy chủ trương thực học, để lại cho đời các tập thơ: “Tiều ẩn thi tập”,
“Quốc ngữ thi tập”, bộ “Tứ thư thuyết ước”…Vua Trần đã ra lệnh thờ ông ở Văn
Miếu.
|
CHU VĂN AN
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005. Tr. 11
|
2
|
LÊ VĂN AN
|
Lê Văn An (?-1437): Danh tướng
của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ông người làng Mục Sơn (Thọ Xuân, Thanh Hóa)
tham dự hội thề Lũng Nhai. Từng chỉ huy đánh trên trăm trận lớn nhỏ, đánh vào
Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa. Năm 1427, ông được cử cùng Lê Lý đem quân hỗ trợ
Lê Sát ở Chi Lăng - Xương Giang. Ngày toàn thắng ông được phong công thần,
Đình Thượng hầu, chức Nhập nội Tư mã. Năm 1432, ông lại được thăng Đại tư
không, năm 1434 được cử làm Tư mã Bắc đạo, khi mất, được truy tặng chức Tư
không, thụy là Trung Hiến.
|
LÊ VĂN AN
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005. Tr. 12
|
3
|
ĐÀO DUY ANH
|
Đào Duy Anh (1904-1988): Quê
Khúc Thuỷ, Hà Đông, Hà Nội. Năm 1927, tham gia Đảng Tân Việt. Ông cùng với cụ
Huỳnh Thúc Kháng ra báo “Tiếng dân”, tờ báo tiếng Việt đầu tiên của Trung Kì.
Năm 1928 có sự cộng tác của Phan Đăng Lưu, ông thành lập “Quan Hải tùng thư”
truyền bá những tri thức khoa học xã hội và những tư tưởng tiên tiến của thời
đại. Sau Cách mạng tháng 8/1945, ông là Ủy viên Ban chấp hành Hội văn hóa cứu
quốc Trung bộ, Giáo sư Đại học Văn khoa tại Hà Nội năm 1946. Chủ nhiệm khoa sử
trường Đại học Sư phạm và Đại học Tổng hợp Hà Nội. Trong những năm từ
1960-1970, Đào Duy Anh dịch, hiệu đính, chú giải nhiều bộ sách lớn về văn
hóa, lịch sử như: “Lịch triều hiến chương loại chí”, “Đại Việt sử
ký toàn thư”, “Phủ biên tạp lục”. Năm 1974, ông cho ra mắt “Từ điển
Truyện Kiều”, cuốn từ điển tác phẩm đầu tiên ở Việt Nam. Giáo sư Đào Duy Anh
còn có công lớn trong việc đào tạo cán bộ sử học.
|
ĐÀO DUY ANH
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005. Tr. 13
|
4
|
HOÀNG TĂNG BÍ
|
Hoàng Tăng Bí (1883 - 1939): Quê
Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội. Ông đỗ Phó Bảng, không ra làm quan, tham gia mở
trường Đông Kinh Nghĩa Thục tuyên truyền yêu nước. Lập công ty Đông Thành
Xương ở Hàng Gai cạnh tranh với Hoa kiều. Sau vụ Hà Thành đầu độc, ông bị bắt
rồi đưa đi an trí ở Huế. Ông còn viết báo Trung Bắc tân văn, dịch một số tiểu
thuyết của Pháp và Trung Quốc. Tác phẩm chính là 03 vở tuồng:Thù chồng nợ
nước, Nghĩa nặng tình sâu, Hoa tiên ký.
|
HOÀNG TĂNG BÍ
|
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia https://baotanglichsu.vn/vi/
Articles/3098/69568/pho -bang-hoang-tang-bi- 1883-1939-nha-yeu-nuoc-
nhiet-thanh-vi-tuc-nho- uyen-tham.html
|
5
|
BÙI HUY BÍCH
|
Bùi Huy Bích (1744-1802): Tự
là Hi Chương, Ảm Chương, hiệu là Tồn Am. Ông quê ở Định Công, Hà Nội. Ông đỗ
Hoàng giáp năm 1769, làm Đốc đồng Nghệ An, rồi thăng lên Hành tham tụng cuối
thời Lê Hiển Tông. Tây Sơn ra Bắc, họ Trịnh sụp đổ. Lê Chiêu Thống, Quang
Trung, Gia Long đều mời ông ra làm quan, nhưng ông từ chối ở ẩn tại quê nhà
cho đến lúc mất. Bùi Huy Bích để lại nhiều thơ văn và công trình sưu tập quý
giá. Tác phẩm có: Bích câu thi tập, Nghệ An thi tập, Lữ Trung tạp thuyết,
Hoàng Việt thi tuyển, Hoàng Việt văn tuyển.
|
BÙI HUY BÍCH
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005. Tr. 29
|
6
|
NGUYỄN QUANG BÍCH
|
Nguyễn Quang Bích (1832 -
1890), quê quán: làng Trình Phố, huyện Trực Định, phủ Kiến Xương, Nam Định
(nay thuộc Tiền Hải, Thái Bình). Năm 1861, ông đỗ Cử nhân, bổ giáo thọ phủ
Trường Khánh, Ninh Bình. 1869, ông đỗ Hoàng Giáp bổ các chức vụ: Án Sát Tây
Sơn, Tế tửu Quốc Tử Giám, Án Sát Bình Định, Chánh sứ Sơn Phòng kiêm Tuần phủ
Hưng Hóa. Năm 1884, ông anh dũng chỉ huy giữ thành Hưng Hóa, khi thành bị mất,
ông rút lên vùng Tây Bắc lập căn cứ chống Pháp lâu dài, không chịu theo lệnh
bãi binh của triều đình nhà Huế. Năm 1885, hưởng ứng Phong trào Cần Vương,
ông tham gia lãnh đạo phong trào kháng chiến ở Bắc Kỳ. Năm 1890, ông bị bệnh
mất, hưởng thọ 58 tuổi.
|
NGUYỄN QUANG BÍCH
|
Từ điển Thái Bình; Tỉnh ủy Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Thái
Bình. Nxb văn hóa thông tin, 2010 Tr.649
|
7
|
NGUYỄN BÍNH
|
Nguyễn Bính (1918-1966), tên
đầy đủ là Nguyễn Bính Thuyết, quê xã Đồng Đội (nay là xã Cộng Hòa, huyện Vụ Bản,
tỉnh Nam Định), làm thơ từ nhỏ và trở nên quen biết trong phong trào Thơ mới.
Ông sớm nổi tiếng với những tập thơ: Lỡ bước sang ngang, Tâm hồn tôi, Hương cố
nhân. Thơ Nguyễn Bính có một vị trí đặc biệt trong văn đàn thơ ca dân tộc.
Ông chủ yếu khai thác chất liệu trong đời sống nông thôn truyền thống xưa, tiếp
thu vốn văn học dân gian (ca dao) và những nhân vật bình dị của quê hương đồng
nội. Tập thơ “Gửi người vợ Miền Nam -1955”, “Đồng Tháp mười - 1955”, “Đêm sao
sang - 1962”, có ý nghĩa phục vụ công cuộc đấu tranh thống nhất, phục vụ
chính trị. Ông mất tại Nam Định năm 1966.
|
NGUYỄN BÍNH
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005. Tr. 35
|
8
|
LÝ BÔN
|
Lý Bôn (503-548) hay còn gọi
Lý Bí - Người sáng lập nhà nước Vạn Xuân. Quê ở thôn Cổ Pháp, xã Yên Phong, huyện
Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Lý Bí là người có tài văn võ lại có chí lớn. Năm
542, Lý Bí lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa chống lại sự đô hộ của nhà Lương.
Ngĩa quân kéo về thủ phủ Giao Châu là Long Biên, Thứ sử Tiêu Tư run sợ, bỏ
thành chạy về Trung Quốc. Đầu năm 544, Lý Bí tự xưng là Lý Nam Đế lên ngôi
vua, đặt niên hiệu là Thiên Đức, đặt tên nước là Vạn Xuân. Năm 545, nhà Lương
sai Trần Bá Tiên, Dương Phiêu cầm quân đánh Vạn Xuân. Trước thế giặc mạnh,
ông đành bỏ kinh thành chay lên miền Gia Ninh (Bạch Hạc - Phú Thọ), sau đó
rút quân vào vùng đất của người Tày ở Tây Xương. Sau đó bị thua, ông đành rút
quân chạy vào vùng động Khuất Lão (Tam Nông). Bị ốm nặng, ông giao binh quyền
cho Triệu Quang Phục, ít lâu sau ông mất.
|
LÝ BÍ, LÝ NAM ĐỀ
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 28
|
9
|
TẠ QUANG BỬU
|
Tạ Quang Bửu (1910-1986): Nhà
toán học, nhà hoạt động khoa học và giáo dục, quê xã Nam Hoành, huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An. Du học ở Tây Âu, ông từng học nhiều trường lớn như: Trường
Điện cao cấp của Pháp, Đại học Oxford (Anh), có bằng toán học cao cấp của
Pháp. Trước cách mạng tháng Tám, ông dạy học tư ở Trường Thiên Hựu và làm việc
ở nhà máy đèn Huế. Sau cách mạng và trong thời gian kháng chiến chống Pháp,
ông phụ trách nhiều nhiệm vụ quan trọng về ngoại giao và quốc phòng (Thứ trưởng,
rồi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng), thành viên trong phái đoàn Chính phủ nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa tại hội nghị Fontainebleau (1946); hội nghị Genève
(1954). Hiệu trưởng Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội (1954-1965).Ông còn là đại
biểu Quốc hội liên tục từ khoá I đến khoá VI, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Bảo
vệ hoà bình thế giới của Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt -Xô. Năm
1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.
|
TẠ QUANG BỬU
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005. Tr. 39
|
10
|
LƯƠNG VĂN CAN
|
Lương Văn Can (1854-1927):
Ông quê ở làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội. Năm 1879 ông mở trường dạy
học tại số 4 phố Hàng Đào, Hà Nội. Vì đỗ cử nhân, ông thường được gọi là “cụ
Cử Can”. Ông là một trong những người sáng lập Đông Kinh nghĩa thục và làm Thục
trưởng. Từ trường Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội, phong trào Đông Kinh nghĩa
thục lan đi rất nhanh và sâu rộng tới các tỉnh như: Hà Đông, Hải Dương, Hưng
Yên, Quảng Nam... làm thực dân Pháp lo sợ. Tháng 12 năm 1907, Đông Kinh nghĩa
thục bị giải tán, sau đó ít lâu nhân vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội, thực dân
Pháp bắt ông về Sở Liêm phóng để khai thác những tin tức về vụ đầu độc nhưng
do không có chứng cớ kết tội nên phải thả. Năm 1913, sau vụ đánh bom khách sạn
Hà Nội (23/4) của Việt Nam quang phục hội, thực dân Pháp cho là nhóm Đông
Kinh nghĩa thục cầm đầu, chúng đã bắt giam ông, đầy ra Côn Đảo, sau đó ông mới
bị kết án biệt xứ và phải đi đày ở Campuchia 10 năm. Năm 1924, ông được tha về
và mất tại Hà Nội năm 1927.
|
LƯƠNG VĂN CAN
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005. Trang 42
|
11
|
ĐỘI CẤN
|
Đội Cấn (1881-1918), tên thật
là Trịnh Văn Cấn hay Trịnh Văn Đạt, quê làng Yên Nhiên, phủ Vĩnh Tường, (nay
thuộc xã Vũ Di, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc), phục vụ trong đội lính khố xanh của
Pháp, chức đội trưởng, nên thường gọi là Đội Cấn. Đội Cấn là người chịu ảnh
hưởng và khâm phục tinh thần yêu nước chống Pháp của nghĩa quân Đề Thám. Ông
cùng Lương Ngọc Quyến một chí sĩ yêu nước đang bị giam tại nhà tù ở Thái
Nguyên lãnh đạo binh lính người Việt làm cuộc binh biến chống Pháp; cuộc khởi
nghĩa Thái Nguyên đã nổ ra đêm ngày 31/8/1917, nhưng nghĩa quân chỉ giữ được
tỉnh lị 7 ngày, sau phải rút quân vì Pháp từ Hà Nội kéo lên đánh mạnh. Cuộc
khởi nghĩa bị thực dân Pháp đàn áp dã man; cuối cùng trong trận đánh tại Pháo
Sơn, ông bị thương nặng, không muốn sa vào tay giặc nên ông tự sát vào ngày
01/1/1918.
|
ĐỘI CẤN
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Trang 53
|
12
|
HUY CẬN
|
Huy Cận (1919-2005): Nhà thơ Việt
Nam, nguyên chủ tịch Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam. Quê ở Ân Phú,
huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Thành viên Ủy ban dân tộc giải phóng được bầu tại
Quốc dân đại hội Tân Trào (1945). Sau cách mạng tháng Tám giữ nhiều chức vụ
như Bộ trưởng Bộ canh nông, Bộ trưởng phụ trách văn hóa nghệ thuật, tham gia
nhiều hoạt động văn hóa quốc tế. Ông là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất
của phong trào thơ mới với tập thơ “Lửa thiêng”. Sau cách mạng tháng Tám thơ
Huy Cận viết về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh giải phóng dân
tộc như: “Trời mỗi ngày lại sáng”, “Đất nở hoa”, “Chiến trường gần chiến trường
xa”, ... Hơn nửa thế kỷ sáng tác Huy Cận với tư cách là nhà thơ tiêu biểu đã
có nhiều đóng góp cho thơ hiện đại Việt Nam.
|
HUY CẬN
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 1, trang 623
|
13
|
NAM CAO
|
Nam Cao (1915-1951): Ông
chính tên là Trần Hữu Trí, quê làng Đại Hoàng (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý
Nhân, tỉnh Hà Nam). Năm 1943, Nam Cao tham gia hội Văn hóa cứu quốc, năm
1946, theo đoàn quân Năm tiến vào Nam Trung Bộ. Năm 1950 ông tham gia chiến dịch
Biên Giới và hi sinh vào tháng 11/1951. Tác phẩm của ông xuất hiện từ năm
1936, nhưng ông nổi tiếng với truyện ngắn Chí Phèo (1941), tiếp đó là các
truyện ngắn có giá trị: Đời thừa, Nước mắt, Trăng sáng..., đặc biệt truyện
dài Sống mòn (1944). Sau cách mạng tháng Tám, Nam Cao có một số tác phẩm có
giá trị: Nhật ký ở rừng, Chuyện biên giới, đặc biệt là truyện ngắn Đôi mắt.
Ông được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1996.
|
NAM CAO
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005. Tr. 336
|
14
|
VĂN CAO
|
Văn Cao (1923-1995): Tên thật
là Nguyễn Văn Cao, quê gốc ở huyện Vụ Bản, Nam Định, nhưng sinh ra và lớn lên
ở Hải Phòng. Trong các lĩnh vực nhạc, thơ văn, họa ông đều có những đóng góp
lớn. Riêng về nhạc, bài Tiến quân ca là một bản hùng ca cách mạng nổi tiếng
đã trở thành Quốc ca nước ta. Những bài hát trữ tình nổi tiếng của ông sáng
tác trước năm 1944: Buồn tàn thu, Thiên thu, Bến xuân, Suối mơ, Cung đàn xưa.
Sau khi giác ngộ cách mạng và tham gia hoạt động phong trào yêu nước và trong
kháng chiến chống Pháp ông sáng tác nhiều ca khúc phục vụ cách mạng như: Tiến
quân ca, Chiến sỹ Việt Nam, Trường ca sông Lô, Ngày mùa, Tiến về Hà Nội, Mùa
xuân đầu tiên... Ông được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1996.
|
VĂN CAO
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005. Tr. 587
|
15
|
TRẦN QUÝ CÁP
|
Trần Quý Cáp (1870-?): Quê xã
Bất Nhị, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, đỗ Tiến sĩ năm 1904. Sớm có tinh thần
yêu nước, chịu ảnh hưởng của tư tưởng Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Trần Quý
Cáp cực lực bài xích lối học khoa cử, đề xuất lối học mới tiến bộ. Năm 1905,
ông cùng với Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng lên đường vào Nam hô hào vận động
công cuộc duy tân. Năm 1906, ông được bổ làm giáo thụ ở phủ Thăng Bình, ông
biến nơi này thành trung tâm truyền bá tư tưởng duy tân. Năm 1908, công cuộc
chống thuế ở Quảng Nam bùng nổ, làm chấn động lòng người; phần lớn thân sĩ
trong tỉnh tham gia đều bị bắt. Thực dân Pháp đẩy mạnh khủng bố. Ông bị bắt
và bị khép vào tội mưu phản, lãnh án bị chém ngang lưng tại bãi sông Cạn, gần
phủ Diên Khánh (Khánh Hòa).
|
TRẦN QUÝ CÁP
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 48
|
16
|
NGUYỄN HỮU CẦU
|
Nguyễn Hữu Cầu (?-1751): Thủ
lĩnh tiêu biểu của phong trào nông dân Đàng Ngoài. Ông quê ở xã Lôi Động (còn
gọi là Đồng Nổi), huyện Thanh Hà, trấn Hải Dương (Nam Thanh, Hải Dương); xuất
thân trong gia đình nông dân nghèo, có sức khỏe, giỏi võ. Giữa năm 1739 ông
gia nhập nghĩa quân Nguyễn Tuyển, sau cuộc khởi nghĩa Nguyễn Tuyển thất bại,
ông tiếp tục hoạt động và chuyển căn cứ về Đồ Sơn (Hải Phòng). Tại Đồ Sơn ông
làm lễ tế cờ, lấy danh nghĩa là Bảo dân đại tướng quân (vị tướng bảo vệ nhân
dân) tự xưng là Ninh Đông vương, dân gian gọi là quận He. Cuối năm 1742,
nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu mở rộng khắp Hải Dương, Yên Quảng đi đến đâu cũng
phát của cải, lương thực cho dân nghèo, hàng vạn người đã theo nghĩa quân. Giữa
năm 1744 quân triều đình do Hoàng Ngũ Phúc, Phạm Đình Trọng chỉ huy đánh vào
Đồ Sơn; nghĩa quân lại chuyển sang Kinh Bắc (Bắc Ninh, Bắc Giang), đóng đại bản
doanh tại Xương Giang (Bắc Giang). Tháng 9/1745 quân triều đình do Hoàng Ngũ
Phúc, Phạm Đình Trọng chỉ huy đánh vào Xương Giang, Nguyễn Hữu Cầu chuyển về
Hải Dương, sau đó vào Sơn Nam. Cuối năm 1750 Hoàng Ngũ phúc tiến đánh Sơn
Nam, Nguyễn Hữu Cầu chạy vào Nghệ An, đầu năm 1751 bị quân của Phạm Đình Trọng
bắt tại Hoàng Mai, rồi bị đưa ra Thăng Long chịu án tử hình. Nguyễn Hữu Cầu
là hình ảnh tiêu biểu cho ý chí chống áp bức bóc lột của nông dân Đàng Ngoài
thế kỷ XVIII.
|
NGUYỄN HỮU CẦU
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005. Tr.54
|
17
|
LÊ CHÂN
|
LÊ CHÂN (20 - 43): Bà là nữ
tướng dưới thời Hai Bà Trưng, có nhiều chiến công hiển hách. Bà được coi là
người có công khai khẩn lập nên vùng đất mà đời sau phát triển thành thành phố
Hải Phòng ngày nay. Theo thần tích đền Nghè, cha Lê Chân là Lê Đạo và mẹ bà
là Trần Thị Châu. Bà là người có nhan sắc, giỏi võ nghệ lại có tài thơ phú
nên tiếng đồn đến tai thái thú nhà Hán là Tô Định. Tô Định toan lấy bà làm
thiếp nhưng bị cha mẹ bà cự tuyệt, theo truyền thuyết, chính vì thế họ đã bị
sát hại. Lê Chân phải bỏ quê theo đường sông xuôi xuống phía Nam, đến vùng An
Dương, cửa sông Cấm, thấy địa hình, đất đai thuận lợi bà dừng lại lập trại
khai phá. Cùng với thân quyến và người làng mà bà cho đón ra, Lê Chân phát
triển nghề trồng dâu, nuôi tằm và đánh bắt thủy hải sản tạo nên một vùng đất
trù phú. Nhớ cội nguồn, bà đặt tên vùng này là An Biên trang. Cùng với phát
triển sản xuất, bà chiêu mộ trai tráng để luyện binh và được sự ủng hộ của
nhân dân quanh vùng. Binh sĩ của Lê Chân được huấn luyện chu đáo và có sở trường
về thủy trận. Năm 40, khi Hai Bà Trưng dấy binh, bà đem theo binh lính gia nhập
quân khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Trong các trận đánh, bà thường được cử làm
nữ tướng quân tiên phong, lập nhiều chiến công. Sau khi thu phục 65 thành, Tô
Định phải lui về nước, Bà được Trưng Vương phong là Thánh Chân công chúa, giữ
chức chưởng quản binh quyền nội bộ, đứng ra tổ chức, luyện tập quân sĩ, tăng
gia sản xuất. Năm 43, Mã Viện lại đưa quân sang xâm lược, quân Hai Bà Trưng
chống cự không nổi, hai Bà trầm mình xuống sông Đáy tự vẫn. Lê Chân trầm mình
theo Hai Bà Trưng tự vẫn.
|
LÊ CHÂN
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005. Tr. 58
|
18
|
TRẦN KHÁT CHÂN
|
TRẦN KHÁT CHÂN (1370 - 1399):
Ông thuộc dòng dõi Bảo Nghĩa Vương (Trần Bình Trọng). Năm 1389, quân Chiêm
Thành đánh Thăng Long, Vua Trần Thánh Tông sai ông đem quân đi chặn giặc, ông
giết được Vua Chiêm Chế Bồng Nga và được phong Long Tiệp Bổng thần Nội vệ Thượng
tướng. Sau khi cướp ngôi nhà Trần, Hồ Quý Ly giết ông cùng 370 tôn thất nhà
Trần khi ông 29 tuổi.
|
TRẦN KHÁT CHÂN
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005. Tr. 60
|
19
|
LÊ CHẤT
|
LÊ CHẤT (1769 - 1826): Ông là
danh tướng của triều Tây Sơn sau đó theo nhà Nguyễn làm quan. Lúc đầu, ông
theo Tây Sơn lập được nhiều chiến công, được phong tới chức Đô Đốc. Sau khi
Quang Trung mất triều Tây Sơn suy yếu rồi, ông theo Nguyễn Ánh được phong làm
Tả đồn Đô thống chế, cùng với một số đại thần trông coi việc xây dựng kinh
thành Huế. Năm 1810, Ông làm Hiệp tổng trấn Bắc Thành, năm 1818 làm Tổng trấn
Bắc Thành. Ông mất năm 1826 thọ 57 tuổi, được truy tặng Thiếu phó, thụy hiệu
là Trung Nghị.
|
LÊ CHẤT
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005. Tr.
|
20
|
PHAN BỘI CHÂU
|
Phan Bội Châu (1867-1940):
Tên thật là Phan Văn San, hiệu Sào Nam. Quê làng Đan Nhiễm (nay là xã Xuân
Hoà), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Lúc nhỏ nổi tiếng thông minh, 8 tuổi đã
thông thạo các loại văn cử tử, 13 tuổi đi thi ở huyện, đỗ đầu; 16 tuổi đỗ đầu
xứ. Năm 17 tuổi đã viết hịch “Bình Tây thu Bắc”, năm 19 tuổi, tổ chức một đội
“Thí sinh quân” 60 người để hưởng ứng Chiếu Cần vương chống Pháp. Năm 1904,
thành lập Hội Duy tân chủ trương đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt
Nam. Từ 1905-1909, ông lãnh đạo phong trào Đông du, tổ chức gần 200 thanh
niên yêu nước xuất dương sang Nhật Bản học tập. Tháng 3/1909, tổ chức Đông du
bị giải tán, Phan Bội Châu bị trục xuất khỏi Nhật Bản. Ông về Trung Quốc rồi
sang Thái Lan để tính kế lâu dài. Sau khi Cách mạng Tân Hợi (1911) thành
công, ông trở lại Trung Quốc lập ra Việt Nam Quang phục Hội với tôn chỉ duy
nhất “đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập Cộng hoà Dân quốc
Việt Nam”. Hội cử người về nước hoạt động, tiến hành một số vụ bạo động vũ
trang có tiếng vang, nhưng kẻ thù thẳng tay đàn áp. Phan Bội Châu bị giới
quân phiệt Trung Quốc bắt giam. Năm 1917, ra tù, tìm hiểu Cách mạng tháng Mười
Nga, viết báo ca ngợi Lênin. Giữa 1924, phỏng theo Quốc dân Đảng của Tôn
Trung Sơn, ông định cải tổ Việt Nam Quang phục Hội thành Việt Nam Quốc dân Đảng.
Ngày 30/6/1925, bị thực dân Pháp bắt cóc tại Thượng Hải giải về nước, xử án tử
hình. Trước phong trào đấu tranh của nhân dân cả nước đòi thả Phan Bội Châu,
thực dân Pháp buộc phải đưa ông về an trí ở Bến Ngự (Huế) cho đến khi mất vào
năm 1940
|
PHAN BỘI CHÂU
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 63
|
21
|
MẠC ĐĨNH CHI
|
Mạc Đĩnh Chi (1272-1346):
Danh thần nhà Trần, tự là Tiết Phu, người làng Lũng Động, huyện Nam Sách (Hải
Dương). Từ nhỏ đã nổi tiếng học giỏi. Năm 1304 ông đỗ Trạng nguyên khoa thi
Thái học sinh. Năm 1308, ông được cử đi sứ nhà Nguyên (Trung Quốc), nhờ thông
minh, hiểu biết sâu rộng và tài đối đáp của mình, ông được các đại thần và
vua Nguyên khâm phục. Tuy làm quan đến chức Nhập nội hành khiển, Hữu ti lang
trung, ông vẫn luôn là vị quan nghiêm túc, liêm khiết. Vua Trần rất quý trọng.
Cuối đời ông được thăng Tả bộc xạ thuộc hàng ngũ đại thần.
|
MẠC ĐĨNH CHI
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005. Tr. 66
|
22
|
NGUYỄN CHÍCH
|
LÊ CHÍCH (1382-1448): Năm
Nguyễn Chích 25 tuổi, nước Đại Ngu của nhà Hồ mất do cuộc xâm lược của nhà
Minh. Ông nuôi chí đánh đuổi người Minh để cứu nước. Năm 1418, Lê Lợi khởi
nghĩa ở Lam Sơn (Thọ Xuân, Thanh Hoá). Nghe tin thanh thế của Nguyễn Chích,
Lê Lợi sai người mang thư đến mời ông về cùng tham gia quân Lam Sơn. Nguyễn
Chích đồng ý theo Lê Lợi, nhưng thời gian đầu ông vẫn ở căn cứ Hoàng Nghiêu.
Từ Hoàng Nghiêu, ông mang quân ra đánh Lương Nhữ Hốt ở đồn Cổ Vô, được Lê Lợi
phong chức Vinh lộc đại phu Lân hổ vệ tướng quân. Sau đó Lê Lợi lại phong ông
làm Đô đốc đạo phủ quản tổng đô đốc quân dân, tước Quan nội hầu. Cuối năm
1420, ông mang toàn bộ lực lượng gia nhập với Lê Lợi - lúc đó đóng mở Mường
Nanh. Ông được Lê Lợi phong làm Thiết đột hữu vệ Đồng tổng đốc chủ quân sự. Từ
năm 1421 đến 1423, ông tham gia nhiều trận đánh với quân Lam Sơn như trận Ba
Lẫm (12/1421) và trận Sách Khôi (2/1422) đánh bại 10 vạn quân Minh của Trần
Trí. Ông được Lê Lợi thăng lên chức thiếu uý Cuối năm 1427, viện binh của Liễu
Thăng và Mộc Thạnh lại sang cứu Vương Thông. Nguyễn Chích cùng Phạm Văn Xảo,
Trịnh Khả, Lê Khuyển lên trấn ải Lê Hoa để chặn Mộc Thạnh. Nghe tin đạo quân
Liễu Thăng bị tiêu diệt, Mộc Thạnh rút quân về nước. Quân Lam Sơn đuổi theo
truy kích một trận nữa. Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi, lập ra
nhà Hậu Lê. Năm 1429, Nguyễn Chích được phong tước Đình thượng hầu, ban cho họ
Lê của vua. Từ đó ông được gọi là Lê Chích. Thời gian đầu, Lê Chích được tham
gia triều chính nhưng sau đó ông bị Lê Lợi cách chức. Năm 1433, Lê Thái Tổ mất,
con là Lê Thái Tông lên thay. Lê Chích được phục chức làm Đồng tổng quản châu
Hoá, trấn thủ Thát Ải. Quân Chiêm Thành hai lần cướp phá, ông đều chặn đánh
tan, giữ yên biên giới phía nam. Sau đó, Lê Chích còn lập công trong 2 lần đi
đánh Chiêm Thành, được phong tước Đình hầu. Ông mất tháng chạp năm 1448, thọ
67 tuổi
|
NGUYỄN CHÍCH
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005. Tr. 69
|
23
|
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
|
Nguyễn Đình Chiểu
(1822-1888): Sinh ra và lớn lên tại làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia
Định (thuộc Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay) trong một gia đình nhà nho nghèo.
Đỗ tú tài năm 1843, sau đó ra Huế chờ thi hương được tin mẹ mất đã về nhà chịu
tang, trên đường về bị mù. Từ đó, ông mở trường dạy học, học trò rất đông.
Nhiều lần, bọn cai trị Pháp tìm cách mua chuộc nhưng đều thất bại trước tinh
thần bất khuất của một trí thức chân chính. Nguyễn Đình Chiểu là một chiến sỹ
yêu nước dũng cảm, là một ngôi sao sáng nhất trong nền văn học ở miền Nam nửa
sau thế kỷ XIX. Ông đã sáng tác được nhiều thơ, văn tế, hịch... góp phần to lớn
trong việc cổ vũ, động viên nhân dân chiến đấu chống giặc. Ông đã để lại nhiều
tác phẩm có giá trị: Lục Vân Tiên, Dương Từ Hà Mậu, Chạy giặc, Văn tế nghĩa
sĩ Cần Giuộc, Ngư tiều y thuật vấn đáp…Ông mất ngày 3/7/1888.
|
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 71
|
24
|
PHAN HUY CHÚ
|
Phan Huy Chú (1782-1840): Nhà
bác học, nhà thơ, hiệu là Mai Phong. Sinh ra và lớn lên ở xã Thụy Khuê (làng
Thầy), huyện Quốc Oai, Hà Nội. Là con của Phan Huy Ích, một nhà nho có tiếng
đậu tiến sĩ đời nhà Hậu Lê và từng làm quan cho nhà Tây Sơn. Năm Tân Tỵ
(1821), vua Minh Mạng biết tiếng Phan Huy Chú, cho triệu ông vào kinh đô Huế
làm Biên tu ở Viện Hàn lâm, rồi làm Phủ thừa, phủ Thừa Thiên, sau thăng lên
làm Hiệp Trấn Quảng Nam... Sau đó, vì chán chốn quan trường, ông cáo bệnh xin
về quê dạy học và viết sách. Cống hiến chủ yếu và rất to lớn của Phan Huy Chú
là một công trình biên khảo lớn, một tập bách khoa toàn thư đương thời: bộ Lịch
triều hiến chương loại chí, đây là công trình có một dung lượng lớn, một kho
tài liệu sử học về nhiều mặt, rất phong phú, chính xác và được phân loại hệ
thống; là công trình nghiên cứu tiêu biểu đánh dấu thành tựu khoa học của nước
ta đầu thế kỷ XIX.
|
PHAN HUY CHÚ
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 77
|
25
|
ÂU CƠ
|
Âu Cơ: Nhân vật thần thoại thời
Hồng Bàng, Theo truyền thuyết xưa, Âu Cơ thuộc giống tiên, lấy Lạc Long Quân,
đẻ ra một bọc có trăm trứng, nở ra 100 người con, 50 người con theo cha xuống
biển, 50 người con theo mẹ lên núi. Người con trưởng được tôn làm Hùng Vương
thứ nhất. Do đó người Việt sau này thường coi mình là “Con Rồng cháu Tiên”,
“con Hồng cháu Lạc”.
|
ÂU CƠ
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 1. Tr 99
|
26
|
ĐẶNG TRẦN CÔN
|
ĐẶNG TRẦN CÔN (191? - 1947),
Quê: làng Nhân Mục (còn gọi làng Mọc), huyện Thanh Trì, nay thuộc phường Nhân
Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông là người thông minh, hiếu học, là ông là
tác giả của bản “Chinh phụ ngâm” kiệt tác văn học viết bằng chữ Hán của Việt
Nam. Chinh phụ ngâm ra đời đã gây một tiếng vang lớn trong giới nho sĩ
đương thời. Tác phẩm viết bằng chữ Hán giữa thời đại văn học chữ Nôm đang nở
rộ cho nên nhiều người đã tìm cách dịch nó ra chữ Nôm. Trong số có những bản
dịch đó, có một bản dịch thành công nhất được gọi là Bài hiện hành.
Ngoài Chinh phụ ngâm, Đặng Trần Côn có một số bài thơ, bài phú tả cảnh
thiên nhiên, chỉ còn lưu lại một số bài như Tiêu tương bát cảnh, ba
bài phú Trương Hàn tư thuần lô, Trương Lương bố ý, Khấu môn thanh.
Khuynh hướng chung của thơ văn ông là đi sâu vào tình cảm, đi sâu vào nỗi
lòng trắc ẩn,phức tạp, sâu kín của con người, nhất là đối với người phụ nữ.
Giống như những tác giả thơ văn ở thời này, ông cũng có những đóng góp lớn
cho nền văn học thơ ca Việt Nam
|
ĐẶNG TRẦN CÔN
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005. Tr.
|
27
|
VÕ CHÍ CÔNG
|
Võ Chí Công (1913-2000): Tên
thật Võ Toàn, nhà hoạt động của Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam. Quê ở xã
Tam Xuân, huyện Tam Kỳ (nay là huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam). Sớm giác ngộ
và tham gia hoạt động cách mạng (1930- 1934). Ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông
Dương năm 1935. Bí thư lâm thời Ban chấp hành tỉnh đảng bộ Quảng Nam (1940),
Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam (1952), Phó Bí thư Khu uỷ khu 5 (1955-1960), Phó bí
thư Trung ương cục Miền Nam, Bí thư, Chỉnh ủy quân khu V (1960-1975). Bộ trưởng
Bộ Hải sản, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch
Hội đồng Nhà nước. Huân chương Sao Vàng.
|
VÕ CHÍ CÔNG
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 4, Tr. 909
|
28
|
LƯƠNG ĐỊNH CỦA
|
Lương Định Của (1920-1975):
Quê ở xã Đại Ngãi, huyện Long Phú, Sóc Trăng, tốt nghiệp ngành nông nghiệp
trường Đại học Tổng hợp ở Nhật Bản. Tốt nghiệp loại giỏi, ông được giữ lại
trường và làm việc tại phòng thí nghiệm về di truyền, đã bảo vệ xuất sắc luận
án Tiến sĩ nông học. Ít lâu sau ông được phong giáo sư. Sau năm 1954, bắt
liên lạc được với tổ chức cách mạng trong nước, ông đưa vợ là người Nhật và 2
con nhỏ về miền Nam Việt Nam, rồi ra vùng chiến khu và tập kết ra Bắc. Lần lượt
làm việc ở Viện khảo cứu nông lâm, Trường Đại học nông nghiệp, Viện cây lương
thực và cây thực phẩm. Cả cuộc đời ông cống hiến cho sự nghiệp lai tạo các loại
giống cây trồng, đặt nền móng cho nền khoa học nông nghiệp Việt Nam, được
phong Anh hùng lao động. Ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh
năm 1996.
|
LƯƠNG ĐỊNH CỦA
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh.
|
29
|
HỒ ĐẮC DI
|
Hồ Đắc Di (1900-1984): Giáo
sư Hồ Đắc Di, Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình trân anh thế phiệt ở
Huế. Năm 1918, sang Pháp du học. Ông tốt nghiệp bác sĩ, năm 1931, ông về nước,
sau đó ra giảng dạy ở trường Y, vừa làm bác sĩ phẫu thuật thường trú tại bệnh
viện Phủ Doãn (bệnh viện Việt Đức nay). Ông là người Việt Nam đầu tiên được bổ
nhiệm giáo sư đại học thời thuộc Pháp. Sau Cách mạng tháng Tám Chủ tịch Hồ
Chí Minh giao cho ông nhiều trách nhiệm quan trọng như: Tổng Thanh tra Y tế;
Tổng Giám đốc Đại học vụ; Giám đốc Bệnh viện Đồn Thủy, Giám đốc trường Đại học
Y - Dược ở chiến khu Việt Bắc...Sau ngày giải phóng thủ đô ông còn viết nhiều
luận văn về y học dưới ánh sáng chủ nghĩa duy vật biện chứng. Ông được truy tặng
Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1996.
|
HỒ ĐẮC DI
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 92
|
30
|
TÔ VĨNH DIỆN
|
Tô Vĩnh Diện (1924-1954): Quê
ở xã Nông Trường, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Cách mạng tháng Tám (1945)
thành công, anh tham gia dân quân ở địa phương, năm 1949 xung phong vào bộ đội.
Anh nổi tiếng với giai thoại “Thà hy sinh, quyết bảo vệ pháo”, lấy thân mình
chèn vào bánh xe pháo, giữ được pháo không bị rới xuống vực trong Chiến dịch
Điện Biên Phủ. Anh được Quốc hội, Chính phủ truy tặng Huân chương chiến công
hạng Nhất, Huân chương quân công hạnh Hai, danh hiệu Anh hùng lược lượng vũ
trang nhân dân.
|
TÔ VĨNH DIỆN
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005. Tr. 94
|
31
|
HOÀNG DIỆU
|
Hoàng Diệu (1829-1882): Tự
Quang Viễn, hiệu Tĩnh Trai, quê làng Xuân Đài, huyện Điện Bàn, Quảng Nam. Năm
20 tuổi, ông đỗ Cử nhân (1848), khi 26 tuổi ông đỗ Phó bảng (1853), sau một
thời gian làm quan ở các địa phương Trung Kỳ, Bắc Kỳ. Năm 1873, ông được triệu
về Kinh đô Huế giữ chức Tham tri Bộ Hình, rồi Bộ Lại kiêm Đô sát viện. Năm
1880, ông được bổ nhiệm là Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội, Ninh Bình), thay Nguyễn
Tri Phương đã tuẫn tiết với thành Hà Nội từ 1873. Ông nổi tiếng là người
cương trực và là một trong những người tích cực chủ chiến. Ông đã lãnh đạo
nhân dân Hà Nội chiến đấu chống lại quân Pháp. Ngày 25/4/1882, thành Hà Nội
thất thủ, Hoàng Diệu thắt cổ tự tử, để lại di biểu.
|
HOÀNG DIỆU
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 96
|
32
|
TRẦN QUANG DIỆU
|
Trần Quang Diệu (?-1802): Danh
tướng và trọng thần triều Tây Sơn (vợ là Bùi Thị Xuân). Ông đã tham gia nhiều
trận đánh lớn, đặc biệt là trận đại phá quân Thanh xuân Kỉ Dậu. Năm 1789, ông
được vua Quang Trung cử làm đô đốc trấn Nghệ An. Năm 1790 -1791, ông chỉ huy
đánh dẹp các lực lực chống đối của nhà Lê cũ. Thời Quang Toản, ông là chủ tướng
quan trọng nhất trong việc chống lại thế lực của Nguyễn Ánh, bảo vệ phần đất
phía Nam. Năm 1802, ông dẫn tượng binh ra Nghệ An để lo chống giữ, nhưng chẳng
may bị bắt tại Thanh Chương. Nguyễn Ánh tìm cách chiêu dụ, nhưng ông không chịu
khuất phục, nên bị Nguyễn Ánh giết.
|
TRẦN QUANG DIỆU
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 97
|
33
|
XUÂN DIỆU
|
Xuân Diệu (1916-1985): Tức
Ngô Xuân Diệu, quê làng Trảo Nha, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh; sinh ở làng Tùng Giản,
huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Năm 1944, tham gia phong trào Việt Minh, sau
Cách mạng tháng Tám hoạt động tích cực trong Hội Văn hóa Cứu quốc, Thư ký tạp
chí Tiền phong của Hội. Đại biểu quốc hội khóa I..., năm 1983 được bầu là Viện
sĩ Thông tấn Viện Hàn lâm Nghệ thuật Cộng hòa Dân chủ Đức; là nhà thơ, nhà
văn hóa, nhà lý luận, phê bình văn học Việt Nam nổi tiếng. Xuân Diệu được xem
là cây bút tiêu biểu cho thơ ca hiện đại Việt Nam, nhà bình luận văn học xuất
sắc. Ông đã xuất bản hàng chục tác phẩm thơ, thơ dịch, nghiên cứu, phê bình
văn học…Ông được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1996.
|
XUÂN DIỆU
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 602
|
34
|
NGUYỄN DU
|
Nguyễn Du (1766-1820): Đại
thi hào dân tộc, tên tự là Tố Như, hiệu Thanh Hiên. Quê ở làng Tiên Điền, huyện
Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, xuất thân trong một gia đình quý tộc lớn. Thân sinh
của ông là Tiến sĩ Nguyễn Nghiễm làm Tể tướng thời Lê - Trịnh. Ông xuất thân
là quý tộc nhưng lớn lên trong bối cảnh biến động lớn của đất nước; gia đình,
anh em ly tán, bản thân long đong nay đây mai đó. Ông đã trực tiếp trông thấy
những cảnh đau khổ của nhân dân, cảnh suy tàn của triều đình Lê - Trịnh, những
chiến công vĩ đại của Quang Trung và sự phục hồi của triều Nguyễn Gia Long.
Những cống hiến vĩ đại nhất là những văn phẩm thể hiện tâm huyết, tài năng của
ông lưu lại cho nhân dân, đất nước. Các văn phẩm chữ hán có: Thanh hiên thi tập,
Nam Trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục; chữ Nôm có Truyền Kiều là tác phẩm bất
hủ, vĩ đại.
|
NGUYỄN DU
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Trang 100
|
35
|
KHÚC THỪA DỤ
|
Khúc Thừa Dụ (?-907): Người mở
đầu thời đại tự chủ của dân tộc. Ông là người Hồng Châu (Cúc Bồ, Ninh Giang,
Hải Dương). Cuối thế kỷ IX, nhân cơ hội chính quyền đô hộ nhà Đường ở nước ta
suy yếu, Khúc Thừa Dụ đã tổ chức cuộc khởi nghĩa, lật đổ chính quyền đô hộ,
làm chủ đất nước. Năm 906, nhà Đường buộc phải phong cho ông làm Tiết độ sứ,
Đồng bình chương sự. Đây chỉ là danh nghĩa, còn thực tế Khúc Thừa Dụ đã kết
thúc cơ bản ách thống trị hơn một nghìn năm của phong kiến phương Bắc. Tháng
7/907, ông mất.
|
KHÚC THỪA DỤ
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 102
|
36
|
TRẦN KHÁNH DƯ
|
Trần Khánh Dư (?-1340): Danh
tướng thời Trần. Ông thuộc dòng dõi họ Trần, con của thượng tướng Trần Phó Duyệt.
Trần Thánh Tông nhận ông làm con nuôi, do có việc trái ý, ông bị vua Trần
cách chức, tịch thu hết tài sản đuổi về quê ở Chí Linh, Hải Dương. Năm 1282
trước nguy cơ xâm lược của nhà Nguyên, vua Trần đã lên vùng quê ông, gọi ông
về họp ở Bình Than (Hải Dương), bàn việc chống giặc. Ông góp công lớn trong
cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông của nhà nước Đại Việt. Ngày toàn thắng
ông được phong Phiêu kị thượng tướng quân, trải thờ ba đời vua, khi mất được
truy phong Đại vương.
|
TRẦN KHÁNH DƯ
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005. Tr. 112
|
37
|
LÊ DUẨN
|
Lê Duẩn (1907-1986): Ông sinh
ngày 7/4/1907, tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng
Trị trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Năm 1930, ông là một trong
những đảng viên đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1931, ông bị thực
dân Pháp bắt tại Hải Phòng, bị kết án 20 năm tù cầm cố và lần lượt bị giam ở
các nhà lao Hà Nội, Sơn La, Côn Đảo. Từ 1946 - 1957, ông từng giữ các chức vụ:
Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ, rồi Bí Thư trung ương cục miền Nam,ông đã lãnh đạo đảng
bộ miền Nam tổ chức kháng chiến và tiến hành cải cách ruộng đất trong vùng giải
phóng. Sau hiệp định Giơnevơ, ông ở lại lãnh đạo phong trào cách mạng, năm
1956, ông dự thảo Đề cương cách mạng miền Nam. Tại Đại hội Đảng lần thứ IV
(1976), lần thứ V (1982), ông được bầu vào Ban chấp hành Trung ương và Bộ
chính trị, giữ chức Tổng Bí thư. Do những cống hiến to lớn, ông được Quốc hội
và Chính phủ tặng thưởng Huân chương Sao Vàng.
|
LÊ DUẨN
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 102.
|
38
|
TRẦN NHẬT DUẬT
|
Trần Nhật Duật (1255-1330), một
danh tướng đời Trần, là con trai thứ sáu của vua Trần Thái Tông. Ông là người
học rộng biết nhiều, thông hiểu tiếng nói và am hiểu phong tục của nhiều dân
tộc trong và ngoài nước. Ông là một nhà chính trị, quân sự Đại Việt thời Trần.
Ông là người có công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ
hai và thứ ba, đặc biệt là chiến thắng Hàm Tử. Đời sau bàn về chiến công bình
Nguyên, ông đứng hàng đầu. Ông làm quan trải bốn triều vua, ba lần coi giữ trấn
lớn, luôn để tiếng ở đời làm việc giỏi, ngay thẳng, nhẵn nhặn, độ lượng khoan
dung.
|
TRẦN NHẬT DUẬT
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 104
|
39
|
ĐẶNG DUNG
|
Đặng Dung (?-1414): Danh tướng
nghĩa quân Trần Quý Khoáng. Quê Thiên Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh. Ông là con trai
của Quốc công Đặng Tất. Quân Minh xâm lược nước ta ông theo cha tham gia cuộc
khởi nghĩa của Trần Ngỗi. Năm 1409 ông cùng Nguyễn Cảnh Dị đánh chiếm Hạ Hồng,
Chí Linh (Hải Dương). Quân Minh rơi vào thế bị động, phải đóng cửa thành cố
thủ và cho người về nước xin cứu viện. Nhà Minh sai tướng Trương Phụ đem 10 vạn
quân sang. Nhiều trận đánh quyết liệt diễn ra. Đầu năm 1414 ông bị giặc bắt ở
Sán Bồ Cán (thượng lưu Sông Gianh). Trên đường bị giải về Trung Quốc ông đã
nhảy xuống sông tự vẫn, để lại bài thơ “Cảm hoài” nổi tiếng với lòng thiết
tha về đất nước.
|
ĐẶNG DUNG
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 106
|
40
|
TẢN ĐÀ
|
Tản Đà (1890-1939): Tên thật
là Nguyễn Khắc Hiếu, nhà thơ Việt Nam. Quê huyện Bất Nạt, tỉnh Sơn Tây (nay là
huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội). Sau khi hỏng khoa thi cuối cùng ông bắt đầu cộng
tác với tờ Đông Dương tạp chí viết sách, mở thư điếm, thư cục, chủ trương tờ
An Nam tạp chí. Tản Đà chủ yếu là một nhà thơ và là nhà thơ lãng mạn nổi danh
nhất trong thập kỷ 20, 30, thế kỷ XX. Thơ Tả Đà nói lên đầy đủ tâm tư, tình cảm
của người đương thời ở vào buổi phong trào cứu nước của sĩ phu thất bại, thực
dân Pháp ra sức củng cố nền đô hộ. Ông đã để lại nhiều tác phẩm như: “Khối
tình con” I, II (1916), “Thề non nước” (1932), “Tản Đà văn tập” (1932),
“Vương Thúy Kiều chú giải” (1940)...
|
TẢN ĐÀ
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 4, Tr. 50
|
41
|
BẾ VĂN ĐÀN
|
Bế Văn Đàn (1931-1954): Quê ở
xã Quang Vinh, huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng. Bố mất sớm. Lớn lên muốn vào bộ
đội đánh giặc, anh phải trốn mẹ ra đi (1949). Anh đã tham gia hầu hết các chiến
dịch lớn trong kháng chiến chống Pháp. Năm 1954 trên đường đi chiến dịch đơn
vị anh nhận lệnh cấp tốc lên Lai Châu, chặn địch đang chuẩn bị rút về Điện
Biên Phủ, đại đội của anh đã kịp thời tiêu diệt địch ở Mường Pồn. Một khẩu
trung liên của đơn vị không bắn tới được địch vì tầm súng quá thấp, Bế Văn
Đàn không ngần ngại chạy lại cầm 2 chân khẩu trung liên đặt lên vai mình giục
đồng đội bắn chặn giặc và hy sinh. Anh được Quốc hội và Chính phủ truy tặng
danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
|
BẾ VĂN ĐÀN
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 120
|
42
|
NGUYỄN THỊ ĐỊNH
|
Nguyễn Thị Định (1920-1992):
Quê ở tỉnh Bến Tre, tham gia cách mạng từ nhỏ. Năm 1938 được kết nạp vào Đảng
Cộng sản Việt Nam. Năm 1960 là Bí thư tỉnh ủy Bến Tre, Phó tư lệnh các lực lượng
vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam 1965-1975). Năm 1974, Bà được phong
quân hàm Thiếu tướng; là ủy viên Trung ương Đảng từ năm 1976. Phó chủ tịch Hội
đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ 1987. Năm 1995, bà
được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.
|
NGUYỄN THỊ ĐỊNH
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005. Tr. 133
|
43
|
TRƯƠNG ĐỊNH
|
Trương Định (1820-1864): Lãnh
tụ khởi nghĩa chống Pháp thời Nguyễn. Thuở nhỏ ở tại quê nhà Quảng Ngãi. Lớn
lên theo gia đình vào lập nghiệp ở Tân An. Vì có nhiều công chiêu mộ dân khai
hoang lập ấp, nên được triều đình cử làm Phó Quản cơ đồn điền (Quản Định).
Năm 1859, giặc Pháp đánh vào Gia Định, Trương Định đã đưa đội quân gồm những
nông dân đồn điền ra trận. Năm 1861, ông đóng đại đồn ở Tân Hòa, Gò Công.
Thanh thế và lược lượng nghĩa quân rất mạnh, làm giặc pháp nhiều phen khốn đốn.
Tháng 2/1863, địch tổng công kích đại bản doanh Trương Định ở Gò Công, nghĩa
quân yếu thế phải rút về Phước Lộc để tiếp tục chống giặc. Ngày 20/8/1864,
tên việt gian Huỳnh Công Tấn bí mật đưa quân địch vào vây bắt ông ở làng Tân
Phước. Sau một trận chiến đấu anh dũng, ông bị trọng thương, không để rơi vào
tay giặc, ông đã rút gươm tự sát.
|
TRƯƠNG ĐỊNH
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 134
|
44
|
KIM ĐỒNG
|
Kim Đồng (1928-1943): Tên thật
Nông Văn Dền, quê ở Nà Mạ, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, là
người dân tộc Nùng. Tham gia hoạt động cách mạng từ tuổi 13. Vào Hội Cứu quốc
của Việt Minh để đánh Tây, đuổi Nhật. Sau một chuyến đưa thư đến Pác Bó, khi
trở về thì trới sắp sáng đã bị địch phục kích. Kim Đồng đã hi sinh để bảo vệ
một cuộc họp của các cán bộ lãnh đạo. Kim Đồng hi sinh khi mới 15 tuổi. Ở Nà
Mạ có dựng tượng đài kỷ niệm Kim Đồng. Anh được tổng bộ Việt Minh tặng bằng
có công với nước.
|
KIM ĐỒNG
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 141
|
45
|
PHẠM VĂN ĐỒNG
|
Phạm Văn Đồng (1906-2000): Bí
danh Tô. Quê ở xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Ông tham gia phong
trào học sinh bãi khóa để tang cụ Phan Châu Trinh (1925). Năm 1926, ông sang
Quảng Châu dự lớp huấn luyện cách mạng do Nguyễn Ái Quốc tổ chức và gia nhập
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Đến năm 1929, ông được cử vào Kì bộ Thanh
niên Nam Kì, rồi vào Tổng bộ Hội Việt Nam Thanh niên. Bị bắt, tháng 7/1936 đuợc
trả tự do. Sau Cách mạng tháng Tám, ông lần lượt giữ các chức vụ: Bộ trưởng Bộ
Tài chính, là Trưởng phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị
Fontainebleau (Pháp). Đặc phái viên của Trung ương Đảng và Chính phủ tại Nam
Trung Bộ, Phó Thủ tướng (1949), trưởng phái đoàn Chính phủ dự Hội nghị Genève
về Đông Dương. Thủ tướng chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (1955-
1976), Thủ tướng nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1976-1987). Ông được
tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều Huân chương khác của Liên Xô, Lào,
Campuchia, Cuba. Ông là người học trò gần gũi, xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, một lãnh đạo có uy tín của Đảng và Nhà nước ta, nhà văn hóa lỗi lạc, có
nhiều đóng góp trên các lĩnh vực chính trị, đối ngoại, giáo dục, lí luận.
|
PHẠM VĂN ĐỒNG
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 141
|
46
|
VÕ NGUYÊN GIÁP
|
Võ Nguyên Giáp (1911-2013):
Nhà hoạt động nổi tiếng của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam, nhà chỉ huy
và lý luận quân sự xuất sắc của Việt Nam. Quê ở xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh
Quảng Bình. Ông hoạt động cách mạng từ sớm: tham gia lãnh đạo phong trào học
sinh ở Huế (1925) và tham gia Tân Việt Cách mạng Đảng.Năm 1930, ông bị thực
dân Pháp bắt, đưa về quê quản thúc. Sau đó ra Hà Nội, ông tham gia hoạt động
trong phong trào Mặt trận Dân chủ; tham gia sáng lập báo “Lao động”, “Tiếng
nói chúng ta”; biên tập báo “Tin tức”, “Dân chúng”. Ông là Chủ tịch Ủy ban
Báo chí Bắc Kì trong phong trào Đông Dương đại hội.Năm 1940, ông gia nhập Đảng
Cộng sản Đông Dương. Năm 1941, ông gây dựng cơ sở cách mạng, tổ chức Việt
Minh ở Cao Bằng; tổ chức Ban xung phong Nam tiến (1942). Ngày 22/12/1944, ông
được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giao tổ chức Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng
quân; chỉ huy đội đánh thắng hai trận đầu ở Phai Khắt (25/12/1944) và Nà Ngần
(26/12/1944).Tháng 8/1945, ông là Ủy viên Ủy ban Quân sự Cách mạng Bắc kỳ; Tư
lệnh Việt Nam Giải phóng quân; Ủy viên Ban Chỉ huy Lâm thời khu giải phóng Việt
Bắc; tham gia Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc; Ủy viên Ủy ban Dân tộc Giải phóng
Việt Nam.Năm 1946, ông là Phó Trưởng đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
đàm phán với Pháp tại Hội nghị trù bị Đà Lạt.Ông còn là Ủy viên Ban Chấp hành
Trung ương Đảng các khóa II - VI; Ủy viên Bộ Chính trị các khóa II - IV; Bí
thư Tổng Quân ủy, sau này là Quân ủy Trung ương. Từ năm 1946 - 1947, ông là Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng. Năm 1948 - 1975, ông là Đại tướng, Tổng chỉ huy Quân đội
Quốc gia và Dân quân Việt Nam; Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trong
kháng chiến chống Pháp, ông trực tiếp chỉ huy các chiến dịch lớn, đặc biệt là
Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954). Trong kháng chiến chống Mỹ, ông chỉ đạo nhiều
chiến dịch lớn, đặc biệt là Chiến dịch Hồ Chí Minh (1975).Từ năm 1955 - 1980:
ông là Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng (1981 - 1991); đại biểu Quốc hội các khóa I - VII. Ông được trao tặng:
Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh.
|
VÕ NGUYÊN GIÁP
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 4, Tr. 911
|
47
|
PHAN ĐÌNH GIÓT
|
Phan Đình Giót (1922-1954):
Quê làng Vĩnh Yên, Cẩm Quan, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, xuất thân trong một
gia đình nghèo, bố mất sớm, năm 13 tuổi ông phải đi ở và sống cảnh cực nhọc,
vất vả. Sau Cách mạng tháng Tám, anh tham gia tự vệ chiến đấu. Đến năm 1950,
anh xung phong đi bộ đội chủ lực. Trong chiến đấu, anh luôn nêu cao tinh thần
quả cảm, kiên quyết vượt mọi khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Trong
chiến dịch Điện Biên Phủ, anh lấy thân mình bịt kín lỗ châu mai địch, hỏa điểm
của địch bị dập tắt, tạo thời cơ cho đơn vị tiến lên tiêu diệt gọn cứ điểm
Him Lam. Anh được Quốc hội và Chính phủ tăng Huân chương Quân công hạng hai
và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.
|
PHAN ĐÌNH GIÓT
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 156
|
48
|
TRẦN NGUYÊN HÃN
|
Trần Nguyên Hãn (?-1428):
Danh tướng cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Quê ở xã Sơn Động, huyện Lập Thạch (nay thuộc
tỉnh Vĩnh Phúc), làm quan lộ Tam Giang dưới thời nhà Hồ. Khi giặc Minh xâm lược
ông lập căn cứ khởi nghĩa ở quê, sau tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, lập
nhiều công lớn, thu phục vùng Tân Bình, Thuận Hóa; bao vây thành Đông Quan,
tham gia đánh thắng trận Xương Giang, bắt sống tướng giặc Hoàng Thúc, Thôi Tụ.
Năm 1428 được thăng Tả tướng quốc, sau bị nghi oan và bị giết. Năm thứ 2 đời
Lê Nhân Tông, nhà vua xuống chiếu ân xá, trả lại ruộng đất cho gia đình ông.
Thời Mạc ông được truy phong Trung liệt đại vương.
|
TRẦN NGUYÊN HÃN
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 166
|
49
|
QUỐC SƯ VẠN HẠNH
|
Quốc sư Vạn Hạnh (938-1018):
Nhà sư nổi tiếng thời tiền Lê. Quê ở châu Cổ Pháp (Từ Sơn, Bắc Ninh). Thuở nhỏ
thông minh, chăm học, nổi tiếng giỏi cả 3 đạo Nho, Phật, Lão. Năm 21 tuổi xuất
gia đầu phật, tu ở chùa Lục Tổ, rất được mọi người hâm mộ. Năm 981, quân Tống
xâm lược nước ta, ông đã từng đóng góp nhiều ý kiến về việc chống giặc. Vua
Lê Hoàn rất quý mến. Năm 1009, Lê Long Đĩnh chết, Lý Công Uẩn lên ngôi. Nhà
Lý thành lập, ông được phong Quốc sư. Khi ông mất, vua Lý đích thân đến chùa
làm lễ siêu độ.
|
SƯ VẠN HẠNH
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 586
|
50
|
TỪ ĐẠO HẠNH
|
Từ Đạo Hạnh (?-1116): Nhà sư
nổi tiếng thời Lý. Quê ở Láng, huyện Từ Liêm, Hà Nội, tên là Lộ, con của quan
Đô sát Từ Vinh. Truyền rằng cha ông bị nhà sư Đại Diên ám hại, ông bèn bỏ học,
cùng các nhà sư sang Thiên Trúc (Ấn Độ) học đạo, khi thành tài ông trở về nước
trả thù cho cha, rồi đi tu ở chùa Thiên Phúc (chùa Thầy). Truyền rằng năm
1116 ông mất, hồn đầu thai làm con Sùng Hiền hầu, sau này trở thành vua Lý Thần
Tông, ông được xem là vị tổ của nghệ thuật hát chèo, múa rối nước.
|
TỪ ĐẠO HẠNH
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 168
|
51
|
NGUYỄN HIỀN
|
Nguyễn Hiền (1235-1255): Nhà
hoạt động chính trị thời Trần. Quê làng Dương A, huyện Thượng Nguyên (Mỹ Lộc,
Nam Định), là trạng nguyên nhỏ tuổi nhất trong lịch sử khoa thi của nước ta
(đỗ Trạng nguyên năm 12 tuổi). Khi nghe Nguyễn Hiền kể ông chỉ tự học, chỗ
nào không hiểu thì hỏi sư thầy, vua cho là thiếu lễ phép, bèn bảo ông về quê
học lễ mấy năm, rồi sẽ ra làm quan. Sau này, Nguyễn Hiền vào triều làm quan
thăng đến chức Thượng thư Bộ Công, tước kim tử Vinh lộc đại phu. Ông mất sớm,
mọi người đều thương tiếc. Vua cho dân làng lập đền thờ ông và đổi tên huyện
quê ông thành Thượng Hiền.
|
NGUYỄN HIỀN
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 173
|
52
|
TÔ HIỆU
|
Tô Hiệu (1912-1944): Quê làng
Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên; tham gia các phong trào yêu nước từ
năm 1925. Năm 1930, bị bắt và bị đày ra Côn Đảo; tại đây, ông trở thành đảng
viên Đảng Cộng sản. Năm 1939 đuợc tha, Tô Hiệu về Thái Nguyên hoạt động, rồi
lại được điều về Hà Nội và bầu vào Ban Thường vụ Xứ ủy Bắc Kì, phụ trách Hà Nội.
Sau đó được cử phụ trách miền duyên hải Bắc Kì, trực tiếp làm Bí thư Thành ủy
Hải Phòng. Tháng 12/1939, ông bị địch bắt và giam tại Hải Phòng. Năm 1940 ông
bị đày lên nhà tù Sơn La. Ở đây ông đã biến nhà tù thành trường học cách mạng,
biên soạn tài tiệu, tổ chức các lớp huấn luyện lý luận chính trị, văn hóa cho
anh em trong tù. Do bị tra tấn, tù đày gian khổ, ông lâm bệnh nặng, qua đời
ngày 7/3/1944 tại nhà tù Sơn La.
|
TÔ HIỆU
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 183
|
53
|
CHU HINH
|
Chu Hinh (thế kỷ XIII): Danh
thần thời Trần, quê gốc làng Đan Nhiễm, huyện Tế Giang (nay là huyện Văn
Giang, tỉnh Hưng Yên). Vào buổi đầu nhà Trần, họ Chu đã có công hưng nghiệp,
được ban quốc tính nên còn gọi là Trần Chu Hinh. Gia đình từ đời cha đã về ở
đất Nam Quán (nay thuộc xã Đông Các, huyện Đông Hưng). Chu Hinh trưởng thành
từ đất này. Khoa Bính Thìn, Nguyên Phong năm thứ 6 (1256), đời vua Trần Thái
Tông, ông thi đỗ Bảng nhãn, được bổ làm Chuyển vận sứ lộ Long Hưng. Ông có
công lớn trong việc huy động sức người sức của từ Long Hưng cho cuộc kháng
chiến chống quân Mông Cổ lần thứ nhất (1258). Ông được cử đi sứ nhà Nguyên.
Con gái ông là Chu Thị Hương trở thành Phi của vua nhà Trần Anh Tông. Ông mất
tại quê Nam Quán. Hiện đền thờ ông vẫn còn. Con cháu ông sau đổi thành Đặng
Chu và một chi sang ở làng Xuân Đài, xã Đông Động cùng huyện.
|
CHU HINH
|
Từ điển Thái Bình; Tỉnh ủy Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Thái
Bình. Nxb văn hóa thông tin, 2010 Tr. 162
|
54
|
TRẦN HOÀN
|
Trần Hoàn (1928-2003): Tên thật
là Nguyễn Tăng Hích; quê Hải Tân, Hải Lăng, Quảng Trị. Ông nguyên là Bộ trưởng
Văn hóa - Thông tin, phó ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương. Nhạc sĩ Trần
Hoàn, tác giả của nhiều ca khúc, bài hát được nhân dân cả nước yêu thích như:
Sơn nữ ca, Một mùa xuân nho nhỏ, Chào mùa xuân, Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò
ví dặm, Khúc hát người Hà Nội, Đêm Hồ Gươm, Lời Bác dặn trước lúc đi xa... Do
có nhiều công lao cống hiến cho sự nghiệp cách mạng và nền văn học nghệ thuật
nước nhà ông đã được Đảng và Nhà nước đã tặng thưởng nhiều Huân, huy chương
cao quý, Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật.
|
TRẦN HOÀN
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 189
|
55
|
LÊ HOÀN
|
Lê Hoàn (941-1005): Hay Lê Đại
Hành, người anh hùng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất, sáng
lập nhà tiền Lê. Người Châu Ái (Thanh Hoá). Ông không chỉ là một vị vua có những
đóng góp lớn trong chống quân Tống phương Bắc, quân Chiêm phương Nam, giữ gìn
và củng cố nền độc lập dân tộc mà còn có nhiều công lao trong sự nghiệp ngoại
giao, xây dựng và kiến tạo đất nước Đại Cồ Việt. Trong những năm làm vua,ông
đã cho xây dựng nhiều cung điện ở kinh đô Hoa Lư, tổ chức lễ cày tịch điền
hàng năm để khuyến khích nhân dân sản xuất nông nghiệp, mở mang đường sá từ Bắc
vào Nam, trấn áp các thổ hào địa phương nhằm củng cố uy quyền của nhà nước
trung ương và sự thống nhất đất nước, giữ mối quan hệ hòa hiếu với nhà Tống.
Năm 1005, ông mất, miếu hiệu vẫn để là Đại Hành hoàng đế
|
LÊ HOÀN
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 188
|
56
|
NGUYỄN THÁI HỌC
|
Nguyễn Thái Học (1902-1930): Quê
ở Thổ Tang, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc. Năm 1927, ông đã thành lập Việt Nam Quốc
dân Đảng, được bầu làm chủ tịch Đảng. Quốc dân đảng nêu rõ mục đích “Liên lạc
tất cả anh em đồng chí không phân biệt giai cấp, tôn giáo, dùng vũ lực để lấy
lại quyền độc lập cho nước Việt Nam”. Năm 1930, ông tổ chức khởi nghĩa ở một
số nơi (Yên Bái, Phú Thọ...), ở Hà Nội cũng có ném tạc đạn phối hợp. Nguyễn
Thái Học trực tiếp chỉ huy cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Nhưng ở các nơi, cuộc khởi
nghĩa đều thất bại nhanh chóng. Sau một thời gian lẩn trốn Nguyễn Thái Học bị
bắt ở ấp Cổ Vịt (thuộc Hải Dương), bị đưa ra Hội đồng Đề hình, Ngày 17/6/1930
cùng 12 đồng chí bị Nguyễn Thái Học bị địch xử chém tại tỉnh lị Yên Bái.
|
NGUYỄN THÁI HỌC
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 193
|
57
|
NGUYÊN HỒNG
|
Nguyên Hồng (1918-1957): Tên
thật là Nguyễn Nguyên Hồng, nhà văn Việt Nam, sinh tại Nam Định. Sáng tác sớm,
ngay từ những tác phẩm đầu tay đã chứng tỏ “nhà văn của những người cùng khổ”,
tiểu thuyết Bỉ vỏ (1936), Hồi kí Những ngày thơ ấu (1938). Thời kỳ Mặt trận
dân chủ Đông Dương (1936 - 1939), Nguyên Hồng viết trên nhiều tờ báo cách mạng:
“Mới”, “Người mới”, “Thế giới”... Khoảng năm 1939 - 1942, ông bị mật thám bắt
và bị đưa đi trại tập trung ở Bắc Mê Hà Giang. Năm 1943, hoạt động bí mật
trong Hội Văn hóa cứu quốc. Sau Cách mạng tháng Tám, ông công tác ở Hội văn
hóa cứu quốc, Hội văn nghệ Việt Nam. Nguyên Hồng sáng tác cả thơ, bút kí, hồi
kí, kịch, tiệu luận phê bình, nhưng nổi bật hơn cả là các bộ tiểu thuyết nhiều
tập: Cửa biển, Sóng gầm, Thời kỳ đen tối, Khi đứa con ra đời....Với những
đóng góp to lớn cho nền văn học nước nhà, năm 1996, Nguyên Hồng đã vinh dự được
Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học - nghệ thuật.
|
NGUYÊN HỒNG
|
Từ điển bách khoa Việt Nam" Tập 3, Tr. 153
|
58
|
NGUYỄN HUỆ
|
Nguyễn Huệ (1753-1792): Là
Anh hùng dân tộc, có tên là Quang Bình, Văn Huệ, người gốc huyện Hưng Nguyên,
tỉnh Nghệ An, gia đình bị bắt đưa vào ấp Tây Sơn Thượng thuộc phủ Qui Ninh, tỉnh
Bình Định (nay thuộc huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Năm 1771, anh em ông lập
đồn trại ở vùng núi trong vùng, chiêu tập nghĩa quân chống lại triều đình
phong kiến của chúa Nguyễn. Năm 1776, ông cầm quân vào đánh Bình Thuận. Năm
1782, ông và Nguyễn Nhạc vào Nam đánh Nguyễn Ánh. Năm 1783, ông đem quân ra
vây Phú Quốc, gia đình Nguyễn Ánh phải chạy ra Côn Đảo, cuối cùng chạy sang
Xiêm (Thái Lan) cầu viện. Năm 1785, ông phục kích tại Mỹ Tho từ Rạch Gầm đến
Xoài Mút rồi chờ quân Xiêm lọt vào trận địa để tiêu diệt. Năm 1778, ông được
phong làm Phụ chánh Bắc Bình vương đóng quân ở Thuận Hóa. Năm 1788, ông lên
ngôi Hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung (nên cũng gọi là vua Quang Trung). Tấn
công ra Bắc tiêu diệt quân Mãn Thanh, thống nhất đất nước. Năm 1792, ông mất,
làm vua được 4 năm, hưởng dương 40 tuổi, miếu hiệu là Thái Võ Hoàng đế.
|
NGUYỄN HUỆ, QUANG TRUNG
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quỳnh, nxb
Giáo dục,2005 Tr. 202
|
59
|
PHÙNG HƯNG
|
Phùng Hưng (?-789): Người
lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống đô hộ Đường, quê ở Đường Lâm (Cam Lâm, Ba Vì,
Hà Nội). Tổ tiên đời đời làm quan lang ở địa phương. Là người mưu trí, khỏe mạnh,
giỏi võ; bản tính hào hiệp quảng đại thường hay giúp đỡ người nghèo. Thời thuộc
Đường (766-779), giặc Côn Lôn, Chà Và quấy phá nước ta, chính quyền đô hộ rối
loạn. Ông bèn cùng em chiếm giữ Đường Lâm. Nhờ quân cứu viện, giặc cướp bị
đánh lui. Tên đô hộ Cao Chính Bình làm nhiều điều tàn ác. Ông kêu gọi nhân
dân nổi dậy khởi nghĩa; kéo quân về bao vây thành Tống Bình, Cao Chính Bình
chống đỡ không nổi, sợ hãi rồi sinh bệnh mà chết. Quân trong thành mở của xin
hàng. Năm 782 Phùng Hưng được tôn làm vua, ở ngôi được 7 năm thì ông mất,
nhân dân tôn ông làm Bố Cái Đại vương để tỏ lòng thương nhớ và kính trọng.
|
PHÙNG HƯNG
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 213
|
60
|
HỒ XUÂN HƯƠNG
|
Hồ Xuân Hương (cuối thế kỷ XVIII
- đầu thế kỷ XIX): Nhà thơ lớn thế kỷ XIX. Bà quê gốc ở làng Quỳnh Đôi, huyện
Quỳnh Lưu, Nghệ An. Bà được người đời mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm”, sinh sống
ở Khán Xuân (gần Hồ Tây, Hà Nội). Hồ Xuân Hương là nhà thơ gần như chuyên viết
về phụ nữ, được coi là nhà thơ tiêu biểu cho tư tưởng nhân đạo trong trào lưu
văn học cuối cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX. Nghệ thuật thơ của bà rất độc
đáo. Những sáng tác của bà đã đóng góp đáng kể vào kho tàng văn học dân tộc.
|
HỒ XUÂN HƯƠNG
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 216
|
61
|
LÊ VĂN HƯU
|
Lê Văn Hưu (1230-1322): Nhà sử
học đầu tiên của nước ta. Ông quê Phủ Lý, huyện Đông Sơn (Thanh Hóa), xuất
thân trong một dòng họ lớn. Đỗ Bảng nhãn năm Đinh Mùi (1247), vị Bảng nhãn đầu
tiên của nước ta. Sau đó, ông được đưa vào làm ở Viện Hàn lâm, rồi thăng dần
lên chức Thượng thư Bộ Binh. Do sự hiểu biết sâu rộng của ông, ông được cử
làm Giám tu Quốc sử viện, biên soạn bộ lịch sử của đất nước. Năm 1272 ông soạn
xong bộ Đại Việt sử ký. Bộ sử viết từ thời Triệu cho đến cuối đời Lý, đã trở
thành tư liệu cơ sở cho nhà sử học thế kỷ XV là Ngô Sĩ Liên hoàn thành bộ Đại
Việt sử ký toàn thư. Tiếc rằng bộ sử của ông hiện nay không còn.
|
LÊ VĂN HƯU
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 216
|
62
|
TỐ HỮU
|
Tố Hữu (1920-2002): Ông tên
thật là Nguyễn Kim Thành, quê ở xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa
Thiên Huế. Ông là một tác gia có vị trí đặc biệt quan trọng, một nhà thơ tiêu
biểu của dòng thơ cách mạng Việt Nam với các tập thơ như: Từ ấy, Việt Bắc, Một
tiếng đờn. Năm 1938, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Ông đảm
trách nhiều chức vụ: Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam, Giám đốc Nha
tuyên truyền và văn nghệ thuộc Thủ tướng phủ, Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền, Phó
chủ tịch Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, Bí thư Ban chấp hành
Trung ương Đảng, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng…Ông được tặng Giải thưởng Hồ
Chí Minh đợt I về Văn học nghệ thuật (1996), Huân chương Sao Vàng (1994), Giải
thưởng Văn học Đông Nam Á của Thái Lan (1996).
|
TỐ HỮU
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 218
|
63
|
PHAN HUY ÍCH
|
Phan Huy Ích (1751-1822): Văn
thần triều Tây Sơn, nhà văn, hiệu là Dụ Am. Người làng Thu Hoạch, huyện Thiên
Lộc, trấn Nghệ An ( nay thuộc xã Thạch Châu, Thạch Hà, Hà Tĩnh). Năm 1771,
ông đỗ đầu khoa thi Hương ở Nghệ An, năm 1775, lại đỗ đầu khoa thi Hội. Năm
1788, Nguyễn Huệ ra Bắc, xuống chiếu cầu hiền, Phan Huy Ích cùng Ngô Thì Nhậm,
Đoàn Nguyên Tuấn ra hợp tác với Tây Sơn. Phan Huy Ích được phong làm Tả thị
lang Bộ Hình. Năm 1789, sau khi đại phá quân Thanh ông được giao nhiệm vụ phụ
trách công việc ngoại giao. Sau khi đi sứ sang Trung Quốc về nước ông được
thăng Thị trung ngự sử ở Tòa nội các. Năm 1802 quân Nguyễn Ánh ra Bắc, ông bị
bắt cùng với Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Thế Lịch. Sau khi được tha ông trở về Sài
Sơn sống ẩn dật, rồi về quê hương xứ Nghệ mở trường dạy học và mất năm 1822.
|
PHAN HUY ÍCH
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 221
|
64
|
NGUYỄN THỊ MINH KHAI
|
Nguyễn Thị Minh Khai (1910-1941):
Quê ở xã Vĩnh Yên, tỉnh Nghệ An. Sớm giác ngộ, năm 1927 bà đã quyết chí đi
vào con đường hoạt động cách mạng (tham gia đảng Tân Việt). Năm 1930, bà gia
nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, phụ trách tuyên truyền, huấn luyện đảng viên tại
Trường Thi, Bến Thủy, rồi sang Hương Cảng làm việc văn phòng chi nhánh Đông
phương bộ của Quốc tế cộng sản. Năm 1931, bà bị bắt tại Hương Cảng. Năm 1935,
bà ra tù và được Đông phương bộ Quốc tế Cộng sản cử làm đại biểu chính thức
đi dự Đại hội lần thứ 7 Quốc tế cộng sản tại Moskva và vào học trường đại học
Phương Đông. Năm 1936, bà được cử về nước truyền đạt chỉ thị của Quốc tế Cộng
sản và được cử vào Xứ ủy Nam Kì, giữ chức Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn,
cùng các đồng chí lãnh đạo cao trào cách mạng 1936 - 1939. Năm 1940, bà bị bắt
ngay sau phiên họp của xứ ủy Nam Kì về phổ biến chủ trương khởi nghĩa và bị
giam tại Khám Lớn Sài Gòn. Tuy nhiên, bà vẫn liên lạc với bên ngoài và vẫn tiếp
tục lãnh đạo phong trào đấu tranh. Ngày 32/11/1940 khởi nghĩa Nam Kì bùng nổ,
thực dân pháp vin vào cuộc khởi nghĩa để kết án bà. Ngày 26/8/1941, thực dân
Pháp đã xử bắn bà tại Hóc Môn.
|
NGUYỄN THỊ MINH KHAI
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 226
|
65
|
TRẦN QUANG KHẢI
|
Trần Quang Khải (1241-1294):
Danh tướng thời Trần. Ông là con thứ hai của vua Trần Thái Tông và hoàng hậu
Thuận Thiên. Năm 1259, Trần Thánh tông phong ông làm Thái úy, năm 1271, được
phong Tướng quốc thái úy. Năm 1282, trước nguy cơ xâm lược của nhà Nguyên, Trần
Thánh Tông cử ông làm Thượng tướng Thái sư chuẩn bị chống giặc. Năm 1285 quân
Nguyên tiến vào nước ta từ hai phía nam và bắc. Đất nước lâm vào thế ngàn cân
treo sợi tóc. Đoàn kết nội bộ để chống giặc trở thành điều tâm niệm của mọi
người. Ông và Tiết chế Trần Hưng Đạo xóa bỏ mối bất hòa cùng nhau dốc sức lo
cho cuộc kháng chiến. Tháng 5/1285, quân ta mở cuộc tổng phản công, ông cùng
các tướng đánh tan giặc ở Chương Dương, rồi nhân đà thắng lợi tiến về giải
phóng Thăng Long. Giặc hoàn toàn bị đánh tan, ông xúc cảm đọc 4 câu thơ: Đoạt
sáo Chương Dương độ/ Cầm hồ Hàm Tử quan/ Thái Bình tu trí lực/ Vạn Cổ thử
giang san.
|
TRẦN QUANG KHẢI
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 228
|
66
|
NGÔ GIA KHẢM
|
Ngô Gia Khảm (1912-1990): Anh
hùng lao động (1952), quê Liên Sơn, Từ Sơn, Bắc Ninh. Năm 1928, tham gia hoạt
động Cách mạng. Năm 1936, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm
1941, Ngô Gia Khảm bị thực dân Pháp bắt giam ở Sơn La. Trong tù ông giữ tinh
thần đấu tranh, có lần tuyệt thực đến 11 ngày, buộc địch phải trả tự do. Ra
tù, ông tiếp tục hoạt động chống Pháp. Năm 1944, Ngô Gia Khảm là một trong những
người đầu tiên xây dựng và là Quản đốc xưởng quân giới ở Chiến khu Việt Bắc.
Trong kháng chiến chống Pháp, ông xây dựng Xưởng hoá chất đầu tiên ở Việt Bắc,
chế tạo thuốc nổ làm mìn, lựu đạn, đạn. Ông bị thương ba lần trong khi sản xuất...
Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều huân chương khác.
|
NGÔ GIA KHẢM
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 3, Tr. 128
|
67
|
HUỲNH THÚC KHÁNG
|
Huỳnh Thúc Kháng (1875-1947):
Tên thật là Huỳnh Hanh, biệt hiệu Mính Viên. Nhà trí sĩ, nhà văn, quê Thạnh
Bình, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Năm 1904, ông thi Hội đỗ Tiến sĩ,
nhưng không ra làm quan, ở nhà đọc Tân thư, giao du với các nhà nho yêu nước
như Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp..., tích cực cổ động phong trào Duy Tân tự
cường ở Trung Kì đầu thế kỷ XX. Năm 1908, nhân vụ chống thuế ở Trung Kì nổ
ra, ông bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo, đến năm 1921 mới ra tù. Năm 1926, ông
trúng cử Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kì, năm 1927, ông cho xuất bản báo
Tiếng dân và làm chủ bút. Cách mạng tháng Tám thành công, ông làm Bộ trưởng Nội
vụ, quyền Chủ tịch nước khi Bác Hồ sang Pháp. Tác giả các sách Thi tù tùng
thoại, Thi văn với thời đại, Trung Kỳ cựu sưu ký...
|
HUỲNH THÚC KHÁNG
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 232
|
68
|
TRẦN TỰ KHÁNH
|
Trần Tự Khánh (?-1224): Người
có công trong việc thành lập nhà Trần. Ông là con Trần Lý, một chủ trại ở Lưu
Gia (Hưng Hà, Thái Bình). Năm 1209, do nổi loạn Thái tử Sảm nhà Lý phải chạy
ra vùng Lưu Gia, ở nhờ nhà Trần Lý, sau đó lấy con gái Trần Lý làm vợ. Họ Trần
tập hợp quân sĩ giúp Thái tử Sảm dẹp loạn. Sau khi cha ông là Trần Lý qua đời,
ông được lên thay cha, chỉ huy quân của mình. Năm đó Cao Tông chết, Thái tử Sảm
lên ngôi, Tự Khánh được phong làm Chương Thành Hầu. Bấy giờ đất nước loạn lạc,
ông cùng Thượng tướng Phan Lân tổ chức lại quân ngũ, chế tạo đồ binh khí,
ngày ngày tập luyện. Chẳng may vua Lý mắc chứng điên loạn, phải giao việc
chính sự cho ông. Uy thế của họ Trần tăng lên. Đầu năm 1224, ông mất được
truy phong Kiến Quốc Đại vương
|
TRẦN TỰ KHÁNH
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 234
|
69
|
NGUYỄN BỈNH KHIÊM
|
Nguyễn Bỉnh Khiêm
(1491-1585): Nhà chính trị, nhà văn hóa lớn. Quê ở làng Trung Am, huyện Vĩnh
Bảo, Hải Phòng, Ông học rất giỏi, nhưng thấy thời thế nổi loạn không muốn thi
và làm quan. Mãi đến 1535 (45 tuổi), mới chịu đi thi, đỗ Trạng nguyên rồi ra
làm quan thời Mạc. Sau tám năm làm quan thấy gian thần lộng hành, ông dâng sớ
xin chém một số nhưng không được, bèn xin từ quan về quê dậy học. Sau lại ra
làm quan nhà Mạc. Làm đến chức Tả Thị lang Bộ Lại, rồi thăng Thượng thư Bộ Lại,
tước Trình quốc công, mọi người tôn xưng là Trạng Trình. Năm 70 tuổi, ông về
hưu, lập am Bạch Vân, lấy tên hiệu là Bạch Vân cư sĩ. Ông mở trường dạy học
bên cạnh sông Hàn, sông ấy còn có tên Tuyết Giang, vì thế học trò tôn xưng là
Tuyết Giang Phu Tử. Học trò của ông rất đông và rất nhiều người trở thành
nhân tài của nước như Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ, Nguyễn Quyện. Ông là nhà
triết học, nhà văn, nhà thơ lớn của THẾ KỶ 16. Tác phẩm để lại có: Bạch Vân
am thi tập, Bạch Vân quốc ngữ thi.
|
NGUYỄN BỈNH KHIÊM
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 235
|
70
|
PHÙNG KHẮC KHOAN
|
Phùng Khắc Khoan (1528-1613):
Nhà hoạt động chính trị, kinh tế, nhà thơ. Ông tên tự là Hoằng Phu, hiệu là
Nghị Trai. Người làng Bùng (Phùng Xá), huyện Thạch Thất, nay thuộc Hà Nội; nổi
tiếng thông minh từ nhỏ, học trò Nguyễn Bỉnh Khiêm, quen gọi là Trạng Bùng.
Ông học giỏi nhưng không chịu đi thi và làm quan cho nhà Mạc. Năm 1550, ông vào
Thanh Hóa theo nhà Lê. Năm 1590, nhà Lê mở khoa thi ở Thanh Hóa, ông đỗ Hoàng
giáp. Sau đó giữ các chức Thượng thư Bộ Hội, Bộ Công triều Lê; làm chánh sứ
sang Trung Quốc (1597). Ông sáng tác nhiều thơ văn, chữ Nôm có Ngư phủ nhập
đào nguyên; chữ hán có Ngôn chí thi tập, Mai lĩnh sứ hoa thi tập. Thơ văn của
ông là tiếng nói của tầng lớp sĩ phu muốn giúp dân, giúp nước, ông là tác giả
lớn trong thế kỷ thứ XVI, XVII.
|
PHÙNG KHẮC KHOAN
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 240
|
71
|
NGUYỄN KHUYẾN
|
Nguyễn Khuyến (1835-1909):
Trước tên là Nguyễn Thắng, hiệu Quế Sơn, người làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh
Hà Nam, xuất thân trong một gia đình Nho học lâu đời. Ông học giỏi (đỗ đầu
thi Hương, thi Hội, thi Đình), vì thế, người ta thường gọi ông là Tam nguyên
Yên Đổ. Sau đó được bổ làm quan ở Huế, Thanh Hóa, Nghệ An rồi Quảng Ngãi. Năm
1883 triều đình kí hàng ước 25/8/1883 với Pháp, ông cáo quan về quê, không chịu
hợp tác với giặc. Tác phẩm của ông được tập hợp trong hai cuốn: Quế Sơn thi tập
và Yên Đổ tam nguyên quốc âm thi tập. Thơ Nguyễn Khuyến thường ca ngợi khí tiết
sáng ngời của những người chống giặc, vì nước hi sinh, căm ghét bọn cướp nước.
|
NGUYỄN KHUYẾN
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 248
|
72
|
LÝ THƯỜNG KIỆT
|
Lý Thường Kiệt (1019-1105):
Người chỉ huy kiệt xuất, anh hùng của cuộc kháng chiến chống Tống. Họ Ngô tên
Tuấn, tự là Thường Kiệt. Quê làng An Xá, huyện Quảng Đức (Cơ Xá, Gia Lâm, Hà
Nội). Thuở trẻ, thông minh, ông sớm chăm đọc sách, nghiên cứu binh thư, luyện
tập võ nghệ. Ông có nhiều công lao trong việc chống Tống, bình Chiêm, đóng
góp xây dựng đất nước phồn vinh, nên đuợc ban quốc tính (do đó có tên Lý Thường
Kiệt). Nhà Tống ráo riết chuẩn bị xâm lược nước ta. Thái hậu Ỷ Lan giao cho
ông tổ chức cuộc kháng chiến, bảo vệ tổ quốc. Trong cuộc họp bàn, ông đã nêu
lên chủ trương táo bạo “Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn
mũi nhọn của giặc”, “tiên phát chế nhân” đánh vào Ung Châu (Nam Ninh, Quảng
Đông, Trung Quốc), nơi tập trung quân nhà Tống, phá hết kho tàng vũ khí,
lương thảo rồi rút quân về nước. Năm 1077, hơn 30 vạn quân Tống do Quách Quỳ chỉ
huy tràn vào nước ta theo hai đường thủy, bộ. Ông đã chỉ huy quân dân đánh
tan cuộc xâm lược của giặc. Cuộc kháng chiến thắng lợi huy hoàng, uy tín của
ông tăng lên. Lý Nhân Tông nhận ông là “Thiên tử nghĩa đệ”. Ông là tác giả
bài thơ bất hủ “Nam Quốc Sơn Hà”, cổ vũ tinh thần quyết chiến quyết thắng của
quân dân ta. Bài thơ khẳng định quyền độc lập dân tộc tự chủ thiêng liêng của
Tổ quốc.
|
LÝ THƯỜNG KIỆT
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 255
|
73
|
VÕ VĂN KIỆT
|
Võ Văn Kiệt (1922-2008): Nhà
hoạt động Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam. Quê ở xã Trung Hiệp, huyện Vũng
Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Tham gia hoạt động trong phong trào dân chủ. Năm 1939,
ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và tham gia cuộc khởi nghĩa Nam
Kì ở Vũng Liêm. Ông giữ các chức vụ: Bí thư huyện ủy Phước Long (1946-1947),
Phó Bí thư, rồi Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu (1949). Bí Thư thành ủy Sai Gòn - Chợ
Lớn, Phó Bí thư rồi Bí thư khu ủy Sài Gòn - Gia Định (1959-1970). Chủ tịch Ủy
ban nhân dân TP.HCM, Bí thư Thành uỷ TP.HCM (1975-1982). Chủ nhiệm Ủy ban kế
hoạch Nhà nước (1982-1988), Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Thủ tướng Chính phủ
nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992-1997)… Ông được Nhà nước trao tặng
Huân chương Sao Vàng.
|
VÕ VĂN KIỆT
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 4, Tr. 912
|
74
|
YẾT KIÊU
|
Yết Kiêu (1242-1301): Gia nô
trung tín của Trần Hưng Đạo, quê làng Hạ Bì (Tứ Lộc, Hải Dương) giỏi nghề bơi
lội. Cùng với Dã Tượng, có công lớn trong việc bảo vệ Trần Hưng Đạo và trong
cuộc kháng chiến chống quân Nguyên 1285. Sau thắng lợi ông được ban tước và
được trả tự do.
|
YẾT KIÊU
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 4, Tr. 1093
|
75
|
LÊ LAI
|
Lê Lai (?-1418): Danh tướng
khởi nghĩa Lam Sơn. Quê ở xã Kiên Thọ, Ngọc Lặc, Thanh Hoá, một trong những
người tổ chức hội thề Lũng Nhai. Tháng 5/1419, nghĩa quân Lam Sơn bị vây ở
núi Chí Linh, trong giờ phút nguy hiểm, Lê Lợi kêu gọi người đóng giả mình
cho giặc bắt để chúng giải vây. Lê Lai tình nguyện nhận trách nhiệm nặng nề
này và bị giặc bắt rồi giết. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi vua, truy phong ông là
Công thần hạng nhất, “Lũng Nhai công thần”, hàm Thiếu úy, thụy Toàn Nghĩa.
|
LÊ LAI
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 267
|
76
|
CÙ CHÍNH LAN
|
Cù Chính Lan (1930-1952): Quê
xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ
(1946), ông xung phong vào bộ đội, lúc đầu làm chiến sĩ giao thông liên lạc,
sau được giao chỉ huy tiểu đội chiến đấu. Trong chiến dịch Quang Trung (1950)
được nêu gương “Anh hùng tay không diệt giặc”. Chiến dịch Hòa Bình (1951),
ông dùng lựu đạn diệt xe tăng địch trên đường số 6, tạo điều kiện cho đồng đội
hoàn thành nhiệm vụ. Ngày 29/12/1951, ông tham gia đánh đồn Cô Tô, bị cụt hai
tay và một chân vẫn anh dũng chỉ huy đến hơi thở cuối cùng. Được truy tặng
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (1952).
|
CÙ CHÍNH LAN
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 267
|
77
|
Ỷ LAN
|
Ỷ Lan (?-1117): Linh Nhân
Thái Hậu, Nguyên phi tài sắc của Lý Nhật Tông tức Lý Thánh Tông, quê ở xã
Dương Xá, Gia Lâm, Hà Nội. Bà góp phần cai quản việc nước, thu phục nhân tâm,
tạo điều kiện cho Lý Thánh Tông đánh thắng Chiêm Thành (1069). Năm 1072, vua
Lý Thánh Tông mất, Kiến Đức lên ngôi khi mới 7 tuổi (tức Lý Nhân Tông). Ỷ Lan
trở thành Hoàng thái hậu nhiếp chính. Bà cùng Lý Đạo Thành, Lý Thường Kiệt tổ
chức đánh thắng giặc Tống (1076); bà chăm lo sản xuất nông nghiệp, mở mạng học
hành.
|
Ỷ LAN
|
Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb. Từ điển Bách khoa, 2005 Tập 4, trang
1083
|
78
|
PHẠM NGŨ LÃO
|
Phạm Ngũ Lão (1255-1320):
Danh tướng thời Trần. Quê ở làng Phù Ủng (nay là huyện Ân Thi, Hưng Yên). Ông
là người văn võ song toàn, chỉ huy mưu trí. Trong kháng chiến chống Mông -
Nguyên, ông theo 2 vua chiến đấu lập nhiều công lớn. Trong đời vua Anh Tông
(1293-1314), ông được phong Ðiện Suý Thượng tướng quân vì có nhiều chiến công
ở vùng biên ải. Năm 1320 ông mất, vua Minh Tông nghỉ chầu 3 ngày, vô cùng
thương tiếc.
|
PHẠM NGŨ LÃO
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 271
|
79
|
ĐINH LỄ
|
Đinh Lễ (?-1427): Danh tướng
trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ông người Lam Sơn, Thanh Hóa. Ông là cháu gọi
Lê Lợi bằng cậu. Ông cùng 2 em Đinh Liệt, Đinh Bồ tham gia khởi nghĩa Lam Sơn
từ rất sớm, trải qua nhiều gian khổ, lập được nhiều chiến công. Ông là một
trong những chỉ huy quan trọng chiến dịch Tốt Động - Chúc Động. Năm 1427
trong một trận phản kích quân Vương Thông ở mặt trận Nam Đông Quan. Đinh Lễ bị
giặc bắt và sát hại.
|
ĐINH LỄ
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 281
|
80
|
NGÔ SỸ LIÊN
|
Ngô Sỹ Liên (thế kỷ XV-?): Nhà
sử học lớn, người làng Chúc Lý, huyện Chương Đức (Chương Mỹ, Hà Nội. Đỗ Tiến
sĩ năm 1442, làm quan ở Viện Hàn lâm, sau thăng Đô ngự sử. Vào thời Hồng Đức
(1470-1497), ông làm việc ở viện quốc sử, được giao biên soạn bộ Đại việt sử
ký toàn thư. Trong bộ sử ông để cao tinh thần dân tộc, chủ nghĩa yêu nước,
song cũng khẳng định tư tưởng phong kiến Nho giáo trong tiến trình phát triển
lịch sử.
|
NGÔ SỸ LIÊN
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Trang 286
|
81
|
ĐINH LIỆT
|
Đinh Liệt (?-1471): Một đại
thần nhà Lê sơ. Quê ở sách Thuý Luận (nay thuộc Lam Sơn, Thọ Xuân, Thanh
Hoá), ông là em của Đinh Lễ, cháu Lê Lợi, tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ đầu.
Ông đã chỉ huy quân đánh chiếm Đỗ Gia (Hương Sơn, Hà Tĩnh), sau theo Lê Lợi
tiến ra Đông Đô. Năm 1427, ông cùng Lê Sát phục kích viện binh của nhà Minh ở
Chi Lăng, đánh bại giặc, giết Liễu Thăng, góp phần diệt viện, giải phóng đất
nước. Trong những năm làm quan, ông đóng góp nhiều vào việc xây dựng quân đội,
bình định đất phía nam. Như nhận định của nhà sử học Lê Quý Đôn “ông là người
có công đầu giúp vua mở nước, trải thờ 4 triều vua, lại là công thần trung
hưng số một, địa vị và danh vọng đều rất cao” (Đại Việt thông sử).
|
ĐINH LIỆT
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 287
|
82
|
NGUYỄN VĂN LINH
|
Nguyễn Văn Linh (1915-1998):
Tên thật là Nguyễn Văn Cúc (Mười Cúc), quê thôn Yên Phú, xã Giai Phạm, huyện
Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Năm 1929, ông tham gia Học sinh đoàn do Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên lãnh đạo. Năm 1930, ông bị bắt và kết án tù chung thân, bị
đày ra Côn Đảo. Năm 1936 được trả tự do, được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông
Dương, tham gia hoạt động trong công nhân lao động ở Hải Phòng, Hà Nội. Cuối
năm 1939, được phân công tham gia lập lại Xứ ủy Trung Kì, năm 1941, bị bắt ở
Vinh, địch đưa ông về Sài Gòn xử án 5 năm tù và đày ra Côn Đảo lần 2. Năm
1945, Cách mạng tháng Tám thành công, ông được đón về Nam bộ, hoạt động ở Sài
Gòn với các chức vụ: Bí thư Thành uỷ, Bí Thư đặc khu Sài Gòn - Gia Định, năm
1949-1960 là Ủy viên và Quyền Bí thư xứ ủy Nam Bộ. 1960, được bầu làm Ủy viên
Ban chấp hành Trung ương Đảng, năm 1976, làm Bí thư Thành uỷ TP.HCM. Năm
1986, ông được bầu làm tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam. Do công lao và thành
tích với cách mạng, ông được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng
và nhiều Huân chương cao quý khác.
|
NGUYỄN VĂN LINH
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 291
|
83
|
ĐINH BỘ LĨNH
|
Đinh Bộ Lĩnh (924-979): Người
có công thống nhất đất nước ở thế kỷ thứ X, đặt quốc hiệu Đại Cồ Việt; còn gọi
là Đinh Tiên Hoàng, quê động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (nay thuộc huyện Hoa Lư,
Ninh Bình). Ông là con của thứ sử châu Hoan Đinh Công Trứ, là vị vua sáng lập
ra triều đại nhà Đinh nước Đại Cồ Việt trong lịch sử Việt Nam. Ông là người
có công dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn. Năm 968 ông lên ngôi hoàng
đế (Đinh Tiên Hoàng), xây dựng kinh đô ở Hoa Lư, thành lập triều đình, đặt
tên nước là Đại Cồ Việt. Năm 970, ông đặt niên hiệu là Thái Bình.
|
ĐINH BỘ LĨNH, ĐINH TIÊN HOÀNG
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 294
|
84
|
MAI THÚC LOAN
|
Mai Thúc Loan (?-722): Thủ lĩnh
nghĩa quân chống độ hộ Đường, còn gọi là Mai Hắc Đế, ông quê ở Mai Phụ (Thạch
Bắc, Thạch Hà, Hà Tĩnh). Trên đường đi gánh vải nộp cống cho nhà Đường, ông
đã kêu gọi mọi người trở về quê, rèn vũ khí chống quân đô hộ. Ông cho người
liên kết với Lâm Ấp và Chân Lạp phất cờ khởi nghĩa, lấy Sa Nam (Nam Đàn) làm
căn cứ, đóng đại quân ở núi Vệ, xây chiến lũy vững chắc. Quân nhà Đường kéo
lên đàn áp, nghĩa quân đánh tan giặc, nhân đó truy đuổi chúng giải phóng cả
vùng Hoan - Ái (Thanh, Nghê, Tĩnh). Nghĩa quân suy tôn ông làm vua- tục gọi
là Mai Hắc Đế. Đô thành đóng ở Vạn An. Sau khi ổn định tình hình, ông đem
quân đánh ra Giao Châu, Đô hộ Quang Sở Khách phải bỏ thủ phủ Tống Bình (Hà Nội)
chạy về nước. Năm 722, Nhà Đường vội sai tướng Dương Tư Húc đem 10 vạn quân
sang đàn áp. Nghĩa quân chống không nổi, thành Vạn An thất thủ. Mai Thúc Loan
chạy vào rừng, rồi mất.
|
MAI THÚC LOAN
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005. Tr.296
|
|
|
|
|
|
85
|
DƯƠNG KHÔNG LỘ
|
Dương Không Lộ (?-1119): Nhà
sư nổi tiếng thời Lý, người xã Hải Thanh, Hải Hậu, Nam Định, xuất thân từ một
gia đình đánh cá. Từ sớm ông đã có chí đi tu, làm bạn với các nhà sư. Khi đã
thành đạt, ông về trụ trì ở Chùa Keo (Thái Bình), nhưng vẫn đi lại khắp nơi để
truyền đạo. Do đó trong nhân dân, những huyền thoại về việc “đi mây về gió”,
“pháp thuật tinh thông”, “có tài thu nhỏ mọi vật” được truyền tụng. Dương
Không Lộ cũng được coi là vị Tổ nghề đúc đồng.
|
DƯƠNG KHÔNG LỘ
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 245
|
86
|
LÊ LỢI
|
Lê Lợi (1385-1433): Là người
khởi xướng khởi nghĩa Lam Sơn chiến thắng quân đội chiếm đóng nhà Minh, giành
lại độc lập cho nước Đại Việt và trở thành vị vua sáng lập của nhà Hậu Lê. Lê
Lợi lên ngôi Hoàng đế vào năm 1428, sử gọi là Lê Thái Tổ, chính thức dựng lên
triều Hậu Lê. Ông khôi phục quốc hiệu Đại Việt, đóng đô ở Thăng Long và đổi
tên Thăng Long thành Đông Kinh vào năm Thuận Thiên thứ hai (1430). Ông lên
ngôi trong 6 năm (1428 - 1433), đặt niên hiệu Thuận Thiên xây dựng đất nước,
đặt lại khoa cử, luật lệ, chế tác lễ nhạc, thu thập lại sách vở, mở mang trường
học... tạo nên một triều đại Hậu Lê huy hoàng trong lịch sử.
|
LÊ LỢI
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 245
|
87
|
PHAN ĐĂNG LƯU
|
Phan Đăng Lưu (1901-1941): Quê
ở xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Ông tham gia đã tham gia Hội
Phục Việt, sau đổi thành Hưng Nam, rồi Tân Việt cách mạng đảng. Năm 1928, tại
đại hội thành lập Tân Việt cách mạng Đảng, ông được bầu làm ủy viên thường vụ
Tổng bộ phụ trách tuyên huấn. Cuối năm được phân công sang Quảng Châu (Trung
Quốc) gặp Tổng bộ Hội Việt Nam cách mạng thành niên để bàn kế hoạch thống nhất
hoạt động. Năm 1930, ông bị bắt ở Hải Phòng và bi kết án 3 năm tù khổ sai đày
đi Buôn Ma Thuột. Năm 1936, ông được ra tù, nhưng bị quản thúc ở Huế. Ông lại
tiếp tục hoạt động cách mạng và có những đóng góp xuất sắc vào các cuộc vận động
hợp pháp và nửa hợp pháp ở Trung Kì. Năm 1939, ông được bầu bổ sung vào Ban
chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương, được phân công chỉ đạo phong
trào Nam Kì. Năm 1940, ông bị mật thám bắt, năm 1941, ông bị đế quốc Pháp kết
án tử hình. Ngày 26/8/1941 ông bị xử bắn cùng với các đồng chí: Nguyễn Văn Cừ,
Nguyễn Thị Minh Khai, Hà Huy Tập, Võ Văn Tần.
|
PHAN ĐĂNG LƯU
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005. Tr. 312
|
88
|
ĐẶNG THAI MAI
|
Đặng Thai Mai (1902-1984):
Quê Lương Điền, huyện Thanh Chương, Nghệ An, sinh ra và lớn lên trong một gia
đình Nho học có truyền thống khoa bảng và giầu lòng yêu nước. Sau khi tốt
nghiệp trung học ở Vinh, ông học trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương tại Hà Nội
(1924), học xong vào dạy ở trường Quốc học Huế. Thời kỳ này ông tham gia Đảng
Tân Việt, bị bắt và kết án tù treo. Hết hạn tù, ông ra Hà Nội tham gia lập
trường tư thục Thăng Long, vừa dạy học, vừa viết báo và là một trong những
người sáng lập phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ. Trong thời kỳ mặt trận dân
chủ Đông Dương, ông được Đảng cộng sản Đông Dương giới thiệu ra tranh cử vào
Viện dân biểu Trung kì. Sau cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến chống
Pháp, ông giữ nhiều chức vụ: Bộ trưởng Bộ Giáo dục, đại biểu Quốc hội, Chủ tịch
Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Thanh Hóa...Hòa bình lập lại (1954), ông
tiếp tục đảm nhiệm nhiều cương vị: Viện trưởng Viện Văn học, Chủ tịch Hội
Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. Thời kỳ này ông đã hoàn thành nhiều
công trình nghiên cứu có giá trị: Văn thơ cách mạng thế kỷ XX, Văn thơ Phan Bội
Châu, Tác phẩm Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh... Ông được truy tặng
giải thưởng Hồ Chí Minh (1996).
|
ĐẶNG THAI MAI
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005
|
89
|
HỒ TÙNG MẬU
|
Hồ Tùng Mậu (1896-1951): Quê
làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An; tên chính là Hồ Bá Cự. Năm
1916, ông cùng một số thanh niên yêu nước bí mật sang Thái Lan, Trung Quộc hoạt
động cách mạng. Năm 1923, ông cùng với Lê Hồng Sơn thành lập Tâm Tâm xã, một
tổ chức yêu nước có xu hướng xã hội chủ nghĩa. Cuối năm 1924 được sự giáo dục
và huấn luyện của Nguyễn Ái Quốc, ông sớm trở thành một cán bộ xuất sắc của Hội
Việt Nam Cách mạng thanh niên. Ông đã 3 lần bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt
giam. Ông góp phần tích cực vào hội nghị hợp nhất các nhóm cộng sản ở Việt
Nam. Năm 1931, ông bị mật thám Pháp bắt, đưa về tô giới Pháp. Chúng giải ông
về nước tuyên án khổ sai chung thân, giam ở nhà lao Vinh, Lao Bảo, Kon Tum,
Buôn Ma Thuột, Trà Khê... Sau Cách mạng tháng Tám thành công, ông đã giữ các
chức vụ Giám đốc kiêm chính ủy Trường quân chính Trung Bộ, Chủ tịch Ủy ban
kháng chiến - hành chính Liên khu IV, Tổng Thanh tra Chính phủ, Ủy viên Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa II. Ông hy sinh trên đường đi công tác ở Thanh
Hóa. Ông được nhà nước truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh.
|
HỒ TÙNG MẬU
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 325
|
90
|
HỒ CHÍ MINH
|
Hồ Chí Minh (1890-1969): Quê
làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Lúc còn nhỏ có tên là Nguyễn Sinh
Cung, khi đi học lấy tên là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động ở nước
ngoài lấy tên là Nguyễn Ái Quốc. Sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho nghèo
có truyền thống yêu nước, vì vậy sớm có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng
dân tộc.Tháng 6/1911, Người xuống làm công dưới tàu buôn Latusơ Trêvin, để có
cơ hội đi ra nước ngoài tìm con đường cứu nước mới. Người đặt chân tới nhiều
nước châu Âu, châu Phi, châu Mĩ, đến năm 1917 thì trở lại Pháp. Năm 1919, Người
gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Năm 1920, Người bỏ phiếu tán thành việc gia nhập
quốc tế Công sản và là một trong những người sang lập Đảng Cộng sản Pháp
(1920), sau đó, Người tham gia thành lập Hội liên hiệp thuộc địa (1921), ra
báo Le Paria (Người cùng khổ). Năm 1923, sang Liên Xô, năm 1924 về Trung Quốc
thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, tổ chức tiền thân của chính đảng
vô sản. Về sau, Người còn tham gia sang lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức.
Thông qua việc mở các lớp huấn luyện chính trị và việc ra tuần báo Thanh
niên, viết sách đường Kách mệnh. Người đào tạo nhiều thành niên hăng hái trở
thành những nhà hoạt động cách mạng chuyên nghiệp. Đầu tháng 5/1927, Người rời
Quảng Châu đi Liên Xô, rồi về Xiêm (Thái Lan, năm 1928). Năm 1930, Người từ
Xiêm sang Trung Quốc, triệu tập hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành Đảng
Cộng sản Việt Nam, (sau đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương). Năm 1941,
Người về nước cùng Trung ương Đảng lãnh đạo toàn dân chuẩn bị Tổng khởi nghĩa
giành chính quyền thành lập Mặt trận Việt Minh. Cách mạng tháng Tám thành
công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (02/9/1945). Trong những năm 1945-1954,
Người cùng Trung ương Đảng lãnh đạo toàn dân đấu tranh giữ vùng chính quyền
cách mạng và hoàn thành thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can
thiệp Mĩ. Từ 1954- 1965, Người cùng Trung ương Đảng lãnh đạo cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Thắng lợi vĩ đại
của cách mạng Việt Nam, gắn liền với cuộc đời hoạt động sôi nổi, đầy gian khổ,
hi sinh nhưng vô cùng oanh liệt vẻ vang của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị anh hùng
dân tộc vĩ đại.
|
HỒ CHÍ MINH, NGUYỄN TẤT THÀNH
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 330
|
91
|
DƯƠNG ĐÌNH NGHỆ
|
Dương Đình Nghệ (? - 937) hay
còn gọi là Dương Diên Nghệ. Thượng tướng của Khúc Thừa Hạo. Ông hết lòng giúp
họ Khúc chăn dân trị nước. Đến năm Đinh sửu 917 Khúc Thừa Hạo mất, ông phù tá
con Hạo là Khúc Thừa Mĩ. Năm Quí vị 923, nhà Nam Hán sai Lý Khắc Chính và Lý
Tiến sang đánh. Khúc Thừa Mĩ bị bắt. Dương Diên Nghệ tạm lánh, lập cách báo
thù cho họ Khúc, bèn lập ra trường đánh vật, chiêu tập hào kiệt cứu nước. Năm
Tân mão 931, ông hưng binh, đánh tan quân đội của Thứ sử Lý Khắc Chính và Lý
Tiến. Nhà Nam Hán sai Trần Bảo đem quân sang. Ông đón đánh, chém luôn Trần Bảo.
Với chiến công lẫy lừng đó ông được nhân dân tin phục, suy tôn ông làm Tiết độ
sứ. Ông mến tài viên thuộc tướng Ngô Quyền, gả con cho và cho trấn giữ Ái
châu. Được 6 năm, một đêm, ông bị tên thuộc hạ là Kiều Công Tiễn phân bội ám
sát chết. Ngô Quyền hay tin, lập tức kéo binh và đánh giết Kiều Công Tiễn dựng
ra nhà Ngô.
|
DƯƠNG ĐÌNH NGHỆ
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
|
92
|
TRẦN ĐẠI NGHĨA
|
Trần Đại Nghĩa (1913-1997):
Tên thật là Phạm Quang Lễ, quê tỉnh Vĩnh Long. Học song bậc trung học ở Sài
Gòn, năm 1935, tiếp tục học các trường Đại học kỹ thuật điện, Viên nghiên cứu
máy bay và Đại học Xoócbon, sau đó ông làm việc ở công trường cầu cống, xưởng
chế tạo máy bay vũ khí quân giới... Năm 1942, ông sang Đức làm việc trong xưởng
chế tạo máy bay và Viện Nghiên cứu vũ khí. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh
sang Pháp, ông đã về nước cùng với Người, được giao chức vụ Cục trưởng Cục
Quân giới. Trong kháng chiến chống Pháp, ông đã sáng chế được các vũ khí: súng
không giật SKZ, Bazoca. Năm 1948, ông được phong hàm thiếu tướng, năm 1952,
được tuyên dương Anh hùng lao động. Năm 1966, ông được bầu là Viện sĩ nước
ngoài Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước (sau
này là trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ quốc gia). Do những cống hiến
to lớn của ông Nhà nước đã trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (1996).
|
TRẦN ĐẠI NGHĨA
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005. Tr. 347
|
93
|
NGÔ THÌ NHẬM
|
Ngô Thì Nhậm (1746-1803): Nhà
chính trị, quân sự, ngoại giao, nhà văn, người làng Tả Thanh Oai (Hà Nội).
Năm 1775, Đỗ tiến sĩ, làm quan tại triều Lê- Trịnh. Triều đình lộn xộn, lòng
dân ly tán, Ngô Thì Nhậm bỏ quan về ở ẩn, viết sách. Năm 1786, Tây Sơn ra Bắc
Hà dẹp Trịnh, trao quyền cho vua Lê, Ngô Thì Nhậm được Lê Chiêu Thống mời ra
giữ chức Hiệu thư; sau tập đoàn Lê Chiêu Thống bị quân Tây Sơn lật đổ, ông được
Nguyễn Huệ trọng dụng. Cuối năm 1788, 29 vạn quân Thanh sang xâm lược nước
ta. Ông chủ động đề xuất ý kiến rút quân ra khỏi Thăng Long vào Thanh Hóa, lập
phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn, đợi Nguyễn Huệ đem quan ra bắc cùng phối hợp
phản công. Sau chiến thắng Đống Đa, Ngô Thì Nhậm được giao nhiệm vụ ngoại
giao với nhà Thanh. Năm 1790, ông làm Thượng thư Bộ Binh, rồi làm Tổng tài Quốc
sử quán, năm 1793, làm chánh sứ sang Trung Quốc. Năm 1802, Nguyễn Ánh đánh bại
Quang Toản, trả thù hèn hạ nhà Tây Sơn, ông bị Đặng Trần Thường bắt giam,
đánh đòn ở Văn Miếu, Thăng Long, mấy ngày sau ông mất. Ông viết nhiều sách khảo
cứu, nhiều thơ, văn, tác phẩm để lại có: Hi Doãn văn tập, Hoàng Hoa đồ phổ,
Xuân Thu quản kiến...Ông là một trong các tác giả của bộ tiểu thuyết lịch sử
Hoàng Lê nhất thống chí.
|
NGÔ THÌ NHẬM
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 361
|
94
|
LÊ HỒNG PHONG
|
Lê Hồng Phong (1902-1942):
Quê xã Thông Lạng (nay là xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An). Lớn
lên, ông làm thư ký cho một hiệu buôn, rồi làm thợ ở nhà máy diêm Vinh. Chính
nơi đây ông được giác ngộ cách mạng. Năm 1924, ông cùng Phạm Hồng Thái sang
Thái Lan, rồi Trung Quốc để liên lạc với cách mạng. Ít lâu sau ông được kết nạp
vào Tâm Tâm xã, rồi gia nhập Cộng sản đoàn, nòng cốt của Hội Việt Nam thanh
niên cách mạng. Ông được gửi vào học trường Quân sự Hoàng Phố và trường Không
quân ở Liên Xô, tiếp đó vào học trường Đại học Phương Đông nghiên cứu lý luận
cách mạng. Cuối năm 1931, ông lên đường về nước. Năm 1934, Ban lãnh đạo hải
ngoại do ông phụ trách hoạt động rất tích cực, vì thế, chẳng bao lâu, phong
trào cách mạng trong nước hồi phục dần, ông là trưởng đoàn đại biểu Đảng ta
sang Liên Xô dự Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản, được bầu làm Ủy
viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Cùng thời kỳ này tại Đại hội lần thứ nhất
của Đảng họp ở Ma Cao (Trung Quốc), ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung
ương, giữ cương vị Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương. Cuối năm 1937, Ông về
Sài Gòn - Chợ Lớn cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo phong trào cách mạng.
Tháng 9/1939, ông bị địch bắt tại quê nhà rồi đưa vào giam ở Khám Lớn (Sài
Gòn), sau đó bị đày ra Côn Đảo và hy sinh (5/9/1942).
|
LÊ HỒNG PHONG
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 390
|
95
|
TRẦN PHÚ
|
Trần Phú (1904-1931): Quê huyện
Đức Thọ, Hà Tĩnh (sinh tại Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi). Đỗ đầu Cao đẳng Tiểu học
ở Huế (1922), được bổ về dạy ở trường Tiểu học Cao Xuân Dục ở Vinh. Năm 1925,
ông tham gia hội Phục Việt (sau đổi tên thành Hưng Nam, rồi Tân Việt cách mạng
đảng). Mùa xuân năm 1927, ông được cử sang học trường Đại học Phương Đông
Matxcova, nhóm cộng sản Việt Nam học tại đây do ông làm Bí thư. Tháng 4/1930,
ông về nước được bổ sung vào Ban chấp hành trung ương lâm thời của Đảng và khởi
thảo Luận cương chính trị, đề ra đường lối mới cho cách mạng Việt Nam. Luận
cương chính trị được Hội nghị Trung ương lần thứ nhất họp ở Hương Cảng (Trung
Quốc) tháng 10/1930 thông qua. Cũng tại hội nghị này, Trần Phú được cử làm Tổng
Bí thư của Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 4/1931, bị địch bắt tại Sài Gòn.
Tháng 8/1931, ông bị ốm nặng, thực dân Pháp buộc phải đưa ông sang điều trị tại
nhà thương Chợ Quán. Nhưng bệnh tình qúa trầm trọng nên ngày 6/9/1931 ông đã
từ trần.
|
TRẦN PHÚ
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 392
|
96
|
TRIỆU QUANG PHỤC
|
Triệu Quang Phục (?-571):
Danh tướng của Lý Bí, ông là con của Triệu Túc, quê ở Chu Diên, phủ Vĩnh Tường,
tỉnh Vĩnh Yên (nay thuộc Vĩnh Phúc). Giỏi võ nghệ từ sớm, ông đã cùng cha
theo Lý Bí khởi nghĩa, lật đổ chính quyền đô hộ, giải phóng đất nước. Năm 546
Lý Bí rút vào động Khuất Lão, giao quyền chỉ đạo cuộc kháng chiến cho Triệu
Quang Phục. Năm 548 ông lên ngôi vua xưng là Triệu Việt Vương, dân gian gọi
ông là Dạ Trạch Vương. Năm 550 ông tiến quân từ căn cứ Dạ Trạch đánh giết tướng
giặc Dương Sàn. Đất nước giải phóng. Ông về kinh thành, được tồn làm triệu Việt
Vương. Sau ông bị Lý Phật Tử bội ước đánh úp, Quang Phục chống cự không nổi,
phải chạy về phía nam đến của Đại An (Nam Định) rồi mất. Nhân dân địa phương
đã lập đền thờ ông.
|
TRIỆU QUANG PHỤC
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 396
|
97
|
PHAN ĐÌNH PHÙNG
|
Phan Đình Phùng (1847-1895):
Người làng Đông Thái, nay là xã Đức Phong, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, đỗ tiến
sĩ năm 1877, được bổ làm Tri huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, sau về Huế giữ
chức Ngự sử. Tính ông cương trực, khảng khái. Năm 1885, Tôn Thất Thuyết họp
đình thần để công bố việc phế bỏ vua Dực Đức, đưa Hiệp Hòa lên ngôi. Cả triều
đình chỉ có ông dám đứng lên phản đối, nên bị cách chức, đuổi về làng. Nhưng
hai năm sau, khi đưa vua Hàm Nghi ra Hà Tĩnh, Tôn Thất Thuyết lại triệu Phan
Đình Phùng ra và cử giữ chức Hiệp thống quân vụ, lãnh đạo nghĩa quân chống thực
dân Pháp. Đại bản doanh nghĩa quân đặt tại vùng rừng núi Hương Sơn, Hương Khê
(Hà Tỉnh), còn địa bàn hoạt động của nghĩa quân rất rộng, bao gồm vùng Nghệ -
Tĩnh, một phần tỉnh Quảng Bình và một phần tỉnh Thanh Hóa. Tuy phải chiến đấu
trong điều kiện vô cùng gian khổ, ông vẫn duy trì cuộc kháng chiến trong 10
năm, được nhân dân và quân sĩ tin yêu, ủng hộ nhiệt liệt. Ông bị thương trong
một trận đánh và sau đó mất ngày 28/12/1895.
|
PHAN ĐÌNH PHÙNG
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 397
|
98
|
VŨ TRỌNG PHỤNG
|
Vũ Trọng Phụng (1912-1939):
Bút danh Thiên Hư, nhà văn Việt Nam. Quê làng Hảo, huyện Mĩ Hào, Hưng Yên. Sống
ở Hà Nội. Lúc 16 tuổi, thôi học làm thư kí đánh máy, nhân viên bán hàng,
nhưng đều bị sa thải. Từ năm 1930, làm báo, viết văn. Mất trong nghèo túng vì
bệnh lao phổi. Vũ Trọng Phụng viết cả truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng sự, kịch,
phê bình văn học, dịch thuật... ở thể loại nào ông cũng tỏ ra sắc sảo, song ở
phóng sự và tiểu thuyết tài năng cử Vũ Trọng Phụng phát huy đầy đủ hơn cả: Kỹ
nghệ lấy Tây (1934), Cơm thầy ơn cô (1936), là những thiên phóng sự thuộc loại
hay nhất trong văn xuôi Việt Nam, báo chí đã gọi Vũ Trọng Phụng là “ông vua
phóng sự đất Bắc”. Giông tố (1936), Số đỏ (1936), là hai tiểu thuyết có thể gọi
là kiệt tác của nền văn xuôi hồi bấy giờ. Với một sức bút mãnh liệt, một tài
năng dồi dào, ông có ảnh hửng rõ rệt đến sự trưởng thành của nền văn xuôi Việt
Nam đương thời.
|
VŨ TRỌNG PHỤNG
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 4, Tr. 935
|
99
|
NGUYỄN TRI PHƯƠNG
|
Nguyễn Tri Phương
(1800-1873): Quê ở làng Chi Long, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế; thi
không đỗ nên chỉ được bổ làm Thư lại. Song nhờ có tài năng và đạo đức ông được
thăng đến chức vụ đầu triều, nhiều lần giữ chức Thống đốc quân vụ ở Nam Kì, Bắc
Kì. Năm 1858, ông là người cầm quân chống Pháp xâm lược ở Đà Nẵng. Ngày
20/11/1873, quân Pháp do Garnier chỉ huy, đánh thành Hà Nội. Nguyễn Tri
Phương thân chinh ra chỉ huy chiến đấu ở cửa Nam thành và bị trọng thương. Giặc
Pháp thừa thế xông vào chiếm thành, bắt giữ ông, chúng muốn cứu chữa, nhưng
ông kiên quyết không chịu dùng thuốc, ông tuyệt thực đến ngày 20/12/1873 thì
mất.
|
NGUYỄN TRI PHƯƠNG
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 401
|
|
|
|
|
|
100
|
BÀ HUYỆN THANH QUAN
|
Bà Huyện Thanh Quan (đầu thế
kỷ XIX): Tên thật là Nguyễn Thị Hinh, quê ở làng Nghi Tàm, huyện Hoàn Long
(nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội). Bà là vợ ông Lưu Nghi, người làng Nguyệt
Áng, huyện Thanh Trì, làm Tri huyện ở huyện Thanh Quan (Đông Hưng, Thái
Bình), nên bà thường được gọi theo chức vụ của chồng là Bà huyện Thanh Quan.
Bà nổi tiếng hay chữ, được vời vào kinh làm Cung trung giáo tập, dạy các công
chúa và cung phi. Tác phẩm chỉ thấy có một số bài thơ Nôm được truyền tụng.
|
BÀ HUYỆN THANH QUAN
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 183
|
101
|
LẠC LONG QUÂN
|
Lạc Long Quân: Tên thật là
Sùng Lãm, khoảng thiên niên kỷ 3 TCN; nhân vật huyền thoại lịch sử, tổ tiên của
người Việt, Cha của vua Hùng thứ nhất. Con của Kinh Dương Vương, nòi rồng, đất
phương Nam. Lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ (giống tiên, gốc phương Bắc), sinh ra
một bọc trăm trứng, nở thành 100 con trai, sau đó Lạc Long Quân đem 50 con xuống
biển, Âu Cơ đem 50 con lên vùng núi cao, tỏa ra thành tổ tiên người Việt. Người
con cả theo mẹ lên núi được suy tôn làm vua nước Văn Lang, đóng đô ở Phong
Châu (Phú Thọ ngày nay), hiệu là Hùng Vương.
|
LẠC LONG QUÂN
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 2. Tr 625
|
102
|
CAO BÁ QUÁT
|
Cao Bá Quát (1808-1855): Thủ
lĩnh nghĩa quân nông dân Bắc kì, nhà thơ lớn, nhà thư pháp. Tự Chu Thần, hiệu
Cúc Đường, Mẫn Hiên, quê xã Phú Thụy, huyện Gia Lâm (Hà Nội). Ông đỗ cử nhân,
thuở nhỏ nổi tiếng “văn hay, chữ tốt”, những mấy lần vào kinh thi Hội đều phạm
trường quy nên bị đánh hỏng. Năm 1841, ông vào làm việc ở Bộ Lễ tại kinh đô
Huế. Năm 1853 -1854, các tỉnh Sơn Tây, Bắc Ninh bị hạn hán, dân đói khổ, lòng
bất mãn với chính quyền phong kiến tràn ngập khắp nơi. Nhân cơ hội này ông tổ
chức cuộc khởi nghĩa trên đất Mỹ Lương, tôn Lê Duy Cự làm minh chủ. Cuộc khởi
nghĩa chưa kịp bùng lên thì bị bại lộ, nên chỉ kéo dài được mấy tháng. Cao Bá
Quát hy sinh tại trận. Cao Bá Quát là nhà thơ lớn, người bấy giờ ca ngợi:
“Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán”. Thơ văn của ông còn lại không nhiều, khoảng
1000 bài Nôm và Hán trong bộ Cao Chu Thần thi văn tập, thể hiện rõ bản lĩnh của
ông, luôn giữ nhân cách cao thượng, không gập lưng uốn gối tìm giàu sang, đồng
thời cũng biểu hiện tình yêu thiên nhiên đất nước, yêu lịch sử, đề cao các
anh hùng dân tộc, các nhà Nho có nhân cách, phản ánh nỗi cực khổ của dân
nghèo.
|
CAO BÁ QUÁT
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr.
|
103
|
NGÔ QUYỀN
|
Ngô Quyền (899-944): Người chỉ
huy trận Bạch Đằng nổi tiếng. Ông là người Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội). Năm
937, Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết hại. Ông quyết định đem quân từ
Châu Ái ra trừng trị tên phản chủ cướp quyền. Kiều Công Tiễn hoảng sợ, cho
người sang Nam Hán cầu cứu. Vua Nam Hán nhân đó, một lần nữa tổ chức cuộc xâm
lược. Ông lãnh đạo nhân dân đánh bại quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng lịch sử
“vang dội đến nghìn thu” đã khẳng định nền độc lập của đất nước ta. Năm 939,
Ngô Quyền xưng vương, xây dựng lại chính quyền, đóng đô ở Cổ Loa. Năm 944,
Ngô Quyền mất.
|
NGÔ QUYỀN
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 410
|
104
|
LÊ THỊ RIÊNG
|
Lê Thị Riêng (1925 - 1968):
Nhà hoạt động Cách mạng, quê ở xã Vĩnh Mỹ, huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu. Năm
1945, bà tham gia kháng chiến chống Pháp. Năm 1965, bà là khu ủy viên Sài
Gòn-Gia Định, Trưởng ban Phụ nữ vận Khu ủy Sài Gòn-Gia Định. Năm 1968, vào
ngày mùng 2 Tết Mậu Thân, bà bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa thủ tiêu, tại bốt
Bà Hòa ở Chợ Lớn (nay là đường Hồng Bàng, Quận 5, thành phố Hồ Chí Minh) cùng
với và một số tù nhân khác, trong đó có ông Trần Văn Kiểu và bà Phùng Ngọc
Anh - một nữ chiến sĩ biệt động nổi tiếng biệt danh “Tiểu Long nữ”. Trong
nhóm người đó chỉ có một mình bà Phùng Ngọc Anh may mắn sống sót vì bà Lê Thị
Riêng đã lấy thân mình che đạn cho bà.
|
LÊ THỊ RIÊNG
|
Báo điện tử Công an Nhân dân.
https://cand.com.vn/Tu-lieu-antg/Nu-Anh-hung- Le-Thi-Rieng-cai-chet-
hoa-thanh-bat-tu-i463534/
|
105
|
NGUYỄN SINH SẮC
|
Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929):
Ông còn có tên là Nguyễn Sinh Huy. Quê làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, Nghệ An,
thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông đỗ Phó bảng năm 1901, làm quan ở kinh
thành Huế, rồi được bổ nhiệm giữ chức Tri huyện Bình Khê (Bình Định). Năm
1927, ông vào Sài Gòn sinh sống bằng nghề Đông y, có thời gian vào làm trong
đồn điền cao su. Để tiện việc theo dõi kiểm soát, thực dân Pháp buộc ông phải
lưu trú tại Cao Lãnh (Đồng Tháp). Tại đây ông tiếp tục hành nghề Đông y và giữ
mối liên lạc với các trí sĩ yêu nước bị thực dân “an trí” ở các địa phương miền
Nam. Năm 1929, ông mất tại Cao Lãnh.
|
NGUYỄN SINH SẮC
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 421
|
106
|
VÕ THỊ SÁU
|
Võ Thị Sáu (1935-1952): Tên thật
Nguyễn Thị Sáu, quê ở làng Đất Đỏ, tỉnh Đồng Nai. Mới 12 tuổi chị Sáu đã được
người anh trai giác ngộ cách mạng, rồi theo anh trốn lên chiến khu. 14 tuổi,
nhận nhiệm vụ, chị trở về hoạt động tại quê nhà. Sau đó, chị ở lại Bà Rịa điều
tra tình hình địch và liên lạc, tiếp tế cho chiến khu. Năm 1950, chị mang lựu
đạn về làng giết Cai tổng Tòng, tên tay sai đại gian ác của địch trong vùng
và bị giặc Pháp bắt. Gần 3 năm, chúng đã giam giữ chị hết nhà tù này đến nhà
tù khác, cùm kẹp, tra tấn dã man, trước sau chị vẫn kiên gan chịu đựng, không
để lộ bí mật cách mạng. Cuối cùng kẻ thù đã xử bắn chị tại Côn Đảo. Chị được
Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.
|
VÕ THỊ SÁU
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 419
|
107
|
NGÔ VĂN SỞ
|
Ngô Văn Sở (?-1795): Danh tướng
cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Ông vốn gốc họ Ngô ở Trảo Nha, huyện Thiên Lộc (Can
Lộc, Hà Tĩnh). Sau rời vào huyện Bình Khê, Quy Nhơn (Tây Sơn, Bình Định). Năm
1787, ông cùng Phan Văn Lân được Nguyễn Huệ cử làm Tham tán quân vụ cùng Vũ
Văn Nhậm kéo quân ra Bắc Hà diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Khi Vũ Văn Nhậm tỏ ý
chuyên quyền, bị Nguyễn Huệ giết, ông được giao quyền cai quản Bắc Hà. Cuối
năm 1788, 29 vạn quân Thanh kéo sang xâm lược, ông nghe lời Ngô Thì Nhậm rút
lui chiến lược, lập phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn (Ninh Bình - Thanh Hóa).
Đầu năm 1789, dưới sự lãnh đạo của Quang Trung, Ngô Văn Sở chỉ huy một cánh
quân đánh quân Thanh, góp phần lập lên chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa. Từ năm
1790 - 1792, ông làm Đô đốc thủy quân cùng với Lê Văn Nhậm, đánh lại bọn phỉ ở
Biển Đông. Năm 1795, ông triệu về Phú Xuân, bị quyền thần Vũ Văn Dũng sát hại.
|
NGÔ VĂN SỞ
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 429
|
108
|
TRẦN QUỐC TẢNG
|
Trần Quốc Tảng (1252 - 1313):
Ông là con trai thứ 3 của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn, tước hiệu là
Hưng Nhượng vương. Ông tham gia cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên lần
thứ hai (1285), lần thứ ba (1288). Lập nhiều chiến công. Sau chiến tranh ông
được phong đất ở Tĩnh Bang (vùng Đông Triều, Quảng Ninh). Tác phẩm để lại có
Phóng cuồng ca
|
TRẦN QUỐC TẢNG
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 437
|
109
|
HÀ HUY TẬP
|
Hà Huy Tập (1902-1941): Xuất
thân trong một gia đình nhà Nho. Quê ở Cẩm Hưng, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh. Năm
1923, ông tốt nghiệp trường Cao đẳng tiểu học ở Huế, được bổ nhiệm về dạy Trường
tiểu học thị xã Nha Trang, Trường tiểu học Cao Xuân Dục (Vinh). Ở đây được
giác ngộ cách mạng, năm 1925, ông tham gia Hội Phục Việt (sau đổi thành Tân
Việt). Cuối năm 1928, được cử sang Quảng Châu bàn việc hợp nhất Hội Tân Việt
với Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và chuyển sang hoạt động trong Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên. Năm 1929, sang Liên Xô học trường Đại học Phương
Đông của Quốc tế cộng sản. Đầu năm 1934, Hà Huy Tập về Ma Cao (Trung Quốc),
tham gia Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng. Tháng 3/1935, giữ cương vị Bí thư Ban
chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 7/1936 cùng với Lê Hồng
Phong chủ trì Hội nghị I, của Ban chấp hành trung ương Đảng, quyết định thành
lập mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi, sau đổi thành Mặt trận thống nhất dân
chủ. Tại Đại hội này Hà Huy Tập được cử giữ chức Tổng Bí thư Ban chấp hành
trung ương Đảng công sản Đông Dương. Sau Hội nghị ông trở về nước trực tiếp
chỉ đạo phong trào cách mạng. Đến hội nghị Ban Chấp hành trung ương tháng
3/1938, Nguyễn Văn Cừ giữ chức Tổng Bí thư Đảng, Hà Huy Tập là Ủy viên Ban chấp
hành Trung ương Đảng. Ngày 30/3/1940, bị bắt và giam tại Khám Lớn (Sài Gòn),
ngày 25/3/1941, bị Pháp buộc tội là người chịu trách nhiệm tinh thần về cuộc
khởi nghĩa Nam kì và kết án tử hình. Ngày 28/8/1941, bị bắn tại Hóc Môn (Gia
Định). Hà Huy Tập là một chiến sĩ cách mạng kiên cường, đã hi sinh anh dũng
vì nền độc lập, tự do của đất nước, vì lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản.
|
HÀ HUY TẬP
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 445
|
110
|
PHẠM NGỌC THẠCH
|
Phạm Ngọc Thạch (1909-1968):
Ông sinh tại thành phố Sài Gòn. Sau khi đỗ bác sĩ y khoa tại Hà Nội, năm 1935
ông về quê mở bệnh viện tư hành nghề. Là một trí thức giầu lòng yêu nước, sớm
giác ngộ cách mạng. Năm 1941 tham gia phong trào do Đảng Cộng sản Đông Dương
lãnh đạo, chữa bệnh cho cán bộ hoạt động bí mật, tuyên truyền vận động cho Mặt
trận Việt Minh. Là đảng viên cộng sản từ tháng 5/1945, thời kì tiền khởi
nghĩa ông tham gia và lãnh đạo Thanh niên tiền phong, đã góp phần vào Cách mạng
tháng Tám thắng lợi ở Sài Gòn - Chợ Lớn. Cách mạng tháng Tám thành công ông cử
làm Bộ trưởng bộ Y tế của Chính phủ trung ương lâm thời. Kháng chiến Nam Bộ,
rồi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng ở
trong Nam và ở Trung ương (Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính đặc khu Sài
Gòn - Chợ Lớn; Thứ trưởng Chủ tịch phủ...). Hòa bình lập lại (1954), ông lần
lượt giữ chức Thứ trưởng, rồi Bộ trưởng Bộ Y tế, Viện trưởng viện chống Lao
trung ương. Đế quốc Mĩ xâm lược miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại ra
miền Bắc, ông chỉ đạo toàn ngành chuyển hướng công tác đẩy mạnh đào tạo cán bộ
và sản xuất thuốc, phục vụ kịp thời và đắc lực cho cuộc kháng chiến. Ông là đại
biểu Quốc hội các khóa II, III, Chủ tịch Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam, Ủy
viên Hội trừ lao quốc tế. Ông hy sinh ở chiến trường miền Nam Việt Nam năm
1968. Ông được Quốc hội và Chính phủ tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, truy tặng
Giải thưởng Hồ Chí Minh (1996).
|
PHẠM NGỌC THẠCH
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 448
|
111
|
HOÀNG HOA THÁM
|
Hoàng Hoa Thám (1858-1913):
Ông gốc ở làng Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, sau di cư lên Sơn Tây
(Hà Tây), rồi lại lên Yên Thế (Bắc Giang). Cha là Trương Văn Thân, một nông
dân nghèo. Năm 1885, ông đã có mặt trong đội quân khởi nghĩa chống Pháp cùng
với Bá Phức, Thống Luận dưới quyền chỉ huy của Hoàng Đình Kinh (Cai Kinh), lấy
tên là Đề Dương được Cai Kinh đổi tên thành Hoàng Hoa Thám (tức Đề Thám). Sau
khi Cai Kinh chết, Đề Thám tách ra hoạt động riêng và trở thành thủ lĩnh của
phong trào nông dân Yên Thế chống thực dân Pháp xâm lược với biệt danh “Hùm
xám Yên Thế”. Trong suốt thời gian lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống Pháp, ông
đã tổ chức đánh nhiều trận thắng lợi, như: Trận thung lũng Hố Chuối (tháng
12/1890), trận Đồng Hom (tháng 3/1892), tiếp đến nhiều trận đánh khác gây cho
địch nhiều tổn thất nặng nề. Lần thứ nhất, năm 1894, kẻ địch buộc phải để ông
làm chủ 4 tổng: Hữu Thượng, Nhã Nam, Mục Sơn, Yên Lễ. Lần thứ 2, năm 1897,
Pháp phải công nhận ông được phép khẩn hoang ở Phồn Xương. Đồn điền Phồn
Xương thực chất là một căn cứ chống Pháp là nơi thu hút các sĩ phu, thủ lĩnh
các phong trào yêu nước. Tháng 1/1909, thực dân Pháp tấn công trở lại, Hoàng
Hoa Thám kịp thời đối phó, Tháng 11/1909, thực dân Pháp dồn lực lượng về Yên
Thế bao vây Đề Thám, Bà Ba Cẩn (vợ ba Đề Thám) bị bắt, nhiều nghĩa quân khác
lần lượt hi sinh. Nghĩa quân dần dần tan rã. Ngày 10/2/1913, ông bị bọn tay
sai của Pháp sát hại
|
HOÀNG HOA THÁM
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 454
|
112
|
TÔN ĐỨC THẮNG
|
Tôn Đức Thắng (1888-1980): Chủ
tịch Tôn Đức Thắng. Quê ở xã Mỹ Hoà Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh Long
Xuyên (nay là tỉnh An Giang). Năm 1912, ông đã tổ chức và lãnh đạo cuộc bãi công
của học sinh trường dạy nghề và công nhân nhà máy sửa chữa tàu thủy Ba Son.
Sau đó bị thực dân Pháp lùng bắt ráo riết, ông phải trốn sang Pháp, sau vào
làm thợ máy trong hải quân Pháp. Năm 1919, ông tham gia cuộc binh biến tại Biển
Đen, chống lại cuộc chiến tranh can thiệp của đế quốc nhằm tiêu diệt nước cộng
hòa Xô viết Nga. Trở về nước năm 1920 trong đợt binh lính Việt Nam hồi hương,
ông ra sức xây dựng các cơ sở công hội bí mật tại khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn
và đã lãnh đạo cuộc bãi công của công nhân Ba Son tháng 8/1925 thắng lợi. Năm
1926, ông gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, cuối năm 1929 bị thực
dân Pháp bắt kết án 20 năm khổ sai và đầy ra Côn Đảo. Cách mạng tháng Tám
thành công, từ năm 1945 - 1969, ông giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Đảng,
Nhà nước, Mặt trận: Chủ tịch Mặt trận liên minh ba nước Đông Dương, Chủ tịch Ủy
ban trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam từ 1955, Phó chủ tịch nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa từ 1960... Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, ông được cử
làm Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và giữ chức đó tới ngày qua đời.
Do những cống hiến to lớn, ông đã được tặng thưởng Huân chương Sao vàng
(1958).
|
TÔN ĐỨC THẮNG
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 470
|
113
|
NGUYỄN CHÍ THANH
|
Nguyễn Chí Thanh (1914-1967):
Quê ở huyện Quảng Điền, Thừa Thiên Huế. Ông tham gia phong trào Mặt trận Bình
dân, được kết nạp vào Đảng Công sản Đông Dương tháng 7/1937, năm 1938 làm Bí
thư tỉnh ủy Thừa Thiên. Giữa năm 1939, bị thực dân Pháp bắt và giam ở các nhà
lao Huế, Lao Bảo, Buôn Ma Thuột. Năm 1941, ông vượt ngục và cùng một số đồng
chí khác thành lập Tỉnh ủy lâm thời Thừa Thiên. Năm 1943, ông lại bị bắt, ra
khỏi tù sau cuộc Nhật đảo chính Pháp (3/1945), ông được cử đi dự hội nghị toàn
quốc của Đảng ở Tân Trào, được bầu vào Ban chấp hành trung ương Đảng, được chỉ
định làm Bí thư Xứ ủy Trung kì. Năm 1947, được chỉ định làm Bí thư tỉnh ủy Thừa
Thiên, sau đó làm Bí thư phân khu ủy Bình - Trị -Thiên. Tại Đại hội toàn quốc
lần thứ II của Đảng (1951) ông được bầu vào Ban chấp hành Trung ương và được
cử vào Bộ Chính trị. Sau ngày hòa bình lập lại ông đã góp phần xây dựng quân
đội lớn mạnh, năm 1959, được phong quân hàm đại tướng. Trong kháng chiến chống
Mĩ, ông được Đảng điều động trở lại quân đội, năm 1965 vào miền Nam tham gia
lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mĩ. Do
|
NGUYỄN CHÍ THANH
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 456
|
|
|
công lao và thành tích đối với
tổ quốc, đối với cách mạng, ông được nhà nước tặng thưởng nhiều huân chương
cao quý, sau khi mất được truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh và Huân chương
Quân công hạng hai.
|
|
|
114
|
TÔ HIẾN HÀNH
|
Tô Hiến Thành (?-1179): Vi đại
thần nổi tiếng nhà Lý. Quê ở Hạ Mỗ, Đan Phượng, Hà Nội. Làm quan đời Lý Anh
Tông đến chức Thái phó trông coi việc binh. Từ năm 1141 -1159, ông đánh dẹp
các cuộc khởi nghĩa, nổi dậy của Thân Lợi ở Thái Nguyên, các tộc người miền
Tây Nam, đánh quân Champa xâm lấn biên giới. Năm 1175, Lý Anh Tông lập Long
Trát làm Thái tử, phong ông làm Nhập nội Thái phó, tước vương giúp đỡ thái tử.
Năm đó Lý Anh Tông mất, trước khi mất vua di chiếu giao cho ông giúp việc vua
mới với mong muốn “công việc nước nhà nhất thiết tuân theo phép cũ”. Năm
1171, vua mới 3 tuổi lên ngôi, một mình ông phải lo mọi việc nghiêm chỉnh,
công bằng, mọi người đều quy phục. Năm 1979, ông mất.
|
TÔ HIẾN THÀNH
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 462
|
115
|
HOÀNG VĂN THỤ
|
Hoàng Văn Thụ (1906-1944):
Ông dân tộc Tày, quê xã Nhân Lí (nay là xã Hoàng Văn Thụ), huyện Văn Lãng, tỉnh
Lạng Sơn. Sau phong trào truy điệu cụ Phan Châu Trinh (1926), ông cùng với một
số thanh niên lập ra nhóm thanh niên yêu nước ở Lạng Sơn. Một năm sau ông trốn
sang Trung Quốc tìm đường hoạt động cách mạng. Tại đây năm 1929, ông cùng với
Hoàng Đình Giong thành lập chi bộ Đông Dương Công sản đầu tiên ở vùng biên giới
Trung - Việt. Năm 1939 Lê Hồng Phong từ Liên Xô về Trung Quốc, ông đã giúp Lê
Hồng Phong liên lạc với trong nước, mở nhiều lớp huấn luyện ở Long Châu, đào
tạo, huấn luyện thanh niên từ trong nước ra. Đầu năm 1937, ông trở về hoạt động
ở Cao Bằng, được bổ xung vào Xứ ủy Bắc Kì. Tháng 3/1939, ông được bầu làm Bí
thư Xứ ủy Bắc Kì. Tháng 8/1943 trên đường đi dự họp ở Hà Nội, ông bị mật thám
Pháp bắt tại khu Tám Mái (Hà Nội). Ngày 24/5/1944, địch sử bắn ông tại trường
bắn Tương Mai (Hà Nội).
|
HOÀNG VĂN THỤ
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 496
|
116
|
TÔN THẤT THUYẾT
|
Tôn Thất Thuyết (1835-1913):
Quê làng Phú Mộng, xã Xuân Long, Huế. Năm 1869 được bổ nhiệm chức Án sát Hải
Dương, rồi sang làm Tán tương quân vụ dưới quyền Hoàng Tá Viêm. Ngày
21/12/1873, ông tham gia đánh trận Cầu Giấy lần thứ nhất ở cửa ngõ phía Tây
Hà Nội, cùng với đội quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc. Tháng 6/1883, ông được bổ
sung vào Viện cơ mật. Sau khi Tự Đức mất, ông là một trong ba phụ chính đại
thần. Lúc bấy giờ triều đình đã đầu hàng thực dân Pháp. Những trước sau ông vẫn
là người chủ chiến và ra sức xây dựng lực lượng để đánh giặc, gành lại chủ
quyền. Khi thất bại trong một cuộc binh biến năm 1885, Tôn Thất Thuyết đã đưa
vua Hàm Nghi ra sơn phòng tỉnh Quảng Trị xuống chiếu Cần Vương, kêu gọi toàn
dân kháng chiến. Ông mất tháng 3/1913.
|
TÔN THẤT THUYẾT
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 502
|
117
|
TUỆ TĨNH
|
Tuệ Tĩnh (cuối thế kỷ XIV): Tên
thật là Nguyễn Bá Tĩnh, danh y thời Trần. Ông hiệu là Hồng Nghĩa Đường, quê ở
Nghĩa Lư, Hồng Châu (Nghĩa Phú, Bình Giang, Hải Dương). Năm 22 tuổi ông đi
thi Hội đỗ, nhưng không làm quan, xin về quê chữa bệnh, bốc thuốc. Ông thường
đi lại khám chữa bệnh, ở 24 ngôi chùa ở Hồng Châu, vận động mọi người trồng
cây thuốc nam với phương châm “Thuốc Nam Việt chữa người Nam Việt”, không những
thế ông còn dạy các nhà sư cách chữa bệnh thông thường, thu thập kinh nghiệm
chữa bệnh trong dân gian, ghi lại thành sách như: Nam dược thần hiệu, Nam dược
Quốc ngữ phú ...Nhân dân xem ông là vị thánh thuốc Nam. Truyền rằng, cuối thế
kỷ XIV, ông bị triều đình bắt đem cống cho nhà Minh, rồi mất ở bên ấy.
|
TUỆ TĨNH
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 566
|
118
|
NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
|
Nguyễn Trường Tộ (1830
-1871): Quê ở làng Bùi Chu, Hưng Nguyên, Nghệ An, xuất thân trong một gia
đình nghèo, theo đạo Thiên Chúa, thông minh, chăm học và được truyền tụng là
Trạng Tộ. Ông rất chú ý lối học thực dụng và chán ghét lối học từ chương,
khoa cử. Năm 1855, ông được đi tham quan Singapo, Hương Cảng, rồi qua Rome và
Pari học các môn khoa học thường thức, các môn thực nghiệm. Năm 1861, ông về
đến Sài Gòn lúc Pháp đã chiếm Gia Định, ông làm phiên dịch giữa nhà Nguyễn với
Pháp. Ngay trong thời gian này, Nguyễn Trường Tộ đã thiết tha đề nghị triều
đình gấp rút duy tân đất nước, mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước, cử
người đi học tập khoa học, kỹ thuật ở các nước tiên tiến phương Tây. Sau đó
triều đình còn phái ông sang Pháp thuê mướn giáo sư, chuyên gia kỹ thuật, mua
máy móc, sách vở... về mở một trường kỹ thuật theo lối phương Tây. Thời gian
này ông đã gửi về triều đình Huế một bản điều trần rất quan trọng gọi là Tám
điều cấp cứu (như cần gấp rút chấn chỉnh võ bị, bộ máy hành chính, tài chính,
học thuật, thuế điền thổ...). Cuối năm 1870, ông lại xin triều đình cho vào
Nam chuẩn bị cuộc đột kích vào thành Gia Định nhân lúc Pháp gặp khó khăn,
nhưng bị khước từ. Mặc dù vậy, tháng 9/1871 và những ngày tháng tiếp theo,
ông vẫn kiên trì gửi thêm nhiều điều trần tiếp tục đề nghị cải cách, chấn
hưng kinh tế... Cho đến ngày phải nằm trên giường bệnh, ông vẫn thiết tha về
công cuộc cải cách đất nước. Ông mất ngày 10/10/1871. Nguyễn Trường Tộ xứng
đáng được coi là một nhà tư tưởng đổi mới, có hành động thức thời ở nửa sau
thế kỷ XIX đầy biến động của nước ta.
|
NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 524
|
119
|
LÊ THÁI TỔ
|
Lê Thái Tổ (1385-1433): Tên
thật là Lê Lợi, anh hùng dân tộc, lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, giải phóng
đất nước khỏi sự đô hộ của nhà Minh, vị vua khai sáng nhà Hậu Lê. Sinh ngày
10/9/1385 tại quê mẹ. Tổ 3 đời của Lê Lợi là Lê Hồi vốn làm nghề dạy học. Lê
Hồi dời nhà đến Lam Sơn (Thọ Xuân, Thanh Hóa) lập nghiệp. Lê lợi thừa nghiệp
của ông (Lê Dinh) và cha (Lê Khoáng) trở thành một hào trưởng lớn vùng Lam
Sơn. Đầu năm 1416, Lê Lợi cùng 18 người tâm huyết và chí hướng tổ chức hội thề
ở Lũng Nhai. Đầu năm 1418, Lê Lợi giương cao cờ nghĩa, tự xưng Bình Định
Vương, phát Động khởi nghĩa Lam Sơn. Sau một loạt các chiến thắng vang dội (Tốt
Động-Chúc Động, Chi Lăng- Xương Giang) và đánh tan 2 đạo quân Minh tiếp viện
với kế sách vừa bao vây, vừa dụ hàng. Lê Lợi đã buộc quân Minh cố thủ trong
thành Đông Quan phải cam chịu thất bại, rút quân về nước.
|
LÊ THÁI TỔ
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 2, Tr. 670
|
120
|
LÝ THÁI TỔ
|
Lý Thái Tổ (974 -1028): Người
sáng lập ra nhà Lý, tên huý của Lý Công Uẩn, người châu Cổ Pháp (Đình Bảng, Từ
Sơn, Bắc Ninh), dưới triều vua Lê Đại Hành, ông giữ chức Điện tiền Chỉ huy sứ.
Khi Lê Ngoạ Triều mất, nhà Tiền Lê suy hẳn. Triều đình tôn Lý Công Uẩn lên
ngôi, Lý Công Uẩn lên làm vua, đặt niên hiệu là Thuận Thiên. Năm 1010, ông xuống
chiếu dời đô từ Hoa Lư về Đại La, rồi đổi tên thành Thăng Long. Trong những
năm trị vì ông thường xuyên chăm lo việc ổn định tình hình chính trị, củng cố
thống nhất, phát triển sản xuất, giao hảo với nhà Tống. Tháng 4, năm 1028,
ông mất, miếu hiệu là Thái tổ
|
LÝ THÁI TỔ, LÝ CÔNG UẨN
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 584
|
121
|
TRẦN QUỐC TOẢN
|
Trần Quốc Toản (1267-1285): Vị
thiếu niên anh hùng, danh tướng của cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Có
người cho rằng ông sinh ra ở Trang Liệt (Tiên Sơn, Bắc Ninh), có người cho
ông là con của Hoài Đức vương Bà Liệt, sống ở Tây Chân (Nam Định). Năm 1282,
vua Trần mở hội nghị Bình Than (Hải Dương) để thống nhất ý chí chống giặc. Bấy
giờ ông mới 15 tuổi, tước Hoài Văn hầu, được tin đã tự mình đến dự. Thấy ông
nhỏ tuổi, quân canh giữ không cho vào. Ông nghĩ giận đến nỗi tay bóp nát quả
cam đang cầm lúc nào không biết. Ông quay về trang trại của mình huy động những
người thân thuộc và dân làng xung quanh, họp thành một đạo quân hơn 1000 người,
cùng nhau ngày đêm luyện tập, rèn đúc vũ khí. Năm 1285, quân Nguyên tràn vào
nước ta, theo lời kêu gọi của triều đình, ông dẫn quân lên đường, tham gia
kháng chiến, giương cao lá cờ “Phá cường địch, báo hoàng ân”. Ông tham dự vào
nhiều trận đánh lớn ở Tây Kết (Hưng Yên), Chương Dương (Hà Nội). Trong một trận
đánh ở vùng sông Như Nguyệt, ông đã hy sinh năm 1285, lúc ấy mới tuổi 18. Vua
Trần Nhân Tông thương tiếc, thân làm bài văn tế và truy phong ông tước Vương.
Người thiếu niên anh hùng Trần Quốc Toản trở thành biểu tượng sáng ngời của
tuổi trẻ yên nước Việt Nam.
|
TRẦN QUỐC TOẢN
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr.
|
122
|
VÕ TRƯỜNG TOẢN
|
Võ Trường Toản là người huyện
Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Cụ là một nhà nho lớn, một nhà giáo
đức độ tài ba, lỗi lạc ở miền Nam ở thế kỷ 18.
|
VÕ TRƯỜNG TOẢN
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005. Tr. 121
|
123
|
LÝ THÁI TÔNG
|
Lý Thái Tông (1000-1054): Là
con trưởng của Lý Công Uẩn, tên húy Phật Mã, lại có tên là Đức Chính, sinh ở
Trường Yên (Ninh Bình). Năm 1028 ông lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Thiên
Thành. Năm 1042 ông cho ban hành bộ Hình thư - bộ luật đầu tiên của nước ta,
tiếp đó quy định thể lệ mũ áo các quan khi vào chầu. Ông cũng quan tâm tới mối
quan hệ giữa tộc người Việt với các dân tộc thiểu số ở biên giới. Ông đặt
quan hệ tốt với nhà Tống. Về văn hóa Lý Thái Tông rất chuộng Phật giáo và là
người xây chùa Diên Hựu (Một Cột). Ông mất năm 1054.
|
LÝ THÁI TÔNG
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 451
|
124
|
LÝ THÁNH TÔNG
|
Lý Thánh Tông (1023-1072):
Tên thật là Lý Nhật Tông, vua thứ ba triều Lý, con Lý Thái Tông. Lên ngôi năm
1054, đổi tên nước là Đại Việt. Cho xây tháp Báo Thiên (1057), lập văn miếu
thờ Chu Công, Khổng Tử (1070), kiện toàn quân đội Cấm binh, Sương binh, củng
cố khối đoàn kết dân tộc, có lòng thương dân, khuyến khích nông nghiệp. Năm
1069 đánh Chiêm Thành, vua Chiêm là Chế Củ dâng ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố
Chính (Quảng Bình, Quảng Trị) cho nhà Lý.
|
LÝ THÁNH TÔNG
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 2, Tr. 803
|
125
|
LÝ NHÂN TÔNG
|
Lý Nhân Tông (1066-1128): Tên
thật là Càn Đức, vị vua thứ 4 (1072-1128), triều Lý con vua Lý Thánh Tông và
nguyên phi Ỷ Lan. Lên ngôi lúc 7 tuổi. Việc hoàn thành nhà nước phong kiến tự
chủ thời Lý Trần phần lớn được thực hiện dưới triều Lý Nhân Tông. Lý Nhân
Tông ham chuộng văn hóa, mở đầu nền giáo dục khoa cử và tổ chức khoa thi năm
1075; sống tiết kiệm, chăm lo phát triển nông nghiệp. Cùng Lý Thường Kiệt tiến
hành cuộc kháng chiến chống Tống thắng lợi, có nhiều biện pháp kiên quyết bảo
vệ biên giới phía bắc và thắt chặt quan hệ giữa triều đình với các từ trưởng
thiểu số, ông chỉ mong muốn “bốn bể yên vui, biên thùy ít loạn”.
|
LÝ NHÂN TÔNG
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 2, Tr. 803
|
126
|
TRẦN THÁI TÔNG
|
Trần Thái Tông (1218-1277):
Vua mở nghiệp nhà Trần, tên thật là Trần Cảnh, lại có tên Trần Bồ, sinh năm
1218 tại phủ đệ Tinh Cương, huyện Ngự Thiên, phủ Long Hưng (nay là thôn Tam
Đường, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà).Tháng 10 năm Kiến Gia thứ 4 (1224), Lý
Chiêu Hoàng lên ngôi, Trần Cảnh được vào cung giữ chức nội thị chính thủ. Được
Lý Chiêu Hoàng quý mến, sau được cô, chú tác thành vợ chồng, rồi Chiêu Hoàng
nhường ngôi cho chồng. Trần Cảnh đăng quang, mở ra triều Trần. Năm 1234, Thượng
hoàng Trần Thừa qua đời, vua trực tiếp trị vì đất nước. Các bề tôi có công
tôn phò đều được ban chức cao, bổng hậu. Trong hoàng tộc, với bề trên thì hiếu
thuận, với anh em thì chí tình. Nước được chia thành 12 lộ, đặt chức an phủ,
trấn phủ, quan đại tư xã, tiểu tư xã, bộ máy từ trung ương xuống tận cơ sở đều
nắm chắc. Trần Thái Tông đã lãnh đạo đánh bại cuộc xâm lược lần thứ nhất của
quân Mông Cổ (1258). Ngày 1 tháng 4 năm Bảo Phù thứ 5 (1277), Trần Thái Tông
mất tại cung Vạn Thọ.
|
TRẦN THÁI TÔNG
|
Từ điển Thái Bình; Tỉnh ủy Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Thái
Bình. Nxb văn hóa thông tin, 2010 Tr. 957
|
127
|
TRẦN THÁNH TÔNG
|
Trần Thánh Tông (1258-1278):
Tên thật là Trần Hoảng, con trưởng của Trần Thái Tông và Công chúa Lý Thị Thuận
Thiên. Vua thứ 2 của triều Trần. Năm 1258 cùng vua cha triệu tập Hội nghị
Diên Hồng, phát động lòng yêu nước của toàn dân và cùng các tướng lĩnh phản
công đánh đuổi quân Mông Cổ, khôi phục kinh thành Thăng Long. Lên ngôi năm 19
tuổi, ở ngôi 21 năm, nhường ngôi cho con là Trần Khâm (Trần Nhân Tông), lên
làm Thượng Hoàng. Là ông vua nhân từ, tôn trọng hiền tài, biệt đãi anh em và
người trong họ, chăm lo, săn sóc đến việc huấn luyện văn võ cho con cháu người
trong hoàng tộc nên các vương hầu ai cũng hoà mục, kính sợ.
|
TRẦN THÁNH TÔNG
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005. Tr. 466
|
128
|
TRẦN NHÂN TÔNG
|
Trần Nhân Tông (1279-1293):
Tên húy là Trần Khâm, vua thứ 3 của triều Trần. Trong thời gian ông làm vua,
nước Đại Việt bị quân Mông Nguyên xâm lược lần thứ 2 (1285) và lần thứ 3
(1288). Trần Nhân Tông trở thành ngọn cờ tiêu biểu lãnh đạo nhân dân vượt qua
khó khăn gian khổ đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi huy hoàng. Ông vừa là
nhà chiến lược tài giỏi, vừa là vị tướng cầm quân dũng cảm ngoài chiến trường.
Ông còn là một triết gia lớn, đứng đầu phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử; một thi sĩ
tài hoa, tác giả hai câu thơ bất hủ viết tại Long Hưng, bên lăng Trần Thái
Tông, lúc làm lễ dâng tù binh mừng chiến thắng, ngày 1/4/1288: Xã tắc lưỡng
hồi lao thạch mã/ Sơn hà thiên cổ điện kim âu. cũng hòa mục, kính sợ.
Trần Thánh Tông còn 6 bài thơ chép trong “Việt âm thi tập”.
|
TRẦN NHÂN TÔNG
|
Từ điển Thái Bình; Tỉnh ủy Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Thái
Bình. Nxb văn hóa thông tin, 2010 Tr. 954
|
129
|
TRẦN ANH TÔNG
|
Trần Anh Tông (1276-1320): Tên
thật là Trần Thuyên, nhà thơ Việt Nam, con Trần Nhân Tông, lên làm vua lúc 17
tuổi (1293), khi cả nước đang hàn gắn vết thương chiến tranh và củng cố nền
thống nhất. Thời ông văn học thịnh vượng. Các nhà nho lớp trẻ như Đoàn Nhữ
Hài, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn được trọng dụng. Bản thân ông cũng thích
văn nghệ. Nay thơ ông còn 12 bài chép trong “Việt âm thi tập”.
|
TRẦN ANH TÔNG
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 4, Tr. 546
|
130
|
LÊ THÁNH TÔNG
|
Lê Thánh Tông (1441-1497): Tên
húy là Lê Tư Thành, vua và nhà thơ Việt Nam thời Lê sơ, là người thông minh
ham học hỏi, thông hiểu kinh sử, tập, luật, thi, họa, nổi tiếng uyên bác, lên
ngôi năm 1460 trị vì đất nước 37 năm, lấy hiệu là Quang Thuận (1460- 1469), Hồng
Đức (1470-1497). Ông chủ trì biên soạn Bộ Luật Hồng Đức nổi tiếng của quốc
gia Đại Việt. Là người tổ chức biên soạn nhiều bộ sách quý như “Thiên nam dư
hạ tâp”, “Đại Việt sử ký toàn thư”... Dưới thời Lê Thánh Tông trị vì đất nước
trở nên giàu có, biên giới mở mang, chế độ phong kiến được củng cố vững chắc,
nhân dân an cư lạc nghiệp, văn hóa giáo dục phát triển, đạo Nho trở thành quốc
giáo. Ông là một nhà vua “văn võ song toàn”.
|
LÊ THÁNH TÔNG
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 2, Tr. 671
|
131
|
LÊ HỮU TRÁC
|
Lê Hữu Trác (1720-1791): Hiệu
Hải Thượng Lãn Ông. Đại danh Y, nhà văn, nhà thơ Việt Nam. Quê ở xã Liêu Xá,
huyện Đường Hào (nay là Mỹ Văn), tỉnh Hưng Yên. Năm 1741, về quê ngoại làng
Tình Diễm, Hương Sơn, Hà Tĩnh, nuôi mẹ già, chuyên tâm theo nghề y, trở thành
lương y nổi tiếng cả nước. Năm 1781, được triệu ra kinh thành Thăng Long chữa
bệnh cho Trịnh Sâm và con Trịnh Cán. Lê Hữu Trác đề cao y đức, hết lòng cứu
chữa người bệnh không phân biệt giàu nghèo, sang hèn. Cuốn Thượng kinh ký sự
kể lại chuyến ra Thăng Long chữa bệnh cho chúa Trịnh của ông là một tài liệu
lịch sử, một áng văn có giá trị. Bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh, của Lê Hữu
Trác (66 quyển) là bộ bách khoa thư về y học cổ truyền Việt Nam. Ông còn là
tác giả của nhiều bài thơ tự sự, vịnh cảnh có giá trị hiện thực, trữ tình và
nhân đạo sâu sắc.
|
LÊ HỮU TRÁC
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 2, Tr. 667
|
132
|
NGUYỄN TRÃI
|
Nguyễn Trãi (1380-1442): Anh
hùng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất, tài đức vẹn toàn. Hiệu là Ức Trai, quê ở
làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc (Thường Tín, Hà Nội). Tổ tiên ông vốn quê Chí
Linh, Hải Dương. Cha là Nguyễn Phi Khanh, Thái học sinh thời Trần. Ông đỗ Tiến
sĩ năm 1400, được làm Ngự sử đại phu thời Hồ Quý Ly. Năm 1407, giặc Minh xâm
lược nước ta, Nhà Hồ mất. Đầu năm 1416, ông trốn vào Thanh Hóa tham dự hội thề
Lũng Nhai, cùng Lê Lợi tổ chức cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Nguyễn Trãi đã từng
dâng Lê Lợi bản Bình Ngô sách, chỉ rõ con đường cứu nước với chủ trương đánh
vào lòng người. Khởi nghĩa Lam Sơn hoàn toàn thắng lợi, Nguyễn Trãi thay Lê Lợi
thảo “Bình Ngô đại cáo” có giá trị như một bản tuyên ngôn độc lập, được người
đời sau đánh giá là “thiên cổ hùng văn”. Ngày thắng lợi, ông được coi là bậc
công thần, ban quốc tính, tước Quan phục hầu. Tuy nhiên, năm 1442, toàn thể
gia đình Nguyễn Trãi bị tru di ba họ trong vụ án Lệ Chi Viên. Hơn hai mươi
năm sau, vua Lê Thánh Tông mới minh oan và phục chức cho ông truy phong tước
Tế văn hầu.
|
NGUYỄN TRÃI
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
|
133
|
HUYỀN TRÂN
|
Huyền Trân (thế kỷ XIII-thế kỷ
XIV): Huyền Trân công chúa. Là công chúa, con gái thượng hoàng Trần Nhân
Tông, em gái vua Anh Tông. Năm 1306, vua cha đem gả cho vua Champa là Chế Mân
để đổi lấy 2 châu Ô, Lý (Quảng Trị, Huế). Huyền Trân về Champa được phong làm
hoàng hậu. Sau khi Chế Mân chết, vua Trần sai quan Thượng thư Tả bộc xạ Trần
Khắc Chung tìm cách đưa bà nước, thoát khỏi tục tuẫn táng trên dàn lửa.
|
HUYỀN TRÂN,
HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 2. Tr. 414
|
134
|
PHAN CHÂU TRINH
|
Phan Châu Trinh (1872-1926):
Quê làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Năm 1900, ông thi Hương đỗ
Cử nhân. Năm 1901, thi Hội đỗ Phó bảng, được bổ dụng làm Thừa biện Bộ Lễ
trong triều đình Huế. Ít lâu sau do tiếp thu ảnh hưởng tư tưởng cách mạng dân
chủ tư sản, ông từ quan về liên lạc với các nhà yêu nước như Huỳnh Thúc
Kháng, Trần Quý Cáp đề xướng phong trào Duy Tân. Năm 1906, ông viết thư giử
toàn quyền Đông Dương tố cáo những chính sách hủ bại trong nước, lên án bọn
quan lại phong kiến Nam triều. Năm 1907, Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội và một
số chi nhánh đã mời ông ra diễn thuyết và hô hào duy tân, cải cách. Năm 1908,
phong trào chống thuế của nông dân Trung kì nổ ra. Cùng với nhiều chí sĩ
khác, ông bị bắt tại và đày đi Côn Đảo. Sau 3 năm ra tù, ông xin sang Pháp với
ý định tranh thủ hội Nhân quyền Pháp để đòi chính quyền thực dân ở Đông Dương
cải cách chính trị, tôn trọng nhân quyền. Trong thời gian ở Pháp ông tiếp xúc
với một số nhà trí thức yêu nước tiến bộ của Việt Nam sống ở Pháp (như Phan
Văn Trường), đặc biệt có mối liên hệ mật thiết với Nguyễn Ái Quốc từ năm
1917-1923. Năm 1925, ông trở về nước tiếp tục hoạt động theo đường lối cũ,
sau đó bị ốm nặng rồi từ trần ngày 14/3/1926. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng
của mình, ông có sáng tác nhiều văn thơ yêu nước như: Thư gửi chính phủ Đông
Dương, Tỉnh quốc hồn ca, Thư giử Hội nhân quyền, Santé thi tập, Giai nhân kỳ
ngộ. Số thơ văn này đã góp phần làm phong phú kho tàng văn học Việt Nam.
|
PHAN CHÂU TRINH
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 540
|
135
|
TRIỆU THỊ TRINH
|
Bà Triệu (?-248): Thủ lĩnh
nghĩa quân chống Ngô, tên thật là Triệu Thị Trinh, Triệu Trinh Nương; người
vùng Quan Yên (Định Công, Yên Định, Thanh Hóa). Bà thường nói “Tôi muốn cưỡi
cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân
Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chớ đâu chịu làm tì thiếp người”.
Năm 248 cùng anh là Triệu Quốc Đạt khởi nghĩa chống quân thống trị nhà Ngô.
Nghĩa quân đã lấy núi Tùng (Hà Trung, Thanh Hóa) làm nơi xuất phát và tiến
quân về thành ấp, đánh bại quân đô hộ. Nghĩa quân đánh đâu thắng đó. Các huyện
ở Cửu Chân lần lượt được giải phóng. Ngô vương đã cử tướng giỏi là Lục Dận
đem quân sang đàn áp. Thế cùng lực tận, bà tuẫn tiết trên ngọn Tùng Sơn (Hậu
Lộc, Thanh Hóa). Nay ở đó còn lăng mộ và đền thờ bà.
|
TRIỆU THỊ TRINH, BÀ TRIỆU
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 542
|
136
|
LÝ TỰ TRỌNG
|
Lý Tự Trọng (1914-1931): Thuở
nhỏ có tên là Lê Văn Trọng, quê ở xã Thạch Minh, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Gia đình
anh phiêu bạt sang Thái Lan, ông sinh tại bản May, tỉnh Na Khôn, vùng Đông Bắc
Thái Lan. Ông sớm được đi học và có ý thức về những hoạt động cứu nước. Đầu
năm 1926, ông được Tổng bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Trung Quốc
sang Thái Lan chọn đưa về Quảng Châu. Ở đây ông được Nguyễn Ái Quốc đặt tên
là Lý Tự Trọng, rồi được giới thiệu vào học tại trường trung học của chính phủ
Tôn Trung Sơn, sau đó về làm việc ở cơ quan Tổng bộ ở Quảng Châu. Ông góp phần
tích cực vào việc liên lạc giữa Tổng bộ Việt Nam cách mạng thanh niên với Đảng
bộ, các cán bộ cách mạng ở Việt Nam đang hoạt động ở Trung Quốc; đồng thời tổ
chức chuyển thư từ tài liệu của Tổng bộ về nước. Ngày 8/2/1931 để bảo vệ đồng
chí Phan Bôi đang diễn thuyết tuyên truyền cách mạng, Lý Tự Trọng đã bắn chết
mật thám Pháp và bị bắt, ông bị kết án tử hình, Giặc Pháp đã xử tử ông tại
Gài Gòn ngày 21/11/1931.
|
LÝ TỰ TRỌNG
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005
|
137
|
TRẦN BÌNH TRỌNG
|
Trần Bình Trọng (1259-1285): Là
danh tướng của cuộc kháng chiếng chống Mông - Nguyên. Ông thuộc dòng dõi Lê
Hoàn, quê huyện Thanh Liêm, Hà Nam. Nhờ gia đình có nhiều công với nhà Trần
nên ông được ban họ vua. Năm 1285, quân Nguyên xâm lược nước ta. Giặc đánh
vào Thiên Trường (Nam Định), ông được giao nhiệm vụ chặn giặc. Một trận đánh
lớn xảy ra ngày 26/2/1285 ở bãi Đà Mạc (Duy Tiên, Hà Nam). Quân ta thua, Trần
Bình Trọng bị bắt, giặc tìm mọi cách dụ dỗ, tra khảo, nhưng không khuất phục
được ông, ông còn tuyệt thực để nêu cao khí tiết người chiến sĩ bất khuất. Giặc
hỏi “có muốn làm vương đất Bắc không”. Ông quát to “Ta thà làm ma nước Nam chứ
không thèm làm vương đất Bắc”, giặc giết ông, nhưng câu nói bất hủ của người
anh hùng vẫn còn vang vọng mãi.
|
TRẦN BÌNH TRỌNG
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 546
|
138
|
NGUYỄN VĂN TRỖI
|
Nguyễn Văn Trỗi (1940-1964):
Anh quê xã Thanh Quýt, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Gia đình nghèo, mẹ mất
sớm, bố đi làm xa, anh sớm có ý thức tự lập, 15 tuổi đã vào Đà Nẵng, Sài Gòn
tìm việc. Anh sớm giác ngộ cách mạng, tham gia Đoàn Thanh niên, rồi trở thành
chiến sĩ biệt động, hoạt động bí mật trong nội thành. Trong những năm 1963-
1964 phong trào đấu tranh của nhân dân ta chống bè lũ xâm lược Mĩ và bọn bù
nhìn tay sai phát triển mạnh. Chính phủ Mĩ phải cử nhiều phái đoàn quân sự cấp
cao sang miền Nam Việt Nam xem xét tình hình. Các chiến sĩ biệt động nội
thành khẩn trương triển khai các trận đánh địch. Anh xung phong nhận nhiệm vụ
đặc biệt, đặt mìn tại cầu Công Lý để giết tên McNamara Bộ trưởng quốc phòng
Mĩ khi xe đi qua. Anh bị kẻ thù bắt lúc đang thi hành nhiệm vụ (9/5/1964). Giặc
Mĩ và tay sai dùng mọi thủ đoạn dã man, thâm độc, dụ dỗ, mua chuộc đến tra tấn,
khủng bố, những trước sau anh chỉ nhận có một mình mưu giết McNamara. Chúng xử
bắn anh ngày 15/10/1964 tại Sài Gòn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ghi trên tấm ảnh
Nguyễn Văn Trỗi trên pháp trường như sau: “Vì Tổ quốc, vì nhân dân, liệt sĩ
Nguyễn Văn Trỗi đã anh dũng đấu tranh chống đế quốc Mĩ đến hơi thở cuối cùng.
Chí khí lẫm liệt của anh hùng Trỗi là tấm gương cách mạng sáng ngời cho mọi
người yêu nước, nhất là cho các cháu thanh niên học tập”. Anh được truy tặng
danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.
|
NGUYỄN VĂN TRỖI
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 547
|
139
|
NGUYỄN TRUNG TRỰC
|
Nguyễn Trung Trực
(1887-1868): Ông còn có tên là Nguyễn Văn Lịch (Quản Lịch), người phủ Tân An,
tỉnh Định Tường (nay thuộc tỉnh Long An). Ông thông hiểu chữ Hán vừa làm nghề
nông, vừa làm nghề chài lưới. Ngay khi Pháp đánh chiếm Nam kì, ông đã đứng
lên chống lại chúng. Trận đánh nổi tiếng của ông là trận đốt cháy pháo hạm Hi
Vong (Espérance) trên sông Vàm Cỏ Đông ngày 10/12/1861. Sau trận đó ông được
triều đình Huế phong chức Quản cơ, coi giữ vùng Hà Tiên. Năm 1867, Pháp chiếm
xong Nam Kì, triều đình Huế lấn sâu vào con đường đầu hàng. Ông lập căn cứ
kháng chiến ở đảo Hòn Chông. Rạng sáng ngày 16/6/1868, ông đưa quân về đánh
úp đồn Kiên Giang (nay là thị xã Rạch Giá), tiêu diệt troàn bộ quân Pháp đóng
ở đó, rồi rời sang đảo Phú Quốc. Giặc Pháp đã huy động một lực lượng lớn đuổi
theo, bao vây và tấn công đảo này. Tháng 9/1868, ông bị giặc bắt, ông đã nói
một câu nổi tiếng “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam, thì mới hết người
Nam đánh Tây”. Cuối cùng giặc đã hành hình ông ở Rạch Giá ngày 27/10/1868.
|
NGUYỄN TRUNG TRỰC
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 551
|
140
|
HAI BÀ TRƯNG
|
Tên gọi khác: Trưng Vương,
Trưng Nữ Vương. Chỉ 2 chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị. Hai bà dòng dõi họ Lạc
(Hùng), không rõ năm sinh, mất năm 43. Quê gốc ở làng Hạ Lôi, huyện Mê Linh
(Hà Nội ngày nay). Mùa Xuân năm 40, Hai Bà phát động cuộc khởi nghĩa sau khi
tập họp được lực lượng nhân dân nhằm lật đổ ách đô hộ của nhà Đông Hán, dựng
lại cơ nghiệp của các Vua Hùng. Cuộc khởi nghĩa lan rộng, được nhân dân các
quận Cử Chân, Hợp Phố hưởng ứng, chính quyền đô hộ trên toàn đất nước ta bị lật
đổ. Khởi nghĩa thắng lợi, Trưng Trắc lên làm vua, đóng đô ở Mê Linh. Cuối năm
42, nhà Đông Hán sai Mã Viện đem quân sang xâm lược. Trong cuộc chiến đấu chống
giặc ở Lãng Bạc, quân của Hai Bà bị thiệt hại nặng, phải lui về phía Mê Linh.
Giặc nhân đó dồn hết lực đánh vào Mê Linh, quân Hai Bà rút về Cẩm Khê (chân
núi Ba Vì, Hà Nội). Trong một trận đánh, Hai Bà chống không nổi đã tự vẫn”Cẩm
Khê đến lúc hiểm nghèo/Chị em thất thế đành liều với sông”
|
HAI BÀ TRƯNG, TRƯNG NỮ VƯƠNG, TRƯNG VƯƠNG
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Trang 552
|
141
|
HỒ NGUYÊN TRỪNG
|
Hồ Nguyên Trừng (1374-1446):
Nhà quân sự thời Trần - Hồ. Ông là con trai đầu của Hồ Quý Ly. Năm 1401, Hồ
Hán Thương (em ông) được đưa lên làm vua, phong ông làm Tả tướng quốc. Trong
thời gian giữ chức, ông rất quân tâm đến việc chế tạo vũ khí. Ông đã cải tiến
loại hỏa pháo cũ thành hai loại súng mới: Thần cơ và thần cơ sang pháo. Ông lại
cải tiến thuyền chiến cũ để đóng thành hai loại thuyền chiến lớn. Đầu năm
1407 quân Minh xâm lược nước ta. Ông là một trong những chỉ huy cuộc kháng
chiến và đã chiến đấu anh dũng. Tháng 6 năm đó quân nhà Hồ thua trận phải rút
vào Thanh Hóa, Nghệ An. Ông bị giặc bắt ở cửa biển Kỳ La (Kỳ Anh, Hà Tĩnh) và
bị đưa về Trung Quốc cùng cha và em mình. Biết ông là một nhà kỹ thuật quân sự
tài năng, nhà Minh đã giữ ông lại, trông coi việc chế tạo vũ khí ở các quan
xưởng của mình. Cuối đời, nhớ về quê hương ông đã viết tập Nam Ông mộng lục
ghi lại sự tích một số nhân vật lịch sử thời Lý - Trần.
|
HỒ NGUYÊN TRỪNG
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 555
|
142
|
ĐÀO DUY TỪ
|
Đào Duy Từ (1572-1634): Nhà
văn hóa, người giúp chúa Nguyễn xây dựng cơ nghiệp. Quê làng Hoa Trai, Ngọc
Sơn (nay là Vân Trai, Tĩnh Gia, Thanh Hóa), có tài văn võ những không được đi
thi vì con nhà ca xướng. Ông rời quê hương vào phủ Hoài Nhơn (Bình Định)
nương nhờ Khám lí Trần Đức Hòa. Trần Đức Hòa trọng tài năng đã tiến cử ông
lên chúa Nguyễn, được chúa phong chức Nha úy nội tán. Ông giúp chúa Nguyễn đắp
các lũy Trường Dực, Nhật Lệ (còn gọi là lũy Thầy) để ngăn đường quân Trịnh, định
lại phép thu thuế, luyện tập quân sĩ... Năm 1634, ông bị ốm nặng rồi chết.
Tác phẩm có: Hồ trướng khu cơ (quận sự học), Tư Dung vãn và Ngọc Long cương
vãn (văn học). Ông có công phát triển nghề hát bội ở Đàng trong, là người khởi
thảo tuồng Sơn Hậu.
|
ĐÀO DUY TỪ
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 573
|
143
|
HÀN MẶC TỬ
|
Hàn Mặc Tử (1912-1940): Tên
thật là Nguyễn Trọng Trí, ngoài bút danh Hàn Mặc Tử, còn có các bút danh Lệ
Thanh, Phong Trần... sinh ra trong một gia đình công giáo nghèo, ở làng Lệ Mỹ,
Đồng Hới, Quảng Bình, rồi vào Quy Nhơn cư trú. Thuở nhở ông học tiểu học ở
Quy Nhơn, ra Huế học trung học, sau đó làm ở Sở Điền đạc Quy Nhơn (1932),
nhưng vì đau yếu nặng phải thôi việc. Khi bệnh có phần bớt ông vào Sài Gòn viết
các báo: Công luận, Sài Gòn, Tân thời...Bệnh cũ tái phát, ông về Quy Nhơn chữa
chạy, rồi mất ở nhà thương phong Quy Hòa. Hàn Mặc Tử làm thơ rất sớm, từ thời
1930- 1931, đã có bài thơ Đường đăng báo được Phan Bội Châu khen và họa lại,
là bạn thơ của Chế Lan Viên, Quách Tấn, khi ông còn sống có tập thơ Gái quê
(1936). Sau khi ông mất lần lượt một số tập khác được công bố: Thơ Hàn Mặc Tử,
Đau thương, Lệ Thanh thi tập, Duyên kì ngộ....
|
HÀN MẶC TỬ
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 164
|
144
|
NGÔ GIA TỰ
|
Ngô Gia Tự (1908-1935): Quê ở
làng Tam Sơn, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Năm 1925, ông tham gia phong
trào học sinh bãi khóa đòi thực dân Pháp trả tự do cho cụ Phan Bội Châu. Bị
đuổi khỏi trường Bưởi, ông mở trường dạy học ở quê, được giới thiệu vào Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên, sau đó sang Quảng Châu dự huấn luyện. Năm
1927, ông được Kì bộ chỉ định vào Tỉnh bộ Bắc Ninh. Năm 1928, ông vào Sài Gòn
hoạt động, sau trở về Hà Nội cùng một số đồng chí khác đứng ra triệu tập hội
nghị chuẩn bị thành lập Đảng cộng sản. Chi bộ cộng sản đầu tiên được thành lập
tháng 3/1929, tại 5D Hàm Long (Hà Nội) có sự đóng góp to lớn của ông. Ngô Gia
Tự sau khi phản đối chủ trương không lập Đảng cộng sản của Hội nghị Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên hợp ở Hương Cảng đã bỏ về nước và ngày 17/6/1929 đã
lập ra Đông Dương Công sản đảng ở Bắc kì. Sau khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời
(3/2/1930), ông được bầu làm Bí thư Ban chấp hành lâm thời của đảng bộ Nam
kì. Cuối năm 1930, ông bị Pháp bắt tại Sài Gòn. Ngày 2/5/1933, tòa Đại hình đặc
biệt đã xử và kết án tù chung thân, đày anh ra Côn Đảo. Cuối tháng 01/1935
ông bị mất tích trong một cuộc vượt ngục giữa biển cả.
|
NGÔ GIA TỰ
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 576
|
145
|
NGUYỄN TUÂN
|
Nguyễn Tuân (1910-1988): Ông quê
làng Mọc (Nhân Mục), huyện Từ Liêm nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh
Xuân, Hà Nội, sau gia đình rời vào thành phố Thanh Hóa. Nguyễn Tuân học Thành
chung Nam ở Nam Định, bị đuổi học vì tham gia bãi khóa; sau đó tìm đường trốn
qua Xiêm (Thái Lan), nhưng bị bắt đưa về quản thúc ở Thanh Hóa. Hết hạn ông
ra Hà Nội sống bằng nghề viết báo, viết văn. Nguyễn Tuân nổi tiếng với: Vang
bóng một thời, sau đó là một loạt tùy bút: Tùy bút I, Tùy bút II, Thiếu quê
hương, Chiếc lư đồng mắt cua, Ngọn đèn dầu lạc... Cách mạng tháng Tám thành mở
ra cho ông một chân trời nghệ thuật. Cùng với nhiều văn nghệ sĩ thời kì đầu
cách mạng, Nguyễn Tuân đã đeo ba lô đi kháng chiến. Hòa bình lập lại, ông trở
về Hà Nội tiếp tục sáng tác với tập Tùy bút kháng chiến và hòa bình, tùy bút
Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi. Ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ
Chí Minh (1996).
|
NGUYỄN TUÂN
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 561
|
146
|
TÔN THẤT TÙNG
|
Tôn Thất Tùng (1912-1982):
Ông sinh tại Huế. Sau khi tốt nghiệp xuất sắc Đại học Y khoa Hà Nội (1939),
ông được giữ lại làm bác sĩ nội trú tại bệnh viện Phủ Doãn (nay là bệnh viện
Việt - Đức). Ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường ông đã say mê nghiên cứu
khoa học. Luận án “Các tĩnh mạch trong gan” của ông được Trường đại học tổng
hợp Pari tặng Huy chương bạc. Phương pháp cắt gan của ông được Viện Hàn lâm
phẫu thuật Pháp đánh giá cao. Sau Cách mạng tháng Tám, ông được Chính phủ cử
làm Giám đốc Bệnh viện Phủ Doãn. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ (1946), ông
theo Chính phủ ra vùng tự do giữ chức cố vấn phẫu thuật cho Bộ Quốc phòng,
kiêm thứ trưởng Bộ Y tế, đồng thời góp sức xây dựng trường Đại học Y khoa.
Hòa bình lập lại, ông được cử làm Giám đốc bênh viện hữu nghị Việt - Đức,
kiêm Chủ nhiệm Bộ môn Ngoại - trường Đại học Y khoa Hà Nội. Đề tài khoa học của
Giáo sư Tôn Thất Tùng được giới y học quốc tế đánh giá cao. Công trình phẫu
thuật gan của ông được dịch và xuất bản ở Liên Xô, Pháp, Mĩ. Ông được nhà nước
phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động; truy tặng Huân chương hồ Chí Minh
(1992), Giải thưởng Hồ Chí Minh (1996).
|
TÔN THẤT TÙNG
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 567
|
147
|
NGUYỄN HUY TƯỞNG
|
Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960):
Ông sinh ra trong một gia đình nhà Nho có truyền thống yêu nước ở xã Dục Tú,
huyện Đông Anh, Hà Nội. Ông tham gia phong trào yêu nước của thanh niên, học
sinh ở Hải Phòng. Năm 1935 ông làm viên chức ở Hải Phòng, Hà Nội. Nguyễn Huy
Tưởng xuất hiện trong làng văn với những đề tài lịch sử. Năm 1942, tiểu thuyết
đầu tay Đêm hội Long trì ra đời, sau đó là Vũ Như Tô (kịch, 1943), Cột đồng
Mã Viện (kịch, 1944), An Tư công chúa (tiểu thuyết, 1944). Các tác phẩm trên
được viết lúc tác giả đã tham gia Mặt trận Việt Minh, trong khuôn khổ Hội văn
hóa cứu quốc, nên thấm đượm tinh thần yêu nước quật cường của dân tộc. Trong
kháng chiến chống Pháp, ông có kí sự Cao Lạng, Những người ở lại. Hòa bình lập
lại có tiểu thuyết Bốn năm sau (1959). Ông được Nhà nước truy tặng giải thưởng
Hồ Chí Minh (1996).
|
NGUYỄN HUY TƯỞNG
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 580
|
148
|
LƯƠNG THẾ VINH
|
Lương Thế Vinh (1442-?): Nhà
văn hóa lớn, nhà toán học, tự là Cảnh Nghị, hiệu là Thụy Hiên. Ông quê làng
Cao Hương, huyện Thiên Bản (Vụ Bản, Nam Định). Thuở nhỏ thông minh, đỗ Trạng
nguyên khoa thi năm 1463, thường gọi là Trạng Lường. Lúc đầu ông giữ chức văn
thư, soạn thảo các giấy tờ giao thiệp với nhà Minh. Thời Hồng Đức (1470
-1497), ông giữ các chức quan phụ trách giáo dục; vua cũng cử ông làm Sái phu
(sửa chữa và bình phẩm thơ văn) của Hội Tao đàn. Ông không ham công danh phú
quý, dám nói thẳng, cứng rắn và hay khôi hài. Khi về già sống bình dị ở quê
hương. Ông là nhà văn, nhà toán học, nhà nghiên cứu nghệ thuật, nghiên cứu Phật
học. Tác phẩm có: Đại thành toán pháp, Hí phường phả lục, Thiền môn giáo
khoa.
|
LƯƠNG THẾ VINH
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 597
|
149
|
KINH DƯƠNG VƯƠNG
|
Nhân vật huyền thoại trong lịch
sử Việt Nam, vào khoảng thiên niên kỷ 3 TCN. Theo truyền thuyết Viên Đế thần
nông phương Bắc đi tuần đến Ngũ Lĩnh lấy bà Vu Tiên, sinh ra Lộc Tục. Viên Đế
chết, con cả là Nghi lên làm vua phương Bắc, Lộc Tục làm Kinh Dương Vương cai
trị phương Nam. Kinh Dương Vương sinh con là Sùng Lãm (còn gọi là Lạc Long
Quân). Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ là tổ tiên của người Việt phương Nam (con
trưởng là Hùng Vương sau này làm vua nước Văn Lang).
|
KINH DƯƠNG VƯƠNG
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 2. Tr 582
|
150
|
HÙNG VƯƠNG
|
Hùng Vương: Theo truyền thuyết,
là con trai của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Truyền thuyết được ghi lại trong
“Lĩnh Nam chính quái” thời Trần kể rằng Âu Cơ kết hôn với Lạc Long Quân sinh
ra một bọc trăm trứng, nở thành 100 con người trai, về sau Lạc Long Quân chia
tay Âu Cơ, 50 con theo cha xuống biển, 50 con theo mẹ lên vùng núi. Người con
cả được tôn là vua, gọi là Hùng Vương, Hùng Vương đặt quốc hiệu là Văn Lang,
đóng đô ở Phòng Châu (Phú Thọ), truyền ngôi được 18 đời, đều được gọi là Hùng
Vương.
|
HÙNG VƯƠNG
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 2. Tr 411
|
151
|
PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG
|
Thánh Gióng (Phù Đổng Thiên
Vương): Người anh hùng trẻ tuổi thời Hùng Vương. Theo truyền thuyết, Phù Đổng
Thiên vương xuất thân từ một gia đình nghèo ở Làng Gióng (Gia Lâm - Hà Nội),
3 tuổi chưa biết nói, biết cười. Bấy giờ vào đời vua Hùng Vương thứ 6, giặc
Ân từ phương Bắc tràn xuống đánh phá nước Văn Lang. Quân ta chống lại rất khó
khăn. Vua Hùng lo lắng cho người đi các nơi cầu người tài giỏi đánh giặc. Sứ
của vua đến làng Gióng, rao to lời cầu. Cậu bé 3 tuổi bỗng biết nói, nhờ mẹ gọi
sứ vào và nhờ sứ về đóng cho mình một con ngựa sắt, một cái nón sắt và một
chiếc roi sắt để đi đánh giặc. Sứ lấy làm lạ về báo ngay cho vua Hùng. Hùng
Vương vội sai người rèn ngựa, nón, roi sắt chở đến làng. Cậu bé làng Gióng
vươn mình đứng dậy thành người khổng lồ. Ông nhẩy lên mình ngựa sắt, đội nón,
cầm roi, thúc ngựa lên đường đánh giặc, roi gẫy, ông bèn nhổ các bụi tre ngà
bên đường đánh tan giặc, đất nước sạch bóng quân thù. Ông quay ngựa, phi về
núi Sóc ở quê nhà (nay thuộc Sóc Sơn, Hà Nội), rồi bay về trời.
|
PHÙ ĐỔNG, PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 392
|
152
|
AN DƯƠNG VƯƠNG
|
An Dương Vương: Tên thật là
Thục Phán, người sáng lập và là vua nước Âu Lạc. Có giả thuyết cho là thủ
lĩnh người Tây Âu (x. Âu Lạc), ở vùng núi phía Bắc, đã từng xung đột với vua
Hùng và cũng là người chống Tần thắng lợi (214 - 208 TCN), nối ngôi vua Hùng,
hợp nhất Tây Âu và Lạc Việt, thành nhà nước Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa. Tục
truyền An Dương Vương được rùa thần giúp đỡ cho móng làm lẫy nỏ rất hiệu nghiệm,
nên đánh bại nhiều lần xâm lược của Triệu Đà. Sau đó Triệu Đà dùng mưu (cho
con trai là Trọng Thủy sang cầu hôn với con gái An Dương Vương là Mỵ Châu) lấy
cắp nỏ thần rồi đem quân sang đánh (179 TCN). An Dương Vương thua chạy đến
vùng Nghệ An, nhảy xuống biển tự tử.
|
AN DƯƠNG VƯƠNG
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 1. Tr 42
|
153
|
NGUYỄN XÍ
|
Nguyễn Xí (1396-1465): Danh
tướng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Năm 9 tuổi cha mẹ mất, ông cùng anh là
Nguyễn Biện đến Lam Sơn làm gia thần cho Lê Lợi. Đầu năm 1418, ông chỉ huy đội
Thiết đột thứ nhất, theo Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn và đã lập được nhiều chiến
công. Khởi nghĩa toàn thắng, ông được phong chức Long hổ tướng quân, Xuy
trung bảo chính công thần. Sau đó ông được phong công thần, Huyện hầu, rồi
Thái bảo. Cuối năm 1459, chính biến xảy ra ở trong triều. Nghi Dân giết vua
Nhân Tông và Thái hậu. Tám tháng sau, Nguyễn Xí và một số đại thần xướng
nghĩa phế truất Nghi Dân, đưa Lê Tư Thành (Lê Thánh Tông) lên làm vua. Ngày
18/11/1465, ông mất được truy tặng hàm Thái phó, tên thụy Nghĩa Vũ. Năm 1484,
ông được truy tặng Cương quốc công.
|
NGUYỄN XÍ
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 600
|
154
|
BÙI THỊ XUÂN
|
Bùi Thị Xuân (1771-1802): Nữ
tướng thời Tây Sơn. Quê thôn Phú Xuân, xã Bình Phú (Tây Sơn, Bình Định), là vợ
của danh tướng Trần Quang Diệu. Thuở nhỏ, bà học võ với Đô thống Ngô Mạnh, rồi
cùng Trần Quang Diệu gia nhập nghĩa quân Tây Sơn. Bà đã cùng nghĩa quân Tây
Sơn lập nhiều chiến công hiển hách. Khi triều Tây Sơn sụp đổ, Phú Xuân lọt
vào tay Nguyễn Ánh, bà theo vua Cảnh Thịnh chạy ra Nghệ An, tự chỉ huy 5000
quân chặn giặc ở lũy Trấn Ninh. Tháng 2/1802, quân Nguyễn Ánh vượt qua Nhật Lệ
(Quảng Bình), Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng bỏ Quy Nhơn, theo đường thượng đạo
ra Nghệ An gặp bà. Hai vợ chồng xuống Thanh Chương (Nghệ An) thì bị bắt. Trần
Quang Diệu bị giết còn bà và con gái bị voi giày.
|
BÙI THỊ XUÂN
|
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh. Nxb
Giáo dục, 2005 Tr. 605
|
II. NHÂN VẬT
LỊCH SỬ TỈNH ĐỒNG THÁP (177 tên)
Stt
|
Tên nhân vật lịch sử
|
Tóm tắt thân thế, sự nghiệp
|
Tên dự kiến đặt
|
Nguồn trích dẫn
|
1
|
PHẠM THỊ A
|
Bà Phạm Thị A bí danh Thanh
Miền (1936-1961) ấp 5B, xã Trường Xuân, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp (nay thuộc
xã Vĩnh Bửu, huyện Tân Hưng, tỉnh Long An). Từ năm 1952 đến năm 1961, bà tham
gia Ban Chấp hành Phụ nữ Cứu quốc xã Thạnh Lợi, rồi Ủy viên Ban Chấp hành Phụ
nữ xã Trường Xuân… Trong cuộc biểu tình ngày 05/3/1961 do tỉnh Kiến Phong tổ
chức nhằm đấu tranh chống địch bắn, giết, bình định, dồn dân lập ấp chiến lược,
ở tỉnh lỵ có hơn 10.000 người tham gia. Ở quận lỵ Mỹ An có hơn 1.000 người do
bà Phạm Thị A dẫn đầu, đi xuồng kéo lên phối hợp cùng các đoàn biểu tình khác
đấu tranh trực diện với địch … Để trấn áp đoàn biểu tình, địch huy động một lực
lượng quân sự lớn ngăn chặn, đàn áp. Bà Phạm Thị A đã cầm cờ dẫn đầu xông
lên, hô khẩu hiệu: “Phản đối bắt lính, bắn phá vào nhà dân, phản đối dồn dân
lập ấp”… Trung đội biệt kích của địch bắn thẳng vào đoàn biểu tình, bà Phạm
Thị A hy sinh. Khí phách hiên ngang của bà đã tạo nên sức mạnh to lớn, đoàn
biểu tình đã tràn lên như nước vỡ bờ phản đối, buộc địch phải ngưng nổ súng,
hứa sẽ bồi thường thiệt hại. Với tấm gương và sự hy sinh anh dũng của bà Phạm
Thị A, ngày 09/10/2014, Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã
truy tặng bà Phạm Thị A danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
|
PHẠM THỊ A
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr 16
|
2
|
NGUYỄN VĂN AN
|
Ông Nguyễn Văn An (1895-1961)
làng Long Hậu, tổng An Thới, quận Lai Vung, tỉnh Sa Đéc (nay thuộc xã Long Hậu,
huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp). Ông xuất gia năm 17 tuổi tại chùa Tây Hưng,
Sa Đéc, pháp danh Pháp Hải. Năm 28 tuổi, ông trụ trì chùa Phước Sơn ở Trà Cú
(Trà Vinh).
Khi Hội Lưỡng Xuyên Phật học
thành lập, ông nhận chức trụ trì chùa Long Phước (huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà
Vinh), trụ sở của Hội, đồng thời ông cũng làm giáo sư cho Phật học đường Lưỡng
Xuyên. Ông có tư tưởng tiến bộ và hoạt động tích cực trong phong trào chấn
hưng Phật giáo Nam Kỳ. Ông là một trong những nhà sư đầu tiên tán thành chủ
trương “đổi mới” Phật giáo. Phật giáo là nhập thế, phải tham gia vào công việc
xã hội quốc gia, chứ không phải xuất thế đứng bên lề. Đó là tư tưởng chính
trong các bài giảng của ông. Sau đó, ông làm trụ trì chùa Hiệp Châu (Sóc
Trăng). Năm 1944, ông trở lại chùa Long Phước. Năm 1951, giáo hội Tăng Già
Nam Việt được thành lập tại chùa Ấn Quang (Sài Gòn), ông được mời làm Trị sự
Trưởng cho giáo hội tại Vĩnh Long. Ông là người triệt để ủng hộ công trình của
Thiền sư Khánh Hoà trong công cuộc chấn hưng Phật giáo ở Nam Kỳ.
|
NGUYỄN VĂN AN
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.18
|
3
|
NGUYỄN VĂN BẢNH
|
Ông Nguyễn Văn Bảnh, thường gọi
là Già Dền (1927-1972), làng Tân Thành, tổng An Phước, quận Hồng Ngự, tỉnh Châu
Đốc (nay là xã Tân Thành A, huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp), tham gia cách mạng
năm 1957. Ngày 11/8/1965, Nguyễn Văn Bảnh sử dụng vũ khí tự tạo đánh hư 2
thuyền bay của địch, diệt 4 lính, có 2 lính Mỹ. Ngày 08/7/1967, địch cho 2 tiểu
đoàn đánh phá vùng giải phóng tân Thành. Tổ du kích của Nguyễn Văn Bảnh có 3
người. Quân địch đông, có pháo và máy bay yểm trợ, nên 2 du kích bỏ trận địa.
Nguyễn Văn Bảnh trụ lại đẩy lùi 6 đợt tiến công của địch suốt từ 6 giờ sáng đến
4 giờ chiều, diệt 4 tên, làm bị thương 6 tên, thu 3 súng, 10 ba lô.
Ngày 01/11/1972, trong lúc
cùng 2 du kích thực hiện nhiệm vụ lấy xác đồng chí đã hy sinh, bị lọt vào ổ
phục kích của địch, Nguyễn Văn Bảnh quyết tử chiến đấu, giết 1 tên địch và
anh dũng hy sinh. Từ ngày vô du kích (1964) đến lúc hy sinh, Nguyễn Văn Bảnh
cùng đội du kích Tân Thành đánh địch 265 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 1.078
tên, trong đó có 5 lính Mỹ, bắt sống 3 tên, làm rã ngũ 280 tên, giết chết 21
tên, giải tán một ban tề xã, 100 lính phòng vệ dân sự.
Ngày 30/10/1978, liệt sĩ Nguyễn
Văn Bảnh được Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh
hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
|
NGUYỄN VĂN BẢNH
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.23
|
4
|
NGUYỄN VĨNH BẢO
|
Ông Nguyễn Vĩnh Bảo (1918-
2021) , quê làng Mỹ Trà, tổng Phong Thạnh, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là
thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp), trong một gia đình có truyền thống âm nhạc.
Vì vậy, ngay từ nhỏ ông đã biết đàn nhiều loại đàn như: đàn kìm, đàn tranh,
đàn cò, đàn gáo.
Năm 1955, trường Quốc gia Âm
nhạc Sài Gòn thành lập, ông được mời dạy đàn tranh và được cử làm Trưởng ban
cổ nhạc miền Nam. Ông được giới nghệ sĩ phong tặng Đệ nhất danh cầm.
Cũng từ năm 1955, ông nghiên cứu cải tiến hình dạng, kích thước cây đàn tranh
từ 16 lên 17 dây rồi 19, 21 dây, thuận tiện cho việc thể hiện các “hơi, điệu”
mà không cần sửa dây, lên nhạn. Ông còn là nghệ nhân đóng đàn tranh, bầu,
kìm, gáo… nổi tiếng. Năm 1972, ông cùng giáo sư Trần Văn Khê thực hiện cho
Ocora (Radio - France) 1 dĩa nhạc tài tử Nam Bộ. Dĩa này khiến UNESCO chú ý
và cơ quan này đã mời ông và giáo sư Trần Văn Khê thực hiện dĩa Collection
UNESCO. Từ sau ngày miền Nam giải phóng, ông soạn sách Tự học đàn tranh dày
hơn 800 trang bằng hai thứ tiếng Pháp, Anh phổ biến cho người nước ngoài. Ông
là người rất tâm huyết với việc nghiên cứu, truyền bá âm nhạc dân tộc Việt
Nam, nhất là với thế hệ trẻ và ông được tôn vinh là Nhạc sư.
Ngày 26/02/2008, Bộ Văn hóa
và Truyền thông Cộng hoà Pháp trao tặng ông Huy chương Nghệ thuật và Văn
chương (Officier de L’ordre des Arts et des Lettres) - phần thưởng cao quý của
nước Pháp dành cho những nghệ sĩ có cống hiến to lớn cho nghệ thuật và văn
chương. Ông là người Việt thứ hai và là người Việt trong nước đầu tiên nhận
được vinh dự cao quý này. Ngày 02/10/2014, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tặng ông Bằng khen vì “có thành tích bảo tồn và
phát huy Nghệ thuật đờn ca tài tử Nam bộ, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc”.
|
NGUYỄN VĨNH BẢO
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.27
|
5
|
LƯU QUANG BẬT
|
Ông Lưu Quang Bật (1889 -
1958), quê làng Mỹ Trà, tổng Phong Thạnh, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay thuộc
thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp), trong một gia đình điền chủ khá giả, thuở
nhỏ có học chữ Nho.
Hưởng ứng phong trào Đông Du
và Duy Tân, ông đi qua Hồng Kông rồi Nhật Bản năm 1907, họp mặt với các nhà
cách mạng Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Cường Để,… Năm 1909, Nhật và
Pháp cấu kết, ông bị trục xuất về nước, bị Pháp bắt giam ở Sài Gòn. Sau đó thực
dân Pháp chuyển ông về giam ở Mỹ Tho khá lâu mới được trả tự do.
Dù thường xuyên bị theo dõi,
hăm doạ, nhưng ông vẫn giữ vững khí tiết, ngấm ngầm tuyên truyền chống Pháp.
Ông qua đời tại xã An Bình (huyện Cao Lãnh) năm 1958, thọ 69 tuổi.
|
LƯU QUANG BẬT
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.39
|
6
|
NGUYỄN THỊ BẦY
|
Đến nay vẫn chưa rõ năm sinh,
năm mất của bà. Bà được biết đến là người phụ nữ Đồng Tháp Mười có tấm lòng
kiên trung đối với nghĩa quân Thiên Hộ Dương trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp. Tên bà trở thành tên một Vàm ở ngã ba sông - Vàm Bà Bầy.
Theo hoà ước 1862, triều đình
Huế nhường 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho thực dân Pháp. Sau đó, Pháp cho đóng đồn
ở Cần Lố để đàn áp nghĩa quân Thiên Hộ Dương và ngăn chặn sự liên lạc của
nghĩa quân từ căn cứ Tháp Mười với các tỉnh miền Tây.
Nguyên đoạn sông Cần Lố, chỗ
vàm Bà Bầy ngày nay chỉ cách rạch Cái Sao Thượng bởi mấy con mương trong vườn
cau của bà. Thay vì đi đường cũ, khi đến đoạn này, nghĩa quân và đồng bào kéo
xuồng ghe qua các mương này rồi bơi qua rạch Cái Sao Thượng. Đường đi này
không những ngắn hơn mà còn tránh được sự kiểm soát của giặc. Bà Bầy biết việc
này ngay từ đầu, nhưng vẫn im lặng giữ bí mật. Lâu ngày, Pháp phát hiện ra và
cho quân mai phục. Một hôm Pháp được mật báo là sẽ có một toán nghĩa quân di
chuyển bằng xuồng qua đây. Khi quân Pháp đến nơi, thì chỉ thấy bóng dáng từ
xa hai người phụ nữ, nên liền đuổi theo, nhưng họ nhanh chân chốn thoát. Lính
Pháp vào nhà bắt bà Bầy khảo tra, đánh đập buộc bà Bầy chỉ ra tông tích nghĩa
quân. Bà không khai báo điều gì. Sau một hồi tra tấn không kết quả, lính Pháp
thay phiên nhau hãm hiếp bà đến chết.
|
NGUYỄN THỊ BẦY
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.40
|
7
|
NGUYỄN VĂN BẢY
|
Ông Nguyễn Văn Bảy (1936 -
2019) , quê làng Hoà Thành, quận Lai Vung, tỉnh Sa Đéc (nay là xã Hoà Thành,
huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp). Khi được tuyên dương Anh hùng là Thượng uý,
Đại đội phó Đại đội 1 thuộc Trung đoàn 923 Không quân (Đoàn Không quân Yên Thế),
Bộ Tư lệnh Không quân, đảng viên Đảng Lao động Việt Nam.
Năm 1954, ông tập kết ra Bắc,
năm 1960 ông được đưa đi Liên Xô học lái máy bay phản lực. Tháng 4/1965 tốt
nghiệp về nước, ông lao vào cuộc chiến chống không quân Mỹ đánh phá miền Bắc
nước ta. Trong hai năm 1966 -1967, phi công Nguyễn Văn Bảy bắn rơi 7 máy bay
Mỹ. Ông là một trong 19 phi công Việt Nam đạt đẳng cấp ACE - danh hiệu có từ
chiến tranh thế giới thứ hai dành cho những phi công lái máy bay quân sự bắn
hạ 5 máy bay trở lên.
Ông trải qua nhiều cương vị
công tác: Trung đoàn trưởng Trung đoàn Không quân 937, Phó Tư lệnh Sư đoàn
Không quân 372, Phó tham mưu trưởng Quân chủng Không quân (nay là Quân chủng
Phòng không - Không quân). Sau ngày thống nhất, ông tiếp quản sân Bay Cần
Thơ, tham gia điều hành các sân bay khác ở miền Nam và chỉ huy làm nhiệm vụ tại
Campuchia.
Ông Nguyễn Văn Bảy đã được
Nhà nước phong hàm cấp Đại tá, tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng Nhì,
2 Huân chương Chiến công hạng Ba. Ngày 01/01/1967, Nguyễn Văn Bảy được Chủ tịch
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân.
|
NGUYỄN VĂN BẢY
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.29
|
8
|
PHẠM VĂN BẢY
|
Ông Phạm Văn Bảy (1951 -
1969) tên thường dùng là Nguyễn Hùng Cường, sinh năm 1951, quê quán làng Long
Hưng, tổng An Phong, quận Lai Vung, tỉnh Sa Đéc (nay là xã Long Hưng A, huyện
Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp).
Tháng 3/1969, ông nhập ngũ
vào đơn vị Địa phương quân huyện. Thời gian ở bộ đội chỉ có 5 tháng, nhưng
ông đã tham gia chống càn 24 trận, đánh phục kích và công đồn 5 trận, trực tiếp
bắn rớt 2 máy bay, bắn bị thương 1 chiếc, diệt hơn 50 tên địch. Tiêu biểu là
trận ngày 9/10/1969, mới 6 giờ 30 sáng địch cho máy bay trinh sát L-19 và trực
thăng đến quần đảo khu vực vàm Trà Bông thuộc xã Long Hưng, nơi bộ đội và cơ
quan của huyện đóng quân. Nguyễn Hùng Cường vừa ra đến công sự thì một chiếc
trực thăng bay tới và dừng ngay trên đầu bắn xối xả và thảy lựu đạn xuống.
Ông dùng súng Garăng bắn liền 7 phát, chiếc máy bay trúng đạn rớt tại chỗ.
Chiếc còn lại quần đảo xung quanh và bắn phá ác liệt. Bình tĩnh chờ nó tới gần,
ông bắn liên tiếp mấy phát. Bị trúng đạn, chiếc trực thăng này cố bay thêm được
một đoạn, rồi rớt xuống. Hai chiếc trực thăng chiến đấu khác lao xuống phóng
hoả tiễn dữ dội. Ông lại dũng cảm bắn bị thương thêm một chiếc, nó chao đảo rồi
cố bay về Cao Lãnh. Địch liền đưa 2 tiểu đoàn bộ binh đến bao vây quân ta và
kêu pháo từ Đức Thành (Lai Vung), Bình Hàng Trung (Kiến Văn) bắn hơn 3.000 quả
vào trận địa, sau đó mở các đợt tấn công. Trước tình hình hết sức nguy hiểm,
ông đã tình nguyện ở lại chiến đấu ngăn chặn và thu hút hoả lực địch về phía
mình để đồng đội điều chuyển thương binh và cơ quan đến nơi an toàn. Ông đã
anh dũng hy sinh.
Xét thành tích, phẩm chất và
chiến công đặc biệt xuất sắc của Liệt sỹ Nguyễn Hùng Cường, ngày 20/12/1994,
Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng ông danh hiệu Anh
hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
|
PHẠM VĂN BẢY
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.31
|
9
|
PHAN VĂN BẢY
|
Ông Phan Văn Bảy (1910 -
1942) làng Tân Dương, tổng An Phong, quận Lai Vung, tỉnh Sa Đéc (nay là xã
Tân Dương, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp).Năm 1927, ông được kết nạp vào tổ
chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội. Sau ngày 03/02/1930, Chi bộ
Đảng Cộng sản xã Tân Dương được thành lập, ông được cử làm Bí thư. Ngày
13/5/1930, ông trực tiếp cầm đơn và cùng hơn 700 nông dân Tân Dương và vùng
lân cận biểu tình, đấu tranh chống thuế, chống xâu, thả những người bị bắt…
Sau đó, ông bị Pháp bắt và bị Toà Đại hình tỉnh Vĩnh Long kết án 5 năm tù,
đày đi Côn Đảo (tháng 5/1931). Đầu năm 1936, mãn hạn tù, nhưng nhà cầm quyền
Pháp cấm không cho ông về Sa Đéc, Cần Thơ cư trú, mà buộc phải đi biệt xứ.
Năm 1938, ông được bầu vào Liên Tỉnh ủy Cần Thơ. Cuối năm 1939 đầu năm 1940,
ông được điều xuống Trà Vinh, làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.
Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ
(1940) ông được Liên Tỉnh ủy đưa xuống Cà Mau lập lò rèn ở rừng U Minh Thượng
để sản xuất vũ khí, rồi được cử làm Phó Bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ kiêm Bí thư Liên
Tỉnh ủy Hậu Giang. Ngày 05/6/1941, Phan Văn Bảy cùng một số đồng chí trong
Liên Tỉnh ủy, Xứ uỷ lại bị giặc bắt và bị kết án tử hình. Ngày 22/7/1942, ông
hy sinh tại Hóc Môn.
|
PHAN VĂN BẢY
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.33
|
10
|
VĂN TẤN BẢY
|
Ông Văn Tấn Bảy (1936 - 197),
thường gọi là Bảy Nheo, sinh năm 1936, tại làng Tân Nhuận Đông, quận Châu
Thành, tỉnh Sa Đéc (nay là xã Tân Nhuận Đông, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng
Tháp). Ông tham gia cách mạng năm 1958, vào du kích xã năm 1960 và là Ấp đội
trưởng. Bằng lối đánh du kích, bắn tỉa giỏi, sử dụng có hiệu quả các loại võ
khí thô sơ, từ tháng 9/1960 đến tháng 02/1964, ông cùng đồng đội diệt và làm
bị thương hơn 100 tên địch, riêng ông diệt 30 tên. Bọn địch ở Tân Nhuận Đông
luôn khiếp vía, kinh hồn vì Đội Du kích của Bảy Nheo.
Đầu năm 1964, ông công tác điệp
báo Ban An ninh Sa Đéc (tỉnh Vĩnh Long). Tháng 4/1968, ông cùng đồng đội nổ
súng tấn công Ty Cảnh sát Sa Đéc diệt và làm bị thương 70 tên, thu nhiều tài
liệu quan trọng và súng đạn.Ngày 07/8/1972, ông cùng với ông Cao Văn Báo, Trưởng
Tiểu ban Điệp báo Tỉnh và một cán bộ đi công tác địa bàn, liên lạc với cơ sở
nội tuyến, ông lọt vào ổ phục kích của địch, chúng nổ súng, ông bị thương gãy
chân. Địch bao vây, ông ráng rút chốt lựu đạn, chờ địch lại gần, tung ra
“chia hai” với chúng, thêm 3 tên chết, 6 tên bị thương. Văn Tấn Bảy đã anh
dũng hy sinh. Ngày 28/7/1998, Liệt sĩ Văn Tấn Bảy được Chủ tịch nước Cộng hoà
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang
nhân dân.
|
VĂN TẤN BẢY
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.37
|
11
|
LÊ VĂN BÉ
|
Ông Lê Văn Bé (1949 - 1972),
bí danh Út Bé, quê xã Mỹ An, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp. Năm 1967, ông
được Ban Binh vận xã Mỹ An vận động và xây dựng làm cơ sở nội tuyến hoạt động
trong hàng ngũ địch. Ông được kết nạp Đảng ngày 20/10/1969. Trong thời gian
làm cơ sở nội tuyến, ông cung cấp nhiều thông tin quan trọng cho lực lượng ta
đánh đồn địch và trực tiếp lập nhiều chiến công xuất sắc.
Đêm ngày 20/10/1969, ông chỉ
huy 17 phòng vệ dân sự khởi nghĩa diệt ác ôn, phá kềm kẹp gom dân tại đồn
Kinh Giữa (Mỹ An), đem về cho cách mạng 9 khẩu súng. Tháng 11/1969, ông phối
hợp với bộ đội địa phương, hình thành hai mũi đánh đồn Mỹ An thu được 10 súng
và 01 máy truyền tin. Tháng 02/1970, tại đồn Tam Giác, ông đã đặt mìn nổ chậm
diệt 03 tên ác ôn. Đêm ngày 28/12/1971, ông làm nội ứng cho lực lượng vũ
trang đánh đồn Mỹ Hòa, đồn Tứ Giác và đồn Bình Định, diệt gần 20 tên địch,
thu 15 súng và 02 máy truyền tin. Sáng ngày 28/02/1972, ông đặt mìn nổ chậm
dưới bàn phát lương tại chi khu Mỹ An diệt 42 tên và làm hư hỏng một triệu đồng
tiền Sài Gòn. Tháng 4/1972, trong trận diệt đồn Bà Vẹn, ông đã tiêu diệt nhiều
tên địch và anh dũng hy sinh ở tuổi 23.
Quá trình hoạt động cách mạng,
ông đã diệt trên 80 tên địch và thu nhiều vũ khí đem về cho cách mạng. Ngày
09/10/2014, Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã truy tặng Liệt
sỹ Lê Văn Bé danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
|
LÊ VĂN BÉ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.42
|
12
|
ĐINH CÔNG BÊ
|
Đinh Công Bê (1932 - 1970),
tên thường gọi Ba Chiến, làng Tịnh Thới, tổng An Tịnh, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa
Đéc (nay thuộc thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Năm 1948, gia nhập bộ đội
huyện Cao Lãnh, vào Đảng năm 1958, cấp bậc cao nhất là Đại đội bậc phó, chức
vụ Chính trị viên Đại đội.
Hơn 22 năm kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ông luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được
giao, ở bất cứ địa bàn nào, công tác gì (chính trị, vũ trang…). Ông có sở trường
chế tạo trái gài và gài trái rất hiệu quả, được nhân dân, đồng đội tin yêu,
ca ngợi và đặt cho các biệt danh nổi tiếng: “kỹ sư”, “chuyên gia gài trái”,
“ông thần mìn, thần lựu đạn”…Từ năm 1959 đến tháng 7/1970, ông trực tiếp và
cùng đơn vị đánh địch 45 trận, phần nhiều đánh bằng vũ khí thô sơ. Riêng ông
diệt 91 tên địch, trong đó có tên trung uý giang cảnh ác ôn; làm bị thương
hàng chục tên khác; đánh hư và cháy 3 xe bọc thép (1 M-118 và 2 M-113), chìm
1 tàu chiến, đánh trái gài làm 1 máy bay trực thăng bị thương… Ngày
10/7/1970, trong một trận đánh ở xã Mỹ Thọ, một mình ông đặt trái 105 ly diệt
8 tên, làm bị thương 4 tên biệt kích. Sau đó ông bám trở lại quan sát trận địa
bị địch phục kích, ông hy sinh.
Liệt sỹ Đinh Công Bê được tặng
nhiều Huân chương, Huy chương và danh hiệu dũng sĩ và được Nhà nước truy tặng
danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân ngày 28/4/2000.
|
ĐINH CÔNG BÊ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.44
|
13
|
NGUYỄN THỊ BIẾT
|
Bà Nguyễn Thị Biết (1904 -
1969) quê ấp An Hưng, xã An Khánh, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp. Chồng bà
là Lê Văn Nghị. Bà có 6 người con là Liệt sỹ. Trong suốt thời gian kháng chiến
chống Mỹ, nhà bà là nơi nuôi chứa cán bộ cách mạng, trong đó có Tỉnh ủy Vĩnh
Long.
Năm 1989, bà Nguyễn Thị Biết
được Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng Huân chương Độc
lập hạng Nhất, năm 1994, được truy tặng danh hiệu Bà Mẹ Việt Nam anh hùng.
|
NGUYỄN THỊ BIẾT
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.
|
14
|
NGUYỄN VĂN BIỂU
|
Ông Nguyễn Văn Biểu (1820 -
1914), gốc người thôn Tân Phú, tổng Phong Thạnh, huyện Kiến Phong, phủ Kiến
Tường, tỉnh Định Tường (nay là xã Tân Phú, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp),
sinh năm 1820, là con thứ tám trong một gia đình nông dân nghèo. Lúc nhỏ có
theo học chữ Nho và võ nghệ.
Khi được tin Thiên hộ Võ Duy
Dương kéo quân về Đồng Tháp Mười, chọn Gò Tháp làm tổng hành dinh, xây dựng đồn
luỹ chống giặc Pháp, ông liền từ giã vợ con để vô Gò Tháp ra mắt Thiên Hộ
Dương và được tin cẩn giao cho nhiệm vụ tổ chức chỉ huy đội phòng vệ căn cứ.
Từ đó mọi người gọi ông là Phòng Biểu hoặc Phòng Tám (vì ông thứ tám trong
gia đình).
Tháng 4/1866, thực dân Pháp tập
trung đại quân tấn công triệt hạ căn cứ Tháp Mười. Phó tướng Đốc binh Kiều và
ông ở lại đại bản doanh cố thủ nghi binh trong lúc đại quân do Thiên hộ chỉ
huy rút lui an toàn để bảo tồn lực lượng chiến đấu sau này. Ác chiến diễn ở
Gò Tháp, Đốc binh Kiều bị thương và qua đời tại đây. Sau khi chôn cất Đốc
binh Kiều, Phòng Biểu rút quân về Sình Lớn, cố thủ ở ngã ba Thông Bình (Tân
Thành). Mặc dù quân ít, vũ khí thô sơ, giặc Pháp lại càn quét liên miên,
nhưng nghĩa quân vẫn kiên trì chiến đấu kéo dài suốt bốn năm nữa. Trong thời
gian này, ông đã trừng trị Phạm Văn Khanh, kẻ phản bội đã dẫn đường cho giặc
Pháp vào triệt hạ căn cứ Tháp Mười. Trước sự truy lùng của giặc, lực lượng
nghĩa quân ngày một sa sút. Thấy không thể tiếp tục chiến đấu được nữa, ông
ra lệnh giải tán nghĩa quân. Sau đó, ông về xóm Giồng, rạch Cao Miên, làng
Bình Hàng Trung (nay thuộc huyện Cao Lãnh) ẩn dật. Tại đây, ông cùng Hoà thượng
Minh Thông - Hải Huệ (ở chùa Bửu Lâm gần nhà) tổ chức truyền dạy võ nghệ cho
thanh niên. Ông mất năm 1914, thọ 84 tuổi. Công lao chống giặc giữ nước của
ông mãi được nhân dân ghi tạc; ông được nhân dân làng Bình Hàng Trung thờ phượng
trong đình làng. Vào năm 2014, mộ ông được Ủy ban nhân dân xã và nhân dân cải
táng vào khuôn viên đình thần Bình Hàng Trung.
|
NGUYỄN VĂN BIỂU
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.46
|
15
|
ĐẶNG VĂN BÌNH
|
Ông Đặng Văn Bình (1941 -
1972), quê ở làng Long Hưng, tổng An Phong, quận Lai Vung, tỉnh Sa Đéc (nay
là xã Long Hưng A, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Ông tham gia Du kích xã năm
1961, vào Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam năm 1970. Lúc hy sinh là Xã đội
Trưởng xã Long Hưng.
Với 11 năm chiến đấu ác liệt,
ông kiên cường bám trụ, dũng cảm đánh địch trên 315 trận, lấy bom pháo lép của
địch cải tiến thành trái gài đánh lại địch, kết hợp chông, rào…, đã đánh chìm
4 tàu gỗ, giết 44 tên, làm bị thương 491 tên, thu 4 súng… Tháng 5/1972, ông
nhận nhiệm vụ diệt tề, hỗ trợ quần chúng phá kềm kẹp, trở về ruộng vườn cũ.
Ông bị phục kích trọng thương. Chúng dò theo dấu máu để tìm ông. Ông cố sức
gài trái lựu đạn cuối cùng trên đường rút lui. Lựu đạn nổ, 3 tên địch chết.
Chúng hoảng sợ không dám theo nữa. Khi được đồng đội đưa đến trạm xá thì ông
trút hơi thở cuối cùng.
Liệt sĩ Đặng Văn Bình để lại
tấm gương sáng về tinh thần chiến đấu dũng cảm, chịu đựng gian khổ, chủ động
tấn công địch.
Ngày 30/10/1978, Liệt sĩ Đặng
Văn Bình được Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh
hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
|
ĐẶNG VĂN BÌNH
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.48
|
16
|
PHAN VĂN BỘ
|
Ông Phan Văn Bộ (1908 - ?), quê
làng Mỹ Trà, quận Cao Lãnh,
tỉnh Sa Đéc (nay thuộc thành
phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp), là con trai thứ tám của Hội đồng Phu (Phan Văn
Được - Trà Giang Thôn Lão) và em ruột luật sư, nhà báo nổi tiếng Thân Việt
Phan Văn Thiết (1902 - 1987).
Theo học Collège Mỹ Tho, ông
đỗ bằng Thành Chung năm 1928. Sau đó, ông làm thông ngôn Sở Tư pháp (1929) và
chính thức bước vào ngành này từ năm 1934 với chức danh tham tá, lục sự,
chánh lục sự. Với bút hiệu Lãng Ba, ông đã xuất bản thi phẩm: Hoa tàn (1956),
Hoa nở (1958), Hoa cười (1960), Hoa lan (1962). Thi sĩ
Lãng Ba có bài thơ ca ngợi công đức ông chủ chợ Cao Lãnh Đỗ Công Tường, đền
thờ nằm ở trung tâm chợ Cao Lãnh.
|
PHAN VĂN BỘ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.49
|
17
|
NGUYỄN NGỌC BỒI
|
Ông Nguyễn Ngọc Bồi (1916 -
1964), bí danh Tám Dưa, sinh năm 1916 tại làng Tân Huề, tổng An Phước, quận Hồng
Ngự, tỉnh Châu Đốc (nay xã Tân Huề, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp). Ông
tham gia cách mạng năm 1934, vào Đảng năm 1936, năm 1938 là Bí thư Chi bộ Tân
Huề.
Năm 1940, ông là Ủy viên Ban
Khởi nghĩa Nam Kỳ ở tỉnh Châu Đốc. Do kế hoạch bị lộ, cuộc khởi nghĩa tại địa
phương không thực hiện được, ông phải “điều lắng” sang nơi khác. Tháng
7/1941, là Ủy viên Liên Tỉnh ủy Hậu Giang. Cuối năm 1942, ông làm Bí thư Ban
Cán sự tỉnh Châu Đốc. Năm 1943, giữ nhiệm vụ Bí thư Liên Tỉnh ủy Hậu Giang
kiêm chủ nhiệm tờ báo Giải Phóng với bút danh Hồng Sơn. Năm 1945, ông
được bổ sung Xứ ủy viên Nam Kỳ. Năm 1947 - 1949, ông là Phó Chủ nhiệm Liên
đoàn Việt Kiều Khu 6 Cao Miên. Năm 1950 - 1951, ông công tác Mặt trận Liên Việt.
Năm 1952 - 1953, ông là Huyện ủy viên Châu Phú A. Năm 1954 - 1955, ông làm
Phó ty Công an Long Châu Hà, Bí thư Thị xã ủy Hà Tiên. Năm 1956 - 1957, được
phân công đặc trách công tác Tôn giáo tỉnh An Giang. Năm 1958 - 1963, ông lần
lượt làm Bí thư các xã Lương Phi, Tú Tề, Cô Tô, phụ trách căn cứ Núi Dài -
Tri Tôn. Tháng 01/1964, ông hy sinh. Để ghi nhận công lao cống hiến của ông
Nguyễn Ngọc Bồi (Tám Dưa), Đảng và Nhà nước truy tặng: Huân chương Hồ Chí
Minh, Huân chương Quyết thắng hạng Nhì, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất.
|
NGUYỄN NGỌC BỒI
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.50
|
18
|
NGUYỄN VĂN BỒNG
|
Ông Nguyễn Văn Bồng (1886 -
?), quê ở làng Tân Mỹ (Rạch Giông), tổng An Thạnh Thượng, hạt Sa Đéc (nay là
xã Tân Mỹ, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Năm 1905, ông lập gia đình.
Tuy vậy, ông vẫn theo đuổi
chí hướng tu học, tìm hiểu giáo lý nhà Phật. Năm 1915, ông rời gia đình chu
du nhiều nơi để “tầm sư học đạo”. Sau đó theo “Pháp môn Lục phương”, ông truyền
đạo và lập ra “Lục Phương Tông”.
Ông đi khắp đó đây để sưu tầm
các cây thuốc nam chữa bệnh cho mọi người, qua đó truyền bá giáo lý mà ông
thu nhận được. Ông được xưng tụng là bậc “minh triết”, lấy đạo hiệu là Minh
Trí. Những năm 1920 - 1930, ông đã vận động hình thành các tổ chức xã hội, từ
thiện như làm đường, bắc cầu ở hai làng Tân Mỹ, Tân Khánh Tây; lập được nhiều
trạm cứu tế, phòng thuốc nam chữa bệnh nhiều nơi, được nhân dân kính phục. Nhờ
những hoạt động xã hội từ thiện này, uy tín của ông Nguyễn Văn Bồng - Thầy
Minh Trí ngày càng vang xa. Năm 1933, ông cùng một số đệ tử lên Sài Gòn, tìm
một khu đất ở vùng Chợ Lớn để xây chùa và xin phép thành lập Tịnh độ Cư sĩ
Phật hội Việt Nam.
Ngày 25/7/1934, tại chùa Hưng
Long (đường Minh Mạng, Chợ Lớn), Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội được chính thức thành
lập. Ông Minh Trí được tôn làm “Đức Tôn Sư”. Năm 1949, Hội quán Trung ương của
Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội đặt tại chùa Tân Hưng Long (Phú Định, Chợ Lớn). Đến
1951, ông Minh Trí cải cách giáo pháp chuyển từ “Lục Phương Tông” sang “Phước
Huệ song tu”, nghĩa là “tu thanh tịnh ở nội tâm, làm các phương tiện phước đức,
không có hình thức bên ngoài…”.
|
NGUYỄN VĂN BỒNG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.52
|
19
|
NGUYỄN VĂN BÚT
VÕ ĐÌNH SÂM
|
Hai ông Nguyễn Văn Bút (Thống
chế Bút) và Võ Đình Sâm (còn gọi là Đinh Sâm), vốn là người huyện Vĩnh An, phủ
Tân Thành, tỉnh An Giang (tức vùng Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp ngày nay). Chưa rõ
năm sinh năm mất.
Năm 1867, thực dân Pháp chiếm
6 tỉnh Nam Kỳ. Tại Sa Đéc, Thống chế Bút đã hô hào nhân dân nổi dậy đánh giặc
Pháp nhiều nơi, khí thế rất mạnh mẽ. Nghĩa quân do ông chỉ huy đột nhập phá
ngay đồn Pháp tại Tân Qui Đông, gần 50 tên giặc bị giết, gây tiếng vang lớn
trong vùng. Nghĩa quân của ông được nhiều người hưởng ứng, trong đó có Võ
Đình Sâm, một thanh niên yêu nước, giỏi võ nghệ lại có tài tổ chức, chỉ huy.
Để bảo toàn lực lượng, sau
chiến thắng ở Tân Quy Đông, Thống chế Bút cùng với Võ Đình Sâm rút về Cần
Thơ, lập căn cứ Láng Hầm, tức vùng Trà Niềng - Ba Láng, Phong Điền (nay thuộc
xã Nhơn Ái, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ). Ở đây có Cai tổng Định Bảo là
Nguyễn Văn Vĩnh cấu kết với giặc Pháp thường xuyên áp bức, bóc lột nhân dân,
nghĩa quân nhiều lần viết thơ khuyên giải, cảnh báo nhưng Nguyễn Văn Vĩnh vẫn
chứng nào tật ấy. Nghĩa quân quyết định mang quân bao vây nhà ở Phong Điền, bắt
giết Nguyễn Văn Vĩnh tại chỗ.
Sau đó, Thống chế Bút cùng với
Võ Đình Sâm lui về đầm lầy Ba Láng rồi sang An Giang phân tán, hoạt động khắp
vùng rộng lớn từ Sa Đéc, Vĩnh Long cho đến Mỹ Tho, Định Tường. Ít lâu sau, thực
dân Pháp sử dụng tay sai khét tiếng Trần Bá Lộc truy lùng, bắt được Thống chế
Bút và giết ông ngay tại chợ Sa Đéc hòng lung lạc tinh thần yêu nước của nhân
dân ta.
|
NGUYỄN VĂN BÚT
VÕ ĐÌNH SÂM
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.54
|
20
|
NGUYỄN VĂN CÁI
|
Ông Nguyễn Văn Cái (1907 -
1982), bí danh Nguyễn Nam, quê làng Bình Thành Tây, tổng An Phú, quận Thốt Nốt,
tỉnh Long Xuyên (nay thuộc xã Bình Thạnh Trung, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng
Tháp). Từ năm 1927, ông vừa dạy, vừa học ở Lấp Vò, vừa tham gia hoạt động
cách mạng. Tháng 5/1928, ông gia nhập Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, vào
An Nam Cộng sản Đảng năm 1929, tại chi bộ Lấp Vò. Tháng 10/1929 bị địch bắt
giam cùng em ruột là Nguyễn Văn Cưng.
Ra tù, từ năm 1931 đến năm
1939, ông hoạt động cách mạng ở Cần Thơ. Từ năm 1939 đến giữa năm 1946, ông
công tác ở tỉnh Bến Tre, giữ các chức vụ: Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh tỉnh,
Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh. Giữa năm 1946, ông ra miền Bắc
công tác, làm Giám đốc phòng Nam Bộ Trung ương, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội
và Chính phủ. Từ năm 1948 đến 10/1951, ông làm Cục trưởng Cục tiếp tế vận tải
trực thuộc Bộ kinh tế. Sau 1954, ông làm Phó Giám đốc Sở Mậu dịch Trung ương,
Giám đốc Tổng Công ty lương thực, Vụ trưởng vụ Tài vụ Bộ Thương nghiệp và Bộ
Nội thương, Trưởng Ban Thanh tra Bộ Nội thương. Ông là đại biểu Quốc hội khoá
I, II, III.
|
NGUYỄN VĂN CÁI
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.56
|
21
|
LÊ THỊ CẨN
|
Bà Lê Thị Cẩn (1895 - 1952),
quê làng Mỹ Ngãi, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là xã Mỹ Tân, thành phố Cao
Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Chồng bà là Nguyễn Bình Trị, có lòng yêu nước, tính
tình hào hiệp, ông qua đời năm 1946.
Bà được mọi người thương yêu
gọi Má Mười, là người mẹ chiến sĩ mẫu mực hết lòng thương yêu, chăm sóc bộ đội,
cống hiến gần tất cả gia tài cho kháng chiến và cả 3 người con trai đều là liệt
sĩ. Ngoài ra, bà Lê Thị Cẩn còn có người con rể út là Nguyễn Đắc Nam, hy sinh
tháng 7/1970 khi đang là Tham mưu phó Trung đoàn 1, Quân khu 8 và cháu nội là
Nguyễn Thị Thu Ngọc (con gái của Nguyễn Phước Thì), hy sinh ngày 02/3/1962.
Ngày 28/4/1997, bà Lê Thị Cẩn
được Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng.
|
LÊ THỊ CẨN
|
Đồng Tháp nhân vật chí, năm 2005.
|
22
|
LÊ VĂN CHẮC
|
Ông Lê Văn Chắc (? - ?), thường
gọi là Cò mi Chắc, quê làng Mỹ Ngãi, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay thuộc
thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp), không rõ năm sinh, năm mất. Là một trí
thức yêu nước, ông đứng vào hàng ngũ 300 công nhân, viên chức Ngân hàng Đông
Dương (Banque de L’Indochine), đoàn kết bãi công chống chủ Tây đàn áp, sa thải
nhân viên (03/5/1926). Bị thất bại, ông trở về quê nhà, tham gia Thanh niên
Cao vọng Đảng (Hội kín Nguyễn An Ninh) ở Cao Lãnh.
Ông có mối đồng cảm với Việt
Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội (1927), Đảng Cộng sản Việt Nam (1930),
tích cực hoà nhập vào phong trào đấu tranh dân chủ, dân sinh. Trong cuộc biểu
tình ngày 03/5/1930 tại Cao Lãnh, ông đại diện đoàn biểu tình trao yêu sách
kháng thuế cho nhà cầm quyền. Giỏi tiếng Tây, ông đấu lý không khoan nhượng với
chủ quận Lê Quang Tường, cò Tây Ca-zê-nô-va về nguyện vọng chính đáng của quần
chúng, đòi phải hoãn thuế thân, trả tự do tức khắc cho những người thiếu thuế
bị bắt giam.
Trước cuộc khủng bố trắng
1930 - 1931 của thực dân Pháp, ông rút vào bí mật, hoạt động cùng các đồng
chí Cộng sản. Ông là một trí thức Nam Bộ có khí tiết, để lại một tấm gương
sáng: trung với nước, hiếu với dân.
|
LÊ VĂN CHẮC
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.59
|
23
|
LÊ VĂN CHÁNH
|
Ông Lê Văn Chánh (1911 -
2009), quê làng Mỹ Trà, tổng Phong Thạnh, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là
xã Mỹ Trà, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Tháng 6/1929, ông được kết nạp
Đảng tại Chi bộ tổ Việt Nam Cách mạng Thanh niên xã Mỹ Trà. Từ tháng 4/1930 đến
năm 1944, ông là Trưởng Cán sự Chi bộ xã Mỹ Trà và Cao Lãnh, Trưởng Cán sự ấp
Ba Sao, Trưởng Cán sự Liên ấp Ba Sao và Mỹ Quý, Cao Lãnh, rồi Bí thư Liên chi
Ba Sao và Mỹ Quý, Cao Lãnh, rồi cán bộ Huyện ủy Cao Lãnh. Từ năm 1946 đến
1949, ông là Huyện ủy viên, rồi Thường vụ Huyện ủy Cao Lãnh; Bí thư Huyện ủy,
phụ trách Chủ tịch Ủy ban Liên Việt và Chánh Thư ký Ban Chấp hành Nông hội
huyện Cao Lãnh. Từ năm 1952, ông là Phó Bí thư Huyện ủy Cao Lãnh và là Ủy
viên Ủy ban Liên Việt tỉnh Long Châu Sa. Tháng 10/1954, ông tập kết ra Bắc
công tác tại cơ quan Đảng uỷ Dân Chính Đảng Trung ương. Sau đó, ông là cán bộ
tổ chức Đảng uỷ, rồi Phó Văn phòng Đảng uỷ và Ủy viên Ban Tổ chức Đảng Bộ Dân
Chính Đảng Trung ương (1955). Năm 1960, ông là Phó Ban Tổ chức và là Ủy viên Ủy
Ban Kiểm tra Đảng bộ Dân Chính Đảng Trung ương. Từ năm 1966, ông là Phó Ban
Tuyên giáo Đảng bộ Dân Chính Đảng Trung ương và là Phó Giám đốc Trường Lý luận
Chính trị Trung cấp tại chức Đảng bộ Dân Chính Đảng Trung ương. Tháng
11/1975, ông nghỉ hưu và mất năm 2009. Ông Lê Văn Chánh đã được tặng danh hiệu
Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng
Nhì, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Nhì, Huân chương Kháng chiến Nam Bộ
và nhiều hình thức khen thưởng khác.
|
LÊ VĂN CHÁNH
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.62
|
24
|
NGUYỄN VĂN CHÂU
|
Ông Nguyễn Văn Châu (1936 -
1972), quê làng Mỹ An Hưng, quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (nay thuộc huyện Lấp
Vò, tỉnh Đồng Tháp). Ông tham gia du kích xã năm 1957, sau đó, vào Ban An
ninh huyện. Năm 1966, ông được phân công về xã Mỹ An Hưng phối hợp với du
kích xã tiêu diệt bọn ác ôn. Tại đây, ông đã tiêu diệt một số tên như tên
“xây dựng nông thôn” ác ôn, tên tình báo của Ty Chiêu hồi, ông cùng với 3 du
kích xã bắt, xử lý 2 tên dân vệ xung kích. Năm 1967, ông được phân công phụ
trách xã Bình Thạnh Trung, huyện Lấp Vò, không lâu sau, ông diệt 1 gián điệp
và 1 điệp báo viên hoạt động ở xã Định Yên. Năm 1968, ông cùng trung đội Địa
phương quân huyện và Du kích xã Bình Thạnh Trung đánh trung đội bảo an, diệt
31 tên. Tháng 7/1968, ông được cử đi các xã Long Hậu, Tân Phước (huyện Lai
Vung), xã Định Yên (huyện Lấp Vò) bắt 10 tên ác ôn. Tháng 9/1968, địch tập
trung đánh phá ác liệt vào căn cứ của ta, ông cùng 2 chiến sĩ khác bám trận địa,
đánh địch suốt 3 ngày liền tại xã Long Hậu, diệt 17 tên, bị thương 6 tên. Năm
1970, ông nhận nhiệm vụ xử lý Trưởng Cuộc cảnh sát ác ôn ở xã Mỹ An Hưng. Khi
chùa Tòng Sơn tổ chức cúng, lợi dụng lúc đông người, ông rút lưỡi lê đâm chết
tên này. Năm 1972, địch tập trung nhiều lực lượng, binh chủng đánh vào căn cứ
địa Tỉnh ủy, Huyện ủy (ở xã Long Hưng), lúc này ông đang là Phó Trưởng Ban An
ninh huyện Lấp Vò, ông cùng đơn vị anh dũng chiến đấu và đã hy sinh.
Ông Nguyễn Văn Châu được tặng
thưởng: Huân chương Quyết thắng hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước hạng Nhất. Ngày 22/7/1998, Liệt sĩ Nguyễn Văn Châu được Chủ tịch nước
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lương
vũ trang nhân dân.
|
NGUYỄN VĂN CHÂU
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.66
|
25
|
NGUYỄN VIỆT CHÂU
|
Nguyễn Việt Châu (1927 -
1969), tên thường dùng Sáu Tâm, quê làng Sung Tích, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng
Ngãi (nay là xã Tịnh Long, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi). Năm 1943, ông rời
quê hương vô Sài Gòn tìm đến cơ quan Kỳ bộ Việt Minh Nam Bộ đóng tại Tân Định,
Sài Gòn nơi anh trai của ông là Trần Văn Trà đang công tác. Ông được phân
công in tài liệu, truyền đơn và in báo Giải phóng của Kỳ bộ.
Tháng 11/1944, cả cơ quan Kỳ
bộ và ông cùng anh trai sa vào tay giặc. Ông không khai lời nào, địch giam
ông ở Khám Lớn Sài Gòn. Ngày 09/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, ông được trả tự
do, tìm bắt liên lạc với Xứ uỷ Nam Kỳ, gia nhập vào Đội giải phóng liên quận
Hóc Môn, Bà Điểm, Đức Hoà. Năm 1946, ông là cán bộ Việt Minh huyện Chợ Gạo,
được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1948 - 1950, ông là Tỉnh ủy
viên tỉnh Gò Công, Chính trị viên Tỉnh đội. Năm 1951, được điều về làm Bí thư
Huyện ủy Châu Thành (Sa Đéc). Năm 1956, ông được chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy
Sa Đéc. Năm 1957, tỉnh Sa Đéc sáp nhập vào tỉnh Vĩnh Long, ông được cử làm Bí
thư Tỉnh ủy Vĩnh Long. Đến năm 1961 được điều lên Khu uỷ Tây Nam Bộ.
Từ năm 1961 - 1967, ông kinh
qua các chức vụ: Khu ủy viên, Chính trị viên Quân khu, Tuyên huấn Khu, Giám
hiệu trường Đảng Hoàng Văn Thụ. Cuối năm 1967, ông được Khu uỷ chỉ định làm
Bí thư Thành uỷ Cần Thơ, trực tiếp lãnh đạo chiến trường trọng điểm của Khu
trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968. Ngày 06/12/1969, trong lúc
Nguyễn Việt Châu đang chủ trì cuộc họp Thành uỷ Cần Thơ, tại xã Phú Hựu, huyện
Phụng Hiệp, máy bay địch đến bắn phá, ông bị trọng thương và hy sinh.
Công lao và sự nghiệp cách mạng
của ông đã gắn liền với lịch sử cách mạng của Đảng bộ tỉnh Sa Đéc (Đồng
Tháp), tỉnh Vĩnh Long và Cần Thơ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Ông được tặng thưởng: Huân
chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất và nhiều Huân
chương, Huy chương khác.
|
NGUYỄN VIỆT CHÂU
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.68
|
26
|
NGUYỄN THỊ CHƠI
|
Bà Nguyễn Thị Chơi (1920 -
1980), quê làng An Khánh, quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (nay là xã An Khánh,
huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp). Chồng bà là ông Hồ Văn Mừng. Bà có 7 người
con trai lần lượt tham gia kháng chiến, trong đó có 5 người con là Liệt sỹ.
Ngày 17/12/1994, bà Nguyễn Thị Chơi được Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.
|
NGUYỄN THỊ CHƠI
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015.
|
27
|
TRẦN THỊ CHƠI
|
Bà Trần Thị Chơi (1916 -
1991) tên thường gọi Tư Chơi, quê ấp Tân Thuận B, xã Tân Dương, huyện Lai
Vung, tỉnh Đồn Tháp. Thời kháng chiến chống Mỹ, bà làm giao liên cho Ban Giao
bưu tỉnh Vĩnh Long.
Gia đình bà có 11 người thì cả
11 người đều tham gia kháng chiến, trong đó có 5 người đã hy sinh: Nguyễn Văn
Tròn hy sinh năm 1972, Nguyễn Văn Chia hy sinh năm 1968, Nguyễn Văn Ẩn hy
sinh năm 1968, Nguyễn Văn Thu hy sinh năm 1974, Nguyễn Văn Tám hy sinh năm
1974.
Năm 1994, bà Trần Thị Chơi được
Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng.
|
TRẦN THỊ CHƠI
|
Đồng Tháp nhân vật chí, năm 2005.
|
28
|
PHAN THỊ CHỮ
|
Bà Phan Thị Chữ (1883 - 1980),
quê làng An Phú Thuận, quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (nay thuộc xã An Khánh,
huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp). Chồng bà là ông Nguyễn Văn Năm. Bà có 8
người con (6 trai, 2 gái). Sáu người con trai của bà lần lượt đi kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, trong đó có 5 người con là Liệt sỹ. Ngày 17/12/1994,
bà Phan Thị Chữ được Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.
|
PHAN THỊ CHỮ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, năm 2005.
|
29
|
VÕ VĂN CHỨA
|
Ông Võ Văn Chứa (1921 -
1972), Bảy Tường, quê làng Tân Thành, quận Hồng Ngự, tỉnh Châu Đốc (nay là
thuộc huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp).
Năm 1946, ông thoát ly tham
gia cách mạng, làm Thư ký nông hội xã An Bình, huyện Hồng Ngự. Năm 1949, ông
được kết nạp Đảng tại Chi bộ xã An Bình, huyện Hồng Ngự. Từ năm 1950, ông là
Thư ký Nông hội xã An Bình. Cuối năm 1954, ông được chỉ định làm Bí thư xã An
Bình. Tháng 12/1957, ông là Huyện ủy viên Huyện ủy Hồng Ngự, rồi Thường vụ
Huyện ủy (1961 ), Phó Bí thư Huyện ủy Hồng Ngự (1962). Tháng 7/1964, ông là Tỉnh
ủy viên, Bí thư huyện uỷ Thanh Bình, tỉnh Kiến Phong. Từ năm 1969, ông là Ủy
viên Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy, kiêm Chủ tịch Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tỉnh Kiến Phong. Ngày 25/9/1972, trên đường
đi dự hội nghị từ Khu về, ông bị địch gài lựu đạn và hy sinh tại xã Mỹ Thọ,
huyện Cao Lãnh, tỉnh Kiến Phong (nay là tỉnh Đồng Tháp).
Quá trình tham gia cách mạng,
ông đã có những đóng góp quan trọng cho cách mạng tỉnh nhà. Ghi nhận những
đóng góp đó, ông đã được tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất và nhiều hình
thức khen thưởng khác.
|
VÕ VĂN CHỨA
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.77
|
30
|
NGUYỄN KIM CHUNG
|
Bà Nguyễn Kim Chung (1907 -
1988), quê làng Tân Đông, quận Sa Đéc (nay thuộc xã Tân Khánh Đông, thành phố
Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp).
Ngay từ nhỏ, bà đã được bồi
dưỡng nghệ thuật tuồng. Những năm 1930 - 1945, bà trở thành một đào hát giỏi
trong các gánh: Trần Đắt, Bầu Bòn, Huỳnh Kỳ, Song Phụng… Bà đóng rất nhiều
vai, được khán giả đương thời yêu thích, trong đó có vai Mạnh Thị trong vở Mạnh
Lệ Quân thoát hài và nhiều vai khác trong các vở Phụng Nghi Đình (vai
Lữ Bố), Ngũ biến báo phu cừu (vai cùi và điên, hát bài hành khất)… Bà
được mọi người mến mộ gọi thân thương “Cô Năm Sa Đéc”, “Bà Năm Sa Đéc”. Giữa
năm 1947, Cô Năm Sa Đéc về làm vợ ông Vương Hồng Sển, hai ông bà sống ở căn
nhà thuê “xóm Cù Lao”, đường Võ Di Nguy, Phú Nhuận (Sài Gòn). “Cô Năm Sa Đéc”
là một nghệ sĩ có tài, từ sân khấu hát bội cho đến sân khấu cải lương, đều có
những thành công, góp phần phát triển nghệ thuật sân khấu miền Nam trong những
năm 30 - 60 của thế kỷ XX…”. Bà tham gia các phim: “Cho đến bao giờ” của
đạo diễn Huy Thành (1983); “Con thú tật nguyền” của Hồ Quang Minh
(1984); “Mùa nước nổi” của đạo diễn Hồng Sến (1985); “Nơi bình yên
chim hót” của đạo diễn Việt Linh (1986) và nhiều phim khác nữa…
|
NGUYỄN KIM CHUNG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.75
|
31
|
LÊ VĂN CỬ
|
Ông Lê Văn Cử (1909 - 1992),
quê làng Hoà An (rạch Cái Tôm), tổng An Tịnh, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay
thuộc phường 4, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Ông sớm giác ngộ cách mạng,
tham gia hoạt động Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (1927), Đảng Cộng
sản Việt Nam (1930), trở thành thành viên tích cực trong Mặt trận Việt Minh.
Trước Tổng khởi nghĩa, ông phục vụ ở Tổng uỷ An Thạnh Thượng, xã Mỹ An Hưng
(Cái Tàu Thượng), cùng đồng bào đấu tranh anh dũng kiên cường chống thực dân
Pháp đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công.
Ngày 23/9/1945, ông giữ chức vụ
Trưởng Quốc gia Tự vệ cuộc (Công an) tỉnh Sa Đéc. Sau đó, ông được điều động
và phân công lãnh đạo lực lượng Công an miền Trung Nam Bộ, phụ trách công tác
ở Sở Công an Nam Bộ (đồng chí Phạm Hùng làm giám đốc), cho đến ngày Hiệp định
Genève được ký kết (20/7/1954). Năm 1954, ông tập kết ra Bắc. Ông là người
con Cao Lãnh được Đảng ưu ái, tín nhiệm cử làm thư ký riêng cho Bác Hồ. Khoảng
năm 1963, ông chuyển ngành, giữ cương vị Phó Vụ trưởng rồi Vụ trưởng Vụ Pháp
chế Phủ Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, dưới thời Thủ tướng Phạm
Văn Đồng.
Sau ngày 30/4/1975, ông hồi kết
phụ trách công tác Pháp chế Phủ Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng
hoà miền Nam Việt Nam, cho đến ngày nghỉ hưu tại Thành phố Hồ chí Minh. Ông mất
năm 1992 tại Thành phố Hồ Chí Minh, để lại cho đời tấm gương sống đẹp vì lý
tưởng cách mạng, trung với Đảng, hiểu với dân.
|
LÊ VĂN CỬ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.82
|
32
|
PHAN VĂN CỬ
|
Ông Phan Văn Cử (1881 -
1917), quê làng Mỹ Trà, tổng Phong
Thạnh, huyện Kiến Đăng, phủ
Kiến Tường, tỉnh Định Tường (nay thuộc thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp).
Năm 1905, phong trào Đông Du nổ ra và lan rộng đến Nam Kỳ, ông tích cực tham
gia cùng với người bạn là Phạm Nhơn Thuần. Bấy giờ, các nhà yêu nước ở Cao
Lãnh cùng bỏ tiền ra lập Nam Đồng Hương lữ quán. Lập khách sạn, một hoạt động
khá phổ biến của chủ trương Minh Tân lúc bấy giờ ở Nam Kỳ. Lữ quán vừa là nơi
kinh doanh tạo ra tiền giúp phong trào, vừa là nơi tập trung hội họp của các
nhà ái quốc. Nam Đồng Hương là nơi gặp gỡ các cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu
Trinh, Dương Bá Trạc, Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Sinh Sắc…Ông Phan Văn Cử, người
có năng lực kinh doanh, nên ông được giao làm quản lý lữ quán. Ông chẳng những
hoàn thành nhiệm vụ mình, mà còn bỏ tiền giúp đỡ thanh niên, học sinh có chí
học tập.
Ngoài ra, ông còn hưởng ứng
phong trào, bằng cách bỏ tiền ra mua đất trồng cao su ở Hóc Môn theo hướng
kinh doanh công nghiệp. Nhưng chẳng may ông mất sớm lúc mới 37 tuổi. Ngày
04/4/2011, phần mộ của ông được di dời nguyên trạng về bên cạnh khu mộ gia
đình ông Lê Văn Đáng, trong Khu di tích Mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc.
|
PHAN VĂN CỬ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.84
|
33
|
NGUYỄN VĂN CƯNG
|
Ông Nguyễn Văn Cưng (1909 -
1935), quê làng Bình Thành Tây, tổng An Phú, quận Thốt Nốt, tỉnh Long Xuyên
(nay là xã Bình Thạnh Trung, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Năm 1926, ông
tích cực tham gia phong trào bãi khoá để làm lễ truy điệu cụ Phan Châu Trinh,
bị đuổi học vì tội làm “quốc sự”. Sau đó, ông cùng 8 thanh niên khác được tuyển
chọn đưa đi huấn luyện chính trị ở Quảng Châu (Trung Quốc). Tháng 02/1928,
ông vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội tỉnh Long Xuyên và thành lập
một chi hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội tại Lấp Vò. Tháng
02/1929, ông làm Bí thư Tỉnh bộ thay Châu Văn Liêm được rút về Thường vụ Kỳ bộ.
Tháng 8/1929, ông được kết nạp vào An Nam Cộng sản Đảng tại Lấp Vò và thành lập
chi bộ Đảng tại đây, do ông làm Bí thư. Cuối tháng 3/1930, tỉnh Long Xuyên
thành lập Tỉnh ủy lâm thời, ông được phân công phụ trách Ban Chấp uỷ (Bí
thư), ông cùng tổ chức lãnh đạo các cuộc đấu tranh của quần chúng ở vùng Chợ
Mới đòi hoãn thuế, giảm thuế (ngày 09/5/1930 và ngày 28/5/1930) giành thắng lợi.
Tháng 9/1930, ông bị địch bắt trong lúc đi chỉ đạo cơ sở vùng Chợ Mới và bị kết
án 15 năm tù, đày ra Côn Đảo. Năm 1935, chi bộ nhà tù tổ chức nhiều chuyến vượt
ngục. Ông được chọn cùng một số người nữa vượt biển về đất liền tiếp tục hoạt
động. Khi bè ra giữa biển, thời tiết không thuận lợi, bè bị chìm và tất cả đều
hy sinh.
Nguyễn Văn Cưng - người con
yêu nước của quê hương Lấp Vò, một trong những người Cộng sản đầu tiên, người
Bí thư chi bộ đầu tiên ở Lấp Vò và là Bí thư Tỉnh ủy đầu tiên của tỉnh Long
Xuyên, đã hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ, khi khả năng và trí tuệ cách mạng
đang sung mãn là một mất mát lớn đối với phong trào cách mạng địa phương.
|
NGUYỄN VĂN CƯNG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.55
|
34
|
VÕ VĂN DÁNH
|
Ông Võ Văn Dánh (1931 - 1995),
thường gọi Tư Hiếu, quê làng Tăng Hoà, tổng Hoà Lạc Hạ, tỉnh Gò Công (nay là
xã Tăng Hoà, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Năm 14 tuổi, ông tham gia
cách mạng và 17 tuổi ông vào Vệ quốc Đoàn. Hai lần bị giặc Pháp bắt, có lần
chúng đem đồng đội và cả em ruột của ông ra bắn trước mặt ông để lung lạc
tinh thần, song ông vẫn vững vàng, mưu trí tìm cách trốn thoát.
Sau ngày đình chiến 1954, ông
được giao nhiệm vụ bảo vệ cơ quan và các đồng chí Tỉnh ủy Kiến Phong. Trong
thế bị địch kềm kẹp, bao vây, lùng sục, ông vẫn bảo vệ Tỉnh ủy an toàn. Sau Đồng
Khởi, ông về Ban Tuyên huấn phụ trách nhà in. Khi Mỹ gây Chiến tranh cục bộ,
ông được điều về lãnh đạo đơn vị C.279 bảo vệ cơ quan Tỉnh ủy. Năm 1966,
trong một trận chống càn, ông bị thương nặng, hư một mắt nhưng vẫn không rời
đơn vị. Căn cứ của Tỉnh ủy Kiến Phong ở Xẻo Quýt vẫn tồn tại, an toàn trong
vòng vây đồn bót, càn quét, đánh phá địch cho đến ngày hoàn toàn giải phóng,
có công lớn của ông và đơn vị C.279. Ngày 06/01/1969, 1 đại đội quân Mỹ đổ xuống
đánh vào cơ quan Tỉnh ủy đóng ở Bình Hàng Tây. Với tư tưởng “nắm thắt lưng
địch mà đánh”, ông chờ bọn Mỹ vào cách 5 thước mới ra lệnh nổ súng. Suốt
ngày chịu đựng bom pháo ác liệt của Mỹ, ông chỉ huy đơn vị bám chặt công sự,
đánh bật tất cả các đợt tấn công của địch. Sáng ngày 04/10/1974, ông tổ chức
phục kích, bẻ gãy ý đồ đưa 4 đại đội hành quân hòng tái chiếm đồn Gốc Khế
(Thanh Mỹ).
Sau ngày giải phóng, đơn vị C.279
được tuyên dương danh hiệu Anh hùng. Năm 1978, ông được Chủ tịch nước Cộng
hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân. Ông tiếp tục công tác, là Phó Trưởng ty Công an Đồng
Tháp, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy. Ông
qua đời ngày 05/10/1995, an táng tại Nghĩa trang Liệt sĩ tỉnh Đồng Tháp.
|
VÕ VĂN DÁNH
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.91
|
35
|
NGUYỄN THỊ DÀNH
|
Bà Nguyễn Thị Dành (1899 -
1930), quê làng Đông Hoà, tổng Thuận Bình, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay
là xã Đông Hoà, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang). Bà là cháu ngoại danh tướng
Nguyễn Tri Phương, mẹ Nhạc sĩ, Giáo sư, Tiến sĩ Trần Văn Khê và nghệ sĩ Trần
Văn Trạch (1924 - 1994) nổi danh “quái kiệt” làng nhạc Nam Bộ.
Sớm giác ngộ cách mạng, năm
1927 bà trở thành nữ hội viên đầu tiên Chi hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng
Đồng chí Hội ở Vĩnh Kim (Mỹ Tho). Năm 1930, bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản
Việt Nam, được giao nhiệm vụ Bí thư Chi bộ Vĩnh Kim, chi bộ Đảng đầu tiên của
tỉnh Mỹ Tho. Phong trào đấu tranh cách mạng ở đây lên khá cao, địch ráo riết
đàn áp, truy lùng. Tỉnh ủy Mỹ Tho giới thiệu bà về sinh hoạt, công tác ở làng
Hoà An, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc. Ngày 03/5/1930, bà tham gia cuộc biểu
tình đòi hoãn thuế của nhân dân Cao Lãnh. Thực dân Pháp và tay sai lùng bắt
những người lãnh đạo cuộc biểu tình. Bà lẩn tránh trong đống rơm, bị cảnh sát
đâm lưỡi lê trúng 2 vết vào người, phải lấy rơm vuốt cho lưỡi lê sạch máu để
khỏi bị lộ. Vì vết thương quá nặng, bà từ trần ngày 20/7/1930, hưởng dương 31
tuổi, lúc bà đang mang thai 3 tháng và Trần Văn Khê mới 9 tuổi. Máu bà Nguyễn
Thị Dành đã đổ trên đất Cao Lãnh, tô thắm truyền thống cách mạng Hoà An - Cao
Lãnh - Đồng Tháp anh hùng.
|
NGUYỄN THỊ DÀNH
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.93
|
36
|
NGUYỄN QUANG DIÊU
|
Nguyễn Quang Diêu (1880 -
1936), tự là Tử Ngọc, hiệu là Cảnh Sơn (hay Nam Sơn), người làng Tân Thuận, tổng
An Tịnh, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là xã Tân Thuận Tây, thành phố Cao
Lãnh, tỉnh Đồng Tháp).
Năm 1907, ông tham gia phong
trào Đông Du. Tháng 5/1912, nhà ái quốc Phan Bội Châu lập Việt Nam Quang phục
Hội ở Trung Quốc, suốt 6 năm sống và hoạt động ở Trung Quốc, ông theo con đường
cách mạng tư sản do Phan Bội Châu vạch ra. Cuối năm 1926, ông bí mật về hoạt
động trong nước. Sau một thời gian ở Sài Gòn, ông về Sa Đéc (nay là Đồng
Tháp) vào đầu năm 1927, được sự hỗ trợ nhiệt tình của hai ông Võ Hoành và Phó
bảng Nguyễn Sanh Huy (Nguyễn Sinh Sắc). Từ đây, với tư cách người tù khổ sai
vượt ngục, ông vẫn hăng say hoạt động, phải đổi tên nhiều lần (Nam Xương, Trần
Văn Vẹn…) và cải trang để đi hoạt động. Các tỉnh miền Tây, nhất là Cao Lãnh,
Tân Châu, Hồng Ngự, Châu Đốc,… là những địa phương ông thường lui tới tuyên
truyền giáo dục quần chúng và tạo được nhiều cơ sở cách mạng. Ngày 15/5/1936,
ông bị bệnh qua đời trong sự im lặng của một “tội phạm chánh trị vượt ngục”,
được đồng bào, đồng chí và môn sinh an táng tại làng Vĩnh Hoà (năm 1989 được
cải táng ở quê nhà).
Ông để lại một khối lượng lớn
tác phẩm thơ góp phần không nhỏ trong văn học yêu nước Việt Nam thời cận đại,
đánh dấu bước ngoặt tư tưởng trong cách mạng nước ta những thập niên đầu thế
kỷ XX. Công lao lớn của ông là giác ngộ một số quần chúng nông dân, nhất là
thanh niên đi từ chủ nghĩa yêu nước chân chính sang chủ nghĩa yêu nước có xu
hướng xã hội chủ nghĩa.
|
NGUYỄN QUANGDIÊU
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.96
|
37
|
NGUYỄN THỊ DUNG
|
Bà Nguyễn Thị Dung (? - ?),
người huyện An Xuyên, phủ Tân Thành (nay thuộc vùng Châu Thành - Sa Đéc, tỉnh
Đồng Tháp). Bà sống vào khoảng cuối đời Minh Mạng (1820 - 1840). Gia đình bà
thuộc vào hạng giàu có nổi tiếng trong vùng. Tuy vậy, tính tình bà lại rất
thuần hậu, thương người, hay giúp đỡ người nghèo và hết mình vì việc nghĩa
không hề tiếc của.
Bà vốn mến mộ đạo Phật nên
thường lạc quyên, bố thí và chẩn tế ở rất nhiều nơi nên tiếng đồn về lòng
nhân đức của bà lan rộng. Bà luôn được nhân dân hết lòng mến mộ. Năm đầu thời
Thiệu Trị (1841), có biến loạn lớn ở vùng An Giang - Châu Đốc. Dân chúng
trong vùng lâm vào cảnh khốn khó. Bà thấy vậy bèn xuất tiền của, gạo thóc ra
tay cứu giúp. Quân đội của triều đình bấy giờ đương lúc cần quân nhu, lương
thực, bà hay tin vội xuất lúa nhà ra ủng hộ. Quan quân rất cảm kích tấm lòng
của bà nên sau đó gởi tấu sớ về triều nêu rõ công trạng của bà. Vua Thiệu Trị
sau khi xem tấu sớ đã họp triều thần và quyết định sắc tứ cho bà một tấm biển
son đề bốn chữ vàng “Lạc quyên nghĩa phụ” để biểu dương lòng háo nghĩa của bà
cho dân chúng noi gương. Sau khi bà qua đời, dân chúng trong vùng vẫn hằng nhớ
ơn và chuyện bà Nguyễn Thị Dung được vua sắc tặng bảng vàng là một vinh dự hiếm
hoi mà nhân dân nhiều đời còn nhắc nhở.
|
NGUYỄN THỊ DUNG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.98
|
38
|
NGUYỄN VĂN DŨNG
|
Ông Nguyễn Văn Dũng (1952 -
1970), quê làng An Phú Thuận, quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (nay là xã An Phú
Thuận, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp), tham gia cách mạng tháng 3/1968, là
Tiểu đội Phó Đội Trinh sát vũ trang Ban An ninh tỉnh Vĩnh Long, đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Năm 1969, địch bình định ác
liệt, càn quét liên miên để mở rộng vùng chiếm đóng. Để bảo vệ căn cứ Tỉnh ủy
(ở huyện Tam Bình), Ban An ninh tỉnh giao Đội Trinh sát vũ trang bằng mọi
cách diệt cho được bọn này. Ông cùng đồng đội kiên trì điều nghiên, vạch
phương án đánh địch. Giữa đêm 23/12/1969, ông cùng đơn vị tổ chức đánh đồn,
diệt gọn 12 tên biệt kích ác ôn, thu toàn bộ vũ khí. Ngày 26/4/1970, đơn vị của
ông được lệnh đánh tập kích Đoàn bình định số 23, tại khu trù mật Cái Sơn,
Tam Bình. Chưa đầy 15 phút, đã diệt gọn 22 tên, trong đó có tên trưởng đoàn
và tên trung uý chỉ huy tâm lý chiến, thu 15 súng, 3 máy truyền tin PRC-25… Bọn
thám báo đóng cách đó 100 mét chạy đến cứu nguy cho đồng bọn. Để bảo toàn lực
lượng, ông cho đồng đội rút lui, ông tình nguyện ở lại đánh kềm chế địch. Với
khẩu tiểu liên vừa thu được, ông bẻ gãy nhiều đợt tấn công của địch. Súng hết
đạn, ông bị thương gãy chân, máu ra nhiều kiệt sức, trời hừng sáng… Địch tràn
tới, ông bình tĩnh buông nhíp, trái lựu đạn nổ tung, 3 tên nữa chết và trọng
thương. Nguyễn Văn Dũng đã anh dũng hy sinh ở tuổi 18.
Ông Nguyễn Văn Dũng được tặng
Huân chương Chiến công hạng Ba, nhiều Bằng khen, Giấy khen. Ngày 03/8/1995,
liệt sĩ Nguyễn Văn Dũng được Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
|
NGUYỄN VĂN DŨNG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.99
|
39
|
PHẠM HOÀNG DŨNG
|
Phạm Hoàng Dũng (1952 -
1978), quê xã Thường Phước, huyện Tân Hồng, tỉnh Long Châu Sa (nay là xã Thường
Phước 1, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp). Khi hy sinh, Dũng là đoàn viên
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đại đội trưởng Đại đội 732, Tiểu đoàn 4 Bộ đội
tỉnh Đồng Tháp.
Năm 1968, mới 16 tuổi, ông vô
du kích xã. Năm 1975, ông được chuyển qua công tác công an xã. Năm 1977, bọn
Pôn-pốt gây ra chiến tranh biên giới Tây Nam. ông vận động các quân nhân phục
viên ở xã trở lại tham gia chiến đấu và thành lập một đại đội lấy tên 732. Đại
đội được công nhận thuộc Tiểu đoàn 4, Bộ đội địa phương tỉnh. Ngày 28/02/1978,
một tiểu đoàn địch định đánh chiếm đồn biên phòng ta. Lúc 6 giờ 30 phút, địch
lọt vào trận địa, ta nổ súng, địch chống trả quyết liệt. Gần 12 giờ trưa, ông
dẫn một tổ 4 người đánh cắt ngang đội hình địch. Chúng rối loạn, quân ta xung
phong. Kết quả ta diệt 75 tên, bắt sống 2 tên, thu 30 súng. Ngày 19/5/1978,
400 tên địch chia hai cánh từ Thường Phước và Giồng Bàng đánh xuống Mương
Kinh. Ông chỉ huy đơn vị đánh địch, trận chiến càng gay go, ta hy sinh 3 đồng
chí. Ông ra lệnh đơn vị chuyển hết thương binh, liệt sĩ rút lui, một mình ông
ở lại chiến đấu chận địch. Khi hết đạn, ông hy sinh. Kết quả trận này ta diệt
70 tên địch.
Chỉ tính từ tháng 4/1977 đến
ngày hy sinh, ông đã đánh 30 trận, diệt 27 tên, bắn bị thương 9 tên, thu 7
súng. Ông được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng Nhất, nhiều Bằng
khen, Giấy khen. Ngày 29/8/1985, Phạm Hoàng Dũng được Chủ tịch nước Cộng hoà
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lương vũ trang
nhân dân.
|
PHẠM HOÀNG DŨNG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.101
|
40
|
BÙI VĂN DỰ
|
Ông Bùi Văn Dự (1913 - 1987),
bí danh Nguyễn Thanh, tên thường dùng là Ba Dự, sinh năm 1913 tại làng Tân
Thuận, tổng An Tịnh, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là xã Tân Thuận Đông,
thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp).
Tham gia cách mạng cuối năm
1929, vào Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 10/1930 tại Chi bộ làng Tân Thuận
Đông. Từ năm 1930 đến 1932, ông Bùi Văn Dự bị giặc bắt tra khảo, giam cầm 4 lần
(ở Sa Đéc, Vĩnh Long và Sài Gòn). Ông lần lượt được Đảng giao những trọng
trách: Phụ trách Ban cán sự Đảng bộ Cao Miên (1932 - 1934), Liên Tỉnh ủy Hậu
Giang, Bí thư Thành uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn, Ban cán sự Xứ uỷ Nam Kỳ (1942 -
1944), Bí thư Liên Tỉnh ủy miền Trung Nam Bộ (Khu 8) kiêm Bí thư Tỉnh ủy Long
Châu Tiền (1946 - 1948), Ban Dân vận (Hoà Hảo vận và tôn giáo vận), đại diện Ủy
ban Kháng chiến Khu 8, Ban Kiểm tra Nam Bộ (1948 - 1949), Phó trưởng Ban Dân
vận Trung ương cục, Phó Chủ nhiệm Mặt trận Liên Việt Nam Bộ (1951 - 1953).
Từ tháng 7/1954 đến 1975 ông
giữ các chức vụ: Bí thư Đảng uỷ, kiêm Trưởng Ban tập kết miền Tây Nam Bộ, Vụ
Trưởng vụ Chính sách tập kết, Ủy viên Thường trực Ban Nghiên cứu Dự thảo Dự
án xây dựng nông trường quốc doanh và khai hoang (trực thuộc Ban Chấp hành
Trung ương Đảng), Vụ Trưởng Vụ Đào tạo cán bộ miền Nam, phụ trách trường Đảng
105, Ủy viên Thường trực, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Thống nhất Trung ương, ủy viên
Ban Cán sự Đảng bộ Trung ương. Từ năm 1975 - 1978, ông làm Phó trưởng Ban Thường
trực Ban xây dựng vùng kinh tế mới Trung ương. Đến năm 1978, ông được nghỉ hưu,
sống cùng gia đình tại Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ông được Đảng và Nhà nước tặng
thưởng Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương
Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hạng Nhì,
Huy hiệu Thành đồng Tổ quốc.
|
BÙI VĂN DỰ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.103
|
41
|
PHAN VĂN DƯỢC
|
Ông Phan Văn Dược (1875 - 1946),
thường gọi là Hội đồng Phu, có bút danh Trà Giang Thôn Lão, sinh năm 1875 tại
thôn Mỹ Trà, huyện Kiến Phong, phủ Kiến Tường, tỉnh Định Tường(nay thuộc phường
2, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Là một nhà Nho uyên thâm và yêu nước,
ông từng đồng tâm, hiệp ý với ông Lê Quang Hiển (1864 - 1950), đóng góp tiền
xây cất nhà thương Cao Lãnh (1923), tài trợ phong trào Đông Du miền Nam, tạo
điều kiện cho chí sĩ Nguyễn Quang Diêu (1880 - 1936) xuất dương cứu nước
(1913) và trọn tình bảo bọc chí sĩ Nguyễn Quyền (1869 - 1941) giám học Đông
Kinh Nghĩa Thục (1907), thông gia cụ Cử Hoành, cho đến cuối đời.
|
PHAN VĂN DƯỢC
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.105
|
42
|
VÕ DUY DƯƠNG
|
Võ Duy Dương (1827 - 1866),
quê thôn Cù Lâm Nam, thuộc phủ Tuy Viễn, trấn Bình Định (nay là thôn Nam Tượng,
xã Nhơn Tân, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định), là em ruột của anh hùng chống
Pháp Võ Duy Tân. Tương truyền ông rất khoẻ mạnh và giỏi võ nghệ, được bà con
tôn là Ngũ linh Dương. Tháng 02/1859, Pháp đánh thành Gia Định. Ông cùng Thủ
khoa Nguyễn Hữu Huân, lập Đội Nghĩa ứng kéo về Gia Định đánh Pháp, ông được
phong chức Chánh quản đạo. Ông được phong hàm Chánh bát phẩm Thiên hộ vào năm
1860. Tháng 5/1861, ông được sung vào phái bộ của Khâm phái quân vụ Đỗ Thúc Tịnh
vào Nam với nhiệm vụ chiêu mộ nghĩa dõng chống giặc. Trong một thời gian ngắn,
ông mộ được gần 1.000 nghĩa dõng và được phong chức Quản cơ.
Trương Định được phong làm
Bình Tây Tướng quân và Võ Duy Dương làm Chánh đề đốc, Nguyễn Hữu Huân làm Phó
Đề đốc. Lực lượng nghĩa quân đánh Pháp nhiều trận, gây cho chúng nhiều tổn thất.
Đến năm 1864 Trương Định hy sinh, Thiên Hộ Dương rút quân về Tháp Mười xây dựng
căn cứ. Năm 1865, nghĩa quân đánh vào Cái Bè, Cái Thia, Cai Lậy, Mỹ Quí, nhất
là trận Mỹ Trà khiến Phó đô đốc Rozé phải đưa viện binh từ Sài Gòn xuống cứu
viện. Tháng 4/1866, De Lagrandière tập trung quân chia làm ba mũi tấn công
vào Đồng Tháp Mười. Sau gần mười ngày quần thảo với giặc, Thiên Hộ Dương ra lệnh
rút lui về biên giới và Cái Thia (Cái Bè). Tháng 11, Thiên Hộ Dương vượt biển
về Kinh, đến của Thần Mẫu (Cần Giờ), bất ngờ ông bị Lý Sen, một tên cướp biển
giết chết. Thiên Hộ Dương nằm xuống, nhưng tên tuổi và sự nghiệp chống giặc
giữ nước của ông mãi mãi gắn chặt với mảnh đất Đồng Tháp Mười anh hùng.
|
VÕ DUY DƯƠNG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.111
|
43
|
LÊ VĂN ĐÁNG
|
Ông Lê Văn Đáng (1864 -
1947), quê làng Hoà An (nay là phường 4, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp),
có trình độ Nho học rất khá. Có lúc ông giữ chức Hương Chánh nhất trong làng,
nên mọi người thường gọi ông là Chánh nhất Đáng hoặc Chánh Đáng.
Năm 1907, hưởng ứng phong
trào Đông Du, ông cùng với con là Lê Văn Sao và một đồng chí là Lê Văn Mỹ xuất
dương qua ngả Xiêm La (Thái Lan) sang Trung Quốc rồi đến Nhật tích cực tìm
phương cứu nước. Năm 1908, Pháp cấu kết với Nhật trục xuất du học sinh Việt
Nam, ông bị đưa về Sài Gòn, sau đó bị giải về Vĩnh Long giam hơn một năm. Khi
mãn hạn tù, về quê ông vẫn tiếp tục chống Pháp. Mỗi khi địa phương có hoạt động
kháng Pháp nổi lên là ông bị giặc bắt giam, trước sau tất cả 9 lần. Ông và cụ
Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã trở thành bạn tâm giao, thường xuyên trao đổi,
giáo dục về nỗi nhục mất nước, khơi dậy tinh thần dân tộc, không cam làm nô lệ
cho các thế hệ thanh niên. Khi cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc lâm trọng bệnh,
ông là một trong những người kề cận, chạy chữa thuốc thang và lo liệu việc an
táng khi cụ Phó bảng qua đời. Ông qua đời vào năm 1947, thọ 83 tuổi. Hiện mộ
phần gia đình ông nằm trong Khu di tích Mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, bên cạnh
mộ ông Phan Văn Cử.
|
LÊ VĂN ĐÁNG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.113
|
44
|
CAO VĂN ĐẠT
|
Ông Cao Văn Đạt (1930 - 2006),
bí danh Tư Hồng, quê xã Mỹ Ngãi, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Ông tham gia
cách mạng năm 1948, đến năm 1960 thoát ly gia đình vào Tổ sản xuất vũ khí xã
Thanh Mỹ, huyện Mỹ An, tỉnh Kiến Phong (nay là xã Thanh Mỹ, huyện Tháp Mười,
tỉnh Đồng Tháp). Từ năm 1972 đến năm 1984, ông lần lượt giữ các chức vụ Phó
Bí thư Đảng uỷ kiêm Trưởng Công an xã và Bí thư Đảng uỷ xã. Ông cùng đồng đội
nghiên cứu chế tạo thành công lựu đạn gài, huyền lôi, bốc lôi, đạp lôi, thuỷ
lôi sào, súng kíp, súng ngựa trời, súng ngắn…, phục vụ cho xã nhà và các xã bạn
đánh địch. Ông cải tạo đầu đạn pháo 105 ly lép thành trái gài đánh xe tăng và
đầu đạn 155 ly phóng xa 300 mét chính xác. Vũ khí do ông và tổ sản xuất vũ
khí làm ra sử dụng có hiệu quả, được Tỉnh, Quân khu phổ biến rộng rãi. Từ năm
1960 đến năm 1972, ông cải tạo được 650 đầu đạn pháo, 500 trái gài đánh xe
tăng, sửa chữa và sản xuất 6.000 trái lựu đạn gài, 90 khẩu súng kíp, 70 khẩu
súng ngắn…Trong trận chống địch càn vào nơi sản xuất, cất giấu vũ khí, một
mình ông chiến đấu, thu hút địch về phía mình. Dù bị thương cụt một chân, ông
vẫn giữ vững trận địa, diệt 5 tên (có 1 Đại uý Tiểu đoàn trưởng), làm bị
thương 4 tên khác, góp phần bẻ gãy trận càn, bảo vệ nơi sản xuất.
Ông nghỉ hưu từ năm 1984, ngụ
tại xã Thanh Mỹ, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp và từ trần năm 2006. Ông đã
được tặng thưởng nhiều huân, huy chương, trong đó có Huân chương Kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước hạng Nhất, Huân chương Chiến công hạng Nhất. Ngày
20/12/1994, ông Cao Văn Đạt được Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
|
CAO VĂN ĐẠT
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.116
|
45
|
ĐỖ THỊ ĐỆ
|
Bà Đỗ Thị Đệ (1802 - 1886),
người làng Mỹ Trà, huyện Kiến Đăng, tỉnh Định Tường (nay là xã Mỹ Trà, thành
phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp) là một đại điền chủ giàu có nhất nhì trong
vùng. Bà chẳng những là người giỏi giang, tháo vát trong công việc làm ăn
kinh doanh, gia sản ngày một lớn mà còn có lòng nhân từ, hay làm việc thiện,
cứu trợ cho người nghèo, trợ giúp người sa cơ lỡ vận… Do vậy nhân dân cả vùng
Câu Lãnh (tên gọi Cao Lãnh thời ấy) vô cùng mến phục.
Vào năm Tự Đức thứ 12 (1859),
thực dân Pháp đánh chiếm thành Gia Định, sau đó chiếm luôn ba tỉnh miền Đông
Nam Kỳ. Lúc đầu là quân triều đình, về sau là nghĩa quân Thiên Hộ Dương đều
được bà giúp đỡ, ủng hộ rất nhiều lương thực, đồ sắt, đồ đồng thau… rèn đúc
khí giới. Công đức của bà đối với nhân dân, triều đình và nghĩa quân được vua
Tự Đức ân tứ một tấm biển sơn son thếp vàng, ghi bốn chữ: “HÁO NGHĨA KHẢ PHONG”.
|
ĐỖ THỊ ĐỆ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.118
|
46
|
TRẦN ANH ĐIỀN
|
Ông Trần Anh Điền (1922 -
2016), tên khai sinh là Trần Văn Điền, bí danh Thọ, Ba Vũ, tên thường dùng là
Tám Bé, quê làng Mỹ Xương, tổng Phong Nẫm, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là
xã Mỹ Xương, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp).
Ông tham gia cách mạng ngày
25/8/1945. Năm 1947, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng
10/1948, ông là Huyện ủy viên dự khuyết, rồi Huyện ủy viên chính thức
(4/1949). Tháng 4/1954, ông là Phó Bí thư Huyện ủy Cao Lãnh, đến đầu năm
1955, ông là Bí thư Huyện ủy Cao Lãnh. Thángd 11/1955, ông là Tỉnh ủy viên dự
khuyết. Sau đó là Tỉnh ủy viên chính thức, Trưởng Ban Binh vận Tỉnh. Trung tuần
tháng 11/1959, ông nhận nhiệm vụ Phó Bí thư Tỉnh ủy Kiến Phong. Tháng 4/1960,
ông được Khu uỷ Khu Trung Nam Bộ chỉ định Bí thư Tỉnh ủy Kiến Phong. Tháng
4/1967, ông là Khu ủy viên dự khuyết Khu Trung Nam Bộ, sau đó là Khu ủy viên
chính thức, phụ trách trường Đảng Trần Phú (Khu Trung Nam Bộ). Năm 1972, ông là
Ủy viên Thường vụ Khu uỷ phụ trách Tổ chức, Tuyên huấn, Kiểm tra Khu uỷ. Cuối
năm 1974, ông được Khu uỷ phân công về tỉnh Sa Đéc, trực tiếp chỉ đạo việc
phá thế kềm kẹp, mở vùng giải phóng ở vùng yếu hữu ngạn sông Tiền, cùng Tiểu
đoàn 502 vào tiếp quản thị xã Sa Đéc sáng ngày 01/5/1975.
Đầu năm 1976 giải thể Khu và
thành lập các tỉnh mới, ông về làm Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp. Đại hội Đại biểu
Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ V năm 1982, ông được bầu Ủy viên dự khuyết Ban
Chấp hành Trung ương Đảng và tiếp tục giữ trọng trách Bí thư Tỉnh ủy cho đến
lúc về hưu năm 1986. Ông được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huy hiệu 65 năm tuổi
Đảng, Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều Huân chương, Huy chương cao quý khác.
|
TRẦN ANH ĐIỀN
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.122
|
47
|
NGUYỄN VĂN ĐỐC
|
Ông Nguyễn Văn Đốc (1908 -
1995), làng Hoà An, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là xã Hoà An, thành phố
Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Ông tham gia cách mạng trong những ngày tiền khởi
nghĩa 1945, tháng 8/1945 được kết nạp Đảng. Tháng 10/1945, ông được chỉ định
làm thư ký cho uỷ trưởng Ngoại giao Ủy ban nhân dân Nam Bộ, một tuần sau được
điều sang phụ trách Sở Hoả-xa Sài Gòn cho đến ngày Sài Gòn thất thủ. Tháng
11/1945 đến 1946, ông phụ trách Quốc gia Tự vệ cuộc tỉnh Sa Đéc, rồi Ủy viên Thư
ký Ủy ban nhân dân tỉnh Sa Đéc, đến cuối năm 1946, được điều làm thư ký cho đồng
chí Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ. Sau đó, ông là Trưởng Văn phòng Ban Nội vụ, Ủy ban
Kháng chiến Hành chính Nam Bộ (1947 - 10/1949), Trưởng phòng Cán bộ Ủy ban
Kháng chiến Hành chính Nam Bộ (01/1949 - 1951), Trưởng Văn phòng Ban Kinh tài
Nam Bộ (1952 - 1953), Ủy viên Ban Kinh tài Nam Bộ, kiêm Chánh Văn phòng Ban
(1953 - 8/1954), Ủy viên Tiểu ban tập kết Dân - Chính - Đảng miền Tây Nam Bộ
(1954 - 01/1955), Phó Văn phòng phái đoàn liên lạc Bộ Tư lệnh Quân đội Nhân
dân Việt Nam cạnh Ủy ban kiểm soát quốc tế tại Sài Gòn (01/1955 - 1956), Phó
Văn phòng rồi quyền Chánh Văn phòng Ban Thống Nhất (1957 - 1960), Cục trưởng
Cục Cung-Tiêu, Bộ Nông trường (1961 - 5/1964), Phó Văn phòng Trung ương Cục
miền Nam (6/1964 - 11/1965), Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam (12/1965 - 1970), Vụ trưởng Vụ Quản lý học sinh miền Nam,
Ủy ban Thống Nhất, rồi Chánh Văn phòng kiêm Vụ trưởng Vụ Quản lý học sinh miền
Nam và đào tạo cán bộ cho miền Nam của Ủy ban Thống Nhất (1974 - 8/1975).
Ngày 01/11/1977, ông nghỉ hưu tại phường 3, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí
Minh.
Quá trình công tác ông đã được
Đảng, Nhà nước tặng Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng, Huân chương Kháng chiến hạng
Nhất, Nhì, Huy hiệu Thành đồng Tổ quốc.
|
NGUYỄN VĂN ĐỐC
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. 131
|
48
|
NGUYỄN VĂN ĐỪNG
|
Nguyễn Văn Đừng (1938 -
1963), quê làng Phong Mỹ, tổng Phong Thạnh, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay
là xã Phong Mỹ, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp), vào bộ đội ngày 5/9/1959,
khi hy sinh là Tiểu đội Trưởng, Đại đội 1, Tiểu đoàn chủ lực 261 Khu Trung
Nam Bộ, đảng viên Đảng Nhân dân Cách mạng miền Nam.
Ông đã tham gia đánh giặc
trên 30 trận, luôn gan góc, mưu trí, linh hoạt. Trận đánh ở Thủ Thừa, ông
cùng đơn vị đánh bại tiểu đoàn “Cọp đen” nổi tiếng ác ôn. Trận đánh ở Gò
Công, ông bí mật dẫn tiểu đội đột kích mãnh liệt, tạo thế cho đơn vị diệt địch,
địch bị diệt 145 quân, ta thu nhiều súng đạn. Trong trận Ấp Bắc lịch sử ngày
03/01/1963, tiểu đội của ông vận động ra tiêu diệt một cánh quân địch đổ bộ rồi
trở về phòng ngự. Trận đánh diễn ra ác liệt. Đến chiều, tiểu đội chỉ còn ông
và hai chiến sĩ, vẫn không rời vị trí. Địch tiến vào, ông phân công hai chiến
sĩ đánh bọn bộ binh, còn ông chờ xe M-113 vào cận công sự mới lao lên ném thủ
pháo. Chiếc xe M-113 đi đầu cháy tại chỗ, địch lùi lại, bắn xối xả, ông bị
thương nặng, gọi hai chiến sĩ lại dặn quyết giữ vững trận địa, rồi hy sinh.
Trong chiến thắng Ấp Bắc, riêng tiểu đội của ông đã diệt 3 xe M-113, bắn bị
thương một chiếc khác, cùng đơn vị bắn rớt 5 máy bay trực thăng, bắn bị
thương 9 chiếc khác, diệt 470 tên địch, làm phá sản chiến thuật “trực thăng vận”
và “thiết xa vận” của địch. Tiểu đội của ông được bộ đội, nhân dân tặng danh
hiệu “Tiểu đội gang thép”.
Ông Nguyễn Văn Đừng đã được tặng
thưởng một Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Nhất và là Chiến sĩ thi đua
của Quân khu. Ngày 05/5/1965, ông Nguyễn Văn Đừng được Ủy ban Trung ương Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam truy tặng Huân chương Quân công Giải
phóng hạng Nhì và danh hiệu Anh hùng các Lực lượng vũ trang nhân dân Giải
phóng.
|
NGUYỄN VĂN ĐỪNG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.133
|
49
|
PHAN THỊ GƯƠNG
|
Bà Phan Thị Gương (1909 -
1992), quê xã Bìm Tia, huyện Tà Bét, tỉnh Preyveng (Campuchia), sau đó về Việt
Nam, ngụ tại xã Thông Bình, huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp. Chồng bà là ông Tắc
(Tưk), người Campuchia. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ, 4 người con trai của bà lần lượt lên đường kháng chiến và lần lượt
hy sinh.
Năm 1994, bà Phan Thị Gương
được Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng.
|
PHAN THỊ GƯƠNG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015.
|
50
|
NGUYỄN THANH HÀ
|
Ông Nguyễn Thanh Hà (1915 -
2001), tên thường gọi Nguyễn Thành A, quê làng An Bình, tổng Phong Thạnh, quận
Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là xã An Bình, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp).
Ông tham gia cách mạng từ năm
1936. Tháng 6/1938, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ tháng
6/1938, ông làm Chủ nhiệm báo Lao động, hoạt động công khai tại Sài
Gòn. Năm 1939, ông bị địch bắt đày đi Côn Đảo. Năm 1945, mãn hạn tù trở về,
ông tham gia cướp chính quyền tại Sài Gòn và sau đó là Thành ủy viên Thành uỷ
Sài Gòn - Gia Định. Đầu năm 1946 đến tháng 10/1946, ông là Bí thư Tỉnh ủy Tân
An (nay là Long An). Từ năm 1948, ông là Bí thư Khu uỷ Khu 8, kiêm Chủ tịch Ủy
ban Kháng chiến Hành chánh khu Trung Nam Bộ, thanh tra chính trị miền Trung
Nam Bộ. Năm 1952, ông được cử làm Chủ nhiệm biện sự sứ của nước ta tại Côn
Minh, Trung Quốc. Năm 1954, ông được cử tham gia phái đoàn của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Genève. Từ năm 1957 đến 1981, ông công tác tại
Bộ Ngoại giao và là Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền tại các nước: Tiệp Khắc,
Hungari, Rumani, Nam Tư, Mali và Cuba. Quá trình tham gia cách mạng, công tác
và cống hiến, ông đã được Đảng, Nhà nước tặng Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng, Huân
chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng nhất, Huân
chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất và nhiều hình thức khen thưởng.
|
NGUYỄN THANH HÀ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.137
|
51
|
PHAN VĂN HÂN
|
Ông Phan Văn Hân (1925 - 1968),
tên thường dùng là Phan Thành Long, Tư Long, bí danh Hai Xang, quê làng Nhơn
Mỹ, quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên (nay là huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang).
Ông tham gia cách mạng năm
1940 và trải qua các chức vụ: Bí thư Tỉnh ủy kiêm Chính trị viên Tỉnh đội
Long Châu Sa (12/1952 - 8/1954), Liên Tỉnh ủy viên rồi Ủy viên Thường vụ Liên
Tỉnh ủy miền Trung Nam Bộ, Trưởng Ban Binh vận Liên Tỉnh miền Trung Nam Bộ,
Thành ủy viên Khu Sài Gòn - Gia Định (8/1954 - 1956). Sau cuộc Tổng tấn công
Xuân Mậu Thân năm 1968, ông bị địch bắt, thủ tiêu ở hầm P42 - trại giam đặc
biệt của Ngô Đình Nhu dùng để tra tấn những người cộng sản, đặt dưới chuồng cọp
trong Sở thú Sài Gòn.
|
PHAN VĂN HÂN
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.153
|
52
|
NGUYỄN DUY HANH
|
Ông Nguyễn Văn Hanh (1899 -
1934), tên thường dùng là Nguyễn Duy Hanh, bí danh Nhuận, quê làng Bình Đông,
tổng An Thạnh, quận Thốt Nốt, tỉnh Long Xuyên (nay thuộc thị trấn Lấp Vò, huyện
Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội tháng
5/1928 tại Chi hội Lấp Vò.
Khi Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng
đầu tiên ở Lấp Vò được thành lập (khoảng 11/1929), ông được chỉ định làm Phó
Bí thư Chi bộ. Cuối tháng 11/1929, Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng xã Phong Hoà,
quận Ô Môn, tỉnh Cần Thơ (nay là xã Phong Hoà, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng
Tháp) được thành lập, ông được cấp trên điều về làm Bí thư chi bộ này. Đầu
năm 1930, ông lại được cấp trên điều về công tác tại cơ quan Xứ uỷ (Sài Gòn),
sau đó được phái về Mỹ Tho làm Phó Bí thư Tỉnh ủy. Năm 1931, được Xứ uỷ Nam Kỳ
điều trở lên Sài Gòn công tác và bị mật thám Pháp theo dõi bắt cùng nhiều đồng
chí trong cơ quan Xứ uỷ. Năm 1933, giặc kêu án ông cùng một số đồng chí khác:
phát lưu chung thân, đày ra Côn Đảo. Năm 1934, do yêu cầu công tác ở đất liền,
Bác Tôn Đức Thắng tổ chức cuộc vượt ngục cho 11 đồng chí trẻ trong đó có Ngô
Gia Tự, Nguyễn Duy Hanh, Năm Ó…Chuyến vượt biển không thành, 11 đồng chí vĩnh
viễn ở lại trong lòng đại dương.
|
NGUYỄN DUY HANH
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.145
|
53
|
LÊ THỊ HẠNH
|
Bà Lê Thị Hạnh (1899 - 1991),
quê thôn Mỹ Trà, tổng Phong Thạnh, huyện Kiến Phong, phủ Kiến Tường, tỉnh Định
Tường (nay thuộc phường 1, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp) và mất tại
Thành phố Hồ Chí Minh năm 1991.
Là con gái thứ 3 của ông Lê
Quang Hiển, bà được đi học, thấy xa hiểu rộng. Sau khi lập gia đình với nhà
báo nổi tiếng Diệp Văn Kỳ, bà cùng chồng sang Pháp du học. Năm 1924, vợ chồng
bà về nước, bước chân vào làng báo Sài Gòn, chủ trương tờ tuần báo Đông
Pháp thời báo (1927 - 1929), tờ nhật báo Thần chung (1929 - 1930),
tờ nhật báo Công luận (1933 - 1935), gây được tiếng vang trong cả nước.
Bà mở nhà in Bảo Tồn, từng nhận in báo Đảng thời kỳ Mặt trận dân chủ: Dân
chúng (1938 - 1939), Dân muốn (1938 - 1939), Dân tiến (1938),
Tiến tới (1939) do các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản
Đông Dương, Phan Đăng Lưu, Xứ ủy viên Trung Kỳ, Lưu Quý Kỳ, Trợ lý Trưởng ban
Tuyên huấn Trung ương chỉ đạo, biên tập. Đặc biệt, trước yêu cầu cấp bách của
Đảng, bà đã nhiệt tình nhận in tờ báo “Phụ nữ” số đặc biệt kỷ niệm
sinh nhật Bác Hồ 19/5/1946, do Xứ uỷ Nam Bộ quyết định phát hành công khai tại
Sài Gòn. Vợ chồng bà là bạn thân của Bác Hồ, thời niên thiếu theo học Huế.
Tuy không trực diện chiến đấu chống kẻ thù chung nhưng bà luôn luôn ở tư thế
giúp đỡ cách mạng trong khả năng sẵn có.
|
LÊ THỊ HẠNH
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.146
|
54
|
NGÔ VĂN HAY
|
Ông Ngô Văn Hay (1903 - 1978),
tự Ngô Khắc Kỳ, còn gọi là Thầy giáo Kỳ, quê làng Tân Hưng, Sa Đéc (nay thuộc
Phường 4, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp).
Trong gần 40 năm làm nghề dạy
học (1924 - 1960), ông là một nhà giáo mẫu mực, khiêm tốn, tận tuỵ và hết
lòng thương yêu học trò. Chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm
1945, gia đình ông là một trong những nơi cô giáo Ngài (Trần Thị Nhượng) bắt
liên lạc, xây dựng cơ sở vận động giáo chức và học sinh trong nội thị. Cuối
năm 1946, ông đưa toàn bộ gia đình vô vùng kháng chiến Đồng Tháp Mười. Ông
công tác tại Ty Giáo dục Sa Đéc với nhiệm vụ nghiên cứu, cải tiến chương
trình giảng dạy cho phù hợp với các trường trong vùng kháng chiến. Năm 1949,
giặc Pháp đánh phá ác liệt khu căn cứ Mỹ Quí, ông lại bệnh nặng. Tỉnh ủy và Ủy
ban Kháng chiến Hành chánh Sa Đéc thống nhất đưa ông về lại Sa Đéc tiếp tục dạy
học, hoạt động hợp pháp để củng cố, xây dựng cơ sở. Từ năm 1950, ông về sống ở
làng Tân Hưng, Sa Đéc, tiếp tục dạy học tại trường Nam Tiểu học. Những năm
tháng chống Mỹ, cứu nước, ngôi nhà và vườn cây kiểng của ông trở thành một
trong những nơi nuôi chứa cán bộ cách mạng, là đường dây hợp pháp để cán bộ
bí mật điều lắng, chuyển vùng, là nơi cán bộ ta đến làm công tác tổ chức
binh, địch vận và cũng là nơi che giấu cán bộ khi bị địch truy lùng.
Bên cạnh hình ảnh một nhân
sĩ, một nhà giáo yêu nước, ông Ngô Văn Hay còn là một nghệ nhân nổi tiếng với
“Vườn kiểng cổ ở làng Tân Hưng của ông giáo Kỳ”. Do đã tích cực giúp đỡ
và bảo vệ cách mạng, ông được Hội đồng Nhà nước tặng Huân chương Kháng chiến
hạng chống Pháp hạng Ba, Huân chương Kháng chiến hạng chống Mỹ hạng Nhì, Hội
đồng Bộ trưởng tặng Bằng Có công với Nước.
|
NGÔ VĂN HAY
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.151
|
55
|
LÊ QUANG HIỂN
|
Ông Lê Quang Hiển (1872 -
1950), quê làng Mỹ Trà (nay thuộc thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp), là một
điền chủ giàu có, yêu nước, có nhiều kinh nghiệm trong khai khẩn đất hoang ở
vùng Cao Lãnh.
Ông hỗ trợ nhiều tiền bạc cho
phong trào Đông Du, trực tiếp qua Nguyễn Quang Diêu và nhất là Cường Để, đã
được Cường Để phong cấp cho bằng “Đề Đốc”. Ông thường làm công việc từ thiện,
cưu mang, trợ giúp người nghèo khó. Năm 1923, ông hiến một miếng đất và đứng
ra làm cuộc lạc quyên, ông đứng đầu danh sách ủng hộ 1.000 đồng (lúc ấy giá
lúa là 0,3 đồng/giạ) để xây dựng nhà thương Cao Lãnh (cuộc lạc quyên được
7.979 đồng).Trong những năm 1930, ông đã thành công trong việc khai khẩn đất
hoang ở Đồng Tháp Mười, trong khi nhiều điền chủ, tư sản khác có cả người
Pháp, người Ấn thất bại đến sạt nghiệp. Ông đã được chính quyền thực dân Pháp
lúc ấy ban cho Khuê bài Canh nông vì thành tích này. Ngày 9/3/1945, Nhật đảo
chánh Pháp, chính quyền thực dân Pháp ở Cao Lãnh tan rã; Nhân dân địa phương
dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ Đảng Cao Lãnh, cử đồng chí Lê Văn Thượng làm Phó
quận trưởng và Lê Quang Hiển làm Quận trưởng. Nhờ thế mà trật tự được ổn định.
Sau ngày 23/9/1945, thực dân Pháp trở lại tái chiếm Nam Kỳ, ông Lê Quang Hiển
ủng hộ kháng chiến nhiều lúa gạo, tiền bạc; hưởng ứng chủ trương tiêu thổ
kháng chiến của cách mạng, ông phá bỏ nhà cửa rút theo lực lượng kháng chiến
vào căn cứ. Đến năm 1950, ông lâm bệnh qua đời trong vùng kháng chiến.
|
LÊ QUANG HIỂN
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.158
|
56
|
LÊ THÁI HIỆP
|
Ông Lê Thái Hiệp (1923 -
1991), tên khai sinh là Lê Văn Đô còn có tên Lê Thái, Lê Trung Chính, quê
làng Mỹ Trà, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng
Tháp). Ông hoạt động cách mạng từ tháng 3/1945 và tham gia giành chính quyền ở
Cao Lãnh ngày 25/8/1945. Năm 1947, ông làm Trưởng ban Thông tin Tuyên truyền
huyện Cao Lãnh, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 02/1948.
Tháng 6/1949, ông là Huyện ủy viên Huyện ủy Cao Lãnh rồi Phó Ty Thông tin
Tuyên truyền tỉnh Sa Đéc, sau đó phụ trách trường Đảng tỉnh Long Châu Sa.
Tháng 8/1954, ông là Tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Sa Đéc và được rút lên làm Chánh
văn phòng Khu uỷ Khu VIII (Trung Nam Bộ). Tháng 6/1961, ông làm Bí thư Tỉnh ủy
Mỹ Tho, rồi Khu ủy viên, Bí thư Tỉnh ủy Kiến Phong thay đồng chí Trần Anh Điền
đi học (02/1964). Tháng 02/1966, ông trở về Khu phụ trách công tác Tuyên huấn
Khu VIII. Năm 1970, ông là Phó ban rồi Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp Trung
ương cục miền Nam cho đến cuối năm 1975. Đầu năm 1976, ông là Vụ trưởng Vụ Địa
phương 2 Văn phòng Trung ương Đảng và làm tốt nhiệm vụ này cho đến lúc về
hưu, tháng 12/1986.
Quá trình hoạt động hào hùng
và những đóng góp to lớn của ông đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huy hiệu
40 năm tuổi Đảng, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Quyết thắng hạng
Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhất, hạng Ba, Huân chương
Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất.
|
LÊ THÁI HIỆP
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.159
|
57
|
PHẠM VĂN HỔ
|
Hoàng thượng Hoàng Đạo (1862
- 1942), tên thật là Phạm Văn Hổ, pháp danh Như Nguyên, pháp tự Liễu Giác,
bút hiệu Hoàng Đạo, thường gọi là Hoà thượng Hấu, quê thôn Mỹ Trà, huyện Kiến
Phong, phủ Kiến Tường, tỉnh Định Tường (nay thuộc Phường 3, thành phố Cao
Lãnh, tỉnh Đồng Tháp).
Vốn có lòng yêu nước, thương dân,
chùa Linh Sơn, nơi ông trụ trì, trở thành cơ sở hoạt động của những nhà yêu
nước trong
|
PHẠM VĂN HỔ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.174
|
|
|
phong trào Đông Du cho đến
khi có Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bạn tâm giao giàu lòng yêu nước
của ông như Nguyễn Quang
Diêu, Lê Văn Mỹ, Lê Văn Đáng,
Nguyễn Hữu Kiến, Lê Văn Ký, Võ Hoành, Nguyễn Sinh Sắc…thường có các cuộc họp
kín, bàn chuyện chống Tây tại chùa Linh Sơn. Trong cuộc biểu tình kháng thuế
ngày 03/5/1930 do Chi bộ Cao Lãnh lãnh đạo, chùa Linh Sơn là một trong những
nơi xuất phát sự chỉ đạo của Chi bộ Đảng. Lòng yêu nước, thương dân được ông
truyền dạy cho con cháu, trong đó có 3 người cháu ngoại tham gia cách mạng hy
sinh, được công nhận liệt sỹ. Suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ,
chùa Linh Sơn và những người thân trong gia đình Hoà thượng luôn biểu hiện
sáng ngời lòng ái quốc.
Hoà thượng Hoàng Đạo mất tại
chùa Linh Sơn năm 1942, để lại tấm gương tốt đời, đẹp đạo, tình cảm sâu nặng,
sáng người trong lòng phật tử, đồng bào.
|
|
|
58
|
DƯƠNG VĂN HOÀ
|
Dương Văn Hoà (1944 - 1972),
quê xã Mỹ An, huyện Mỹ An,
tỉnh Kiến Phong (nay là xã Mỹ
An, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp). Năm 1963, ông gia nhập bộ đội, năm 1968
vào Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam. Lúc hy sinh là Đại đội
phó Địa phương quân huyện Mỹ
An.
Trận tập kích phân chi khu Mỹ
Hoà gồm 4 đồn, 1 ban tề xã, 1 trung đội phòng vệ dân sự, vào ngày 28/02/1971,
ông là Trung đội Trưởng chỉ huy 1 mũi có 3 chiến sĩ, dù bị thương ở đùi nhưng
ông vẫn cùng đơn vị xung phong tiêu diệt các ổ đề kháng của địch. Lúc đó, ông
phát hiện bọn địch ở 2 đồn gần đó tới cứu viện, liền dùng súng AK bắn diệt 6
tên, đẩy lùi bọn địch lại, tạo thuận lợi cho đơn vị hoàn thành nhiệm vụ. Đầu
năm 1972, địch xua 3 đại đội của Tiểu đoàn 417 bảo an, 5 trung đội dân vệ lấn
chiếm vùng hậu giáp ranh hai huyện Kiến Văn, Mỹ An để lập nông trường Kiến Mỹ.
Đêm 23/01/1972, ông chỉ huy lực lượng
|
DƯƠNG VĂN HOÀ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.160
|
|
|
gồm 18 chiến sĩ tập kích 1 đại
đội địch trong bọn lấn chiếm này.
Ông đưa đồng đội tiếp cận địch,
nổ súng và ném lựu đạn tiêu diệt 63 tên, góp phần bẻ gãy ý đồ lập nông trường
của địch và
ông đã anh dũng hy sinh.
Dương Văn Hoà đã được bầu chiến
sĩ thi đua, 3 Bằng Dũng sĩ,
7 bằng khen, 8 giấy khen.
Ngày 30/10/1978, liệt sĩ Dương Văn Hoà được Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
|
|
|
59
|
TỐNG PHƯỚC HOÀ
|
Tống Phước Hoà (? - 1777) là anh
ruột của Lưu thủ Tống
Phước Hiệp, vốn dòng dõi người
huyện Tống Sơn (nay là Hà
Trung), tỉnh Thanh Hoá theo
nghiệp binh lúc còn trai trẻ, được phong hàm Cai cơ, dưới quyền Lưu thủ Long
Hồ Tống Phước
Hiệp.
Khoảng năm Bính thân (1776),
quân Tây Sơn truy đuổi quân
Nguyễn vào Gia Định, chúa Định
vương chạy đi Trấn Biên. Tống Phước Hiệp sai Tống Phước Hòa đem quan bản bộ
vào cứu, đóng đồn ở Lương Pha, cùng các đạo quân khác đánh nhau với quân Tây
Sơn. Quân Tây Sơn thua rút về Quy Nhơn, quân Nguyễn lấy lại được Sài Gòn,
chúa thăng cho Tống Phước Hòa làm Chưởng thủy doanh, Quân công.
Sau đó, Tống Phước Hòa cùng Tống
Phước Thiêm được cử vào dinh Long Hồ. Ở đây, trong quân ngũ của Tống Phước Hiệp,
ông
được giao coi giữ Đông Khẩu đạo
(tức vùng Sa Đéc ngày nay)
thay cho Cai cơ Nhân thanh hầu
Nguyễn Hữu Nhân đang lâm trọng bịnh.
Năm Đinh Dậu (1777), đại binh
của Tây Sơn từ Quy Nhơn lại tiến đánh Gia Định, Tống Phước Hòa cùng với Tống
Phúc
Thiêm lập tức điều động binh
sĩ ra sức cản phá và làm nhiệm vụ
bảo vệ Nguyễn Phúc Dương.
Nhưng trước sức mạnh của đối phương, Tống Phước Hòa phải cho người phò chúa
chạy về Ba Vát (nay thuộc Bến Tre), chỉ còn mỗi mình ông ở lại dốc sức
|
TỒNG PHƯỚC HOÀ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.161
|
|
|
chống cự.
Chúa Nguyễn Phúc Thuần đã bị
bắt, nay nghe tin Tây Sơn cũng
bắt được chúa Nguyễn Phúc
Dương, Tống Phước Hòa gom tàn quân quyết đánh một trận nữa để hòng cứu vãn
tình thế, nhưng cũng thất bại. Trước tình thế đó, ông bảo với thuộc hạ: “Chúa
lo thì bề tôi phải chết. Nghĩa không nên tránh” . Ông liền trở gươm tự
sát tại chiến trường Ba Vát.
Đến năm Gia Long thứ 9
(1810), Tống Phước Hòa được nhà vua cho truy tặng là Chưởng dinh Quận công và
được đưa vào thờ ở miếu Trung Tiết Công Thần ở Huế . Năm Thiệu Trị thứ 3
(1843), ông được sắc phong
làm Trung đẳng thần. Vốn từng là
Tổng binh Đông Khẩu đạo, nên
khi xưa ở làng Tân Phú Đông thuộc Sa Đéc có miếu thờ ông Tống Phước Hòa
|
|
|
60
|
LÊ VĂN HOANH
|
Ông Lê Văn Hoanh (1899 -
1987), quê làng Hoà An, quận Cao
Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là
thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Cha ông là Lê Văn Đáng, bạn tâm giao của
cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Hai anh ruột là Lê Văn Sao (cùng hoạt động với
Nguyễn Ái Quốc ở Pháp) và Lê Văn Lăng đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam năm
1930.
Từ năm 1930 ông hoạt động
trong tổ chức Cứu tế đỏ Sài Gòn. Tháng 8/1945, ông tham gia phong trào Thanh
niên Tiền phong ở Sài Gòn. Bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, ông về Sa
Đéc, làm Phó Giám đốc Quốc gia tự vệ cuộc (Công an) Sa Đéc. Tứ tháng 3/1946,
ông là Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chánh tỉnh Long Xuyên, rồi Tỉnh ủy
viên, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chánh tỉnh Long Châu Tiền (3/1948).
Sau đó, ông được điều lên làm Phó Giám đốc Sở Ngân khố Nam Bộ
(5/1952), rồi Chủ tịch Hội
Liên Việt tỉnh Long Châu Sa (4/1953
- 7/1954). Cuối năm 1960, ông
là Ủy viên Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng tỉnh An Giang, kiêm Phó ban Tài
chính tỉnh. Tháng 11/1967, ông được điều động làm cán bộ phụ trách Đảng
|
LÊ VĂN HOANH
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.167
|
|
|
vụ Ban Kinh Tài khu Trung Nam
Bộ. Ngày 28/3/1973, ông bị
giặc bắt tra tấn dã man, song
ông vẫn giữ tròn khí tiết người cộng sản, không khai báo. Địch kết án ông 30
tháng tù và giam
ở khám Chí Hoà. Ngày
30/4/1975, ta giải phóng Sài Gòn, ông
ra khỏi nhà tù và được đưa về
Ban Kinh Tài khu Trung Nam Bộ. Tháng 02/1976 Khu giải thể, ông được bố trí về
Ủy ban Kinh tế tỉnh Đồng Tháp và nghỉ hưu năm 1986.
Quá trình hoạt động cách mạng
của ông đã được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì, Huân chương Kháng
chiến chống Pháp hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huân
chương Quyết thắng hạng Nhất.
|
|
|
61
|
VÕ HOÀNH
|
Ông Võ Hoành (1873 - 1946) hiệu
là Ngọc Tiều, quê làng Thanh Liệt, thuộc huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay
là xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội).
Ông là người nhiệt tình yêu
nước, coi thường lợi ích cá nhân, từ bỏ cả khoa cử, tham gia các phong trào
yêu nước vào đầu thế kỷ XX như Đông Du, Duy Tân. Năm 1907, ông cùng một số
nhà yêu nước như Nguyễn Quyền, Lương Văn Can… thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục
để truyền bá tư tưởng Duy Tân. Chưa đầy một năm hoạt động, trường bị đóng cửa,
các yếu nhân của trường đều bị thực dân Pháp bắt và kết án đày đi Côn Đảo vào
năm 1909, trong đó có Võ Hoành, Nguyễn Quyền, Lương Văn Can…Năm 1912, các ông
được thả ra, song bị đưa vào Nam an trí, ông bị chỉ định cư trú ở Sa Đéc. Ông
đưa gia đình vào ở tại làng Tân Qui Đông, tự sinh sống bằng nghề coi mạch hốt
thuốc và dạy chữ Nho, từ chối nhận trợ cấp 10 đồng mỗi tháng của chính quyền
Pháp.
Mặc dù sự đi lại, giao tiếp của
ông đều có sự giám sát của bọn lính kín, nhưng ông vẫn tìm cách liên hệ với
nhiều nhà yêu nước như Nguyễn Sinh Sắc, Nguyễn Quang Diêu, Lê Văn Đáng… Cách
mạng Tháng Tám 1945 bùng nổ, chung quanh ông đã có một số thanh niên, học trò
tín cẩn cùng ông tham gia khởi nghĩa.
Ông bàn giao số thanh niên
này cho bà Trần Thị Nhượng (cô giáo Ngài), người lãnh đạo cuộc cướp chính quyền
tại Sa Đéc.
Thực dân Pháp tái chiếm Sa
Đéc, ông theo lực lượng cách mạng rút vào Đồng Tháp Mười, tiếp tục cuộc kháng
chiến lâu dài. Do tuổi già, ông qua đời vào 12/1946.
|
VÕ HOÀNH
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.169
|
62
|
NGUYỄN MINH HỒNG
|
Nguyễn Minh Hồng (1945 -
2000), tên thường gọi Út Đậu, quê xã Bình Thạnh Trung, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng
Tháp, nhập ngũ tháng 8/1963. Khi được tuyên dương Anh hùng, ông là Thượng uý,
Chính trị viên Tiểu đoàn 261, Trung đoàn 1, Quân khu IX, đảng viên Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Ngày 07/10/1967, ông chỉ huy
Tiểu đội Biệt động đánh địch trong thị xã Long Xuyên làm thiệt hại nặng 1
trung đội địch. Ngày 10/8/1968, địch đổ quân xuống núi Tô, ông cùng đơn vị
ngoan cường chiến đấu diệt 165 tên, riêng ông diệt 30 tên. Ngày 30/10/1972,
ông chỉ huy đại đội phục kích đánh 1 tiểu đoàn địch ở xã Long Khánh (Cai Lậy),
diệt hơn 50 tên. Riêng ông diệt 23 tên. Ngày 12/12/1974, một tiểu đoàn địch
đánh vào vị trí trú quân của ta, ông tổ chức phản kích diệt 150 tên địch, bắn
rớt 1 máy bay lên thẳng, giữ vững trận địa. Tính từ năm 1963 đến tháng
4/1975, ông cùng đơn vị đánh địch cả trăm trận, diệt gần ngàn tên địch, phá
huỷ nhiều phương tiện chiến tranh, riêng ông diệt 273 tên, thu 23 súng.
Sau 30/4/1975, ông công tác tại
Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh An Giang, cấp bậc Đại tá, chức vụ Tỉnh ủy viên, Phó
chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh An Giang; Đại biểu Quốc hội khoá IX và
X đơn vị tỉnh An Giang, Ủy viên Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội,
Phó trưởng đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh An Giang.
Ông Nguyễn Minh Hồng đã được
tặng thưởng 4 Huân chương Chiến công Giải phóng (1 hạng Nhất, 3 hạng Ba), 4 lần
đạt danh hiệu Dũng sĩ và 8 bằng khen. Ngày 06/11/1978, ông Nguyễn Minh Hồng
được Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh
hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
|
NGUYỄN MINH HỒNG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.177
|
63
|
VÕ THANH HỒNG
|
Ông Võ Thanh Hồng (1950 -
1975), tên thường gọi Thanh Hồng, quê xã Mỹ Tân, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng
Tháp. Ngày 23/9/1967, ông tình nguyện đầu quân vào đơn vị Biệt động thị xã
Cao Lãnh, ngày 18/8/1969 ông được kết nạp vào Đảng. Ông tham gia chiến đấu 50
trận, chỉ huy chiến đấu 23 trận, diệt 70, làm bị thương 170 tên địch, bắt sống
15 tù binh, thu 100 súng các loại (trong đó có 01 cối 60 ly, 04 M79, 03 súng
ngắn), diệt 1 đại đội và 3 trung đội, san bằng và phá huỷ 11 đồn tua phân chi
khu, đánh hỏng 04 xe GMC, 01 xe Jeep, 02 pháo 105 và 155 ly của yếu khu Quảng
Khánh.Trong một trận phục kích kích vận động diệt trung đội bảo an địch ở yếu
khu Quảng Khánh, mở đường cho đại bộ phận lực lượng ta vào giải phóng thị xã
Cao Lãnh ngày 25/4/1975, ông điều động 20 đồng chí phục kích tiêu diệt đại bộ
phận địch tại đây, nhưng còn lại hai tên đang ẩn nấp, ông kêu gọi đầu hàng, địch
không tuân theo, đơn vị diệt 01 tên, tên còn lại bắn trả nên ông đã hy sinh
khi vừa tròn 25 tuổi.
Với thành tích đặc biệt xuất
sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngày 30/01/2011, Chủ tịch nước
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã truy tặng Liệt sỹ Võ Thanh Hồng danh hiệu
Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân.
|
VÕ THANH HỒNG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.179
|
64
|
NGUYỄN VĂN HUỆ
|
Ông Nguyễn Văn Huệ (1913 -
?), quê làng Kim Sơn, huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang).
Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) và
đảm nhận chức vụ Bí thư Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Sa Đéc từ tháng 5/1945 đến
tháng 10/1945. Từ tháng 8/1945 đến tháng 6/1946, ông là Chủ tịch Ủy ban Cách
mạng và Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến tỉnh Sa Đéc. Ông được bầu Đại biểu Quốc hội
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khoá đầu tiên 1946, đơn vị tỉnh Sa Đéc. Năm
1956 tập kết ra Bắc, ông là Ủy viên Thường vụ Đảng uỷ Bộ Giáo dục, chuyên
trách công tác Đảng, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài vụ Bộ Giáo dục. Ông là đại
biểu Quốc hội lưu nhiệm khoá II và khoá III, nơi ứng cử Sa Đéc. Đến nay, chưa
rõ nơi cư trú cuối đời và ngày tháng năm ông qua đời.
|
NGUYỄN VĂN HUỆ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.185
|
65
|
LÊ VŨ HÙNG
|
Ông Lê Vũ Hùng (1952 - 20030,
quê ở xã Nhơn Ái, huyện Châu Thành, tỉnh Cần Thơ. Do lúc nhỏ đi học trễ, nên
khi học lên bậc trung học, ông học cùng một lúc hai lớp đệ tứ và đệ tam để kịp
thi Tú tài I, tránh bị địch bắt đi quân dịch. Năm 1971, ông vừa học Đại học
Sư phạm Cần Thơ vừa theo học Đại học Văn khoa Cần Thơ. Năm 1973, ông dạy môn
Văn trường Trung học Lai Vung, vừa tiếp tục học Đại học Văn khoa Cần Thơ để lấy
bằng cử nhân Văn khoa.
Ông được kết nạp vào Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh năm 1977, kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam năm
1980. Đến năm 1982, ông lần lượt công tác và giữ các chức vụ: Trưởng ban Điều
hành trường cấp 2, cấp 3 huyện Lai Vung (nay là trường cấp 2 xã Tân Thành), dạy
học và làm Tổ trưởng tổ Văn, Thư ký Công đoàn cơ sở, Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh rồi Phó Hiệu trưởng trường Trung học Phổ thông thị xã Sa Đéc,
thành viên Ban chấp hành Thị đoàn Sa Đéc và Tỉnh đoàn Thanh niên Đồng Tháp.
Ngày 04/9/1982, ông được điều
động làm cán bộ nghiên cứu khối văn xã, cán bộ tổng hợp Văn phòng Ủy ban nhân
dân tỉnh Đồng Tháp. Năm 1985, ông được đề bạt chức vụ Phó văn phòng và sau đó
là Chánh văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp.
Là người hiếu học, nên trong
quá trình ở trường cấp 3 thị xã Sa Đéc và Văn phòng Ủy ban nhân dân, ông
tranh thủ theo học tại chức và tốt nghiệp ngành Văn trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh. Ông là đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh và Ủy viên Ủy
ban nhân dân tỉnh từ năm 1985. Tháng 9/1988, ông nhận nhiệm vụ Giám đốc Sở
Giáo dục - Đào tạo tỉnh Đồng Tháp. Tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp lần thứ
V năm 1991, ông được bầu vào Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh. Ông là đại biểu
chính thức dự Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII và thứ IX.
Ngày 27/12/1997, ông được Thủ
tướng Chính phủ quyết định điều động về Bộ Giáo dục - Đào tạo, giữ chức vụ Thứ
trưởng. Ông đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.
|
LÊ VŨ HÙNG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.188
|
66
|
LÊ QUANG HƯƠNG
|
Ông Lê Quang Hương (1922 - 1976),
tên thường dùng là Lê Hương, quê làng Mỹ Trà, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay
là xã Mỹ Trà, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Bằng con đường tự học, ông
thông thạo nhiều ngoại ngữ: Anh, Pháp, Trung, Khmer.
Năm 1948, ông trở về Sài Gòn
và bắt đầu viết văn. Quả đấm thôi sơn là tác phẩm đầu tay xuất bản năm
1952, khi ông làm biên tập cho Nhà xuất bản Dân Tộc. năm 1957, ông cộng tác với
nhiều nhật báo, tuần báo, tạp chí uy tín tại Sài Gòn. Ông là một trong những
tác giả người Việt có nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa, lịch sử, dân tộc
học Khmer. Ông được Chính phủ Hoàng gia Cao Miên tặng thưởng Huy chương và Bằng
danh dự về loạt bài viết về Hội chợ Quốc Tế tại Phnom Pênh năm 1955. Đến năm
1969, ông nhận được giải nhất về biên khảo của Trung tâm Văn bút Sài Gòn. Gần
30 năm cầm bút cho đến khi qua đời, ông miệt mài sưu tầm, nghiên cứu và sáng
tác trên 30 tác phẩm. Trong di cáo của ông có bản thảo Cao Lãnh và Đồng
Tháp Mười là công trình mang nhiều tâm huyết của ông đối với quê hương.
Ông còn để lại hàng trăm bức hình về Cao Lãnh trong những năm 50 của thế kỷ
XX, giúp chúng ta có cái nhìn toàn cảnh về Cao Lãnh xưa. Sau đất nước hoàn
toàn giải phóng hơn một năm (11/9/1976) ông qua đời vì bạo bệnh, hưởng dương
44 tuổi.
|
LÊ QUANG HƯƠNG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.197
|
67
|
NGUYỄN HƯƠNG
|
Ông Nguyễn Hương (1819 -
1864), quê thôn Tân Tịch, huyện Vĩnh An, phủ Tân Thành, tỉnh An Giang (nay là
phường 6, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp).
Ông nổi tiếng là giỏi võ nghệ,
được chỉ định làm chỉ huy Đội áp tải bạc thuế về Kinh đô Huế. Đến Huế, ông được
giữ lại phục vụ trong quân đội gần năm năm, trải qua các chức: đội trưởng,
chánh đội trưởng rồi lãnh binh. Đến triều Tự Đức, ông giữ chức Chánh lãnh
binh được phái về trấn nhậm Hà Tiên. Cùng lúc ấy, giặc Pháp chiếm ba tỉnh miền
Tây. Ông không tuân mệnh triều đình ra hàng giặc mà rút quân về Láng Linh - một
vùng sình lầy ở An Giang cùng với Quản cơ Trần Văn Thành lập chiến khu kháng
chiến. Hai ông liên kết nhau chỉ huy nghĩa quân chống lại cuộc càn quét của
giặc vào rừng Bảy Thưa, đánh một trận quyết liệt đến nay đồng bào còn nhắc nhở.
Song do lực lượng không cân sức lại bị triều đình bỏ rơi, nên cuối cùng nghĩa
quân tan vỡ, Quản cơ Thành tử trận, ông thoát được trốn về quê nhà, rút theo
quân bản bộ của mình. Tại đây, ông cùng với cấp chỉ huy thuộc quyền như Kim
Chung, Quản Bạch, lấy vùng Hổ Cứ làm căn cứ chống Pháp. Chiến đấu một thời
gian, trước thế mạnh của giặc, nghĩa quân lần hồi tan rã. Ông ra lệnh giải
tán nghĩa quân, rồi sống ẩn dật trong cảnh túng thiếu cho đến lúc qua đời.
|
NGUYỄN HƯƠNG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.199
|
68
|
NGUYỄN THẾ HỮU
|
Ông Nguyễn Thế Hữu (1927 -
2008), tên khai sinh là Nguyễn Hữu Lưỡng, quê làng Mỹ Lợi, quận Cái Bè, tỉnh
Mỹ Tho (nay là xã Đốc Binh Kiều, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp).
Ông tham gia cách mạng từ
tháng 8/1945. Từ năm 1946, ông là Ủy viên Đoàn Thanh niên Cứu quốc xã, rồi
cán bộ Thanh niên Cứu quốc huyện Cái Bè và cán bộ Thông tin truyên truyền huyện
Cái Bè. Từ năm 1950, ông là cán bộ Kiểm Huấn Ty Thông tin rồi cán bộ Huấn học
Tỉnh ủy Mỹ Tho, sau đó ông là Huyện ủy viên Cái Bè, Bí thư xã Đốc Binh Kiều.
Sau Hiệp định Giơnevơ, ông tiếp tục làm Bí thư Chi bộ xã Đốc Binh Kiều. Năm
1956, ông làm cán bộ nghiên cứu tôn giáo Tỉnh ủy Mỹ Tho và năm 1957 trở lại
làm Bí thư Chi bộ xã Mỹ An. Năm 1958, ông được điều về tỉnh Kiến Phong làm
cán bộ Huấn học tỉnh, sau đó làm Phó Bí thư rồi Bí thư Ban cán sự Đảng Thị xã
Cao Lãnh. Từ năm 1961 đến năm 1963, ông làm Phó Bí thư rồi Bí thư Huyện ủy
Cao Lãnh, kiêm Chính trị viên Huyện đội. Năm 1964, ông là Tỉnh ủy viên, rồi Tỉnh
đội phó Tỉnh đội Kiến Phong (1965), Bí thư Huyện ủy Hồng Ngự, kiêm Chính trị
viên Huyện đội (1967), Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy/Trưởng Ban An ninh tỉnh
Kiến Phong (1969), Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Kiến Phong (1973). Sau khi
tỉnh Sa Đéc do ta thành lập, ông là Bí thư Tỉnh ủy thay đồng chí Nguyễn Văn
Năm (Tám Mai). Tháng 02/1976, tỉnh Đồng Tháp được thành lập, ông giữ nhiệm vụ
Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Đồng Tháp và đến Đại hội lần thứ IV Đảng bộ tỉnh
năm 1986, ông được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Tại Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản
Việt Nam lần thứ VI, ông được bầu Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương
Đảng và tiếp tục làm Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp đến lúc về hưu năm 1992.
Do có nhiều công lao, cống hiến
cho sự nghiệp cách mạng, ông đã được Đảng và Nhà nước tặng Huy hiệu 55 năm tuổi
Đảng, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân
chương Chiến công hạng Nhất, Huân chương Lao động hạng Nhất.
|
NGUYỄN THẾ HỮU
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.201
|
69
|
HUỲNH CÔNG HUY
|
Huỳnh Công Huy (? - 1884). Đến
nay chưa có tư liệu để biết rõ về dòng dõi và quê quán của ông Huỳnh Công
Huy. Ông được Thiên Hộ Dương giao phụ trách quản đốc quân lương. Dưới sự chỉ
huy điều động của ông, đội quân lương đã vượt qua mọi khó khăn bất trắc từ
khâu tuyên truyền vận động, thu nhận, vận chuyển, tiếp tế ra mặt trận, đến
các đồn luỹ xa xôi; vượt qua bao ngăn chặn, rình rập, phục kích của giặc để
mang lương thực đến tận chiến trường phục vụ chiến đấu. Vì vậy, ông được chủ
tướng Thiên Hộ Dương và anh em nghĩa quân hết lòng tin tưởng.
Khi Thiên Hộ Dương quyết định
bỏ căn cứ Tháp Mười, rút lui để bảo toàn lực lượng, ông được lệnh phải gấp
rút mang một số lương thực tối đa có thể mang được, rút đi trước lên vùng
biên giới. Khi nghĩa quân ta rã, ông không về xứ, vẫn ở lại Sa Rài, giải tán
đội quân lương. Để có lúa gạo bảo đảm cuộc sống lâu dài cho số nghĩa quân
tình nguyện ở lại, ông hô hào họ phá hoang rừng bụi hai bên rạch Thông Bình để
làm ruộng, về sau chiêu mộ thêm lưu dân từ các nơi khác đến. Làng Tân Thành
chính thức ra đời vào khoảng năm 1870, thuộc tổng An Phước, quận Hồng Ngự, tỉnh
Châu Đốc, dân làng cử ông làm hương cả. Khi mới thành lập, làng Tân Thành rất
rộng bao gồm cả huyện Tân Hồng ngày nay (chỉ trừ xã Bình Thạnh), đến năm 1901
trong làng có 1.434 dân cư. Sự ra đời của làng Tân Thành là công lao của toàn
dân làng, trong đó phải kể đến công lao to lớn của ông Huỳnh Công Huy. Theo
truyền thống thì Tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai cơ, ở đây, ông Huỳnh
Công Huy vừa khai khẩn lại vừa khai cơ, nên ông chẳng những được dân làng thờ
với tư cách là tiền hiền trong chính điện của đình làng, mà còn lập miếu thờ
riêng gọi là miếu Tiền Hiền.
|
HUỲNH CÔNG HUY
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.191
|
70
|
TRẦN QUANG HUY
|
Ông Trần Quang Huy (? - ?),
xuất thân trong một gia đình nghệ sĩ nhiều đời theo ngành trang trí cổ truyền,
nhạc phụ của hoạ sĩ Hà Cẩm Tâm, quê ở Cao Lãnh (Đồng Tháp), thân phụ của hoạ
sĩ Trần Quang Hiếu có biệt tài vẽ tranh ngựa.
Là người con xứ Sa Đéc địa
linh nhân kiệt, một thời mang mỹ danh “Khu vườn xứ Nam Kỳ”, ông tiên phong
khai sinh nghệ thuật hình nổi trên lụa (năm 1948), đồng thời làm hàng mã, đèn
hoa sáp, chưng cộ, bát tiên kì thú…, được Bộ Kinh tế thời đó cấp bằng sáng chế,
nức tiếng với cơ sở chính Thuỷ Tiên ở chợ Sa Đéc và các chi nhánh Thuỷ Tiên của
đội ngũ môn sinh tay nghề cao, kế thừa ở nhiều nơi. Sản phẩm Thuỷ Tiên triển
lãm hội chợ bao giờ cũng được công chúng ái mộ nghệ thuật truyền thống dân tộc
nhiệt liệt hoan nghênh. Ngày nay, ở tỉnh Đồng Tháp và một số tỉnh lân cận,
nghề làm chân dung nổi trên lụa còn duy trì.
|
TRẦN QUANG HUY
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.194
|
71
|
ĐOÀN MINH HUYÊN
|
Đoàn Minh Huyên (1807 -
1856), người ở vùng Cái Tàu Thượng, làng Tòng Sơn, tổng An Thạnh, huyện Vĩnh
An, phủ Tân Thành, tỉnh An Giang; đến thời Pháp thuộc đổi thành làng Tòng Sơn
và sau đó là làng Mỹ An Hưng, tổng An Thạnh Thượng, quận Châu Thành, tỉnh Sa
Đéc (nay thuộc xã Mỹ An Hưng A, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp).
Năm 1849, ở Nam Kỳ, xảy ra vụ
mất mùa và đại dịch (kéo dài đến 1850), đã làm nhân dân lâm vào cảnh cùng cực,
khổ đau và chết chóc. Trong hoàn cảnh ấy, ông Đoàn Minh Huyên từ Tòng Sơn vào
Trà Bư (nay thuộc ấp An Thái, xã Hội An, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang), rồi đến
vùng Kiến Thạnh (xưa thuộc làng Long Kiến; nay thuộc xã Long Giang, huyện Chợ
Mới, tỉnh An Giang), cư ngụ ở cốc ông đạo Kiến, trổ tài trị bệnh cho dân. Từ
chỗ chữa trị bệnh có kết quả, ông dìu dắt được nhiều bệnh nhân và người thân
của họ nghe theo những điều dạy khuyên của ông. Thấy người tin theo ngày một
đông, nên ngay năm ấy (1849), ông đã sáng lập ra đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, với
tôn chỉ và phương pháp hành đạo rất đơn giản.
Nghe ông chữa bệnh bằng nước
cúng (nước lã), bông cúng,...đồng thời rao giảng đạo, quan tỉnh An Giang nghi
ngờ ông là gian đạo sĩ, hoạt động chính trị nên bắt giam, nhưng xét không có
bằng chứng phải thả tự do cho ông. Song ông buộc phải quy y theo đạo phật
(phái Lâm Tế) và tu tại chùa Tây An, dưới chân núi Sam (Châu Đốc). Từ đó, ông
được người dân tin tưởng gọi tôn kính là Phật Thầy Tây An.
|
ĐOÀN MINH HUYÊN
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.195
|
72
|
NGUYỄN VĂN KHẢI
|
Ông Nguyễn Văn Khải (1940 -
1966), tại làng Bình Hàng Trung, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là huyện Cao
Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Năm 17 tuổi, ông gia nhập lực lượng vũ trang cách mạng,
vào Đảng tháng 8/1958. Ngày 15/9/1966, ông hy sinh, khi đang giữ chức vụ Đại
đội Phó Đại đội Đặc công tỉnh Kiến Phong (nay là Đồng Tháp).
Từ năm 1960 cho đến lúc hy
sinh, ông Nguyễn Văn Khải cùng đồng đội chiến đấu 85 trận, có 33 trận với
cương vị chỉ huy từ cấp tiểu đội đến cấp đại đội, trận nào cũng hoàn thành
nhiệm vụ với hiệu suất cao, hiệp đồng chiến đấu tốt ăn khớp với bộ binh, được
đơn vị bạn tín nhiệm. Ngày 15/9/1966, lúc đang đỉnh trận lụt lớn, ta tổ chức
tập kích yếu khu quân sự Thống Linh, thuộc xã Thiện Mỹ (nay là xã Phương Trà,
huyện Cao Lãnh). Sau gần 1 giờ chiến đấu giằng co ác liệt, các mũi của ta
xung phong không được vì địch dựa vào lô cốt kiên cố bắn trả quyết liệt. Được
lệnh rút quân nhưng nhiều thương binh, tử sĩ còn kẹt lại trong rào. Ông động
viên anh em cùng mình trở vào đưa đồng đội ra. Dưới làn đạn địch bắn như vãi
trấu, ông lội nước cõng từng thương binh, tử sĩ ra khỏi rào. Đến người thương
binh thứ 7, ông trúng đạn địch, hy sinh.
Với thành tích đặc biệt xuất
sắc, ngày 20/12/1994, Liệt sĩ Nguyễn Văn Khải được Chủ tịch nước Cộng hoà Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân.
|
NGUYỄN VĂN KHẢI
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.203
|
73
|
NGUYỄNTHANH KHÊ
|
Nguyễn Thanh Khê (1916 -
20060, thường gọi Sáu Cầm, quê làng Mỹ Thọ, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay
là Đồng Tháp). Năm 1946, ông dạy học ở trường kháng chiến và là cán bộ Ban Xã
hội thuộc Ủy ban Hành chính huyện Cao Lãnh. Sau đó là Trưởng Văn phòng Ủy ban
Hành chính tỉnh Sa Đéc. Tháng
11/1947, ông được cử làm Chủ
tịch Ủy ban Kháng chiến Hành
chính huyện Cao Lãnh, được kết
nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (năm 1948). Đến tháng 10/1951, ông được rút
lên làm Trưởng Văn phòng Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Long Châu Sa.
Tháng 3/1952, ông là Huyện ủy viên Phó chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính
huyện Cao Lãnh. Giữa năm 1956, ông được điều lên huyện Thanh Bình, là huyện ủy
viên phụ trách Binh vận, Phó Bí thư rồi Bí thư Huyện ủy. Tháng 5/1964, ông được
bầu vào Tỉnh ủy Kiến Phong. Đến tháng 3/1965, ông kiêm Trưởng Ban Kinh tế Tài
chính tỉnh Kiến Phong. Cuối năm 1969, ông được bầu Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân
dân Cách mạng tỉnh và được bầu vào Ban Thường vụ Tỉnh ủy Kiến Phong năm 1972.
Đến tháng 02/1974, ông là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng tỉnh Kiến Phong.
Khi thành lập tỉnh Đồng Tháp
(02/1976), ông là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Ủy
ban Nhân dân tỉnh. Đến tháng 6/1977, ông làm Bí thư Thị uỷ Sa Đéc. Tháng
6/1981, ông về tỉnh làm Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Đồng Tháp, Bí
thư Đảng đoàn Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh. Tháng 10/1987, ông nghỉ hưu và mất
ngày 10/12/2006.
Quá trình cống hiến cho cách
mạng, ông được tặng thưởng Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng, Huân chương Độc lập hạng
Nhì, Huân chương Quyết thắng hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng
Nhì, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất.
|
NGUYỄNTHANHKHÊ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.209
|
74
|
TRẦN TRỌNG KHIÊM
|
Ông Trần Trọng Khiêm (1821 -
1866), quê làng Xuân Lũng, huyện Sơn Vi, tỉnh Phú Thọ. Năm 1855, ông vô miền
Nam. Ông cùng vài người bạn đứng ra khai hoang góp phần lập nên làng Hoà An
thuộc tổng An Tịnh, phủ Tân Thành, tỉnh An Giang, giáp ranh với làng Mỹ Trà
(thuộc huyện Kiến Phong, phủ Kiến Tường, tỉnh Định Tường).
Năm 1862, triều đình Tự Đức
nhường ba tỉnh Biên Hoà, Gia Định và Định Tường cho Pháp. Năm 1863, ông cùng
Thiên hộ Võ Duy Dương xây dựng căn cứ ở Gò Tháp nằm trong Đồng Tháp Mười. Ông
là người vẽ kiểu các công sự chiến đấu mô phỏng theo kiểu của các đồn canh của
một đại uý (sau được chính phủ Hoa Kỳ phong đại tướng) tên Suter, người
Canada, xây dựng ở California gọi là đồn Suter. Ông được Thiên Hộ Dương giao
chỉ huy một đội nghĩa quân, đánh thắng Pháp nhiều trận ở Mỹ Trà, Cao Lãnh,
Cai Lậy…Tháng 4/1866, Pháp mang đại quân tấn công đại đồn Tháp Mười, ông chiến
đấu quyết liệt và tử trận lúc 45 tuổi.
|
TRẦN TRỌNG KHIÊM
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.211
|
75
|
BÙI THANH KHIẾT
|
Ông Bùi Thanh Khiết (1924 - 1984),
quê làng Tân An, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là xã Mỹ Tân, thành phố Cao
Lãnh, tỉnh Đồng Tháp).
Ông tham gia Giải phóng quân
từ năm 1945. Ngày 04/01/1947, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Cuối năm 1947, ông làm Trưởng phòng Chính trị Quân khu 9 và Trưởng ban Chính
trị tỉnh Long Châu Hà. Tập kết ra Bắc, ông được cử làm Chính uỷ trung đoàn, rồi
Phó Chủ nhiệm Chính trị sư đoàn. Năm 1964, ông trở về Nam chiến đấu, là Phó
Chính uỷ Quân khu 8, Khu ủy viên rồi Phó Chính uỷ Quân khu 9, Khu ủy viên khu
Tây Nam Bộ. Năm 1973, ông được phong quân hàm Đại tá, là Bí thư Đảng uỷ, Phó
Trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam
trong Ban Liên hiệp quân sự bốn bên và hai bên, đóng tại sân bay Tân Sơn Nhất.
Sau đó, ông làm Phó Chủ nhiệm Cục chính trị Bộ Tư lệnh Quân Giải phóng miền
Nam. Cuối năm 1976, ông làm Thứ trưởng Bộ Giáo dục, Bí thư Đảng đoàn Bộ Giáo
dục. Ông là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IV, Ủy viên
chính thức khoá V. Từ tháng 8/1979, ông là Trưởng ban Khoa giáo Trung ương.
Tháng 4/1981, ông được bầu vào Quốc hội khoá VII, đơn vị tỉnh Đồng Tháp và được
cử làm Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật của Quốc hội... Ông từ trần ngày
07/01/1984.
Công lao của ông đã được Đảng
và Nhà nước tặng thưởng Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng, Huân chương Độc lập hạng
Nhất, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Quân công Giải phóng hạng
Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất,
Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Nhất, Nhì, Ba, Huân chương Chiến sĩ giải
phóng hạng Nhất, Nhì, Ba.
|
BÙI THANH KHIẾT
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. 213
|
76
|
LÊ VĂN KIẾC
|
Lê Văn Kiếc (1923 - 1972), bí
danh Lê Trung Nghĩa, Ba Nghĩa, quê ở làng Hoà Khánh, quận Cái Bè, tỉnh Mỹ
Tho. Lúc nhỏ theo gia đình đến làm ăn tại xã Hưng Thạnh, huyện Mỹ An (nay là
huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp). Năm 1950, Lê Văn Kiếc tham gia du kích xã,
tháng 10/1958 được kết nạp vào Đảng, tháng 4/1959, được rút lên Bộ đội địa
phương huyện Mỹ An.
Ngày 04/01/1960, ông chỉ huy
trung đội Địa phương quân huyện phối hợp với tổ Đặc công và Phân đội 272 của
tỉnh đánh sập tháp 10 tầng của Ngô Đình Diệm xây dựng tại Gò Tháp Mười, diệt,
bị thương và bắt gần một trung đội địch. Tháng 02/1965, ông làm Huyện Đội trưởng
Cao Lãnh, tháng 7/1967 là Chính trị viên Huyện đội Mỹ An. Tháng 01/1971, ông
làm Tỉnh đội phó Tỉnh đội Kiến Phong. Mùa nước năm 1971 ông chỉ huy diệt được
4 đồn địch, diệt gần 100 tên địch, thu hơn 50 súng các loại; đánh thiệt hại nặng
Đại đội Biệt kích 215 khét tiếng ác ôn ở vùng bắc huyện Cao Lãnh. Đêm
30/9/1972, trong lúc chỉ huy đơn vị đánh đồn Quán Tre, ông hy sinh anh dũng.
Ông Lê Văn Kiếc chỉ huy và trực
tiếp chiến đấu 120 trận, loại khỏi vòng chiến 480 tên địch, thu nhiều súng, bắn
cháy 2 xe (có1 M113), 1 tàu; đào 288 công sự, gài 1.200 lựu đạn, cắm 16.000
mũi chông… Ông được tặng thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Nhì,
Ba, Huân chương chiến sĩ Giải phóng hạng Nhất, Nhì, Ba và nhiều bằng khen, giấy
khen. Ngày 23/5/2005, Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng
ông Lê Văn Kiếc (Lê Trung Nghĩa) danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân.
|
LÊ VĂN KIẾC
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.216
|
77
|
NGUYỄN HỮU KIẾN
|
Ông Nguyễn Hữu Kiến (1880 -
1954), trong một gia đình nghèo ở xóm xép Cả Kích, làng Tân Thuận (nay là xã
Tân Thuận Tây, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp).
Ông hăng hái tham gia phong
trào Đông Du và Minh Tân. Ông cùng với Nguyễn Quang Diêu quan hệ với nhiều
nhà yêu nước lúc bấy giờ, như Nguyễn Văn Điền (Châu Đốc), Lê Văn Đáng, Lê Văn
Mỹ, Lê Văn Ký, Trần Văn Nhựt (Cao Lãnh). Ông là một trong số ít người ở Nam Bộ
có công hỗ trợ Hồ Tá Bang trong việc xây dựng trường Dục Thanh ở Phan Thiết
và cũng chính ông là người đã vận động một số thanh niên Cao Lãnh ra học ở
trường này. Ông là người được Nguyễn Quang Diêu chọn tham gia phái đoàn 12
người sang Hồng Kông vào tháng 5/1913. Năm 1927, ông Nguyễn Quang Diêu, sau
mười mấy năm tù đày, vượt ngục về nước tiếp tục hoạt động; một lần nữa, ông lại
cùng Nguyễn Quang Diêu bôn ba khắp nơi vận động. Đến năm 1937, ông mở trường
dạy học ở vàm xép Cả Kích; ngoài ra, ông còn coi mạch, hốt thuốc, trị bệnh
cho dân và dịch sách thuốc từ tiếng Hoa ra chữ Việt để phổ biến kiến thức trị
bệnh trong nhân dân. Năm 1940, với cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, thực dân Pháp đàn
áp, khủng bố khắp nơi, quy chụp trường của ông có “vấn đề”, ra lệnh đóng của
tức khắc. Trường đóng cửa, ông về Mỹ Tho sống với con gái làm nghề giáo. Ngày
04/1/1954, ông qua đời.
|
NGUYỄN HỮU KIẾN
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.218
|
78
|
ĐỐC BINH KIỀU
|
Đốc Binh Kiều (? - 1866). Dân
gian thường gọi ông là Lê Công Kiều, Trần Phú Kiều hoặc Nguyễn Tấn Kiều, nhưng
phổ biến nhất là quan Lớn Thượng. Ông là người gốc miền Trung vào Nam sinh sống
ở huyện Kiến Đăng, tỉnh Định Tường. Khi thực dân Pháp đánh chiếm thành Gia Định,
ông về Gia Định đầu quân chống giặc. Đến khi Trương Định lập căn cứ Tân Hoà
(Gò Công), Thiên Hộ Dương lập căn cứ Bình Cách, Mỹ Quý (Ba Giồng, huyện Kiến
Đăng), ông đem quân về Ba Giồng hợp tác với Thiên Hộ Dương.
Ông được phong chức đốc binh
và trở thành một tham mưu đắc lực của Thiên hộ. Tháng 6/1864, nghĩa quân rơi
vào tình trạng cực kỳ khó khăn, Thiên Hộ Dương quyết định rút vô Đồng Tháp Mười
và đặt tổng hành dinh tại Gò Tháp. Đốc Binh Kiều được giao nhiệm vụ xây dựng
căn cứ. Ông huy động dân binh, nghĩa quân đào hào đắp luỹ, xây dựng đại đồn
Tháp Mười suốt mấy tháng liền. Sau đó, theo phân công của Thiên hộ, Đốc Binh
Kiều chỉ huy đồn Tả, ông vận dụng chiến thuật du kích kết hợp với kinh nghiệm
dân gian sáng tạo các cách đánh độc đáo như đốt đồng, dùng ong, dùng trâu, hầm
chông… làm cho giặc Pháp và tay sai vô cùng khiếp sợ. Trong cuộc tấn công
Tháp Mười vào tháng 4/1866, giặc Pháp đã dùng một lực lượng lớn để áp đảo mặt
này, quyết hạ cho được đồn Tả để tiến vào Tháp Mười. Đốc Binh Kiều điều động
nghĩa quân chống trả quyết đẩy lui nhiều đợt tấn công của giặc, đến chiều bọn
chúng phải rút lui. Ông lên đài quan sát theo dõi cuộc thoái binh của giặc,
chẳng may ông bị thương. Ông được đưa về gò Giồng Dung điều trị. Mấy ngày
sau, được tin đại đồn thất thủ ông uất lên mà chết.
|
ĐỐC BINH KIỀU
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015.
|
79
|
NGUYỄN VĂN KÍNH
|
Ông Nguyễn Văn Kính (1910 -
1992) thường gọi Hai Kính, quê làng Bình Đông, tổng An Phú, quận Thốt Nốt, tỉnh
Long Xuyên (nay là thị trấn Lấp Vò, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp).
Ông tham gia cách mạng năm
1926, gia nhập Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội năm 1928, tại Chi Hội Lấp
Vò. Được kết nạp vào An Nam Cộng sản Đảng tháng 9/1929 tại Lấp Vò. Tháng
11/1930, ông bị giặc bắt, chúng tra tấn cực hình, tù đày nhưng ông vẫn không
hề khai báo, không tiết lộ bí mật. Năm 1934, ông được ra tù, trở về địa
phương tiếp tục hoạt động cho Đảng, được Đảng tín nhiệm cử giữ chức vụ Phó Bí
thư Đặc uỷ Hậu Giang. Năm 1945, ông là Tỉnh ủy viên tỉnh Long Xuyên, Bí thư
Quận ủy Lấp Vò. Thực dân Pháp tái xâm lược Long Xuyên, Sa Đéc… ông cùng Đảng
bộ và nhân dân địa phương kháng chiến chống Pháp giành thắng lợi. Sau Hiệp định
Giơnevơ, ông công tác Kinh tài tỉnh An Giang, Ban Tài chính - Kinh tế Kế hoạch
khu Trung Nam bộ (Khu 8). Ông nghỉ hưu tháng 7/1978 tại Thành phố Hồ Chí Minh
và từ trần ngày 11/7/1992.
|
NGUYỄN VĂN KÍNH
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.222
|
80
|
LƯU VĂN LANG
|
Ông Lưu Văn Lang (1880 -
1969), quê làng Tân Phú Đông, Sa Đéc. Ông là sinh viên Nam Kỳ đầu tiên đậu bằng
Ingénieur des Arts et Manufactures (Kỹ sư công nghệ chuyên ngành cầu cống -
tương đương như kỹ sư xây dựng ngành cầu đường ngày nay). Năm 1990 đến 1940,
ông làm việc cho Sở Công chánh Sài Gòn.
Năm 1943 - 1944, ông tích cực
giúp phong trào Truyền bá Quốc ngữ chính thức hoạt động rầm rộ ở Sài Gòn và
các tỉnh. Tháng 3/1945, Nhật đảo chánh Pháp, ông được mời ra Huế giữ chức Tổng
trưởng, nhưng ông giữ khí tiết, tuyên bố: “Không làm đầy tớ cho ai nữa cả!”.
Pháp tái chiếm Sài Gòn, ông vẫn bất hợp tác với giặc. Từ đó, nhà ông là nơi hội
họp, gặp gỡ của số trí thức tiến bộ, yêu nước. Năm 1947, ông cùng bác sĩ Nguyễn
Văn Hưởng, giáo sư Đặng Minh Trứ, vận động gần 300 trí thức ký tên vào bản kiến
nghị đòi Chính phủ Pháp đàm phán với Chính phủ Kháng chiến để chấm dứt chiến
tranh. Năm 1949, ông là người ký tên đầu tiên vào bản kiến nghị thứ hai, với
hàng ngàn chữ ký, đòi Chính phủ Pháp thương lượng với Chính phủ Hồ Chí Minh để
trao trả độc lập và tái lập hoà bình Việt Nam. Ngày 09/01/1950, tại Sài Gòn,
nhân đám tang học trò Trần Văn Ơn, ông dẫn đầu đoàn biểu tình đông hàng trăm
ngàn người.Năm 1954, tuy đã già, ông vẫn nhận chức Chủ tịch danh dự Phong
trào Hoà bình. Tháng 11/1954, chính quyền Ngô Đình Diệm bắt ông giam giữ,
không lâu sau, vì uy tín lớn lao của ông, chúng buộc phải thả ông ra. Ông ủng
hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam, công khai phổ biến các văn kiện của Mặt trận ngay giữa Sài Gòn.
|
LƯU VĂN LANG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.224
|
81
|
PHẠM HỮU LẦU
|
Ông Phạm Hữu Lầu (1906 -
1959) bí danh Tư Lộ, quê làng Hoà An, tổng An Tịnh, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa
Đéc (nay là Phường 4, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Tháng 10/1929, ông
được kết nạp vào An Nam Cộng sản Đảng. Năm 1930, ông là Ủy viên Ban Chấp hành
Trung ương lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ năm 1954 đến 1959, ông làm Phó
Bí thư rồi Bí thư Xứ ủy Nam Bộ. Ông mất ngày 16/12/1959 do bệnh lao phổi.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, ông bị thực dân Pháp bắt và đày ra Côn Đảo
hai lần (lần thứ nhất, giữa năm 1930; lần thứ hai, cuối năm 1939). Ông đã có
nhiều đóng góp to lớn cho Đảng, cho cách mạng trong thời kỳ đấu tranh giành độc
lập dân tộc (1930 - 1945), trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 -
1954) và những năm đầu cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954 -
1959). Ông là một tấm gương cộng sản mẫu mực về cống hiến trọn đời mình cho Đảng
và cho dân tộc.
|
PHẠM HỮU LẦU
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.228
|
82
|
TRẦN BÁ LÊ
|
Ông Trần Bá Lê (1850 - 1931),
quê thôn Hoà An, huyện Vĩnh An, tỉnh An Giang (nay thuộc xã Hoà An, thành phố
Cao Lãnh). Ông được cử làm Hương cả Nhì trong làng, nên người trong làng thường
gọi ông là Cả Nhì Ngưu.
Vào những năm 1907, 1908, lúc
phong trào Đông Du phát triển, ông là người tài trợ lớn, có tiếng ở vùng Cao
Lãnh. Năm 1917, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc tìm đến Cao Lãnh, ông giữ cụ lại
để nuôi dưỡng. Theo yêu cầu của cụ Nguyễn Sinh Sắc, ông dựng cho cụ một căn
nhà nhỏ trong vườn nhà ven bờ rạch Cái Tôm, để cụ tiện dạy học và hốt thuốc.
Năm 1929, khi cụ Nguyễn Sinh Sắc qua đời, ông Trần Bá Lê là một trong những
người góp sức vào việc an táng. Cuối năm 1929, Chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh
Sa Đéc ra đời, đặt cơ quan ngay trong vườn xoài của ông. Nơi đây thường diễn
ra các cuộc họp và in ấn tài liệu. Tháng 11/1930, Pháp và tay sai bất thần
bao vây nhà ông bắt bảy người, trong đó có các đảng viên Bùi Dự, Lê Văn Hy
(Hai Hy) và Đỗ Hữu Giàu (cháu ngoại ông). Riêng ông, chúng bắt tại Cái Tắc.
Sau đó, chúng đưa tất cả về giam ở Vĩnh Long. Một tháng sau, chúng giải ông
và ba đồng chí về Khám lớn Sài Gòn. Tại đây, chúng giam ông chung phòng với đồng
chí Hà Huy Giáp. Tháng 7/1931, ông qua đời tại Khám Lớn. Ngày 04/4/2014, ông
được Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam công nhận liệt
sĩ và cấp bằng Tổ quốc ghi công.
|
TRẦN BÁ LÊ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.230
|
83
|
TRẦN THANH LIÊM
|
Trần Thanh Liêm (1941 -
1968), tên thường gọi Lê Văn Liêm, quê xã Phong Hoà, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng
Tháp. Ông nổi tiếng là một chiến sĩ, một cán bộ chỉ huy đặc công giỏi của Tiểu
đoàn 857 tỉnh Vĩnh Long trong những năm 1962 - 1968.
Vào đội Du kích xã năm 1960,
năm 1962, ông được đưa đi học lớp đặc công do Tỉnh đội tổ chức, học xong được
bổ sung vào trung đội đặc công của tỉnh. Năm 1965, được đề bạt làm tiểu đội
trưởng, rồi trung đội phó, Đại đội Phó Đại đội Đặc công. Năm
1967 được điều động qua làm Đại
đội Phó Đại đội 203, Tiểu đoàn 857. Tháng 5/1967, ông cùng đơn vị tiêu diệt đồn
Trà Khiết, xã Mỹ Thuận. Tháng 9/1967, Đại đội 203 do ông chỉ huy phối hợp với
Đại đội 205 diệt gọn đồn Bình Tiên và một đại đội cảnh sát đóng dã ngoại, diệt
và bắt 218 tên địch, thu toàn bộ vũ khí, đạn dược, phương tiện chiến tranh.
Trong cuộc Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968, Tiểu đoàn 857, được Quân Khu 9 giao
nhiệm vụ đánh sân bay Vĩnh Long, với 66 máy bay các loại và 150 sĩ quan, phi
công, nhân viên kỹ thuật Mỹ. Cấp trên chọn ông làm mũi trưởng, chỉ huy 40 đồng
đội thọc sâu đánh vào sân bay. Sau gần 30 phút chiến đấu, quân ta đã phá huỷ
được 63 chiếc trong số 66 chiếc. Khi chỉ huy đơn vị rút ra, tổ của ông lọt
vào bãi mìn dày đặc của địch trong hàng rào. Ông và một số đồng đội đã anh
dũng hy sinh lúc 5 giờ sáng ngày mồng một Tết năm 1968, khi vừa tròn 27 tuổi.
Với chiến công to lớn, Trần
Thanh Liêm được khen thưởng Huân chương Quân công hạng Ba, Huân chương Chiến
công hạng Nhất nhiều bằng khen, giấy khen của Tỉnh đội và Quân Khu 9. Ngày
30/8/1995, Liệt sỹ Trần Thanh Liêm được Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
|
TRẦN THANH LIÊM
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.232
|
84
|
ĐẶNG THÚC LIÊNG
|
Ông Đặng Thúc Liêng (1867 -
1945), quê làng Tân Phú, quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định (nay thuộc Thành phố Hồ
Chí Minh), sau dời về quê vợ ở làng Tân Qui Đông, tỉnh Sa Đéc (nay là tỉnh Đồng
Tháp).
Ông từng hoạt động yêu nước
chung với Trần Chánh Chiếu và Nguyễn An Khương. Tháng 10/1908, Pháp ra lệnh bắt
Đặng Thúc Liêng và hơn 40 người tình nghi khác giam ở khám đường Mỹ Tho. Ông
được ra tù sau bốn tháng bị giam cầm. Từ năm 1911 đến năm 1944, ông trở lên
Sài Gòn viết bài cho nhiều tờ báo, chủ trương tờ Việt dân báo (1931),
sáng lập hội “Việt Nam Y Dược” (1934), cùng Lê Phát Vĩnh xuất bản tuần
báo Đông Phong (khoảng năm 1944), với các hiệu: Trúc Am, Mộng Liêm, Lục
Hà Tẩu. Cuối năm 1944, ông rời Sài Gòn về làng Tân Quy Đông, tỉnh Sa Đéc sống
những ngày cuối đời và mất vào ngày 16/8/1945.
Ông là một nhà văn tiền phong
ở miền Nam, ông được giới văn học mến yêu, kính trọng. Có thể xem ông là người
có công lớn trong thời kỳ chữ Quốc ngữ bắt đầu có mặt trên sinh hoạt văn hóa ở
miền Nam vào thế kỷ XIX.
|
ĐẶNG THÚC LIÊNG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.234
|
85
|
NGUYỄN VĂN LINH
|
Ông Nguyễn Văn Linh (1815 - 1865),
quê ở thôn Mỹ Ngãi, huyện Kiến Đăng, tỉnh Định Tường (nay thuộc phường 1,
thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp).
Khi thực dân Pháp kéo quân đến
vùng Cao Lãnh tiến hành bình định chiếm đóng. Ông đứng ra qui tụ thanh niên
trai tráng trong vùng luyện tập võ nghệ, trang bị vũ khí theo dõi hành tung của
giặc, hễ có cơ hội là diệt chúng, làm cho giặc hoang mang ngay từ buổi đầu mới
chiếm đóng. Giữa năm 1863, Thiên hộ Võ Duy Dương từ Ba Giồng (Cai Lậy) dẫn
nghĩa quân vô Đồng Tháp Mười xây dựng đồn lũy, lập căn cứ, truyền hịch chiêu
mộ nghĩa sĩ, ông liền đem lực lượng của mình đặt dưới quyền chỉ huy của Thiên
hộ và hiến nhiều kế sách cho việc xây dựng, phát triển lực lượng nghĩa quân.
Ông và Đốc Binh Kiều là hai bộ tướng phụ tá đắc lực của Thiên Hộ Dương trong việc
chiêu mộ nghĩa quân và vận động nhân dân ủng hộ kháng chiến. Ông được giao thống
lĩnh một đạo nghĩa quân phụ trách hoạt động vùng Cao Lãnh, nên trong quân
cũng như ngoài dân thường gọi ông là Thống Linh. Hoạt động của ông làm cho giặc
Pháp trong vùng mất ăn mất ngủ, nhưng chúng không sao đàn áp nổi.
Một hôm trên đường lo việc
quân cơ, tiện đường ghé qua thăm gia đình, bị giặc phục kích bắt ông cùng Thống
Bình và Thống Chiếu tại thôn Phong Mỹ, đem về chợ ông Chánh (tức chợ Mỹ Ngãi
sau này) giam giữ. Không mua chuộc được ông, chúng ra tay hành quyết ông cùng
với Thống Bình, Thống Chiếu tại chợ Mỹ Ngãi.
|
NGUYỄN VĂN LINH,
THỐNG LINH
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.236
|
86
|
ĐỖ THỪA LUÔNG
ĐỖ THỪA TỰ
|
Ông Đỗ Thừa Luông (? - 1872),
quê ở Lai Vung, tỉnh Sa Đéc (nay là tỉnh Đồng Tháp), sinh trưởng dưới thời
vua Tự Đức. Năm 1872, ông cùng em là Đỗ Thừa Tự (? - 1872) vận động nhân dân
nổi lên chống Pháp ở ven rừng U Minh, từ rạch Cái Tàu (nay thuộc huyện U
Minh) đến vùng An Biên (tỉnh Kiên Giang ngày nay).
Nghĩa quân đóng căn cứ tại
khu vực Hàn Lớn và Hàn Nhỏ nằm trong xóm Cái Tàu. Quân Pháp phát hiện ra căn
cứ và tấn công, nghĩa quân đánh trả quyết liệt, song vì thiếu vũ khí, nên căn
cứ bị triệt hạ, nhiều nghĩa quân hy sinh. Trước tình hình lực lượng quá chênh
lệch, anh em họ Đỗ không muốn các đồng chí mình tiếp tục hy sinh nữa, nên ra
lệnh giải tán nghĩa quân và vào trong rạch Cái Tàu tự tử. Tuy cuộc khởi nghĩa
không thành công, nhưng hai ông luôn được nhân dân tưởng nhớ.
|
ĐỖ THỪA LUÔNG,
ĐỖ THỪA TỰ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.240
|
87
|
LÊ VĂN LƯỢNG
|
Ông Lê Văn Lượng (1933-1959),
quê quán xã Long Hiệp, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Ông tham gia cách mạng
năm 1955, tại Đội Bảo vệ Tỉnh ủy Kiến Phong (nay là Đồng Tháp). Tháng
10/1959, đơn vị phân công ông cùng hai chiến sĩ bảo vệ ông
Trần Anh Điền (Tám Bé), Phó
Bí thư Tỉnh ủy Kiến Phong đi dự Hội nghị Trung ương, tổ chức tại Thường Phước,
quận Hồng Ngự, tỉnh Kiến Phong. Hội nghị xong, trên đường trở về căn cứ Tỉnh ủy,
khi đi đến ngọn Nhà Hay thuộc Phong Mỹ, quận Cao Lãnh, khoảng 17 giờ thì bất
ngờ lọt vào vòng vây của địch. Quân địch quá đông, hỏa lực mạnh, để bảo vệ
ông Trần Anh Điền và tài liệu mật, ông một mình ở lại chiến đấu thu hút, cầm
chân địch, tạo điều kiện cho đồng đội bảo vệ ông đồng chí Trần Anh Điền thoát
khỏi vòng vây. Ông đã kiên cường chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, làm cho địch
chết, bị thương trên 20 binh lính. Ông anh dũng hy sinh khi vừa tròn 26 tuổi.
Quá trình tham gia cách mạng,
ông đã trực tiếp chiến đấu trên
50 trận, diệt hàng trăm tên địch,
trong đó có các tên ác ôn, chiêu hồi, chỉ điểm, gián điệp gây nhiều nợ máu với
nhân dân và cách mạng, thu nhiều vũ khí. Ngày 01/3/2010, Liệt sĩ Lê Văn Lượng
được Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh
hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
|
LÊ VĂN LƯỢNG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.243
|
88
|
NGUYỄN THỊ LỰU
|
Bà Nguyễn Thị Lựu (1909 -
1988), tên thật Đỗ Thị Thưởng, bí
danh Thu, Cửu, thường gọi Tám
Lựu, quê làng Hòa An, quận
Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là
thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng
Tháp).
Bà được kết nạp vào An Nam Cộng
sản Đảng cuối năm 1929 tại Phong Hoà, CầnThơ (nay là xã Phong Hoà, huyện Lai
Vung, tỉnh Đồng Tháp). Đầu năm 1931, trên cương vị Thường vụ Tổng công hội đỏ
Xứ uỷ Nam Kỳ, bà bị giặc bắt giam ở bót Pôlô (Chợ Lớn). Toà đại hình đặc biệt
Sài Gòn tuyên án bà 5 năm tù giam tại Khám Lớn Sài Gòn. Năm 1936, bà được trả
tự do, tham gia nhóm La Lutte (tranh đấu), phục vụ tại toà soạn La Lutte và
được bầu vào Ủy ban trù bị Đông Dương Đại hội. Đầu năm
1937, bà tiếp tục làm báo L’Avant-Garde
(1937), Le Peuple (1937), Dân chúng (1938 - 1939). Đầu
tháng 9/1939, bà bị thực dân Pháp bắt lần thứ 2 giam ở nhà tù Phú Mỹ (1939 -
1941) và
trại giam Bà Rá (1941 -
1945).
Năm 1946, bà công tác ở Tỉnh ủy
Châu Đốc. Sau đó, bà giữ các nhiệm vụ: Trưởng ban Phụ Vận Thành uỷ Sài Gòn -
Chợ Lớn (1949), phụ trách Tiểu ban đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ
(1954), gia nhập Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy viên Ban Mặt trận
Trung ương (1959), Vụ trưởng Vụ quốc tế của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1960),
Phó Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1961), Đại biểu
Quốc hội các khóa IV, V, VI. Sau ngày 30/4/1975, bà đảm nhận chức vụ Chủ nhiệm
Ủy ban thống nhất của Quốc hội, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và nghỉ hưu tháng 7/1979.
|
NGUYỄN THỊ LỰU
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.245
|
89
|
HUỲNH CHÍ MẠNH
|
Ông Huỳnh Chí Mạnh (1913 -
2000) còn gọi là Nguyễn Ngọc
Tân (bí danh Hai Lực), quê
Hương Giản, Yên Dương, Hà Bắc. Năm 1940, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản
Đông Dương. Năm 1941, là Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, ông
|
HUỲNH CHÍ MẠNH
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.249
|
|
|
được Xứ uỷ Nam Bộ phân công
đi Campuchia móc nối tổ chức
cơ sở cách mạng, vận động Việt
kiều ủng hộ cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ. Cuối năm 1946, ông là Ủy
viên Thường
vụ Tỉnh ủy Châu Đốc, rồi Bí
thư Tỉnh ủy Châu Đốc cuối năm
1947. Từ tháng 4/1948, ông
làm Bí thư Tỉnh ủy Long Châu Tiền. Năm 1951, Khu uỷ điều ông lên công tác ở
Campuchia với chức vụ Ủy viên Ban cán sự Campuchia, Bí thư Ban cán sự Đông
Nam Campuchia. Sau đình chiến năm 1954, ông là ủy viên Ban cán sự liên lạc,
Trưởng Ban phụ trách Việt kiều Campuchia. Năm 1960, ông là Khu ủy viên miền
Đông Nam Bộ, Bí thư Khu uỷ Đông Nam Bộ, Chính uỷ Quân khu 2, Phó Bí thư Ban
cán sự và Chính uỷ Tiền phương Quân khu 7. Năm
1977, ông giữ chức Phó Ban cải
tạo Công Thương nghiệp Trung ương và sau đó nghỉ hưu tại Thành phố Hồ Chí
Minh. Ông mất năm 2002.
Quá trình công tác và chiến đấu,
ông đã được Đảng, Nhà nước
tặng thưởng Huy hiệu 60 năm
tuổi Đảng, Huân chương Độc lập hạng Nhất.
|
|
|
90
|
NGUYỄN THỊ MẸO
|
Bà Nguyễn Thị Mẹo (1902 -
1975), quê làng Khánh An Đông,
quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc
(nay là xã An Khánh, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp). Chồng bà là ông Châu
Tấn Tài, sinh năm 1900, người cùng quê với bà. Bà có 7 người con (5 trai, 2
gái), trong đó có 4 người con đi kháng chiến và cả 4 người là Liệt sỹ. Ngày
17/12/1994, bà Nguyễn Thị Mẹo được Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.
|
NGUYỄN THỊ MẸO
|
Đồng Tháp nhân vật chí, năm 2005.
|
91
|
BÙI ĐỨC MINH
|
Bùi Đức Minh (? - 1835). Hiện
tại, chưa có thông tin về năm
sinh cũng như quê quán của
Bùi Đức Minh. Chỉ biết ông sống vào khoảng cuối thời các chúa Nguyễn.
Tháng 9/1815, ông được bổ làm
Ký lục dinh Bình Hoà (Khánh
Hoà), chức quan trật Chánh
tam phẩm. Tháng 5/1818, ông được
|
BÙI ĐỨC MINH
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.253
|
|
|
vua Gia Long sai phái làm duyệt
tuyển ở Bình Hoà. Tháng
3/1821, ông làm Cai Bạ Biên
Hoà. Tháng 9/1823, ông được bổ làm Ký lục Phiên An. Tháng 5/1824, ông lĩnh chức
Tuyên phủ
sứ hai phủ Trà Vinh, Mân
Thít, kiêm quản đồn Uy viễn. Tháng
6/1826, ông được thăng làm Tả
tham tri Binh bộ, chức quan cao cấp ban văn, chỉ đứng sau Thượng thư, trật
Tòng nhị phẩm. Tháng 9, ông được chuyển làm Tả tham tri Công bộ. Năm1829, ông
lại được đổi làm tả tham tri Binh bộ. Tháng 6/1829, ông được vua Minh Mạng
phong hiệp đồng Bảo hộ Chân Lạp. Tháng
10, vua gia hàm Thượng thư
Binh bộ (Chánh nhị phẩm) cho ông, vẫn hiệp đồng bảo hộ quốc ấn Chân Lạp, án
thủ đồn Châu Đốc, kiêm lĩnh Biên vụ Hà Tiên. Năm 1835, vì tuổi cao sức yếu,
ông chết trong quân thứ lúc theo quân đánh Lê Văn Khôi.
|
|
|
92
|
NGUYỄN VĂN MINH
|
Ông Nguyễn Văn Minh (1921 -
1988), tên thường gọi Chín
Minh), tên khai sinh là Nguyễn
Thành Thị, bí danh Nam, quê xã Bình Thạnh, quận Hồng Ngự, tỉnh Châu Đốc (nay
là tỉnh Đồng Tháp).
Ông tham gia cách mạng tháng
10/1944, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 5/1945. Tháng
9/1945, ông là cán bộ Quận ủy Hồng Ngự phụ trách Liên xã Tân Hội, Bình
Thạnh và xã Thường Lạc. Tháng
9/1947, ông là Huyện ủy viên
Huyện ủy Hồng Ngự và Huyện đội
trưởng Huyện đội Hồng Ngự. Tháng 01/1952, ông làm Bí thư xã Bình Thạnh, huyện
Hồng Ngự, sau đó làm Phó Bí thư Huyện ủy rồi Bí thư Huyện ủy Hồng Ngự (từ
tháng 4/1954), Phó Ban Binh vận tỉnh Kiến Phong (từ tháng 10/1958), Ủy viên
Ban Binh vận Khu 8 (từ tháng 10/1960). Từ tháng 3/1970, ông là Phó Ban Cán sự
khu vực 30 (Campuchia), Trưởng Ban liên lạc vùng 21 (Campuchia). Tháng
10/1970 đến tháng 01/1972, ông là Ủy viên Ban Tổ chức Khu, Bí thư Đảng uỷ
Liên cơ Dân - Chính -
Đảng.Tháng 11/1974, ông là Bí
thư Đảng uỷ Liên cơ Dân -
|
NGUYỄN VĂN MINH
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.256
|
|
|
Chính - Đảng Khu 8, rồi Ủy
viên Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng
Ban Tổ chức Tỉnh ủy Đồng Tháp
(từ tháng 02/1976), Ủy viên
Thường vụ Tỉnh ủy Đồng Tháp, Bí
thư Huyện ủy Hồng Ngự (từ tháng 4/1977). Năm 1987, ông nghỉ hưu và mất ngày
9/10/1988. Quá trình công tác và chiến đấu, ông được tặng thưởng Huân chương
Độc lập hạng Nhì, Huân chương Quyết thắng hạng Nhất và Huân chương Kháng chiến
hạng Nhất.
|
|
|
93
|
TRƯƠNG TẤN MINH
|
Ông Trương Tấn Minh (? - ?),
tên tục là Miên, sinh tại làng An
Bình (nay thuộc huyện Cao
Lãnh, tỉnh Đồng Tháp).
Năm ông 30 tuổi, khi giặc ngoại
xâm giày xéo quê hương, ông cùng một người bạn chiêu mộ nghĩa dõng, lấy của
nhà ra nuôi quân, sắm sửa vũ khí, hoạt động chống Pháp ở vùng Cao Lãnh, gây
nhiều khăn cho việc bình định của giặc. Về sau, ông rút lực lượng của mình
vào Đồng Tháp Mười hợp tác chiến đấu với nghĩa quân Thiên hộ Võ Duy Dương.
Thiên Hộ Dương giao cho ông nhiều trọng trách. Nhiệm vụ nào ông cũng hoàn
thành, nên ông được phong chức lãnh binh; từ đó, nghĩa quân thường gọi ông là
Lãnh binh Miên. Tháng 4/1866, thực dân Pháp mang đại quân triệt hạ căn cứ
Tháp Mười. Lực lượng của ông thường xuyên bị giặc bao vây, truy lùng ráo riết;
ông cùng nghĩa quân rút sang Cao Miên ẩn náu chờ đợi thời cơ. Khi hay tin
Thiên Hộ Dương tử nạn ở Cần Giờ, nghĩa quân ngày một suy yếu, rồi tan rã, ông
trở về nước, sống ẩn dật trong chùa Thanh Lương cổ tự ở quê nhà cho đến lúc
qua đời.
|
TRƯƠNG TẤN MINH
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.260
|
94
|
VÕ VĂN MỪNG
|
Ông Võ Văn Mừng (1930 -
2018), quê làng Tân Thuận Tây,
quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc
(nay là xã Tân Thuận Tây, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Khi được tuyên
dương Anh
hùng là đảng viên Đảng Lao động
Việt Nam, Tiểu đội trưởng
Đặc công. Năm 17 tuổi, ông
tham gia du kích xã. Tính từ khi là du kích đến kết thúc cuộc kháng chiến chống
Mỹ, ông đã đánh địch 107 trận, nhiều lần bị thương nặng, trận nào cũng hoàn
|
VÕ VĂN MỪNG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.261
|
|
|
thành xuất sắc nhiệm vụ.
Đầu tháng 9/1952, ông tự nguyện
xin đi đánh diệt khẩu pháo
90 ly của Pháp đặt ở Cồn Trọi.
Qua thời gian nghiên cứu, đêm
18/10/1952, ông ôm bộc pháo lội
qua 3 chiếc tàu địch, đặt bộc phá trong đống đạn cỡ 4 - 5 trăm trái, bộc phá
nổ, cả đống đạn
pháo nổ liên tục và văng tứ
phía. Khẩu pháo bị phá huỷ, ta diệt
1 trung đội Pháp và lính Lê
Dương, làm chìm và bị thương 2 tàu. 4 giờ chiều ngày 10/9/1953, ông cùng đồng
đội hóa trang lính Cao Đài, đi xe lôi đến đồn xã Tân Tịch, cận thị xã Cao
Lãnh. Ông cùng đồng đội tràn vào bắn bọn lính đang chơi ở sân bóng chuyền, địch
lớp chết, lớp hoảng chạy tán loạn. Ta thu 12 súng, rút lui an toàn. Đêm
30/10/1953, ông cùng đơn vị đánh đồn Rạch Trâu Trắng, xã Phong Mỹ. Ông bộc
phá vượt qua mấy lớp rào tre, rào gai, hào sâu chạy vào đồn đặt bộc phá, rồi
chạy ra ngoài châm điện rồi cùng đồng đội tiến vào đồn diệt bọn còn sống sót.
Tập kết ra Bắc, đến ngày
07/5/1956, ông được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên dương danh
hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Sau đó, ông trở về Nam tham
gia đánh Mỹ nhiều trận ở Khe Sanh, Đường 9 Nam Lào, Buôn Ma Thuột… khi về hưu
với quân hàm Trung tá. Với những cống hiến to lớn của mình, ông được tặng
Huân chương Quân công hạng Ba, nhiều Huân chương chống Pháp, chống Mỹ và nhiều
phần thưởng cao quý khác.
|
|
|
95
|
LÊ VĂN MỸ
|
Ông Lê Văn Mỹ (1876 - 1946),
tên thường gọi Sáu Mỹ), quê thôn Mỹ Trà, huyện Kiến Phong, phủ Kiến Tường, tỉnh
Định Tường (nay là phường 1, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Ông tham
gia cách mạng từ đầu phong trào Đông Du ở Nam Kỳ. Năm 1907, ông cùng Lê Văn
Đáng, Lê Văn Sao xuất dương sang Nhật nhưng bị nhà đương cuộc Nhật trục xuất
về nước, bị thực dân Pháp bắt giam ở Sài Gòn giải về Vĩnh Long, lãnh án tù
hơn 1 năm. Ra tù, ông vẫn bí mật liên kết những người yêu nước, tiếp tục hoạt
động, trước sau có đến 9 lần bị Pháp bắt bỏ tù vì làm quốc sự. Cụ Phó bảng
Nguyễn Sinh Sắc về sống ở Cao Lãnh, thường gặp gỡ, bàn luận chuyện cứu nước với
ông Lê Văn Mỹ tại Kim Quang tự (chùa Lâm Vồ), ngôi chùa do bà Năm Phước (mẹ
ruột) dựng lên. Ông Lê Văn Mỹ qua đời ngày 24/3/1946.
|
LÊ VĂN MỸ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.266
|
96
|
NGUYỄN VIỆT NAM
|
Ông Nguyễn Việt Nam (1921 -
1991), quê làng Mỹ Trà, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là thành phố Cao
Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Thời gian học Đại học Y khoa ở Hà Nội, ông tham gia
phong trào sinh viên yêu nước của Tổng Hội Sinh viên Đông Dương.
Ông còn là người tham gia
sáng lập ra Tân Dân chủ đoàn mà về sau là Đảng Dân chủ Việt Nam. Ông từng là
Tổng Thư ký Hội Hướng đạo Nam Kỳ, Phó Tổng Thư ký Thanh niên Tiền Phong. Năm
1944, ông “xếp bút nghiên” về Nam, Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công ở
Sài Gòn và Nam Bộ, ông được chính quyền Cách mạng bổ nhiệm chức vụ Chính trị
viên của Sư đoàn Cộng hòa vệ binh.
Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp
đánh chiếm Sài Gòn, ông là một trong những trí thức Việt Nam đầu tiên cầm vũ
khí đánh Pháp và là người dân Nam Bộ đầu tiên bị thương trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp. Sau đó, ông phụ trách Ban Tuyên truyền Quân Dân Chánh tỉnh
Sa Đéc, kiêm Chủ nhiệm tờ báo Dân Chủ - cơ quan ngôn luận của Dân
Chánh tỉnh và là Biên tập viên của tờ Kèn Gọi Lính của Ủy ban Kháng
chiến Hành chánh Nam Bộ. Sau Hiệp định Giơnevơ, ông tập kết ra miền Bắc. Ông
là Ủy viên Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương Đảng Dân chủ Việt Nam, là Ủy
viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và là Tổng biên tập báo Độc
Lập của Đảng Dân chủ Việt Nam. Sau ngày 30/4/1975, ông trở về Nam, là đại
biểu Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó nghỉ hưu và mất năm
1991.
|
NGUYỄN VIỆT NAM
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.267
|
97
|
NGUYỄN VĂN NĂM
|
Ông Nguyễn Văn Năm (1925 - 1976),
thường gọi là Tám Mai, quê làng Bình Phước Xuân, quận Chợ Mới, tỉnh Long
Xuyên (nay là huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang). Trú quán xã Trường Xuân, huyện
Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.
Ông tham gia giành chính quyền
trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở ấp Tháp Mười, xã Mỹ Thọ, huyện Cao Lãnh
(nay là xã Trường Xuân, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp). Tháng 6/1946, ông
được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ tháng 4/1948 đến tháng 3/1964,
ông trải qua các chức vụ: Uỷ viên Ban Chấp hành Thanh niên Cứu quốc huyện Cao
Lãnh, kiêm Thư ký Ban Chấp hành Thanh niên Cứu quốc xã Tháp Mười (nay là Trường
Xuân và Mỹ Hòa), rồi Ủy viên Ban Chấp hành Thanh niên Cứu quốc tỉnh Sa Đéc;
Bí thư Huyện đoàn Thanh niên cứu quốc huyện Mộc Hóa, tỉnh Tân An; Ủy viên Thường
vụ Xã uỷ xã Tân Lập, huyện Mộc Hóa, tỉnh Tân An; Ủy viên Thường vụ Xã uỷ rồi
Phó Bí thư, Bí thư Chi bộ xã Tháp Mười, huyện Mỹ An, tỉnh Kiến Phong; Huyện ủy
viên, rồi Phó Bí thư, Bí thư Huyện ủy Mỹ An.
Tháng 9/1964, ông làm Chính
trị viên Tiểu đoàn 502 tỉnh Kiến Phong, được bổ sung Tỉnh ủy viên dự khuyết Tỉnh
ủy Kiến Phong. Đến tháng 4/1968, ông là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Tỉnh đội
trưởng Kiến Phong. Năm 1973, ông làm Phó Bí thư Tỉnh ủy Kiến Phong kiêm Tỉnh
đội Trưởng. Năm 1974, ông làm Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Sa Đéc. Cuối năm 1974, ông
bị bệnh, Trung ương Cục điều về Ban Tổ chức và đưa đi điều trị. Đến ngày
06/8/1976, ông từ trần, Do có nhiều công lao, cống hiến cho cách mạng và nhân
dân, ông đã được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Quyết
thắng hạng Nhất và Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất.
|
NGUYỄN VĂN NĂM
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.273
|
98
|
NGUYỄN VĂN NÁO
|
Ông Nguyễn Văn Náo (1914 -
2003), quê làng Long Khánh, quận Hồng Ngự, tỉnh Châu Đốc (nay là xã Long
Khánh, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp). Ông gia nhập tổ chức Nông hội đỏ năm
1936. Tháng 8/1940, ông được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông Dương. Cách mạng
thành công, ông được bầu làm Bí thư chi bộ xã. Năm 1946, ông là quận ủy viên
quận Hồng Ngự, rồi Tỉnh ủy viên tỉnh Long Châu Tiền, phụ trách Bí thư quận Hồng
Ngự (1949), Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chánh huyện Phú
Châu, tỉnh Long Châu Sa (1950), Phó Bí thư kiêm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt
và Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chánh huyện Tân Châu (1953). Sau đình chiến
là Trưởng ban Binh vận tỉnh Châu Đốc.
Năm 1957, ông là Thường vụ Tỉnh
ủy An Giang, Trưởng Phân ban Châu Đốc. Từ tháng 12/1958, là Bí thư Tỉnh ủy An
Giang. Tháng 3/1964, ông được rút về Khu 8, phụ trách Trưởng Ban An ninh Khu,
phụ trách Mặt trận, Dân vận, Nông hội, Hòa Hảo. Tháng 8/1969, ông được giao
nhiệm vụ Bí thư tỉnh An Giang lần hai. Đến tháng 6/1971, Khu ủy rút ông về phụ
trách Mặt trận, Dân vận. Sau Giải phóng ông là cán bộ Thanh tra thuộc bộ phận
phía Nam. Năm sau, ông nghỉ hưu và mất vào năm 2003.
Là người con Đồng Tháp, nhưng
cả cuộc đời ông gắn liền với phong trào cách mạng An Giang. Ông có những đóng
góp to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Công lao của ông được Đảng và
Nhà nước tặng Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương
Độc lập hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Nhì, Ba.
|
NGUYỄN VĂN NÁO
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.269
|
99
|
NGUYỄN HỮU NGHI
|
Ông Nguyễn Hữu Nghi (1894 -
1947) thường gọi là thầy Ba Dĩ, quê làng Bình Thành, tổng Phong Thạnh Thượng,
quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên (nay là xã Bình Thành, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng
Tháp).
Ông có nhiều ruộng đất cho tá
điền canh tác, nhưng rất căm ghét thực dân Pháp cướp nước. Trong thời gian Tổng
khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở địa phương, bằng nhiều cách, ông
giao nộp cho cách mạng 12 khẩu súng trường, góp phần giành chính quyền. Cách
mạng tháng Tám thành công, ông tiếp tục đóng góp cho cách mạng, hiến hàng chục
mẫu ruộng, mấy trăm ký đồng, thau, cung cấp nhiều tiền, gạo, nuôi bộ đội Vệ
quốc đoàn. Ngày 06/01/1946, ông Nguyễn Hữu Nghi được nhân dân tín nhiệm bầu
vào Quốc hội khóa I, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đơn vị tỉnh Long Xuyên.
Ngày 15/3/1947, ông bị bọn phản động ở địa phương bắt, giết tại xã nhà. Tấm
gương yêu nước, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc của ông Nguyễn Hữu
Nghi được Tổ quốc ghi công, nhân dân nhớ ơn, địa phương ghi vào sử sách.
|
NGUYỄN HỮU NGHI
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.277
|
100
|
ĐẶNG VĂN NGOẠN
|
Ông Đặng Văn Ngoạn (1820 -
1890), quê thôn Nhị Mỹ, tổng Phong Thạnh, huyện Kiến Phong, tỉnh Định Tường
(nay thuộc huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp).
Tháng chạp năm Canh tuất
(1850) khi biết tin Phật Thầy Tây An được phép nhà cầm quyền tỉnh An Giang chỉ
định cư trú ở chùa Tây An dưới chân núi Sam, ông Ngoạn tìm đến để xin quy y.
Ông được Phật Thầy uỷ cho vào núi Voi mở ruộng, lập nhà, cất chùa. Sau 14
tháng, ông được Phật Thầy gọi về núi Sam giúp Phật Thầy trong việc phát phù
trị bệnh và xem sóc chùa Tây An. Ông trở thành một trong 12 đại đệ tử “Thập
nhị hiền thủ” của Phật Thầy. Ông thu phục được hàng ngàn tín đồ, cùng
nhau khai hoang mở ruộng, xây dựng một “trại ruộng” làm nơi tu học cho
tín đồ ở tại Trà Bông. Tiếng là chùa nhưng chỉ thờ Trần Điều, không thờ cốt
Phật, không chuông mõ, không tụng kinh Phật. Năm 1874, bệnh thời khí hoành
nhiều nơi, Hương chức làng Nhị Mỹ thỉnh cầu ông chữa trị. Ông liền đem hết
năng tài kinh nghiệm cứu sống không biết bao nhiêu người. Sau khi Phật Thầy
viên tịch, thực dân Pháp đàn áp cuộc khởi nghĩa của Trần Văn Thành, những
nhân vật cốt cán của Bửu Sơn Kỳ Hương bị theo dõi, truy lùng, tín đồ phân tán
lẩn tránh… Trước tình hình đó, tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương ở khu vực Trà Bông, Nhị
Mỹ, Cao Lãnh chuyển sang đạo Tứ an hiếu nghĩa và trại ruộng Trà Bông trước
đây trở thành chùa Tứ ấn hiếu nghĩa, do Đặng Công Hứa (Chín Hứa, con Đặng Văn
Ngoạn), làm trụ trì và được dân gian gọi là chùa Ông Chín. Trong hai thời kỳ
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, chùa Ông Chín là cơ sở nuôi chứa
cán bộ, hầu hết tín đồ đều tham gia kháng chiến.
|
ĐẶNG VĂN NGOẠN
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.279
|
101
|
NGUYỄN KIM NHA
|
Ông Nguyễn Kim Nha (1914 -
1996), quê làng Kiến An, quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên (nay thuộc tỉnh An
Giang). Ông tham gia cách mạng năm 1929, vào Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930.
Năm 1931, ông tham gia thành lập Quận ủy Lâm thời quận Chợ Mới và Tỉnh ủy
Long Xuyên. Từ 1933 đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông được bổ sung
vào Liên Tỉnh ủy Hậu Giang, Ủy viên Ban Cán sự Liên tỉnh miền Tây, Bí thư Tỉnh
ủy Long Xuyên, Ủy viên Xứ uỷ Nam Kỳ kiêm Bí thư Liên Tỉnh ủy miền Tây. Thời
gian này ông bị địch bắt giam 3 lần ở Long Xuyên và nhà tù Côn Đảo. Sau Cách
mạng tháng Tám năm 1945, ông được bổ sung vào Tỉnh ủy Long Xuyên, giữ chức vụ
Phó Giám đốc Quốc gia Tự vệ cuộc, rồi Trưởng ty Công an Long Xuyên; Ủy viên
Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tổ chức, Trưởng Ban Dân vận, Chủ nhiệm Mặt trận
Việt Minh tỉnh Long Châu Sa. Tháng 01/1955, ông là Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Long
Xuyên, đến tháng 01/1957, là Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Kiến Phong. Từ năm 1962 đến
năm 1977, ông giữ các chức vụ: Bí thư Ban Cán sự Đảng bộ Việt kiều kiêm Hội
trưởng Công hội Việt kiều yêu nước ở Campuchia, Ủy viên Ban Mặt trận Trung
ương Cục Miền Nam, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Năm
1978, ông nghỉ hưu.
Ông đã được Đảng và Nhà nước
tặng thưởng Huy hiệu 50 tuổi Đảng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Kháng
chiến chống Pháp, chống Mỹ hạng Nhất. Ông qua đời năm 1996, được an táng tại
Nghĩa trang Thành phố Hồ Chí Minh.
|
NGUYỄN KIM NHA
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.281
|
102
|
NGUYỄN THANH NHA
|
Ông Nguyễn Thanh Nha (1919 -
1972), quê làng Mỹ Trà, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là phường 2, thành phố
Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp).
Cách mạng tháng Tám năm 1945
thành công, ông tham gia dân quân và vào Đồng Tháp Mười kháng chiến chống
Pháp. Vốn có tay nghề vẽ giỏi, ông được giao vẽ mẫu để khắc gỗ in bạc của
Pháp, góp phần nuôi các lớp
huấn luyện quân sự. Sau đó, ông được rút lên Khu 8 làm Trưởng ban Mỹ thuật của
Phòng Chính trị. Năm 1951, ông công tác Văn nghệ thuộc Phòng Chính trị Phân
liên khu miền Đông. Năm 1952, ông làm Phó đoàn Văn công Ngũ Yến tỉnh Long
Châu Sa. Tập kết ra Bắc, ông là thành viên sáng lập Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt
Nam (1957) và được bầu làm Phó Tổng thư ký Hội, Ủy viên Đảng đoàn Hội. Gần 10
năm trên đất Bắc là thời gian ông chuyên hoạt động sân khấu và tài năng viết
vở bật sáng, tiêu biểu là các vở cải lương “Tình riêng nghĩa cả”, “Khuất
Nguyên” do Đoàn Văn công Nam Bộ diễn và vở “Tiếng sấm Tây Nguyên” do
Đoàn Dân ca Liên khu V biểu diễn, với bút danh Thanh Nha. Đến năm 1964, ông
trở về Nam, làm Ủy viên Tiểu ban Văn nghệ miền Nam, chủ trì ngành sân khấu cải
lương Hội Văn nghệ Giải phóng. Ông sáng tác nhiều bài ca lẻ, chập cải lương
ngắn như “Lời mẹ dặn”, “Lay tỉnh bớ ông đại diện”, “Lòng mẹ”, “Xông ra diệt
Mỹ”, “Nước mắt người thân”… với bút danh Trần Ngọc.
Ông lâm bệnh nặng và qua đời
ngày 23/10/1972. Ông là người có công lớn đối với ngành sân khấu cách mạng Việt
Nam. Ông được khen thưởng Huân chương Quyết thắng hạng Nhất, Huy chương Kháng
chiến hạng Nhất và Huân chương Chiến thắng hạng Ba. Ngày 27/4/2012, Chủ tịch
nước Cộng hoà Xã hội Chủ
|
NGUYỄN THANH NHA
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.282
|
|
|
nghĩa Việt Nam tặng Gải thưởng
Nhà nước cho soạn giả Thanh
Nha với cụm tác phẩm: Chung
sức diệt thù (cải lương), Thoát
vòng đau khổ (dân ca),
Tiếng sấm Tây Nguyên (cải lương), Tình
riêng nghĩa cả (sân khấu),
Trong lửa đỏ (sân khấu).
|
|
|
103
|
NGUYỄN VĂN NHÀN
|
Ông Nguyễn Văn Nhàn (? -
1798), người huyện Vĩnh An, tỉnh
An Giang (nay thuộc Sa Đéc, tỉnh
Đồng Tháp). Ông tham gia quân đội thời các chúa Nguyễn, từng theo đi đánh dẹp
nhiều trận, làm quan đến Khâm sai tổng nhung cai cơ. Ông từng theo hầu Nguyễn
Ánh sang ở Vọng Các.
Tháng 3/1786, ông cùng Trương
Phước Luật, Nguyễn Văn Định… được Nguyễn Ánh phái đến Giang Khảm đóng 10 chiến
thuyền. Sau đó ông được phong làm Bảo hộ Chân Lạp. Tháng
3/1790, ông được Nguyễn Ánh
giao coi quản cơ Tả thuỷ, rồi coi quản Tả thuận chi thăng chánh trưởng chi
chi Tả Thuận
(5/1790). Tháng 12/1791, Nguyễn
Ánh sai Bảo hộ Nguyễn Văn
Nhàn và Cai cơ Lưu Phước Tường
sung chức chánh phó sứ sang
Xiêm để giao hiếu. Với tài biện
bác của mình, ông hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và trở về Gia Định vào tháng 2
nhuận năm sau.
Tháng 12/1792, giặc Đồ Bà cướp
Hà Tiên, ông đem quân đánh đuổi được. Giặc nghe đến uy danh của ông liền trốn
xa. Mùa xuân năm 1794, ông được giao coi doanh Hậu thủy, rồi đến tháng
9/1795, ông được giao nhiệm vụ đem các thứ phẩm vật đến Bắc Tầm Bôn ở Nam
Vang tặng cho vua Chân Lạp. Sau đó, ông nhiều lần được cử đi sứ sang Xiêm. Đến
năm 1798 ông bệnh
chết, được tặng Chưởng cơ, được
thờ vào 2 miếu Hiển trung và
Trung hưng công thần.
|
NGUYỄN VĂN NHÀN
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.286
|
104
|
NGUYỄN HỮU NHÂN
|
Ông Nguyễn Hữu Nhân (? - ?),
người Tống Sơn (Thanh Hóa)
tham chính dưới triều chúa Vũ
Vương Nguyễn Phước Khoát (còn gọi là Chúa Vũ, 1714 - 1765), tùng sự dưới quyền
Thống suất Trương Phước Du và Nghi biểu hầu Nguyễn Cư Trinh. Ông
|
NGUYỄNHỮUNHÂN
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.287
|
|
|
là người thông minh, mưu trí,
gan dạ, quả cảm, từng giúp Nghi
biểu hầu Nguyễn Cư Trinh lập
nhiều công trạng trong công cuộc khai hoang mở cõi và bảo vệ vùng đất phương
nam. Năm 1732,
ông phụng mạng vào châu Định
Viễn, lãnh chức Cai đội dinh
Long Hồ lo công cuộc mở mang
và bảo vệ phương Nam.
Năm 1757, khi tiếp thu vùng đất
Tầm Phong Long (Kompong
Luông), Nguyễn Cư Trinh chia
đất này ra ba đạo: Châu Đốc (ở Hậu giang), Tân Châu (ở Tiền giang) và Đông Khẩu
(phía tây bắc Long Hồ, nằm giữa sông Tiền và sông Hậu) - đây là vùng đất mới,
có vị trí quan trọng, là đầu mối giao lưu đường thủy từ nhiều nơi khác đến,
chợ Sa Đéc là nơi gặp gỡ giao lưu khá tấp nập của nhiều thương khách là người
nước ngoài. Song song với việc xây dựng lỵ sở cai trị, thiết lập bộ máy hành
chánh, ông áp dụng luật pháp nghiêm minh, nghiêm trị kẻ gian tế, bảo đảm an
ninh trật tự, tạo điều kiện chợ Sa Đéc ngày một phát triển. Chính vì vậy mà
vào đầu thế kỷ XIX chợ Sa Đéc trở thành một trong vài trung tâm thương mại sầm
uất ở Nam Bộ. Vùng đất đạo Đông Khẩu (nay bao gồm các huyện Châu Thành, thành
phố Sa Đéc, huyện Lai Vung và huyện Lấp Vò của tỉnh Đồng Tháp), từng bước
phát triển. Nơi đây lưu dân người Việt, người Hoa khai thác từ lâu, nay chính
thức thuộc chủ quyền người Việt. Chẳng bao lâu, trên địa bàn của đất Đông Khẩu
Đạo, dân cư tập trung ngày một đông, thành lập được trên 60 thôn, phường.
Nhân hoà hầu Nguyễn Hữu Nhân có những chiến công nổi bật chống quân Xiêm xâm
lược, góp phần bảo vệ biên cương. Với những công lao to lớn, nên khi qua đời,
ông được triều đình truy tặng tước hầu, Nhân hoà hầu, với danh hiệu “Tiền Cai
cơ Đông khẩu đạo Đặc tiến Phụ quốc Sĩ hòa hầu” và được nhân dân biết ơn, tôn
kính, lập đền thờ ở thôn Vĩnh Phước, ngày đêm hương khói vọng ngưỡng. Năm
Minh Mạng thứ 3 (1822), nhà vua có sắc gia phong cho tước “Quảng ân, Thực
đức trung đẳng thần
|
|
|
|
|
chuẩn cho thôn Vĩnh Phước phụng
tự. Tờ sắc quý báu này hiện
được lưu giữ cẩn thận tại
đình Vĩnh Phước.
Sa Đéc được công nhận là cấp
thành phố, là do công sức và cả máu xương của nhiều thế hệ đóng góp. Trong
đó, Nhân hoà hầu Nguyễn Hữu Nhân là người có công thiết lập nền móng ban đầu,
xứng đáng được tôn vinh là Tiền hiền của thành phố Sa Đéc.
|
|
|
105
|
PHẠM THỊ NHỊ
|
Bà Phạm Thị Nhị, sinh năm
1918, quê làng Hòa An, quận Cao
Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là thành
phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Bà lập gia đình với ông Lê Văn Lầu, sinh năm
1919, quê làng Mỹ Trà, quận Cao Lãnh (nay là thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng
Tháp). Gia đình nghèo, sống
nghề ruộng.
Sau cuộc Tổng khởi nghĩa
Tháng Tám 1945, bà Phạm Thị Nhị làm liên lạc cho quận, hằng ngày giấu thơ,
tài liệu v.v. trong giỏ trầu, lội bộ đưa đi các xã. Nhanh nhẹn, mưu trí, nhiều
năm làm liên lạc, bà luôn qua mặt bọn địch, không một lần sơ suất. Với công
lao của bà và gia đình nên bà được nhà nước phong tặng mẹ Việt Nam anh hùng
ngày 17 tháng 04 năm 1994, bà mất năm
2009.
|
PHẠM THỊ NHỊ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, năm 2005.
|
106
|
NGUYỄN TỒN NHƠN
|
Ông Nguyễn Tồn Nhơn (1868 -
1926), quê thôn An Bình, huyện
Kiến Phong, tỉnh Định Tường
(nay là xã An Bình, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Năm 1907, ông tham gia
phong trào Đông Du và Duy Tân. Ông và ông cử Nguyễn Bá Trác là hai nhân vật
hoạt động hăng say trong hai phong trào ở làng An Bình và khu vực chung
quanh. Ông quan hệ với ông Nguyễn Quang Diêu, một lãnh tụ của phong trào Đông
Du miền Nam, thường bí mật đến hội họp ở chùa Linh Sơn (Mỹ Trà).
Ông lãnh nhiệm vụ chiêu mộ
thanh niên tham gia xuất dương du học và vận động ủng hộ tài chính cho phong
trào. Ông bị chính quyền thực dân theo dõi, khám xét nhà và bắt vào tháng
11/1910. Sau hơn một tháng
giam cầm ông ở khám đường Vĩnh
Long, thực dân điều tra nhưng
không tìm ra manh mối gì, đành
|
NGUYỄN TỒN NHƠN
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.294
|
|
|
phải thả ra. Đến năm 1912, ông
tiếp tục hoạt động lại và có quan
hệ rộng hơn với một số nhà
yêu nước trong Đông Kinh Nghĩa
Thục bị thực dân Pháp an trí
hoặc trốn vào Nam, như Võ Hoành ở Sa Đéc, Nguyễn Quyền ở Bến Tre, Nguyễn Xuân
Côn ở Đốc
Vàng… Đến năm 1926, ông lâm bệnh
và từ trần.
|
|
|
107
|
NGUYỄN VĂN NHƠN
|
Ông Nguyễn Văn Nhơn (1753 -
1822), quê làng Tân Đông,
huyện Vĩnh An (nay thuộc xã
Tân Khánh Đông, thành phố Sa
Đéc, tỉnh Đồng Tháp). Đầu năm
1774, ông đầu quân làm Đội trưởng dưới trướng của cai bạ Nguyễn Khoa Thuyên.
Khi chúa Nguyễn Phúc Thuần đi tuần du miền Nam, Nguyễn Khoa Thuyên theo vô
Gia Định, ông là thuộc viên của Tống Phước Hiệp đóng ở Bình Khang, rồi lại
theo Tống Phước Hòa giữ đất Ô Cam. Kể từ đó, cho đến khi qua đời, ông đã có
nhiều công trận phò giúp các chúa Nguyễn và là một vị quan tận tụy trong hai
triều vua Gia Long, Minh Mạng. Ông cũng là người từng hai lần giữ chức Tổng
trấn Gia Định thành (1808, 1811).
Năm 1822, ông qua đời, được
truy tặng tước Quận công, cho tên Thụy là Trung Cấn, vua cho
nghỉ triều ba ngày, sai quan ban tuần tế, vua Minh Mạng bảo Trịnh Hoài Đức rằng:
“Nguyễn Văn Nhơn là đại thần huân cựu, trung thành, cẩn hậu, bất hạnh chết
đi lòng trẩm rất thương…”. Năm 1831, Minh Mạng truy tặng Tá vận công
thần đặc tiến tráng vũ tướng quân, hữu quân đô thống phủ chưởng phủ sự, đổi
tên là Mục Hiến, phong là Kinh
môn Quận công.
|
NGUYỄN VĂN NHƠN
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.295
|
108
|
LÊ VĂN NHUNG
|
Ông Lê Văn Nhung (1916 -
1941), bí danh Lý Hồng Thanh, Tư
Ú, quê làng Tân Huề, quận Hồng
Ngự, tỉnh Châu Đốc (nay là
xã Tân Huề, huyện Thanh Bình,
tỉnh Đồng Tháp). Ông tham gia cách mạng năm 14 tuổi. Năm 1932, ông bị địch bắt
cùng cha và
3 người nữa với một số tài liệu
và 3 bàn in. Tháng 5/1933, tại
Sài Gòn, thực dân Pháp xử ông
một năm tù về tội “phá rối trị
an”.
|
LÊ VĂN NHUNG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.296
|
|
|
Ra tù, ông là đảng viên Cộng
sản Đông Dương, bắt tay ngay vào
công tác, gây dựng, củng cố lại
phong trào cách mạng. Trong
cao trào vận động Dân chủ,
ông lấy bí danh là Lý Hồng Thanh. Tháng 8/1936, ông công tác tại Tỉnh ủy Châu
Đốc. Tháng
01/1937, ông tổ chức lễ truy
điệu đồng chí Trần Văn Lẫm (Bí thư Quận ủy Tân Châu - Hồng Ngự). Năm 1938,
ông được cử
vào Ban Chấp hành Liên Tỉnh ủy
Cần Thơ. Năm 1939, Liên
Tỉnh ủy cử ông về công tác quận
Châu Thành, tỉnh Rạch Giá. Tại đây, ông cùng địa phương ra sức củng cố và xây
dựng các chi bộ, cơ sở đảng toàn quận và thành lập Quận ủy Châu Thành (cuối
năm 1939). Cuối năm 1939, ông làm Bí thư Tỉnh ủy Châu Đốc, rồi Bí thư Tỉnh ủy
Cần Thơ (9/1940). Cuối tháng 11/1940, Tỉnh ủy Cần Thơ đang họp thì bị địch
bao vây bắt nhiều người, trong đó có ông. Ông bị giải lên Sài Gòn, đánh đập
khảo tra tàn nhẫn và kết án tử hình. Ngày 03/6/1941, địch đưa ông và
Ngô Hữu Hạnh về Cần Thơ để xử bắn, uy hiếp tinh thần nhân dân, ngày hôm sau,
chúng đưa hai ông ra pháp trường xử bắn. Hai người đòi không bịt mắt để nhìn
quê hương, đồng bào và nhắn nhủ: “Đồng chí, đồng bào hãy nối tiếp sự nghiệp
của chúng tôi đang dang dở”.
|
|
|
109
|
NGUYỄNVĂN NHƯỢNG
|
Ông Nguyễn Văn Nhượng (1913 -
2006), bí danh Hùng Việt, quê làng Tân Đông, tổng An Thanh Hạ, quận Châu
Thành, tỉnh Sa Đéc (nay thuộc xã Tân Khánh Đông, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng
Tháp). Ông tham gia Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tháng 01/1946, ông làm Chủ
tịch Ủy ban Cách mạng xã, sau đó làm Trung đội Trưởng, Trung đội B, Đại đội
1030, Trung đoàn 115 (5/1947).
Tháng 9/1947, ông được kết nạp
vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1950, ông làm cán bộ tác huấn Ban Tham mưu
Trung đoàn, sau đó làm cán bộ tác huấn Phòng Tham mưu Quân Khu 8. Từ tháng
12/1950 đến tháng 10/1953, ông làm Đại đội trưởng Đại đội 947, Tiểu đoàn 311,
Trung đoàn Đồng Tháp, được cử làm Phó Bí thư chi bộ, rồi Huyện đội trưởng,
Huyện ủy viên huyện Tân Hồng, tỉnh Long Châu Sa. Năm 1954, tập kết ra Bắc.
Tháng 10/1961, ông công tác tại Sư đoàn 338, làm cán bộ Phòng Chính trị Sư
đoàn, được phong quân hàm Đại úy. Cuối năm 1965, ông làm Trưởng ban Chính trị
Tỉnh đội Kiến Phong, được bổ sung vào Tỉnh ủy. Đến tháng 01/1974, ông làm
Chính uỷ đoàn 652, Phó Chủ nhiệm Cục Chính trị Quân khu. Ngày 30/12/1976, ông
làm Chính uỷ Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Tháp, được bổ sung vào Ban Thường vụ
Tỉnh ủy, được bầu vào Quốc hội khóa VI. Năm 1979, ông được phong quân hàm Thượng
tá. Năm 1980, ông nghỉ hưu về sống ở quê nhà xã Tân Khánh Đông, thị xã Sa
Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
Ông được Đảng và Nhà nước tặng
Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng, Huân chương Quân công hạng Ba, Huân chương Quyết
thắng, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Giải phóng, Huân chương
Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba.
|
NGUYỄNVĂNNHƯỢNG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.298
|
|
|
|
|
|
110
|
TRẦN THỊ NHƯỢNG
|
Bà Trần Thị Nhượng (1896 - 1988),
tên gia đình là Trần Thị Ngài, thường gọi Sáu Ngài, quê làng Mỹ Trà, quận Cao
Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là phường 2, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp).
Ngày 15/6/1928, bà được kết nạp
vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Năm 1929, bà được kết nạp vào An Nam Cộng
sản Đảng, năm 1930 làm Bí thư Chi bộ liên xã. Tháng 12/1930, bà bị Phủ Mẫn quận
Cao Lãnh khám xét, bắt tại nhà và giải bà lên Khám Lớn Sài Gòn, tra tấn dã
man. Cuối năm 1931, bà bị địch kêu án 8 tháng tù treo, bị quản thúc ở Cao
Lãnh rồi Sa Đéc. Năm 1933 - 1934, bà cùng chồng lên Đốc Vàng, vừa sản xuất vừa
gây dựng cơ sở cách mạng. Năm 1939, bà bị giặc bắt quản thúc tại nhà số 115,
đường Vĩnh Phước, Sa Đéc cùng với hai con nhỏ. Bà tiếp tục hoạt động cách mạng
và địch bắt kêu án 8 tháng tù giam. Ra tù bị quản thúc ở Sa Đéc, nhưng bà tìm
mọi cách móc nối với cơ sở, tích cực đi tuyên truyền vận động cách mạng, lập
lại Chi bộ, cử người đi liên hệ tìm lãnh đạo Đảng cấp trên.
Được bà Nguyễn Thị Thập giúp
đỡ hướng dẫn, bà trở về Cao Lãnh gặp các đồng chí: Cương, Nhạc, Lăng, Lương…
bàn và quyết định thành lập Tỉnh ủy lâm thời trong tháng 3/1945. Bà được phân
công làm Bí thư Tỉnh ủy, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh. Bà trực tiếp chỉ huy
quần chúng khởi nghĩa trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi tại
Sa Đéc. Từ giữa năm 1946 đến cuối năm 1949, bà làm Bí thư Tỉnh ủy Sa Đéc, sau
đó được điều động về làm công tác Kinh tế - Tài chính của Trung ương Cục, rồi
công tác Phụ nữ Nam Bộ đến ngày đình chiến 1954. Tập kết ra miền Bắc, năm
1955, bà làm Phó Giám đốc trại Nhi đồng. Từ năm 1959 - 1963, bà là Hiệu trưởng
Trường Học sinh miền Nam. Năm 1964, bà là Phó Giám đốc Trường Cán bộ Phụ nữ
Trung ương. Năm 1966, bà nghỉ hưu và mất năm 1988.
Cuộc đời và hoạt động của bà
Trần Thị Nhượng đã nêu tấm gương sáng về phẩm chất, đạo đức cách mạng trung
kiên của người cán bộ, đảng viên, suốt đời thuỷ chung son sắt với Đảng và
nhân dân. Bà đã được tặng thưởng Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng, Huân chương Hồ
Chí Minh.
|
TRẦN THỊ NHƯỢNG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.300
|
111
|
BÙI VĂN NỔI
|
Ông Bùi Văn Nổi (1947 -
1972), tên thường gọi Hùng Nổi, quê xã Long Hưng, quận Lấp Vò, tỉnh Long
Xuyên (nay là xã Long Hưng, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp).
Năm 17 tuổi, ông tình nguyện
đầu quân vào Quân y huyện Lấp Vò. Ông là một trong những người có kỹ thuật
đào hầm bí mật, gài lựu đạn giỏi của đơn vị Quân y Lấp Vò lúc bấy giờ. Tháng
8/1964, ông vinh dự được kết nạp Đảng. Ngày 31/101966, địch sử dụng một chi
đoàn xe bọc thép M113 và hơn một đại đội bộ binh mở cuộc càn quét đánh phá khu
căn cứ của ta ở vùng Long Hưng. Khi cách điểm đóng quân của Quân y huyện Lấp
Vò khoảng 500m, địch bắn xối xả và tiến quân vào. Ông cùng đồng chí Nguyễn Thị
Phiến (Võ Thị Hồng) với hơn 10 quả lựu đạn tự tạo và hệ thống chông mìn, cạm
bẫy đã bẻ gãy hoàn toàn cuộc càn quét lớn của địch: cháy 1 xe M113, hỏng 1
chiếc, diệt 19 tên địch, bảo vệ được vùng căn cứ và bảo vệ thương binh an
toàn, đồng chí Hồng hy sinh còn ông bị thương nặng. Sau lần chiến đấu dũng cảm
đó, ông vinh dự được cử đi dự Đại hội Anh hùng Chiến sỹ thi đua Quân Khu. Năm
1972, khi ông đang là tổ trưởng tổ chính trị huyện đội, kiêm phụ trách công
tác thanh niên, trong chuyến tham gia đoàn vận chuyển lương thực, vũ khí, thuốc
men trở về, bị địch phục kích ông, cùng nhiều đồng chí hy sinh anh dũng.
Trong suốt quá trình chiến đấu và phục vụ chiến đấu, ông đã diệt 16 tên địch,
làm bị thương 13 tên, phá huỷ 1 xe M113, góp phần cùng tập thể Quân y Lấp Vò
điều trị hơn 30 thương binh trọng thương và 5 người dân, riêng ông đã gài
trên 70 quả lựu đạn và mìn, đào 86 hầm bí mật bảo vệ thương binh. Ông đã được
tặng danh hiệu “Dũng sỹ diệt cơ giới” và nhiều bằng khen, giấy khen.
Với thành tích đặc biệt xuất
sắc trong chiến đấu, ngày 01/6/2007, Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam đã truy tặng Liệt sỹ Bùi Văn Nổi danh hiệu Anh hùng Lục lượng vũ
trang nhân dân.
|
BÙI VĂN NỔI
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.302
|
112
|
PHAN VĂN ON
|
Ông Phan Văn On (1905 - 1947),
bí danh Trường Xuân, quê Quảng Ngãi. Ông tham gia hoạt động cách mạng năm
1938 tại quê nhà. Khi thực dân Pháp phát hiện, để tránh đàn áp, ông cùng vợ
con vào Nam sinh sống tại chợ Tân An (Long An) để tiếp tục hoạt động cách mạng.
Trước Cách mạng Tháng 8/1945, ông tự nguyện đem tất cả máy móc của gia đình
vào Kinh Kho của tỉnh Long An, cùng anh em thành lập cơ sở sản xuất vũ khí
thô sơ. Khi thị xã Tân An bị thực dân Pháp tái chiếm, ông cùng hai người con
và người bạn là Nguyễn Văn Sơn chuyển toàn bộ phương tiện máy móc cơ khí vào
chiến khu Đồng Tháp Mười tiếp tục sản xuất vũ khí, lần lượt nhập với cơ sở sản
xuất vũ khí của Thủ Thừa - một bộ phận sản xuất vũ khí của Chợ Lớn và xưởng sản
xuất của tỉnh Mỹ Tho do thầy giáo Phạm Văn Lộ phụ trách. Ông chế tạo nhiều loại
vũ khí cung cấp cho lực lượng vũ trang Khu 8. Đặc biệt, ông chế tạo được loại
lựu đạn có dây giật bằng dây bố, hiệu quả sát thương rất cao, làm cho quân địch
khiếp sợ và được bộ đội thời đó đặt tên là lựu đạn Trường Xuân. Hàng ngày,
ông chế tạo thêm 80 viên đạn súng Mút giao cho Khu trưởng Trần Văn Trà.
Khi thành lập Binh Công xưởng
I, Khu 8, ông phụ trách sản xuất lựu đạn có đuôi, nạp bằng thuốc đen và trực
tiếp vô thuốc hoàn thành quả lựu đạn. Ngày 20/9/1947, tại kinh Cây Vông (trên
Gãy Cờ Đen, nay thuộc xã Trường Xuân) trong khi pha chế thuốc nổ đã xảy ra
cháy, lúc này trên ghe còn nhiều lựu đạn thành phẩm, ông cùng hai con nhận
chìm ghe để tránh gây thương vong cho anh em công nhân. Ông và hai con cùng
người bạn thân đã bị bỏng nặng và hy sinh.
Để ghi nhận công lao của ông
đối với cách mạng và nhân dân, ngày 21/10/2014, Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam đã truy tặng Liệt sỹ Phan Văn On (Trường Xuân) danh hiệu
cao quý: Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
|
PHAN VĂN ON
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.304
|
113
|
NGUYỄN VĂN PHÀN
|
Nguyễn Văn Phàn (1916 -
2010), tên thường gọi Sáu Chung, quê làng Tân Thuận Tây, quận Cao Lãnh, tỉnh
Sa Đéc (nay là xã Tân Thuận Tây, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Ông
tham gia cách mạng năm 1936. Ngày 25/8/1945, ông trực tiếp lãnh đạo lực lượng
vũ trang và nhân dân xã khởi nghĩa giành chính quyền ở quận Cao Lãnh và chi
viện giành chính quyền ở tỉnh lỵ Sa Đéc.
Ông là Huyện ủy viên, Huyện đội
trưởng huyện Cao Lãnh (1948), Tỉnh đội phó, Ủy viên Liên Chi uỷ Tỉnh đội Sa
Đéc (1950), sau đó làm Tỉnh đội phó tỉnh Đồng Tháp, Huyện đội trưởng huyện
Cao Lãnh rồi Huyện đội trưởng huyện Tân Hồng, tỉnh Long Châu Sa. Sau đình chiến
(tháng 7/1954), ông là Huyện ủy viên Huyện ủy Hồng Ngự và là cán bộ Binh vận
tỉnh, đại diện Mặt trận Liên - Việt tỉnh phụ trách Hòa Hảo vận. Năm 1957, ông
làm Bí thư Huyện ủy Hồng Ngự. Ông cùng Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 502 và đơn vị Bảy
Phú, Năm Bình phục kích đánh bại cuộc hành quân cấp trung đoàn của địch, tiêu
diệt gọn 2 đại đội và Ban Chỉ huy tiểu đoàn địch tại Giồng Thị Đam và Gò Quản
Cung vào ngày 26/9/1959. Cuối năm 1959, ông là Tỉnh ủy viên, Chính trị viên,
Trưởng ban Cán sự Tỉnh đội Kiến Phong, rồi Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chính trị viên
Tỉnh đội Kiến Phong (1961).
Năm 1963, ông là Chính uỷ Hậu
cần Quân khu 8 (Trung Nam Bộ), Phó Bí thư Đảng uỷ Phòng Hậu cần. Đầu năm
1971, ông làm Giám đốc Sở Thương binh Xã hội Khu 8. Tháng 02/1976, ông được
rút lên cơ quan Thương binh Xã hội miền Nam và Bộ Thương binh Xã hội. Tháng
02/1979, ông trở về tỉnh nhà nhận nhiệm vụ Chủ nhiệm Công ty chế biến Lâm sản
tỉnh Đồng Tháp. Năm 1982, ông là Trưởng ty rồi Giám đốc Sở Lâm nghiệp Đồng
Tháp đến năm 1985. Ông đã được tặng thưởng Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng, Huân
chương Độc Lập hạng Nhì, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất.
|
NGUYỄN VĂN PHÀN
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.306
|
114
|
NGUYỄN VĂN PHẤN
|
Nguyễn Văn Phấn (1942 -
1991), tên thường dùng Tư Phấn, quê xã Thường Phước, quận Hồng Ngự, tỉnh Châu
Đốc (nay là xã Thường Phước 1, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp). Ông tham gia
cách mạng năm 1960, vào Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam năm 1965.
Năm 1963, ông được bổ sung
vào đơn vị bảo vệ Tỉnh ủy Kiến Phong (C279) và làm cận vệ Bí thư Tỉnh ủy.
Trong suốt 12 năm công tác tại đơn vị C279, ông đã hàng chục lần bảo vệ Bí
thư Tỉnh ủy đi công tác, phục vụ Tỉnh ủy họp hội an toàn; tham gia bao vây tấn
công đồn bót địch và chống địch càn quét đánh phá căn cứ. Suốt từ năm 1963 đến
ngày 30/4/1975, ông đã chỉ huy và trực tiếp đánh địch chết và bị thương 208
tên (có 75 lính Mỹ), bắt 30 tên, phá huỷ 7 xà lan và ghe tàu quân sự, bắn rớt
2 máy bay trực thăng… Sau ngày 30/4/1975, ông làm Trưởng Phòng Cảnh sát bảo vệ,
rồi Phó Chỉ huy Trưởng Ban Chỉ huy Cảnh sát, thuộc Công an tỉnh (1981). Tháng
6/1985, ông làm Trưởng Công an huyện Tháp Mười, cấp bậc Đại tá. Đến tháng
4/1990, ông nghỉ hưu và mất năm 1991.
Ông đã được tặng thưởng Huân
chương Chiến công hạng Ba, Huân chương Chiến sĩ Giải phóng, Danh hiệu Dũng sĩ
diệt Mỹ cấp 2, nhiều bằng khen, giấy khen. Ngày 21/01/1997, ông được Chủ tịch
nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực
lượng vũ trang nhân dân.
|
NGUYỄN VĂN PHẤN
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.313
|
115
|
NGUYỄN VĂN PHÁT
|
Ông Nguyễn Văn Phát (1909 - 1982),
quê làng Hội An, quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (nay là xã Hội An Đông, huyện Lấp
Vò, tỉnh Đồng Tháp). Tháng 6/1927, ông đi Quảng Châu (Trung Quốc) dự khoá huấn
luyện do Tổng bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên tổ chức và được kết nạp vào Hội
tháng 11/1927 tại đây.
Gần nửa thế kỷ đấu tranh vì độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ông được Đảng và Nhà nước giao các nhiệm vụ
quan trọng: Năm 1928 - 1929: Bí thư Tỉnh bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên tỉnh
Sa Đéc, giáo viên trường Sa Đéc Học đường, làm biên tập, in và phát hành Báo Công
nông binh và Tập san Bôn-xê- vích vùng Sài Gòn - Chợ Lớn; bị địch
bắt giam ở Côn Đảo (1929 - 1934); công tác trong phong trào vận động Dân chủ
của Đảng ở Vĩnh Long - Sài Gòn (1935 - 1940); Ủy viên Ban lãnh đạo khởi nghĩa
ở Vĩnh Long (6/1945 - 1946); Chủ tịch Ủy ban Hành chánh rồi Chủ tịch Ủy ban
Kháng chiến tỉnh Vĩnh Long (8/1945 - 02/1946); Tỉnh ủy viên, Ủy viên Ban Xã hội
tỉnh Vĩnh Long, Đại biểu Quốc hội Khoá đầu tiên, đơn vị bầu cử tỉnh Vĩnh Long
(1946 - 1947); Tổng Thư ký Mặt trận Liên - Việt Nam Bộ, Ủy viên Ban Mặt trận
Trung ương Cục miền Nam (1948 - 1953); tham tán tại Đại sứ quán Việt Nam tại
Bungari, Đại sứ Việt Nam tại Algerie, Vụ Trưởng vụ Nghiên cứu tư liệu Bộ Ngoại
giao. Ông là Đại biểu Quốc hội các khoá I, II và III (1957 - 1971). Tháng
9/1971, ông nghỉ và mất năm 1982. Ông được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng
Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huy hiệu Thành đồng Tổ quốc.
|
NGUYỄN VĂN PHÁT
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.308
|
116
|
VÕ VĂN PHÁT
|
Ông Võ Văn Phát (1918 -
1989), tên khai sinh là Võ Minh Chiếu (bí danh Võ Phát, Hai Đen, Tư Võ), quê
xã Mỹ An Hưng, tổng An Thạnh Thượng, huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (nay là xã
Mỹ An Hưng B, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Ông tham gia cách mạng từ năm
1936 trong phong trào Đông Dương Đại hội của Mặt trận Dân chủ tại làng Mỹ
Luông (Long Xuyên). Ngày 10/4/1945, ông được kết nạp Đảng tại Chi bộ Mỹ An
Hưng và được cử làm Bí thư Chi bộ xã Mỹ An Hưng. Tháng 10/1945, ông là Tỉnh ủy
viên, Bí thư Quận ủy Lai Vung, rồi Bí thư Thị xã uỷ thị xã Sa Đéc (01/1948),
Bí thư Tỉnh ủy Sa Đéc (9/1949). Từ tháng 11/1951 đến tháng 12/1952, ông làm
Bí thư Tỉnh ủy Long Châu Sa, kiêm Chính trị viên Tỉnh đội Long Châu Sa, Khu ủy
viên dự khuyết Khu 8.
Sau Hiệp định Giơnevơ, ông phụ
trách Phó Ban Tài Chính Xứ uỷ Nam Bộ. Năm 1960, ông là Chánh Văn phòng Ban
Quân sự Miền (C-99) và đến giữa năm 1960, là Phó Văn phòng Trung ương Cục miền
Nam. Từ năm 1961, ông làm Cục phó Cục Hậu cần Bộ Tư lệnh Miền B2, quân hàm Đại
tá (1964). Năm 1966, ông được giao kiêm trưởng Đoàn 17 (Cục Hậu cần Miền B2),
hoạt động hậu cần trên đất Campuchia. Tháng 12/1974 đến 15/3/1975, ông là trưởng
đoàn cán bộ Cục Hậu cần Miền B2. Tháng 12/1975, ông làm Tổng cục trưởng Tổng
Cục Lương thực miền Nam, thuộc Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam.
Từ tháng 6/1976, ông làm Thứ
trưởng Bộ Lương thực và Thực phẩm, kiêm tổng Giám đốc Tổng Công ty Lương thực
miền Nam. Ngày 01/01/1983, ông nghỉ hưu và mất năm 1989. Ông đã được Đảng và
Nhà nước tặng thưởng Huy hiệu 40 tuổi Đảng,Huân chương Độc lập hạng Nhất,
Huân chương Quân công hạng Nhì, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất,
Huân chương Chiến công hạng Nhất và nhiều huân, huy chương khác.
|
VÕ VĂN PHÁT
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.310
|
117
|
LÊ HỮU PHỈ
|
Ông Lê Hữu Phỉ (1913 - 1993),
còn có tên là Lê Hồng Phúc, tên thường dùng Sáu Thân, bí danh Tân Văn, quê xã
Tân Bình Xuyên, huyện Thốt Nốt, tỉnh Long Xuyên (nay là xã Bình Thạnh Trung,
huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp).
Ông tham gia cách mạng tháng
4/1945 và được kết nạp vào Đảng tháng 9/1945. Từ năm 1946 đến 19954, ông giữ
các chức vụ: Bí thư chi bộ, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính xã Tân
Bình Xuyên, Chánh Văn phòng Huyện ủy Chợ Mới, Huyện ủy viên Huyện ủy Lai
Vung, tỉnh Long Châu Sa, Trưởng Công an huyện Lai Vung. Từ sau Hiệp định
Giơnevơ đến đầu năm 1975, ông giữ các chức vụ: Bí thư Huyện ủy Lấp Vò; Bí thư
Huyện ủy Bình Minh; Tỉnh ủy viên, Trưởng Ban Kinh tế tài chính tỉnh Vĩnh
Long; Thường vụ Tỉnh ủy, phụ trách Ban Kinh tế tài chính và chỉ đạo huyện Cái
Nhum; Trưởng phân ban Sa Đéc; Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Vĩnh Long…
Sau ngày 30/4/1975, ông là Chủ
tịch Ủy ban quân quản tỉnh Vĩnh Long. Sau đó làm Bí thư Đảng uỷ Khối Dân
chính Đảng tỉnh Vĩnh Long (3/1976), rồi công tác tại Ban Cải tạo giao thông
và thương nghiệp tỉnh Cửu Long (7/1977). Năm 1983, ông nghỉ hưu và mất
năm1993. Ông đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng,
Huân chương Quyết thắng hạng nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân
chương Giải phóng hạng Nhất.
|
LÊ HỮU PHỈ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.315
|
118
|
NGUYỄN THỊ PHIẾN
|
Bà Nguyễn Thị Phiến (1945 -
1966), tên thường dùng là Võ Thị Hồng, quê xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò, tỉnh
Đồng Tháp). Năm 1963 - 1964, bà làm giao liên công khai cho xã Long Hưng. Năm
1965, hoạt động công khai bị lộ, bà được đưa vào công tác ở đơn vị Quân y huyện
Lấp Vò. Tháng 5/1966, bà cùng đơn vị chiến đấu chống địch càn quét vào căn cứ,
diệt 2 tên, làm bị thương 2 tên, bảo vệ an toàn cho thương binh. Trận chiến đấu
anh dũng và quyết liệt nhất của bà vào trưa ngày 25/10/1966. Một chi đoàn xe
bọc thép M113 gồm 15 chiếc, chở hơn 100 lính, đánh vào Quân y Lấp Vò đang
đóng tại Trà Bông (Long Hưng). Trạm Quân y chỉ có thương binh và 2 nhân viên
là bà và Bùi Văn Nổi. Địch dùng hỏa lực mạnh dọn đường rồi tiến vào. Trận chiến
diễn ra rất ác liệt, một trái lựu đạn của địch rớt ngay công sự, bà nhanh tay
chụp lấy ném trả lại. Cuối cùng, có một trái lọt vô và nổ trong công sự làm
bà hy sinh, còn Bùi Văn Nổi thì mất một cánh tay. Trong trận này, Bà và Bùi
Văn Nổi đã đánh lui 6 đợt tấn công của địch, diệt 19 tên, đánh hư 3 xe M113,
bảo vệ được căn cứ và thương binh.
Ngày 20/12/1994, Liệt sĩ Nguyễn
Thị Phiến được Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng
danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
|
NGUYỄN THỊ PHIẾN
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.319
|
119
|
NGUYỄN VĂN PHỐI
|
Ông Nguyễn Văn Phối (1916 -
1966), quê thôn Mỹ Nghĩa, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là xã Mỹ Ngãi,
thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp).
Từ năm 1936 đến năm 1939, ông
tham gia phong trào Đông Dương Đại hội và được kết nạp vào Đảng Cộng sản năm
1939. Tháng 3/1947, ông làm Bí thư Huyện ủy Cao Lãnh, rồi Ủy viên Ban Thường
vụ Tỉnh ủy Sa Đéc, phụ trách Hội Nông dân tỉnh (8/1948). Từ năm 1951, ông là
Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chánh tỉnh. Cuối năm 1952, ông làm Phó
Bí thư/Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chánh tỉnh Long Châu Sa cho đến năm 1954.
Từ cuối năm 1954 đến đầu năm 1960, ông là Bí thư Tỉnh ủy các tỉnh: Sa Đéc,
Long An, Kiến Phong và là Ủy viên Liên Tỉnh ủy (Khu ủy viên Khu 8).
Sau cuộc Đồng khởi năm 1960,
ông được bổ sung vào Ban Thường vụ Khu uỷ. Khi Bộ tư lệnh Quân Khu 8 thành lập,
ông làm Phó Chính uỷ Quân Khu 8. Cuối năm 1961, ông làm Chính uỷ Đoàn 962,
nhiệm vụ chính là tổ chức các bến đỗ ở Bến Tre, Trà Vinh để tiếp nhận vũ khí
vận chuyển từ Bắc vào Nam bằng đường biển. Ngày 16/6/1966, trong một chuyến
đi kiểm tra từ Bến Tre qua Trà Vinh, tàu của ông bị tàu địch phát hiện bao
vây ở cửa biển Cổ Chiên, gần vàm Khâu Băng thuộc xã Thạnh Phong, huyện Thạnh
Phú, tỉnh Bến Tre, ông đã nổ mìn phá tàu, hy sinh anh dũng, bảo vệ bí mật chiến
lược của Đảng.
Ông Nguyễn Văn Phối đã đóng
góp nhiều công lao lớn cho phong trào cách mạng tỉnh nhà, nhất là những năm
1954 - 1960, tái lập lực lượng vũ trang cách mạng, chuyển thế chuyển vùng tiến
lên Đồng Khởi. Ngày 22/11/2011 ông được Nhà nước Công hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
|
NGUYỄN VĂN PHỐI
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.327
|
120
|
LƯU KIM PHONG
|
Ông Lưu Kim Phong (1905 -
1992), bí danh Bảy Quới, Tám Phuông, quê làng Mỹ Trà, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa
Đéc (nay là xã Mỹ Trà, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Năm 1925, ông
cùng Phạm Hữu Lầu, Trần Văn Mảng, Nguyễn Như Ý… tổ chức thành công lễ truy điệu
cụ Phan Châu Trinh tại chợ Cao Lãnh.
Tháng 7/1927, ông được chọn
cùng 3 thanh niên khác sang Quảng Châu (Trung Quốc) dự khóa huấn luyện hoạt động
cách mạng do Nguyễn Ái Quốc tổ chức. Học xong, ông được kết nạp vào Việt Nam
Cách mạng Thanh niên và được phân công về Cao Lãnh, Sa Đéc hoạt động (tháng
12/1927). Đầu năm 1928, ông thành lập Tổ Việt Nam Cách mạng Thanh niên đầu
tiên ở Hòa An (Cao Lãnh). Ông là người đầu tiên ở tỉnh Sa Đéc cung cấp tin tức
về Nguyễn Ái Quốc cho cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, lúc Cụ ở Cao Lãnh. Ông bị
địch bắt giam 3 lần: Lần thứ nhất vào tháng 6/1928, lần thứ 2 ngày 25/8/1930
(bị kêu án tù 4 năm đày đi Côn Đảo), lần thứ 3 ngày 02/9/1939 (ông cùng 14 đồng
chí bị mật thám Pháp bắt về tội “hoạt động chính trị” và bị giam hơn 6 tháng ở
khám Vĩnh Long).
Trong cuộc kháng chiến chống
Pháp và Mỹ, ông công tác tại các cơ quan: Ban nghiên cứu điền địa Tỉnh ủy Cần
Thơ, dự khóa huấn luyện Lê Duẩn (khóa 3), Ty Ngân Khố Cần Thơ, công tác Tiếp
liệu và Kinh tài cho Xứ uỷ Nam Bộ. Sau 30/4/1975, ông công tác tại Mặt trận
thành phố Cần Thơ. Đến năm 1977, ông nghỉ hưu và mất năm 1992.
|
LƯU KIM PHONG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.321
|
121
|
NGUYỄN THANH PHONG
|
Ông Nguyễn Thanh Phong (1929
- 2018), tên gia đình là nguyễn Long Noãn, quê làng Mỹ Trà, quận Cao Lãnh, tỉnh
Sa Đéc (nay là tỉnh Đồng Tháp).
Học hết sơ học, sớm giác ngộ Cách
mạng, từ tháng 7/1945, ông gia nhập Thanh niên Cứu quốc và Ủy viên Ban Chấp
hành Thanh niên Cứu quốc xã Mỹ Trà, tham gia giành chính quyền tại địa
phương. Tháng 7/1947, ông được cử đi học bổ túc văn hóa và là Ủy viên Ban Chỉ
huy trường. Cuối năm 1948, ông là cán bộ xã hội tỉnh Sa Đéc và được kết nạp
vào Đảng Cộng sản Đông Dương đầu năm 1949. Giữa năm 1950, ông được rút lên
làm cán bộ Ban Tổ chức Trung ương Cục, Trưởng Tổ nghiên cứu, Bí thư Chi bộ cơ
quan.
Tập kết ra Bắc, đầu năm 1955,
ông là cán bộ Ban Tổ chức Thành uỷ Hà Nội. Đến tháng 8/1955, ông được điều động
làm cán bộ Ban Tổ chức Trung ương, Trưởng phòng Thống kê nhân sự và Bí thư
Chi bộ.
Đầu năm 1958, ông đi học trường
Đại học Kinh tế - Kế hoạch, vừa là sinh viên vừa là chi ủy viên Chi bộ nhà
trường, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Liên hiệp sinh viên trường.
Tháng 6/1961, tốt nghiệp Đại
học, ông được giữ lại làm giảng viên môn Kinh tế - Chính trị trường Đại học
Kinh tế - Kế hoạch, đồng thời là Phó Bí thư chi bộ, Ủy viên Thường vụ Ban Chấp
hành Công đoàn trường. Cuối năm 1964, ông là cán bộ nghiên cứu tình hình kinh
tế miền Nam của Ban Thống nhất Trung ương.
Tháng 3/1965, ông lên đường về
Nam, là Trưởng đoàn CK43, Bí thư Đảng uỷ cơ sở. Tháng 8/1965, ông nhận công
tác tại Ban Kinh tài Khu Trung Nam Bộ, với chức vụ Phó ban phụ trách sản xuất.
Đến tháng 3/1968, ông được giao nhiệm vụ Phó Văn phòng Khu uỷ, Trưởng Ban
nghiên cứu tổng hợp, Ủy viên Đảng uỷ Liên cơ Dân Chính Đảng khu, Trưởng Ban
nghiên cứu phía sau. Tháng 9/1973, ông là Phó Ban Kế hoạch Khu uỷ và sau đó
là Phó ban Kinh tế Tài chính Khu uỷ, Phó Ban Kinh tế Kế hoạch Khu, Bí thư Đảng
uỷ Liên cơ Dân Chính Đảng Khu.
Khi tỉnh Đồng Tháp thành lập,
ông về Đồng Tháp, được bầu vào Tỉnh ủy, đắc cử vào Hội đồng nhân dân tỉnh và
là Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch tỉnh Đồng
Tháp. Ông là Đại biểu Đảng bộ tỉnh đi dự Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt
Nam lần thứ IV, thứ V và là Đại biểu Quốc hội Khóa VII, Khóa VIII.
Tháng 3/1977, ông được bầu
vào Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban nhân dân tỉnh.
Tháng 8/1986, ông được bầu Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp.
Năm 1992, ông được điều động
làm Phó Chủ nhiệm chuyên trách Ủy ban Kinh tế và Ngân sách Quốc hội Khóa IX.
Với kiến thức sâu rộng về Kinh tế - Kế hoạch, ông đã đóng góp nhiều trí tuệ
cho sự phát triển của tỉnh và cho Quốc hội.
Năm 1999, ông nghỉ hưu và ngụ
ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tuổi cao ông vẫn tích cực tham gia Ban Chủ nhiệm Hội
đồng hương Đồng Tháp tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhiệt tình đóng góp cho tỉnh
nhà.
Quá trình công tác và cống hiến,
ông đã được tặng Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng, Huân chương Quyết thắng hạng Nhất,
Huân chương Kháng chiến hạng Ba, Huân chương chống Mỹ, cứu nước hạng Nhất,
Huân chương Lao động hạng Ba, Huy hiệu Thành đồng Tổ quốc.
|
NGUYỄN THANH PHONG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.324
|
122
|
TRẦN VĂN PHỤC
|
Ông Trần Văn Phục (1930 -
1972), tên thường gọi Hai Phi, quê làng Long Hưng, quận Lai Vung, tỉnh Sa Đéc
(nay thuộc xã Long Hưng A, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Năm 1948, ông tham
gia cách mạng và được kết nạp vào Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam. Năm 1961,
ông làm Phó Ban An ninh huyện Lấp Vò. Năm 1962, ông là Huyện ủy viên, Trưởng
Ban An ninh huyện và sau là Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, Trưởng Ban An
ninh huyện Lấp Vò.
12 năm công tác, chiến đấu
trong lực lượng an ninh huyện Lấp Vò, ông cùng đồng đội trực tiếp và phối hợp
bộ đội chiến đấu trên 200 trận. Trận cuối cùng ông tham gia chiến đấu và anh
dũng hy sinh là vào tháng 12/1972, ông được Huyện ủy phân công đến Bình Thạnh
Trung công tác. Khi về đến Thủ Ô, xã Vĩnh Thạnh bị Trung đội Biệt kích nguỵ
phát hiện bao vây. Địch đông, ta chỉ có ba người (ông và hai chiến sĩ an ninh
huyện), một chiến sĩ an ninh hy sinh 1, 1 bị thương nặng, ông cũng bị thương.
Trước tình thế đó, ông thủ tiêu toàn bộ tài liệu và bắn hết viên đạn cuối
cùng, nằm sắp lên người đồng đội, rút chốt trái lựu đạn giấu dưới bụng. Đợi
khi chúng đến, ông buông lựu đạn, làm 3 tên chết, 2 tên bị thương nặng. Ông
anh dũng hy sinh.
Liệt sỹ Trần Văn Phục (Hai
Phi) được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì, Huân chương Quyết thắng hạng
Nhất, Huân chương Giải phóng hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Ba và
nhiều bằng khen, giấy khen. Ngày 01/9/2000, Liệt sỹ Trần Văn Phục (Hai Phi)
được Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh
hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
|
TRẦN VĂN PHỤC
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.329
|
123
|
HUỲNH HỮU PHƯỚC
|
Huỳnh Hữu Phước (1919 -
1974), quê làng Tân Huề, trên cù lao Tây thuộc quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc
(nay là xã Tân Huề, thuộc Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp). Ông tham gia cách mạng
năm 14 tuổi và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 3/1936.
Đến tháng 7/1941, ông được bổ
sung làm Liên Tỉnh ủy viên, phụ trách Bí thư lâm thời tỉnh Rạch Giá. Đầu năm
1943, ông làm Phó Bí thư Liên Tỉnh ủy Hậu Giang, phụ trách củng cố cơ sở Đảng
và quần chúng ở ba tỉnh Cần Thơ, Sóc Trăng và Vĩnh Long. Để chuẩn bị khởi
nghĩa trong Cánh mạng tháng Tám 1945, đầu tháng 5/1945, Tỉnh ủy Lâm thời Vĩnh
Long được thành lập, ông là Bí thư. Năm 1946, ông phụ trách Tỉnh ủy viên Châu
Đốc, rồi Long Châu Hậu, Phó Bí thư Tỉnh ủy Long Châu Hà. Đến tháng 9/1953,
ông phụ trách quyền Bí thư, rồi Bí thư Tỉnh ủy Long Châu Hà cho đến ngày đình
chiến tháng 7/1954. Sau năm 1954, ông phụ trách Ủy viên Ban Nông vận và Ủy
viên Ban Vận động Hòa Hảo Khu 8 (1959 - 1974). Năm 1974, do sức khỏe yếu, ông
được Trung ương đưa ra Bắc trị bệnh, ngày 04/11/1974, ông qua đời. Quá trình
tham gia và cống hiến cho cách mạng, ông được Đảng và Nhà nước truy tặng Huân
chương Hồ Chí Minh, Huân chương kháng chiến hạng Nhất, Nhì, Ba.
|
HUỲNH HỮU PHƯỚC
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.333
|
124
|
TRẦN TẤN QUỐC
|
Ông Trần Tấn Quốc (1914 -
1987), tên khai sinh Trần Chí Thành, quê làng Mỹ Trà, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa
Đéc (nay thuộc phường Mỹ Phú, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp).
Ông tham gia rải truyền đơn,
biểu tình ngày 03/5/1930 tại Cao Lãnh. Sau đó, ông bị giặc bắt với tội danh “Hoạt
động phá hoại chống nhà nước”, tòa Vĩnh Long kêu án 5 năm tù, đày Côn Đảo
(vào đầu năm 1931). Tháng 10/1934, ông ra tù (sớm hơn 1 năm).
Tháng 6/1936, ông chính thức
gia nhập vào làng báo Sài Gòn, với tư cách phóng viên tờ nhật báo Việt Nam.
Từ năm 1936 - 1975, ông đã nếm
trải đủ cung bậc của nghề làm báo suốt 40 năm, ông cộng tác với nhiều tờ báo ở
Sài Gòn, từng biên tập và làm chủ bút các tờ: Điển tín (1940 - 1945), Tin
Điển, Tin Mới, Dư Luận, Việt Thanh (1946 - 1947), Đuốc
Nhà Nam (1968 - 1972). Ông còn đóng góp tích cực cho bộ môn sân khấu cải
lương với sáng kiến mở ra trang “kịch trường” đầu tiên trên tờ báo Tiếng dội
(1950) và đặc biệt là giải “Thanh Tâm”, nhằm khuyến khích các nghệ
sĩ trẻ “nhiều triển vọng” của ngành sân khấu “với cao vọng xây dựng một thế
hệ nghệ sĩ cải lương tài và đức đi đôi, hầu xóa bỏ ít nhiều thành kiến đối với
nghề hát xứ ta…”. Ông còn viết nhiều tác phẩm khác như: Sài Gòn
Septembre 1945, Nam Bộ kháng chiến, Cô gái Côn Đảo, Kỷ niệm làm báo 1936 -
1975.
|
TRẦN TẤN QUỐC
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.341
|
125
|
LÊ VĂN SA
|
Ông Lê Văn Sa (1922 - 1998),
tên gia đình là Lê Văn Tẹn, quê làng Chánh Hội, quận Cái Nhum, tỉnh Vĩnh Long
(nay là xã Nhơn Chánh, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long). Ông tham gia giành
chính quyền tại xã nhà trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 và làm Đoàn trưởng
Thanh niên Tiền phong kiêm Trung đội trưởng Dân quân. Tháng 11/1950 ông được
kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Năm 1962, ông làm Bí thư Huyện
ủy Cái Nhum kiêm Chính trị viên Huyện đội. Đầu năm 1967, ông được bầu vào Tỉnh
ủy Vĩnh Long, làm Tỉnh đội Phó, sau đó làm Bí thư Huyện ủy Bình Minh
(9/1969). Đến cuối năm 1972, ông làm Trưởng Phân ban Tỉnh ủy Vĩnh Long (gồm
các huyện, thị: Châu Thành, Lai Vung, Lấp Vò, Sa Đéc). Tháng 8/1974, ông làm
Phó Bí thư Tỉnh ủy Sa Đéc, Trưởng Ban Dân vận Mặt trận, Chủ tịch Ủy ban Mặt
trận Dân tộc Giải phóng tỉnh. Khi thành lập tỉnh Đồng Tháp (tháng 02/1976),
ông làm Trưởng ban Ban Dân vận Mặt trận, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải
phóng tỉnh. Tháng 01/1977, tại Đại hội Mặt trận Dân tộc Thống nhất toàn quốc,
ông được bầu Ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Từ đó, trải qua
hai lần Đại hội ở tỉnh, ông đều được tín nhiệm cao giữ các nhiệm vụ này.
Tháng 11/1986, ông ghỉ hưu và mất năm 1998. Ông đã được tặng thưởng Huy hiệu
40 tuổi Đảng (năm 1990), Huân chương Độc lập hạng Nhì, Huân chương Quyết thắng
hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất và nhiều huy chương cao quý
khác.
|
LÊ VĂN SA
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.345
|
126
|
TRẦN VĂN SẮC
|
Trần Văn Sắc (1911 - 1949),
tên thật là Trần Văn Nghiêm, nguyên quán Như Long, Cần Thơ. Liệt sĩ, Hạo sĩ,
chiến sĩ cách mạng thời kỳ 1930.
Năm 1931, ông là học sinh trường
Hoạ - Gia Định, tham gia phong trào cách mạng. Ngày 01/4/1931, ông bị bắt tại
trụ sở Ấn loát của Xứ uỷ Nam Kỳ (tại Chợ Lớn) cùng với 3 đảng viên cộng sản
là: Ung Văn Khiêm, Phan Hữu Trinh, Lê Hiên. Ngày 13/4/1932, ông được địch thả.
Sau khi ra tù, ông tiếp tục hoạt
động cách mạng và bị mật thám Pháp nhận xét là một trong số những nhà hoạt động
tích cực ở Long Xuyên và Cần Thơ. Ông từng thọ giáo cụ Nguyễn Sinh Sắc (thân
sinh Bác Hồ) tại Cao Lãnh vào năm 1928 khi tham gia Tổ Thanh niên Cách mạng đồng
chí Hội.
Ngày 27/11/1938, Hội nghị tổ
chức tại Chợ Gạo (tỉnh Mỹ Tho) để bầu Ban Thường vụ Xứ uỷ Nam Kỳ, ông là một
trong 11 đồng chí được bầu vào Ban Thường vụ lâm thời Xứ uỷ Nam Kỳ. Trong quá
trình hoạt động cách mạng, ông đã từng nhiều lần bị địch bắt giam. Ông là tác
giả của tác phẩm hội hoạ nổi tiếng“Nông dân và trâu mùa nước nổi đồng bằng
sông Cửu Long” vẽ năm 1930.
|
TRẦN VĂN SẮC
|
Báo điện tử tỉnh Sóc Trăng. https://www.baosoctrang.
org.vn/van-hoa-the- thao/liet-si-tran-van-sac- va-con-duong-mang-ten-
ong-29329.html
|
127
|
ĐOÀN VĂN SÁCH
|
Đoàn Văn Sách (1794 - 1842),
là con trưởng của Binh bộ Thượng thư Đoàn Văn Trường. Ông được hưởng chế độ tập
ấm, học trường Anh Danh (Trường võ bị chuyên nghiệp triều Nguyễn). Minh Mạng
năm thứ 8 (1827), bổ làm Suất đội, đội 3, quân Thần Sách. Năm 1830, thừa tập ấm
hàm Quản cơ. Năm 1834, thăng Thự Phó Vệ úy vệ Cự Dũng đến quân thứ Gia Định
đánh giặc. Năm thứ 1835, vì có chiến công được thực thụ Phó Vệ úy. Năm 1837,
đổi đi Phó Lãnh binh tỉnh Hưng Hóa, tập phong là Diên Hựu Nam rồi đổi đi làm
Phó Lãnh binh phủ Hải Đông ở Trấn Tây. Thiệu Trị năm thứ I (1841), cùng với
Nguyễn Tiến Lâm, Nguyễn Tri Phương tiến quân đánh phá Lâm Sơn, dẹp yên hết giặc
ở Lạc Hóa được thăng Thự Đề đốc tỉnh Vĩnh Long. Năm Thiệu Trị thứ II (1842)
được phong Đề đốc tỉnh Vĩnh Long.
Tháng 4 năm 1842, ông lâm trọng
bệnh qua đời, được vua truy phong Tiền phong Đô thống Anh dũng tướng quân, tấn
phong Diên Hựu Bá, cho tên thụy là Trung Võ.
|
ĐOÀN VĂN SÁCH
|
Đại Nam liệt truyện chánh biên - Nhị tập do Quốc Sử quán triều Nguyễn
biên soạn
|
128
|
LÊ QUỐC SẢN
|
Ông Lê Quốc Sản (1920 -
2002), thường gọi Tám Phương, quê xã Quần Phương, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Hà
(nay là huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định). Ông nhập ngũ tháng 4/1945 và vào Đảng
Cộng sản Đông Dương cùng năm ấy. Tháng 8/1945, ông làm Chỉ huy Quân Giải
phóng của Việt Kiều ở tỉnh Xavanakhet (Lào). Nghe theo lời kêu gọi cứu nước của
Bác Hồ, tháng 12/1946, ông làm Phó Chỉ huy trưởng Chi đội Trần Phú (Hải ngoại
IV) từ Thái Lan hành quân về Việt Nam kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Tháng 3/1947, Chi đội Trần
Phú và ông về đến Sa Đéc chiến đấu theo sự phân công của Ủy ban Kháng chiến
Hành chính Nam Bộ. Đơn vị đã đánh thắng nhiều trận vang dội ở Sa Đéc, Cao
Lãnh, Nha Mân, Cái Tàu. Từ tháng 4/1947 đến tháng 10/1954, ông giữ các chức vụ:
Chi đội phó Chi đội Trần Phú, Phó Trung đoàn trưởng, Trung đoàn Trưởng, Liên
Trung đoàn trưởng, Tỉnh đội trưởng Vĩnh Trà…Tập kết ra miền Bắc, ông làm Trưởng
phòng Bờ biển, Trung đoàn Trưởng trung đoàn 50, Quân khu Tả Ngạn. Năm 1961,
ông được trở lại chiến trường Nam Bộ, công tác trong Bộ Tư lệnh Quân khu 8. Từ
năm 1972 đến 1975 là Phó Tư lệnh, Tư lệnh Quân khu 8, Ủy viên Thường vụ Khu uỷ
Khu 8. Từ tháng 5/1976, ông làm Phó Tư lệnh Quân khu 9. Tháng 9/1980, ông được
phân công làm công tác tổng kết chiến tranh. Năm 1987, ông nghỉ hưu và mất
năm 2002.
Ông được phong hàm Thiếu tướng
năm 1974, sau đó được phong hàm Trung tướng. Ông được tặng Huy hiệu 50 năm tuổi
Đảng, Huân chương Độc lập hạng Nhất, hai Huân chương Quân công hạng Nhất,
Huân chương chiến thắng hạng Nhất và nhiều Huân chương, Huy chương khác.
|
LÊ QUỐC SẢN
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.347
|
129
|
HÀ THỊ SẠN
|
Bà Hà Thị Sạn (1943 - 2018),
quê làng Tân Hội, quận Hồng Ngự, tỉnh Châu Đốc (nay là xã Tân Hội, thị xã Hồng
Ngự, tỉnh Đồng tháp). Khi được tuyên dương Anh hùng, bà là Chính trị viên Xã
đội Tân Hội, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngày 28/2/1977, một Đại đội
quân Pôn-pốt lấn chiếm ấp Tân Hòa, bà trực tiếp chỉ huy Tiểu đội du kích chặn
đánh quyết liệt, diệt 6 tên, địch rút chạy về bên kia biên giới. Tháng
8/1978, một Trung đội địch sang đánh phá, bà chỉ huy 9 du kích phục kích đánh
chính diện, diệt 4 tên, thu 2 súng. Ngày 15/9/1978, địch chiếm một gò cao thuộc
xã Tân Hội, bà chỉ huy đội du kích phối hợp lực lượng bạn đánh địch suốt đêm,
đến 6 giờ sáng hôm sau, cả Tiểu đoàn địch rút chạy. Ta diệt 13 tên, bắt sống
2 tên. Ngày 04/11/1978, một Tiểu đoàn bộ binh và 4 tàu chiến địch theo sông Sở
Thượng đánh xuống ngã ba Tân Hội. Bà chỉ huy 12 du kích chặn đánh địch quyết
liệt. Sáng hôm sau, đội du kích Tân Hội phối hợp với đơn vị bạn, phản công địch
mãnh liệt, đẩy lùi địch về bên kia biên giới...
Tính từ tháng 4/1977 đến tháng
01/1979, bà trực tiếp chỉ huy đội du kích xã phối hợp với đơn vị bạn đánh 56
trận (có 6 trận độc lập chiến đấu), diệt 52 tên địch, thu 16 súng. Riêng bà
diệt 6 tên, thu 1 súng B41 và 3AK. Năm 1979, bà làm trợ lý Dân quân Huyện đội
Hồng Ngự, vài năm sau bà nghỉ hưu, mang quân hàm Đại uý. Ngày 20/12/1979, bà
Hà Thị Sạn vinh dự được Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
|
HÀ THỊ SẠN
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.348
|
130
|
LÊ VĂN SAO
|
Ông Lê Văn Sao (1890 - ?), là
con thứ ba của ông Lê Văn Đáng ở Hòa An, Cao Lãnh (nay là xã Hoà An, thành phố
Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp).
Năm 17 tuổi, ông cùng cha xuất
dương qua ngã Xiêm La (Thái Lan) đến Trung Quốc rồi sang Nhật. Sau đó, ông
xin làm thuỷ thủ trên tàu S/S Ville d'Oran chạy trên tuyến đường từ Marseille
sang các nước Viễn Đông. Ông đến Pháp vào khoảng năm 1915, liên hệ với các Việt
kiều yêu nước có quan hệ với nhóm Phan Châu Trinh. Năm 1919, ông gia nhập hội
những người Việt Nam yêu nước của Nguyễn Ái Quốc. Là người nhiệt tình trong mọi
hoạt động nên ông được Hội giao nhiều trọng trách và đóng vai trò quan trọng
trong Hội những người Việt Nam yêu nước, luôn hiện diện bên cạnh Nguyễn Ái Quốc,
trong thời gian Người còn hoạt động ở Pháp (1917 - 1923). Ông vừa là người
liên lạc thân tín của Nguyễn Ái Quốc, được giao trọng trách mang các chỉ thị,
thông tin đến các hội viên, vừa đảm nhận công tác tuyên truyền đường lối chủ
trương của Hội đến Việt kiều ở các hải cảng mà tàu ông cập bến. Do đó, ông
luôn bị Pháp cử nhiều đặc trách theo dõi. Khoảng năm 1925, ông về hoạt động ở
Trung Quốc và sau năm 1930 thì mất tích.
Ông Lê Văn Sao là nhân vật
tiêu biểu trong phong trào vận động yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản
chuyển sang khuynh hướng dân chủ mới và nhân vật duy nhất ở Đồng Tháp hoạt động
kề cận với Nguyễn Ái Quốc trong những năm tháng tìm đường cứu nước.
|
LÊ VĂN SAO
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.349
|
131
|
LÊ VĂN SẾN
|
Ông Lê Văn Sến (1895 - 1990),
còn gọi là Bảy Sến, tên khai sinh là Phạm Văn Đởm, quê ấp Phú Mỹ Lương, xã
Phú Hựu, thị trấn Cái Tàu Hạ, huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (nay là xã Phú Hựu,
huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp).
Sau Cách mạng tháng Tám năm
1945, ông tham gia cách mạng và là thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong Tổng An Mỹ,
kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính thị trấn Cái Tàu Hạ. Ngày
01/01/1946, quân Pháp đánh chiếm thị trấn Cái Tàu Hạ, chúng kêu gọi ông trở về
dạy học nhưng ông kiên quyết từ chối. Khoảng tháng 3/1946, ông được đề cử làm
Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Sa Đéc - đại diện thành phần
công chức, trí thức. Đầu năm 1949, ông làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành
chánh tỉnh Sa Đéc cho đến hết năm 1950, rồi làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến
Hành chánh tỉnh Đồng Tháp (đến 6/1951 thì tỉnh này giải thể), Chủ tịch Ủy ban
Kháng chiến Hành chính tỉnh Tân An (1951).
Đầu năm 1952, ông được bố trí
vào Ban Chấp hành Tổng hội Việt Kiều toàn Campuchia (đóng ở Đông Nam
Campuchia) với nhiệm vụ Phó Chủ nhiệm Tổng Hội Việt kiều, phụ trách kinh tế -
tài chính của Liên tỉnh. Tháng 02/1952, ông được kết nạp vào Đảng. Sau Hiệp định
Giơnevơ, Đảng uỷ Liên tỉnh Kandal - Prâyveng - Soài Riêng gợi ý ông đi tập kết
nhưng ông xin ở lại để chăm sóc người vợ bị mù, con trai đi tập kết, con gái
thoát ly công tác. Sau giải phóng, ông về quê xã Phú Hựu, huyện Châu Thành, tỉnh
Đồng Tháp. Sau đó, ông về sống với con gái ở Thành phố Hồ Chí Minh cho đến
khi qua đời - năm 1990.
|
LÊ VĂN SẾN
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.354
|
132
|
TRẦN TRUNG SĨ
|
Ông Trần Trung Sĩ (1955 -
1972), quê xã Tân Hòa Bắc, huyện Châu Thành, tỉnh Vĩnh Long (nay là xã Tân
Hòa, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long).
Tháng 3/1971, ông được kết nạp
vào Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng Việt Nam và vào Đội Cảnh vệ bảo vệ cơ
quan Huyện ủy Châu Thành. Lần đầu tiên, ông bảo vệ 4 cán bộ đi họp xa, phải
qua đường lớn, bị địch phục kích nổ súng, ông bắn kềm chế cho đoàn cán bộ chí
rút lui an toàn. Khi bị thương, ông gài 1 trái lựu đạn, hôm sau, địch trở lại
tìm dấu vết, trúng lựu đạn ông gài, tên trung uý đại đội trưởng và hai lính bị
thương. Đầu tháng 3/1972, do một tên đầu hàng chỉ điểm, địch đưa 1 tiểu đoàn
bảo an, cùng dân vệ, thám báo đến vây bắt một số cán bộ ta về bám xã Phú
Long. Địch nổ súng, ông và một đồng đội được phân công đánh chặn địch để ta
đưa chiến thương thoát ra. Ông bị vướng mìn, gãy lìa cả hai chân, đồng đội của
ông cũng bị thương. Ông giục đồng đội rút lui, một mình ông chờ địch bò vào
cách 10m mới ném lựu đạn và lần lượt bắn hết 4 băng đạn. Hết đạn, ông đập gãy
súng và hy sinh khi mới 17 tuổi.
Ngày 13/8/1980, Liệt sỹ Trần
Trung Sĩ được Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh
hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
|
TRẦN TRUNG SĨ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.359
|
133
|
PHAN VĂN SON
|
Ông Phan Văn Son (1940 -
1992) bí danh Sáu Son, quê xã Bình Hàng Trung, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng
Tháp. Năm 1961, ông tham gia cách mạng tại Xã đội Bình Hàng Trung, huyện Cao
Lãnh và được kết nạp vào Đảng tháng 6/1972.
Từ năm 1965, ông công tác tại
Hậu cần Tỉnh đội Kiến Phong, tháng 10/1969, trong khi thực hiện nhiệm vụ tháo
gỡ mìn, ông bị mìn nổ cụt tay. Đầu năm 1971, sau khi điều trị vết thương, ông
công tác tại Ban An ninh xã Bình Hàng Trung với chức vụ Phó Trưởng Ban An
ninh, rồi Trưởng Ban An ninh. Tháng 7/1973, tại khu vực chợ thuộc ấp 2, xã
Bình Hàng Trung có tên trưởng ấp và tên phó ấp ác ôn. Theo chỉ đạo của cấp uỷ
xã, ông lên kế hoạch diệt hai tên này. Kết quả, diệt tại chỗ tên trưởng ấp và
phó ấp, bắt sống 11 phòng vệ dân sự, thu 01 súng trung liên, 01 ga-răng, 09
khẩu M1, M2. Trận đánh này tạo được tiếng vang lớn, làm cho địch hoang mang,
lo sợ, phải co cụm trong thời gian dài, tạo thêm điều kiện, khí thế cho phong
trào cách mạng ở địa phương.
Khoảng 14 giờ chiều một ngày
của tháng 11/1973, ông chỉ huy một tiểu đội du kích chia làm hai mũi tiếp cận
khu vực nhà của 2 tên cảnh sát ác ôn, mỗi mũi tiếp cận 1 tên, ông dẫn đầu 1
mũi cùng 2 du kích. Cả hai mũi hoàn thành nhiệm vụ, diệt 2 tên cảnh sát ác ôn
và rút lui an toàn.Tháng 5/1975, ông được điều động về công tác tại Công an
huyện Cao Lãnh. Năm 1987, vết thương cũ tái phát, sức khỏe yếu, ông xin về
nhà dưỡng bệnh. Đến năm 1992, ông qua đời.
Với những thành tích đặc biệt
xuất sắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngày 01/3/2010, ông Phan Văn
Son được Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
|
PHAN VĂN SON
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.360
|
134
|
PHẠM ĐỨC SƠN
|
Ông Phạm Đức Sơn (1920 -
1969), thường gọi Tư Trường, quê xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Trong quá trình hoạt động
cách mạng, ông được Đảng tín nhiệm lần lượt giao các trọng trách: Ủy viên Xứ
uỷ Nam Bộ; Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh tỉnh Gia Định;
Phó Bí thư Tỉnh ủy Sóc Trăng, Sa Đéc; Bí thư liên Tỉnh ủy Miền Đông; Ủy viên
Ban Thường vụ Khu uỷ, Bí thư Phân khu uỷ kiêm Chính uỷ Phân khu Đặc khu Sài
Gòn - Gia Định… Ông hy sinh năm 1969.
|
PHẠM ĐỨC SƠN
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.362
|
135
|
PHAN VĂN SỬ
|
Ông Phan Văn Sử (1910 -
1982), tại làng Trung Thành, quận Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Ông được gia
đình gửi sang Pháp học và đậu bằng Tú tài, năm 1933 trở về nước.
Năm 1934, ông xin phép lập
Trường Trung Thành học. TrườngTrung Thành là một cơ sở yêu nước, hoạt động hợp
pháp trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nơi đây tập hợp được nhiều trí thức
yêu nước, thông qua việc giảng dạy mà gieo mầm cách mạng cho học sinh. Từ một
trí thức yêu nước, tháng 4/1945, ông được đứng vào hàng ngũ của Đảng, tham
gia chỉ đạo khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 tại
tỉnh lỵ Vĩnh Long. Ông là Tổng Thư ký Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long, rồi Chủ
tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh (năm 1946). Từ năm 1951 - 1953, ông
giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Long Châu Sa. Năm
1954, ông tập kết ra Bắc, được phân công làm nhiệm vụ chống địch cưỡng ép đồng
bào Công giáo di cư vào Nam. Từ năm 1964, ông làm Đại sứ nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà tại Tiệp Khắc, rồi làm Vụ trưởng Vụ Á châu II, Bộ Ngoại giao (1970).
Đến tháng 7/1973, ông nghỉ
hưu, ngày 06/5/1982, ông qua đời. Trong quá trình hoạt động cách mạng, ông được
Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Kháng
chiến chống Mỹ hạng Nhì, Huy hiệu Thành đồng Tổ quốc. ẦN
|
PHAN VĂN SỬ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.363
|
136
|
DƯƠNG HỮU TÀI
|
Ông Dương Hữu Tài (1926 -
2005), quê làng Tân Qui Đông, Sa Đéc (nay thuộc phường 3, thành phố Sa Đéc, tỉnh
Đồng Tháp). Ông đã trở thành “Nghệ nhân Tư Tôn”, người sáng lập “Vườn Hồng Tư
Tôn”, một trong những người tiếp nối các thế hệ nông dân trồng hoa kiểng, góp
phần làm nên Làng hoa Tân Qui Đông - Sa Đéc ngày nay. Năm 1960, nhiều người
đã biết đến “Vườn Hồng Tư Tôn” và con đường bờ rạch Thông Lưu được mang tên
“Đường Vườn Hồng”. Từ đó đến những năm 1990, khu vườn của ông trồng trên 460
loại cây và bông có dược tính, 250 loại cây cảnh dùng trang trí nội thất, kiến
tạo cảnh quan công viên, công sở, các công trình văn hóa, tư gia…
Ông Dương Hữu Tài - Nghệ nhân
Tư Tôn còn được nhà văn Sơn Nam thân quý gọi ông là một pho tượng “Văn minh
Miệt Vườn” bằng xương, bằng thịt.
|
DƯƠNG HỮU TÀI
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.365
|
137
|
TRẦN TRUNG TAM
|
Ông Trần Trung Tam (1913 -
1998), tên thường gọi Ba Tam, tên khai sinh là Nguyễn Tấn Hoạch, quê làng Hựu
Thành, quận Đức Hoà, tỉnh Chợ Lớn (nay là xã Hựu Thành, huyện Đức Hoà, tỉnh
Long An). Tham gia cách mạng ngày 01/5/1930, vào Đảng Cộng sản Đông Dương
tháng 01/1936 tại Chi bộ xã Hựu Thành.
Ông trải qua muôn ngàn gian
nan, thử thách, tù đày Côn Đảo (1942 - 1945)… vẫn kiên định lập trường cách mạng,
bề bỉ đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ông được
Đảng và Chính phủ giao các trọng trách: Bí thư Chi bộ xã Hựu Thành (1936);
Thường vụ Huyện ủy Đức Hoà, Bí thư Tỉnh ủy Tân An, Bí thư Thành uỷ Sài Gòn -
Chợ Lớn, Bí thư liên Tỉnh ủy Mỹ Tho (1937 - 1942); Bí thư Huyện ủy Đức Hoà,
Bí thư Tỉnh ủy kiêm Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh tỉnh Chợ Lớn, Thường vụ Khu
uỷ Khu Sài Gòn - Chợ Lớn (01/1945 - 1950); Bí thư Tỉnh ủy Sa Đéc - Long Châu
Sa (cuối năm 1950 - 11/1951); cán bộ Ban Tổ chức Trung ương Cục, Ban Nông vận
Trung ương Cục (1952 - 1954); Ủy viên Ban Tập kết Nam Bộ (1954 - 1955); Vụ
phó rồi Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ Bộ Y tế (1954 -1979). Năm 1980, ông nghỉ
hưu và mất năm 1998. Ông được tặng thưởng Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng, Huân
chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huy hiện Kháng
chiến, huy hiệu Nam Bộ Thành đồng Tổ quốc.
|
TRẦN TRUNG TAM
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.372
|
138
|
NGUYỄNPHƯỚCTÂN
|
Ông Nguyễn Phước Tân (1930 -
2007), tên khai sinh là Nguyễn Văn Chẩn, thường gọi Hai Tân), quê làng Tân
Khánh, quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (nay là xã Tân Khánh Đông, thành phố Sa
Đéc, tỉnh Đồng Tháp).
Năm 15 tuổi, ông tích cực
tham gia các phong trào cách mạng ở địa phương. Năm 1947, được kết nạp vào Đảng
Cộng sản Đông Dương. Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, ông hoạt động điệp báo ở
Sài Gòn. Bằng sự mưu trí, dũng cảm, ông đã nhiều lần thoát khỏi sự truy lùng
của địch, xây dựng được hàng trăm cơ sở bí mật (có cả cấp đại tá nguỵ), qua
đó, nắm được tình hình, giúp cấp trên tổ chức nhiều trận đánh đạt kết quả. Từ
năm 1975 - 1980, với trách nhiệm phụ trách công tác chống phản động ở địa bàn
các tỉnh phía Nam, phối hợp với công an các địa phương khám phá hàng trăm vụ
án phản động, góp phần bảo vệ an ninh trật tự ở các tỉnh phía Nam. Năm 1981,
ông trực tiếp phụ trách đơn vị K4/2, hướng dẫn, chỉ đạo công an các địa
phương khám phá hàng chục vụ án gián điệp, tình báo. Từ tháng 12/1987 đến
tháng 4/1990, ông làm Trưởng đoàn Chuyên gia của Bộ Nội vụ (Bộ Công an) Việt
Nam giúp nước bạn Campuchia. Tháng 4/1991, ông làm Tổng cục phó Tổng cục An
ninh đến khi nghỉ hưu (tháng 6/1997).
Ông được Đảng và Nhà nước tặng
thưởng Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng, Huân chương Độc lập hạng Ba, Huân chương
Quân công hạng Nhì, Ba, Huân chương Quyết thắng hạng Nhất, Huân chương Kháng
chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất, Huân Chiến công hạng Nhất, Ba. Tháng
8/1985, ông được Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa việt Nam tuyên dương
danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
|
NGUYỄNPHƯỚCTÂN
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. 380
|
139
|
NGUYỄN VĂN TÂY
|
Ông Nguyễn Văn Tây (1910 -
1996), tên thường dùng là Nguyễn Thanh Sơn, những năm hoạt động cách mạng còn
có các bí danh Tư Hải, Oai, Nilakiri, quê làng Trà Côn, quận Trà Ôn, tỉnh Cần
Thơ (nay là xã Trà Côn, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long).
Đầu năm 1927, ông được bí mật
đưa qua Quảng Châu dự lớp huấn luyện cách mạng do Nguyễn Ái Quốc tổ chức,
tháng 7/1927 được kết nạp vào tổ chức Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Về nước,
năm 1928, ông là Ủy viên Tỉnh bộ Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội tỉnh Long
Xuyên. Ngày 02/9/1929, ông được kết nạp vào An Nam Cộng sản Đảng. Sau đó, ông
là Bí thư Chi bộ đặc biệt vùng Cao Lãnh, Chợ Mới. Giữa năm 1930, ông về nhận
nhiệm vụ Bí thư Tỉnh ủy Gia Định và tháng 4/1931 là Bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ. Từ
năm 1940, ông rút vào hoạt động bí mật ở vùng Châu Đốc, Rạch Giá. Tháng
8/1945, ông là Bí thư Ban Chấp hành Đảng bộ Liên tỉnh miền Tây. Sau đó, ông
giữ chức Thanh tra chính trị Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ. Ông là đại biểu
Quốc hội khóa I tỉnh Vĩnh Trà (Vĩnh Long - Trà Vinh) và là Phó Chủ tịch Ủy
ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam (năm 1946), Xứ ủy viên Nam Bộ, Ủy viên phụ
trách quân sự và ngoại vụ Ủy ban Kháng chiến - Hành chính Nam Bộ (1948), Bí
thư Ban Cán sự Đảng bộ Đảng Cộng sản Đông Dương tại Campuchia, Tư lệnh kiêm
Chính uỷ quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia (1950)… Từ năm 1957 - 1975,
ông là Bí thư Đảng đoàn, Thứ trưởng thứ nhất Bộ Tài chính nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa.
Tháng 9/1976, ông nghỉ hưu và
mất năm 1996. Ông được tặng thưởng Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng, Huân chương Hồ
Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Ba, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất,
Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huân chương chống Mỹ, cứu nước hạng Nhất...
|
NGUYỄN VĂN TÂY
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.382
|
140
|
ĐINH TRUNG THÀNH
|
Ông Đinh Trung Thành (1932 -
2007), tên khai sinh là Lương Văn Nơi, quê làng Mỹ An Hưng, quận Lấp Vò, tỉnh
Sa Đéc (nay thuộc huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Năm 1946, ông là Đội trưởng
Đội Thiếu nhi Tiền phong xã Mỹ An Hưng. Năm 1947, ông vào bộ đội ở Đại đội
1030, Trung đoàn 115. Từ chiến sĩ, đến Tổ trưởng, Tiểu đội phó rồi Tiểu đội
trưởng Đại đội 949, ông chiến đấu liên tục, đến khi tập kết ra Bắc là Trung đội
phó thuộc Đại đội 3, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 658.
Năm 1956, ông về Tiểu đoàn huấn
luyện 15 thuộc Đại đoàn 316. Cuối năm 1960, ông làm Trợ lý tác chiến của Quân
khu Tây Nam Bộ (T3). Tháng 3/1965, ông là Tiểu đoàn phó - Tham mưu trưởng Tiểu
đoàn Tây Đô lừng danh của Cần Thơ. Đầu năm 1967, ông là Tiểu đoàn phó, Tham
mưu trưởng Tiểu đoàn độc lập 308 của Quân khu. Năm 1969, ông là Trung đoàn
phó rồi Trung đoàn trưởng Trung đoàn 3 của Quân khu… Sau ngày miền Nam hoàn
toàn giải phóng, ông là Trưởng phòng Tổng kết chiến tranh của Quân khu. Khi
chiến tranh biên giới Tây Nam xảy ra, ông là Phó Tư lệnh rồi Tư lệnh Sư đoàn
4 của Quân khu 9. Sau đó, ông làm Tham mưu phó Mặt trận 979. Năm 1983, ông
làm Hiệu trưởng Trường Quân sự Quân khu. Năm 1988, ông được phong Thiếu tướng.
Năm 1992, ông làm Phó Tư lệnh Quân khu 9, đến năm 1997 ông nghỉ hưu.
Thiếu tướng Đinh Trung Thành
đã được tặng thưởng Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng, Huân chương Độc lập hạng Nhì,
2 Huân chương Quân công hạng Nhì, 2 Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, 3 Huân
chương Chiến công hạng Nhất.
|
ĐINH TRUNG THÀNH
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.387
|
141
|
LÊ VĂN THẾ
|
Ông Lê Văn Thế (1931 - 2001),
quê xã Thường Lạc, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Ông tham gia cách mạng từ
tháng 3/1947, đến ngày 23/11/1949, ông được kết nạp vào Đảng. Từ năm 1950,
ông là thư ký Văn phòng Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, cán bộ Kinh tài
tỉnh Long Châu Hà.
Năm 1954, ông tập kết ra Bắc.
Năm 1970, ông phụ trách Phòng Giá Vụ Kế hoạch, Bộ Nông nghiệp. Từ năm 1975 đến
năm 1987, ông là cán bộ Tổng Cục Nông nghiệp miền Nam, Vụ Phó Vụ Kế hoạch, Bộ
Nông nghiệp, trợ lý Bộ Trưởng Bộ Công nghiệp Thực phẩm. Từ tháng 12/1987, ông
là Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp Thực phẩm cho đến khi nghỉ hưu
tháng 7/1995.
Ông Lê Văn Thế đã được tặng
Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng, Huân chương Kháng chiến hạng Ba, Huân chương Lao động
hạng Nhất, Huy chương Kháng chiến hạng II và nhiều hình thức khen thưởng
khác.
|
LÊ VĂN THẾ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.402
|
142
|
TRẦN VĂN THẾ
|
Ông Trần Văn Thế (1958 - 1978),
quê xã Thanh Hưng, huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho (nay là xã Tân Thanh, huyện Cái
Bè, tỉnh Tiền Giang). Khi hy sinh là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Trung
sĩ, Trung đội trưởng, Đại đội 1, Tiểu đoàn 502 tỉnh Đồng Tháp. Năm 15 tuổi,
ông vào bộ đội, làm liên lạc. Trong chiến tranh biên giới Tây Nam, ông có mặt
ở huyện Hồng Ngự, tham gia đánh địch 15 trận. Trung đội do ông chỉ huy đã diệt
và làm bị thương hàng trăm tên. Riêng ông diệt 24 tên, bắn bị thương 9 tên,
thu 7 súng (1 B40, 1 M79, 1 CKC, 4 AK), phá hủy 1 xuồng. Trận chiến đấu cuối
cùng trước khi ông hy sinh là trận đánh ngày 15/12/1978 tại Rọc Muống, Dứt Gò
Suông, xã Tân Công Chí, 1 tiểu đoàn địch bao vây tấn công nhiều mặt vào trận
địa trung đội của ông. Ông bình tĩnh chỉ huy đơn vị bám trụ chiến đấu. Đến 10
giờ, trận đánh càng gay go, 2 đồng chí hy sinh. Đạn sắp hết, lại không liên lạc
được với tiểu đoàn, ông quyết định cho đơn vị mở đường máu rút lui. Một mình
ông ở lại với khẩu M79 và 2 khẩu AK, vừa liên tục di chuyển vừa bắn chặn địch.
Bị thương lần thứ 2, ông vẫn chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, huỷ súng rồi
hy sinh khi tròn 20 tuổi đời.
Liệt sỹ Trần Văn thế đã được
tặng thưởng Huân chương chiến công hạng Nhất và ngày 20/12/1979, được Chủ tịch
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực
lượng vũ trang nhân dân.
|
TRẦN VĂN THẾ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.403
|
143
|
PHAN VĂN THIẾT
|
Ông Phan Văn Thiết (1902 -
1987), bút danh Thân Việt, Lan Đình, quê làng Mỹ Trà, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa
Đéc (nay thuộc phường 2, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng tháp). Ông đỗ bằng Cử
nhân Luật (1934). Thông luật pháp, giỏi thơ văn, cùng nhà Nho Đặng thúc Liêng
hợp tác khai thác tờ báo Việt Dân (1934). Khoảng thời gian 1935 -
1936, ông giữ vai trò chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ báo Tân văn, Thế giới
tân văn có tiếng vang trên văn đàn. Sau đó, ông chủ trương biên tập tờ Dân
sanh, Tiếng dội. Khoảng năm 1952, ông ngưng hẳn hoạt động báo chí,
làm công chức chuyên ngành luật pháp. Ông nổi danh trong lĩnh vực luật pháp
(thường được gọi thân mật Tòa Thiết), được nhiều người mến mộ, trọng nể qua
vai trò Thẩm phán, Biện lý, Chánh án, Luật sư, rất mực liêm khiết và có tình,
có nghĩa. Ông còn mở Văn phòng dịch vụ pháp lý miễn phí ở Sài Gòn và Văn
phòng luật sư bình dân ở Cao Lãnh (hoạt động cho đến năm 1972) để giúp đỡ đồng
bào nghèo, sức yếu thế cô.
Thời kỳ đầu kháng chiến, ông
từng giữ chức vụ Chánh án Tòa án nhân dân Tỉnh bộ Việt Minh Bạc Liêu. Chính
vì thái độ chống đối “không biết trên đầu có ai”, ông bị thực dân Pháp khép tội
chính trị, bắt giam một thời gian. Ông từ trần năm 1987 tại Pháp.
Luật sư Phan Văn Thiết đã để
lại nhiều tác phẩm có giá trị về mặt nghiên cứu: Nam thi hiệp tuyển (nhà
in Lý Công Uẩn, Sài Gòn - 1948), Bí quyết làm cho đời sống vui tươi, Tự vựng
công chức, Dân luật tu tri, Hình luật tu tri, Cách tranh tụng về dân sự, Kiểu
mẫu văn khế, Hộ tịch chỉ nam, Pháp luật thực hành, Phụ nữ việt Nam trước pháp
luật, Nhân viên công lực cẩm nang.
|
PHAN VĂN THIẾT
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.410
|
144
|
TRẦN THỊ THƠI
|
Bà Trần Thị Thơi (1924 -
2014), quê làng Tân Hoà Bắc, tỉnh Vĩnh Long (nay là xã Tân Hoà Bắc, thành phố
Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long). Chồng bà là ông Trần Văn Dực, sinh năm 1921, quê
xã An Phú Thuận, quận Châu Thành. Năm 1960, bà làm giao liên cho Huyện đội
Châu Thành. Bà có 8 người con (7 trai, 1 gái), 7 người con trai lần lượt tham
gia kháng chiến, trong đó có 5 người con là Liệt sỹ. Ngày 17/12/1994, bà Trần
Thị Thơi được Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh
hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.
|
TRẦN THỊ THƠI
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015.
|
145
|
TRẦN THỊ THU
|
Bà Trần Thị Thu (1946 -
1968), bí danh Kim Hồng, quê xã Hòa An, huyện Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là thuộc
thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp), tham gia cách mạng năm 1960. Khi hy sinh
là Xã đội phó xã Hòa An, đảng viên Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam.
Năm 14 tuổi, bà tình nguyện
làm liên lạc, rải truyền đơn, dán khẩu hiệu, đào hầm bí mật nuôi chứa cán bộ.
Ngày 27/10/1962, bà cùng bà con trong xóm đào hầm bí mật chứa 2 trung đội địa
phương quân tỉnh về ém quân, diệt gọn đại đội 10 bảo an của địch. Nhận chỉ đạo
của cấp trên phải diệt hai tên ác ôn, 8 giờ tối ngày 02/7/1964, bà cùng 2 du
kích trà trộn vào bà con đi chùa, bắn chết hai tên này tại quán cà phê cách đồn
chỉ hơn 100m. Năm 1966, bà làm Xã đội phó. Trong cuộc tổng tấn công Xuân Mậu
Thân 1968, bà cùng đội du kích tích cực phục vụ và cùng bộ đội đánh vào thị
xã Cao Lãnh, diệt ác phá kềm. Địch chi viện quân biệt động, xe M.113 phản
kích ác liệt. Riêng đơn vị du kích của bà diệt 27 tên, có 1 Mỹ. Ngày
03/6/1968, trên đường về huyện nhận chỉ thị mới, bà bị địch phục kích bắn bị
thương nặng và bắt sống. Địch tra tấn rồi dụ dỗ, bà vẫn giữ vững khí tiết, mắng
chửi lại địch. Không khai thác được gì, nên hôm sau địch giết chết bà.
Ngày 30/10/1978, Liệt sĩ Trần
Thị Thu được Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh
hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
|
TRẦN THỊ THU
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015.
|
146
|
NGUYỄN VĂN THƯ
|
Theo sách “Đại Nam nhất thống
chí” và “Đại Nam liệt truyện” do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, thì
Nguyễn Văn Thư (? - 1794), người huyện Kiến Phong, trấn Định Tường. Thân sinh
là ông Nguyễn Văn Núi và bà Lê Thị Nhạc gốc ở Bình Định, vào miền Nam khai
thác lâm thủy sản và khai hoang trồng lúa. Gia cảnh ngày một khá giả. Gia
đình ông vốn có truyền thống giỏi nghề võ, bản thân ông từng đánh cọp nổi tiếng
khắp vùng.
Ông Thư lập gia đình, vợ là
người ở thôn Mỹ Xương (nay là xã Mỹ Xương, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp).
Do vợ là người con duy nhất trong gia đình, nên ông Thư ở lại bên vợ.
Nguyễn Văn Thư là người khẳng
khái, có khí tiết. Năm Đinh Mùi (1787), Nguyễn Ánh sai người về vùng Sa Đéc
chiêu mộ thêm quân. Ông và hai người em cùng tham gia vào đội nghĩa binh. Ông
được bố trí dưới trướng Tôn Thất Hội, và ngay trong năm ấy, anh em ông Thư được
dịp thi thố tài năng ở Tham Lương và được phong chức Khâm sai cai cơ. Tháng 6
năm Kỷ Dậu (1789), Nguyễn Ánh cho đặt thêm đạo Kiên Đồn (ở cửa sông Tà Ôn thuộc
dinh Vĩnh Trấn), Cai cơ Nguyễn Văn Thư cùng với Tham mưu Nguyễn Ngọc Chương
được cử coi giữ và kiêm thu thuế của Hoa kiều, Tháng 10, ông được thăng làm
Chánh trưởng chi Tiền chi Hậu quân, qua năm sau thăng làm Khâm sai Tổng nhung
cai cơ Phó tướng Hậu quân. Đây là chức võ quan cao cấp, trật Chánh nhị phẩm hệ
võ ban. Sau, nhờ lập nhiều công trận, lại có đức độ trung dũng nên ông Thư được
phong chức Chưởng cơ.
Đến năm Tân hợi (1791), ông
được chuyển làm Khâm sai Tổng nhung cai cơ Phó tướng Tiền quân. Đến năm Giáp
Dần (1794), ông được sung vào đoàn quân giải vây thành Diên Khánh, rồi tiến
đánh cửa biển Thị Nại, phá hủy được trại Tiêu Cô, Mai Hương. Tuy thắng trận,
nhưng Nguyễn Văn Thư đều thiệt mạng do trúng đạn đại bác và trong cảnh hỗn loạn,
thi hài của ông Thư, hai em và nhiều tướng sĩ khác, đều chìm mất tại cửa biển
này.
Sau khi Nguyễn Phúc Ánh lên
ngôi vua lấy niên hiệu là Gia Long vào năm Nhâm Tuất), đã cho truy tặng các
tướng sĩ có công dựng lại cơ nghiệp, trong số ấy có ông Nguyễn Văn Thư được
ban Đặc Tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, Thượng Trụ quốc, Khâm sai Chưởng
dinh Thư Ngọc Hầu, được liệt thờ ở miếu Trung Hưng Công Thần.
|
NGUYỄN VĂN THƯ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.430
|
147
|
ĐINH HỮU THUẬT
|
Ông Đinh Hữu Thuật (1881 -
1942), người làng Mỹ Xương (nay thuộc huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Ông có
chân trong Hội đồng quản hạt, được mọi người gọi là Hội đồng Chánh.
Khi phong trào Đông Du, Duy
Tân nổ ra, ông tích cực tham gia với nhiều hoạt động, bản thân ông cũng đóng
góp cho phong trào khá lớn. Ông thường sát cánh cùng ông Nguyễn Quang Diêu.
Cuối tháng 5/1913, ông cùng ông Nguyễn Quang Diêu sang Long Xuyên bí mật tiếp
xúc với Cường Để. Ngay sau đó, một phái đoàn được thành lập để sang Trung Hoa
nhận “chỉ tệ tín phiếu”, mua vũ khí, đưa thêm một ít du học sinh và tìm lãnh
tụ Nguyễn Thần Hiến. Phái đoàn gồm 10 người lớn và 2 thanh niên, trong có
ông. Phái đoàn đến Hồng Kông được 1 tuần thì tất cả đều bị cảnh sát Anh bắt,
giao cho thực dân Pháp áp giải về nhà giam Hỏa Lò, Hà Nội. Tại đây, ông cùng
ông Nguyễn Quang Diêu và nhiều người khác bị xử 10 năm khổ sai biệt xứ, đày
đi Cayenne (Nam Mỹ). Đầu năm 1917, ông cùng ông Nguyễn Quang Diêu vượt ngục
sang Trinidad. Năm 1920, ông quyết định tìm đường về nước, ông đến núi Cấm
(Châu Đốc) để ẩn cư. Sau đó, ông đi lại nối kết với các đồng chí khác, hoạt động
nhiều nơi, đi đến đâu cũng bị bọn mật thám lùng sục, đuổi bắt, nhiều đồng chí
nằm im, vì vậy, ông về ngụ ở Mương Điều (nay thuộc xã Tân Khánh Trung, huyện
Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp) và mất vào năm 1942.
|
ĐINH HỮU THUẬT
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.426
|
148
|
TRẦN HỮU THƯỜNG
|
Ông Trần Hữu Thường (1844 - 1921),
quê thôn Phú Thuận, tỉnh An Giang (nay thuộc huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp).
Ông là một nhà mô phạm lỗi lạc
ở miền Nam khi thời Nho học còn thịnh. Dân gian thường gọi ông là cụ Tú Thường.
Ông theo học với cụ Huấn đạo
Nguyễn Văn Khuê, đỗ tú tài năm 1864 ở Trường thi An Giang. Ông về quê mở trường
dạy học, chẳng bao lâu, tiếng tăm thầy Tú Thường vang dội khắp miền Hậu
Giang. Cần người có uy tín với dân chúng trong bộ máy cai trị để giữ vững
công cuộc thống trị, thực dân Pháp nhiều lần mời thỉnh, dọa dẫm buộc ông ra
tham chính, nhưng ông quyết tâm không làm tay sai, tiếp tay với giặc bức hại
đồng bào, nên một mực từ chối. Khắp các tỉnh miền Tây, ở đâu cũng có người
theo học với ông. Học trò ông có nhiều người thành đạt, nổi tiếng, trong đó
trội hơn hết là ông Nguyễn Quang Diêu, người Tân Thuận (nay là xã Tân Thuận
Tây, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp), vừa là một lãnh tụ của phong trào
Đông Du ở miền Nam vừa là một nhà thơ yêu nước với số lượng sáng tác khá lớn.
Từ đầu thế kỷ XX trở đi, thực
dân Pháp tìm cách ngăn cản các nhà Nho dạy chữ Hán nhưng ông vẫn tiếp tục dạy
lén lút. Đến năm 1912, viên chủ tỉnh Châu Đốc là một người Pháp có óc hiếu cổ,
biết ông là người am tường các di tích trong vùng, mời ông đến dịch hai bia
Vĩnh Tế Sơn và Thoại Sơn ra văn vần. Ông là dịch giả bài văn bia Vĩnh Tế Sơn
đầu tiên ra quốc ngữ còn truyền tụng đến ngày nay.
|
TRẦN HỮU THƯỜNG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.431
|
149
|
ĐOÀN VĂN THƯỢNG
|
Ông Đoàn Văn Thượng 91927 -
1998), tên gia đình là Đoàn Minh Ngọc, quê làng Tân Thành, quận Hồng Ngự, tỉnh
Châu Đốc (nay là huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp). Từ tháng 3/1945, ông kinh
qua các chức vụ: làm liên lạc và vào Hội Thanh niên Đỏ, Huyện đoàn phó Thanh
niên Cứu quốc huyện Hồng Ngự, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam tháng
7/1947, Huyện đoàn trưởng, Phó Bí thư Chi bộ Mặt trận Dân vận huyện, Ủy viên
Ban Chấp hành Thanh niên Cứu quốc tỉnh Long Châu Tiền, Huyện đoàn trưởng
Thanh niên và Phó Bí thư Chi bộ Mặt trận Dân vận, cán bộ Kiểm tra Huyện ủy
Tân Hồng.
Sau đình chiến 1954, ông được
chỉ định Huyện ủy viên dự khuyết, sau đó là Huyện ủy viên chính thức, được Tỉnh
ủy Kiến Phong điều động về phụ trách căn cứ Tỉnh ủy. Năm 1958, ông là Phó Bí
thư Huyện ủy, rồi Quyền Bí thư Huyện ủy Hồng Ngự.
Năm 1962, ông vào Tỉnh ủy, được
phân công làm Bí thư Huyện ủy Mỹ An, sau đó là Bí thư Huyện ủy Hồng Ngự
(1964). Sau cuộc Tổng tấn công Xuân Mậu Thân 1968, ông làm Bí thư Thị uỷ Cao
Lãnh. Cuối năm 1972, ông là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, rồi Phó Bí thư Tỉnh
ủy Kiến Phong (3/1974). Khi thành lập tỉnh Long Châu Tiền, ông là Phó Bí thư
Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Cách mạng tỉnh Long Châu Tiền. Tháng
3/1976, ông là Tỉnh ủy viên, Trưởng Ty Thương nghiệp Đồng Tháp, rồi Chủ tịch
Hội đồng Trọng tài Kinh tế tỉnh (10/1980). Tháng 11/1986, ông nghỉ và mất năm
1998.
Ông đã được tặng thưởng Huy
hiệu 50 năm tuổi Đảng, Huân chương Độc lập hạng Nhì, Huân chương Quyết thắng
hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương chống Mỹ cứu nước hạng
Nhất.
|
ĐOÀN VĂN THƯỢNG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.433
|
150
|
NGUYỄN VĂN TIẾP
|
Nguyễn Văn Tiếp (1945 -
1996), quê xã Tân Thành, huyện Hồng Ngự (nay là xã Tân Thành A, huyện Tân Hồng,
tỉnh Đồng Tháp).
Đang là du kích xã, ông xin
vô công trường sản xuất vũ khí. Qua nhiều lần thử nghiệm, ông cùng anh em đã
thành công trong việc lấy liều tống của hỏa tiễn 75 ly để tống đầu đạn 155
ly. Hai trái đạn 155 ly xuất xưởng đầu tiên được bắn vô cụm pháo Quản Khánh,
phá huỷ 2 khẩu pháo 155 ly của địch. Ông cùng anh em lại sáng chế phóng đầu đạn
105 ly thành công và đặt tên cho nó là H.300; nghiên cứu nối khúc gỗ vào sau
đạn cối 120 ly và bắn bằng súng cối 81 ly; cải tiến cách gói thuốc nổ TNT vô
thùng đựng đạn đại liên, thường gọi là “gói giá” hay “320” - đồn Bờ Rào bị
đánh bằng loại này đã hoảng sợ, rút chạy. Trong việc sản xuất lựu đạn, ông
nghiên cứu cải tiến khuôn đầu, khuôn tim, khuôn kim hỏa, khuôn gọt tay thắng,
tăng năng suất gấp 4 lần. 10 năm công tác ở xưởng, ông cùng anh em sản xuất
7.904 lựu đạn, 145 trái mìn, tháo gỡ 1.200 bom, pháo lép của địch, cải tiến
770 đạn DKZ, đạn pháo 155 ly, 105 ly, cối 120, 81, 82, 60 ly, đạn B.40, B.41
để đánh địch.
Ông 3 lần được bầu Chiến sĩ
thi đua cấp tỉnh, 3 lần danh hiệu Dũng sĩ quyết thắng, nhiều Bằng khen, Giấy
khen. Ngày 30/8/1978, ông Nguyễn Văn Tiệp được Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Khi
ấy ông là Thiếu uý, Phó Giám đốc Xưởng sửa chữa cấp III Tỉnh đội Đồng Tháp, đại
biểu Quốc hội khóa VI, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
|
NGUYỄN VĂN TIẾP
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.435
|
151
|
LÂM THANH TÒNG
|
Lâm Thanh Tòng (1937 - 2000),
nghệ sĩ Lâm Tới, làng Mỹ Hội, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là huyện Cao Lãnh,
tỉnh Đồng Tháp). Tháng 02/1954, ông gia nhập bộ đội thuộc Đại đội 949, Tiểu
đoàn 311, làm liên lạc.
Tập kết ra Bắc, ông học văn
hóa tại trường Học sinh miền Nam số 2 Thanh Hóa. Tháng 8/1959, ông vào học
Trường Điện ảnh khóa đầu tiên ở Hà Nội và năm 1964 tốt nghiệp loại ưu, là diễn
viên Xưởng phim truyện Việt Nam, được chọn đóng vai Kính trong phim “Hai
người lính”, phim đoạt giải Quả cầu vàng ở Tiệp Khắc. Ông liên tiếp đóng
các phim: Trên vĩ tuyến 17, Nổi gió, Nguyễn Văn Trỗi, Đường về quê mẹ, Vĩ
tuyến 17 ngày và đêm… Từ tháng 4/1974, ông là sinh viên thực tập đạo diễn
phim ở Cộng hòa Dân chủ Đức. Tốt nghiệp ông về làm diễn viên và đạo diễn ở
Hãng phim Giải phóng, tham gia làm các phim: Giữa hai làn nước, Mùa gió
chướng, Cánh đồng hoang, Nắng đỏ… Ông là một diễn viên đa tài, đóng giỏi
những vai phản diện lẫn chính diện. Nổi bật là vai Núi trong Đường về quê
mẹ, Ba Đô trong Cánh đồng hoang, Tám Quyện trong Mùa gió chướng…
gây ấn tượng sâu sắc trong công chúng. Ông được chọn là diễn viên xuất sắc nhất
trong vai Tám Quyện, phim Mùa gió chướng tại Đại hội Liên hoan phim Việt
Nam năm 1982 và đến Mát-cơ-va nhận phần thưởng cao nhất cho phim Cánh đồng
hoang.
Ông đã được tặng thưởng Huân
chương Kháng chiến chống Pháp hạng Ba, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng
Ba, Huy hiệu thành phố Hồ Chí Minh, và được phong danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú
(1984), Nghệ sĩ Nhân dân (1997).
|
LÂM THANH TÒNG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.436
|
152
|
NGUYỄN THỊ TRÀ
|
Nguyễn Thị Trà (1932 - 1962),
bí danh Sáu Cúc, quê xã Tịnh Thới, huyện Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là xã Tịnh
Thới, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Năm 1954, bà tham gia hoạt động
cách mạng, đến ngày 01/6/1956, được kết nạp vào Đảng.
Năm 1959, bà được Huyện ủy
Cao Lãnh giao nhiệm vụ Bí thư Chi bộ kiêm Chính trị viên Xã đội.
Bà đã phát triển được 15 du
kích xã, 45 du kích mật, 06 đảng viên, 25 đoàn viên, trên 300 hội viên đoàn
thể nông thanh phụ và 07 cơ sở trong lòng địch, nâng chất lượng 02 cơ sở nội
tuyến, dứt điểm 02 đồn cấp trung đội, thu 50 súng, diệt 06 tên ngoan cố, bắt
nhiều tề điệp nguy hiểm đem về vùng giải phóng để khai thác. Bà cùng với bộ đội
huyện tổ chức đánh 04 trận, diệt 25 tên, làm bị thương 40 tên khác, thu 17
súng các loại và 12 lần vũ trang tuyên truyền để phát huy uy thế của ta, hạ
uy thế địch. Cùng với đặc công tỉnh, đánh pông-tông cầu Bắc. Tháng 6/1962,
trên đường đi hội nghị Huyện ủy mở rộng để nhận chỉ đạo mới, bà lọt vào ổ phục
kích của địch, trúng đạn và bị thương nặng, nhưng vẫn bình tĩnh, gan dạ, giấu
tất cả tài liệu quan trọng. Địch bắt bà nhưng không khai thác được gì, liền bắt
chết và kéo xác bà về nhà Hội đồng xã hòng răn đe quần chúng.
Với thành tích đặc biệt xuất
sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngày 30/01/2011, Chủ tịch nước
CXHXCN Việt Nam đã truy tặng Liệt sỹ Nguyễn Thị Trà danh hiệu Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân.
|
NGUYỄN THỊ TRÀ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.438
|
153
|
NGUYỄN VĂN TRE
|
Ông Nguyễn Văn Tre (1934 -
1971), tại làng Thanh Mỹ, quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho (nay là xã Thanh Mỹ, huyện
Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp). Ông tham gia cách mạng trong đội du kích ấp, rồi
du kích xã, chiến đấu chống địch. Trận địa đánh địch của ông là ấp Hưng Lợi,
quê ông và vũ khí diệt địch là các loại chông, lôi, trái gài tự tạo. Tính
chung từ năm 1965 - 1971, bằng trái gài ông chặn đánh địch 250 trận, giết chết
150 tên (có 10 Mỹ), làm bị thương hơn 200 tên (có 20 Mỹ).
Mùa khô năm 1967, 1 tiểu đoàn
của Sư đoàn 7 càn vào xã, ông cùng hai tổ du kích gài một trái pháo 105 ly và
20 lựu đạn tại gò cao. Địch vào đó, vướng nhiều trái nổ, chết và bị thương 30
tên. Năm 1969, Mỹ đổ quân “nhảy cóc” lọt vào bãi lựu đạn gài của ông, 1 trái
nổ làm 3 tên chết. Mùa mưa năm 1969, địch phát hiện điểm hội nghị Binh vận của
tỉnh ở kinh Nguyễn Văn Tiếp B, liền đổ 1 trung đoàn thuộc Sư đoàn 7, chia nhiều
mũi đánh vào. Được giao nhiệm vụ bảo vệ hội nghị, ông cùng du kích bám theo
các mũi quân địch, gài lựu đạn đánh chặn. Địch không vào được và cụm quân bao
vây chặt khu vực. Đến tối, ông gỡ lựu đạn, đưa 60 đại biểu ra khỏi vòng vây
an toàn, rồi trở lại gài lựu đạn. Sáng địch đánh vào, không gặp ai và kết quả
có hơn 60 tên bị diệt. Tháng 02/1971, ông hy sinh khi đang là Phó Bí thư Xã ủy,
Chính trị viên Xã đội Thanh Mỹ.
Ngày 30/10/1978, Liệt sỹ Nguyễn
Văn Tre được Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh
hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
|
NGUYỄN VĂN TRE
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.441
|
154
|
NGUYỄN MINH TRÍ
|
Ông Nguyễn Minh Trí (1946 -
1967), quê xã An Bình, huyện Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là tỉnh Đồng Tháp).
Lúc hy sinh là cán bộ trung đội, xạ thủ B.41, Tiểu đoàn 502. Một tuổi quân,
ông tham gia 22 trận đánh và tiến bộ rất nhanh.
Rạng sáng ngày 04/12/1967, Mỹ
dùng chiến thuật Hạm đội nhỏ trên sông, đưa hàng trăm tàu chiến mở trận càn
quét lớn theo sông Rạch Ruộng vào Đồng Tháp Mười. Đoàn tàu chạy qua trận địa
ta mai phục, đến khoá đầu trong thì ta nổ súng. Ông siết cò phóng viên đạn
B.41 làm chiếc tàu vừa đến ngang công sự mình bốc cháy và chìm xuống nước.
Ông bắn viên đạn thứ hai làm một chiếc tàu nữa bốc cháy. Trận địa mù mịt khói
đạn. Ông đã bắn hết 4 viên đạn B.41 trong 5 phút, vượt quá qui định thời gian
cho phép. Tàu địch tiếp tục vào, bất chấp quy định mỗi xạ thủ chỉ được bắn tối
đa 4 phát đạn với một khoảng thời gian cách xa nhau, ông giựt túi đạn của người
tiếp đạn, bắn tới phát thứ 9, làm chìm 7 tàu Mỹ và hai chiếc khác bị thương. Việc
làm quá sức con người đó, khiến ông hy sinh giữa trận địa. Kết quả trận đánh,
37 tàu và trên 300 quân Mỹ nguỵ bị diệt. Trong đó có phần đóng góp công lao
và sự hy sinh ngoan cường của Liệt sỹ Nguyễn Minh Trí.
Ngày 30/10/1977, Liệt sỹ Nguyễn
Minh Trí được Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh
hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
|
NGUYỄN MINH TRÍ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.442
|
155
|
NGUYỄN VĂN TRÍ
|
Nguyễn Văn Trí (? - 1965).
Năm 1950, Xứ uỷ Nam Bộ quyết định thành lập tỉnh căn cứ Đồng Tháp, địa bàn gồm
huyện Mộc Hóa của tỉnh Tân An, hai huyện Cái Bè và Cai Lậy của tỉnh Mỹ Tho và
huyện Cao Lãnh của tỉnh Sa Đéc. Tỉnh lỵ đặt tại Mộc Hóa.
Xứ uỷ chỉ định Tỉnh ủy Đồng
Tháp gồm 9 người do ông Nguyễn Văn Trí (Hai Trí), Khu ủy viên Khu 8, Phó
Chính uỷ Bộ Tư lệnh Quân Khu 8 làm Bí thư Tỉnh ủy. Nhiệm vụ của tỉnh Đồng
Tháp là xây dựng Đồng Tháp Mười thành một vùng căn cứ vững mạnh về mọi mặt, dự
trữ lực lượng kháng chiến lâu dài. Tỉnh Đồng Tháp hoạt động được 6 tháng thì
giải thể, vì Trung ương và Trung ương Cục giải thể Khu 7, Khu 8, Khu 9, thành
lập Mặt trận Đồng Tháp và Mặt trận Cửu Long, theo yêu cầu lãnh đạo cuộc kháng
chiến. Cuối năm 1951, ông Nguyễn Văn Trí được Trung ương Cục điều về làm Trưởng
ban Căn cứ địa Nam Bộ. Tập kết ra Bắc, ông Nguyễn Văn Trí làm Thứ trưởng Bộ
Nông trường nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông từ trần năm 1965.
Năm 1997, ông Nguyễn Văn Trí
được Nhà nước truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh.
|
NGUYỄN VĂN TRÍ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.443
|
156
|
NGUYỄN TRỌNG TRÌ
|
Ông Nguyễn Trọng Trì 1832 -
1899), người thôn Định An, tổng An Phú, huyện Đông Xuyên, tỉnh An Giang (nay
là xã Định Yên, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp).
Ông Nguyễn Trọng Trì, đỗ cử
nhân khoa thi Hương năm Ất Mão (1855) tại trường thi Gia Định, được phong Hàn
lâm viện Điển bộ, Tòng bát phẩm. Năm 1864, được cử làm Giáo Thọ, trông coi Phủ
học Tân Thành (Sa Đéc). Đến năm 1866, chưa đầy một năm trước khi thực dân
Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ (1867), triều đình Huế cử ông làm Tuần
phủ tỉnh An Giang, kiêm nhiếp phủ Tuy Biên, dưới quyền Tổng đốc Phan Khắc Thận.
Biết ông là một Nho quan của
triều đình Huế, có uy tín trong vùng, thực dân Pháp ra sức khuyến dụ ông hợp
tác với chúng, nhưng bị ông cự tuyệt. Hưởng ứng phong trào kháng Pháp của
nhân dân Nam Kỳ, ông chiêu tập nghĩa dõng, sĩ phu gia nhập nghĩa binh của
Nguyễn Trung Trực. Đêm 16/6/1868, nghĩa binh của Nguyễn Trung Trực đánh chiếm
và làm chủ thành Kiên Giang (Rạch Giá). Hai ngày sau, Pháp và tay sai phản
công đánh chiếm lại thành. Sau ba ngày đêm chiến đấu anh dũng, nhưng vì lực
lượng không cân sức, ông Nguyễn Trung Trực ra lệnh cho nghĩa binh rút về Hòn
Chông, rồi ra Phú Quốc. Trong thời gian này, để phân tán lực lượng của Pháp,
chặn bước tiến của chúng từ hướng An Giang tiến xuống, ông Nguyễn Trọng Trì
lãnh đạo một toán binh cùng với nhân dân địa phương đốn cây, đắp cản, lập một
trận đánh tàu Pháp tại vùng Ba Bần, Trà Kên, Lạc Dục (nay thuộc huyện Thoại
Sơn, tỉnh An Giang).
Khi ông Nguyễn Trung Trực bị
Pháp bắt và hành hình tại Rạch Giá (27/10/1868), ông Nguyễn Trọng Trì vẫn tiếp
tục kháng chiến, ông đem toán nghĩa binh còn lại gia nhập đạo binh “Gia Nghị”
của Quản cơ Trần Văn Thành, lập chiến khu Bảy Thưa (vùng Láng Linh), từ căn cứ
này tỏa ra đánh tiêu hao đồn Pháp khắp trong vùng…
Cho đến tháng 3/1867, Pháp phải
huy động toàn lực lượng từ Long Xuyên, Châu Đốc, Vĩnh Long, Cần Thơ… chia làm
các ngã đánh vô chiến khu Bảy Thưa hòng tiêu diệt căn cứ kháng chiến của
nghĩa quân. Nghĩa binh dưới sự chỉ huy của ông Trần Văn Thành và các vị dưới
trướng đã quyết liệt chống trả quân Pháp trong nhiều ngày đêm, song do vũ khí
thiếu thốn, lực lượng không cân sức, đại đồn Bảy Thưa thất thủ. Ông nguyễn Trọng
Trì cùng một số nghĩa binh phá được vòng vây của Pháp, vượt rạch, băng sông,
tìm nơi mai danh ẩn tích chờ cơ hội rửa mối nhục của người dân mất nước.
Sau một thời gian, ông trở về
sống ẩn dật ở làng Định Yên với tên gọi mới là Kỷ, mở lớp dạy học chữ Nho,
thu nhận học trò với hơn 20 người là con em trong làng và các làng lân cận.
Ông Nguyễn Trọng Trì mất ngày 11 tháng Chạp năm Bính Tuất (1899), hưởng thọ
67 tuổi.
|
NGUYỄN TRỌNG TRÌ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.444
|
157
|
VÕ VĂN TRỊ
|
Ông Võ Văn Trị (1928 - 1968),
tên thường dùng Mười Đồng, quê làng Hoà An, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay
là thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Ông tham gia cách mạng từ tháng Tám
năm 1945. Tháng 3/1947, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, cuối
năm 1947, ông được bầu vào Ban Chấp hành Thanh niên cứu quốc huyện Cao Lãnh.
Tháng 6/1948, ông là Huyện ủy viên Huyện ủy Cao Lãnh, rồi Ủy viên Ban Thường
vụ Huyện ủy phụ trách hai đoàn kiểm tra công tác đảng, quân, chánh hai khu vực
tổng An Tịnh và tổng Phong Nẩm (1949). Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, ông giữ
nhiệm vụ Phó Bí thư Huyện ủy Cao Lãnh, rồi Bí thư Huyện ủy Cao Lãnh
(11/1955), Phó Bí thư Huyện ủy (đầu năm 1956), Bí thư Huyện ủy Cao Lãnh
(1957). Đầu tháng 9/1959, là Tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Kiến Phong, rồi Ủy viên Ban
Thường vụ Tỉnh ủy (đầu năm 1960), phụ trách Trưởng ban Mặt trận Dân vận tỉnh
Kiến Phong. Cuối năm 1960, ông được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy, tiếp tục phụ
trách Mặt trận Dân vận. Đầu năm 1965, ông được cử làm Chính trị viên Tỉnh đội
Kiến Phong.
Ngày 14/10/1968, trong một trận
ném bom của máy bay B.52, ông hy sinh ở tuổi 40 khi đang giữ trọng trách Phó
Bí thư Tỉnh ủy, Chính trị viên Tỉnh đội Kiến Phong. Ông hy sinh là một tổn thất
lớn cho Đảng bộ và lực lượng vũ trang tỉnh nhà lúc bấy giờ. Ông Võ Văn Trị đã
được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì, Huân chương Quyết thắng hạng
Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất.
|
VÕ VĂN TRỊ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.446
|
158
|
TRƯƠNG VĨNH TRỌNG
|
Ông Trương Vĩnh Trọng (1942 -
2021), tên thường dùng là Hai Nghĩa, quê xã Bình Hoà, huyện Giồng Trôm, tỉnh
Bến Tre. Năm 1960, lúc còn đang đi học, ông hoạt động bí mật trong học sinh
thị xã Bến Tre. Đến năm 1964, ông được kết nạp vào Đảng Nhân dân Cách mạng Việt
Nam. Năm 1978, ông được bầu vào Tỉnh ủy Bến Tre, sau đó là Ủy viên Ban Thường
vụ Tỉnh ủy, Bí thư Huyện ủy Giồng Trôm (1982).
Tại Đại hội Đảng lần thứ VI
(1986), ông được bầu làm Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Phó
Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bến Tre (4/1987 - 6/1991). Đại
hội Đảng lần thứ VII (1991), ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, được rút về Trung ương nhận nhiệm vụ Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung
ương. Tại Đại hội Đảng lần thứ VIII (tháng 6/1996), ông tiếp tục được bầu vào
Ban Chấp hành Trung ương Đảng và làm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương
Đảng. Từ tháng 02/1998, ông làm Trưởng ban Bảo vệ Chính trị nội bộ Trung
ương. Tháng 7/2000, ông làm Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp. Đại hội Đảng lần thứ IX
(2001), ông đắc cử vào Ban Bí thư Trung ương Đảng, tháng 4/2001, ông được phân
công giữ chức Trưởng ban Nội chínhh Trung ương. Tại Đại hội Đảng lần thứ X,
ông được bầu vào Bộ Chính trị, tiếp tục được phân công làm Trưởng Ban Nội
chính Trung ương. Tháng 6/2006, ông được bầu giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ.
Tháng 10/2011, ông nghỉ hưu, ngụ ở quê nhà - xã Lương Quới, huyện Giồng Trôm,
tỉnh Bến Tre.
Quá trình chiến đấu và công
tác ông đã được tặng Huy hiệu 55 năm tuổi Đảng, Huân cương Hồ Chí Minh, Huân
chương Độc lập hạng Ba, Huân chương Quyết thắng hạng Nhất, Huân chương Kháng
chiến hạng Nhất và nhiều huân huy trương cao quý khác.
|
TRƯƠNG VĨNH TRỌNG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.457
|
159
|
PHAN LƯƠNG TRỰC
|
Ông Phan Lương Trực (1930 -
2012), có tên khai sinh là Đỗ Hữu Công, quê làng Bình Đức, huyện Châu Thành,
tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang). Tháng 5/1947, kỷ niệm một năm ngày thầy
giáo - chiến sĩ cách mạng Phan Lương Trực hy sinh, ông xin phép được lấy tên
người thầy kính yêu của mình làm bí danh. Từ đây, cái tên Phan Lương Trực gắn
bó suốt cuộc đời binh nghiệp của ông.
Ngày 15/8/1948, ông được kết
nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ tháng 8/1948, đến tháng 10/1954, ông lần
lượt giữ các chức vụ: Tiểu đội trưởng, Chính trị viên trung đội, Chính trị
viên đại đội, Đại đội trưởng Đại đội 2053, Phó Bí thư Chi bộ của Đại đội, Phó
Ban tác huấn của tiểu đoàn 404, Khu 8. Tháng 10/1954, ông tập kết ra miền Bắc.
Sau đó ông được cử đi đào tạo các lớp về quân sự. Tháng 3/1965, ông trở về miền
Nam chiến đấu, làm cán bộ nghiên cứu phòng tác chiến Bộ Tham mưu Miền. Từ năm
1970 đến 30/4/1975, ông làm Trưởng ban Tác chiến Quân khu 8, cấp hàm Thiếu
tá.
Từ năm 1975 đến 1978, ông là
Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Tháp, cấp hàm Trung tá. Ông cùng
Bộ chỉ huy quân sự tỉnh thực hiện tốt nhiệm vụ, chỉ huy lực lượng vũ trang phối
hợp dân quân, du kích đánh quân Pôn - Pốt (Campuchia) xâm lấn biên giới nước
ta, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ; thành lập 2 nông trường Đường Thét và Giồng
Găng hoạt động có hiệu quả, góp phần xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội
- quốc phòng ở vùng Đồng Tháp Mười.
Từ năm 1980, ông làm Phó Tư lệnh
Quân khu 9, Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Tiền Giang, cấp hàm Thiếu
tướng. Năm 1997, ông được nghỉ hưu. Ông được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huy
hiệu 65 năm tuổi Đảng, 14 huân chương các loại, Huy chương Thành đồng Tổ quốc.
|
PHAN LƯƠNG TRỰC
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.462
|
160
|
NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG
|
Ông Nguyễn Xuân Trường (1922
- 2006), bí danh Mười Nhẹ, quê làng An Bình, tổng An Phước, quận Tân Châu, tỉnh
Châu Đốc (nay thuộc thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp). Ông tham gia Cách mạng
tháng Tám năm 1945, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 11/1948.
Tháng 11/1955, ông làm Chánh Văn phòng Tỉnh ủy Châu Đốc. Đến tháng 7/1956,
ông là Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy Hồng Ngự. Năm 1957, ông làm Phó Bí thư,
rồi Bí thư Huyện ủy Hồng Ngự, được bổ sung vào Tỉnh ủy Kiến Phong. Tháng
9/1962, ông làm Bí thư Huyện ủy Thanh Bình. Được hơn một năm thì Tỉnh ủy rút
lên phụ trách công tác Dân vận - Mặt trận và bầu bổ sung vào Ban Thường vụ Tỉnh
ủy rồi Phó Bí thư. Tháng 11/1972 đến tháng 3/1974, ông làm Bí thư Tỉnh ủy Kiến
Phong. Từ giữa năm 1974, ông làm Bí thư Tỉnh ủy Long Châu Tiền cho đến hết
năm 1975.
Đầu năm 1976, tỉnh Đồng Tháp
được thành lập, ông làm Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng Tháp.
Trọng trách này ông thực hiện đến tháng 5/1987. Sau đó, ông chuyển qua làm Chủ
tịch Ủy ban Hữu nghị đoàn kết với các nước, tham gia hoạt động quỹ vì tuổi
thơ của tỉnh và làm chuyên viên Chính phủ trong Ban chỉ đạo khai thác Đồng
Tháp Mười. Tháng 7/1995, ông nghỉ hưu.
Ông được tặng Huy hiệu 55 năm
tuổi Đảng, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Quyết thắng hạng Nhất,
Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Lao động hạng Ba.
|
NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.464
|
161
|
NGUYỄN TÚ
|
Ông Nguyễn Tú (? - ?), người
thôn Bả Canh, xã Đập Đá, phủ Hoài Nhơn, trấn Bình Định, nguyên là tuỳ tướng của
nghĩa quân Tây Sơn trước đây. Khi nhà Tây Sơn sụp đổ, để tránh sự trả thù của
nhà Nguyễn, ông cùng vợ trốn vào Nam lập nghiệp. Thuở ấy, vùng Mỹ Trà, An
Bình còn nhiều nơi là rừng rậm, đầy thú dữ. Ông hô hào những người đi khẩn
hoang cùng nhau phá rừng cất nhà làm ruộng. Năm nọ, thú loạn rừng tràn ra bờ
rạch Cái Sao phá hoại mùa màng, gia súc, thậm chí còn bắt người ăn thịt. Bà Vại
nhà gần rạch Cái Sao, vào lúc trời chạng vạng, bà ngồi rửa chén cạnh bờ sông
bị cọp vồ mất xác. Những việc đó làm cho mọi người hoang mang lo sợ, công việc
ruộng rẫy ngưng trệ, cứ trời về chiều là mọi nhà đóng chặt cửa không dám ra
ngoài.
Thấy vậy, Nguyễn Tú tập hợp
trai tráng truyền dạy võ nghệ, tổ chức rào thôn xóm, canh phòng thú dữ. Hễ có
báo động, mọi nhà đều đánh mõ, đánh trống ầm lên để xua đuổi chúng đi. Nhiều
lần đi tuần phòng gặp cọp, ông đều hạ được. Nhờ vậy, lần hồi thú dữ bị đẩy
lùi vào rừng sâu, mọi người làm ăn bình thường trở lại. Công cuộc khai hoang
ngày một mở rộng, nhiều bà con cùng quê quán vào lập nghiệp được ông giúp đỡ
mọi mặt, thôn xóm ngày một đông vui, làm ăn sung túc. Lúc bấy giờ, ở Nam Kỳ tổ
chức hành chính còn lỏng lẻo, chưa phân chia thành phủ, huyện rạch ròi. Toàn
vùng chia làm 9 khố trường chủ yếu là để thu thuế, miền đất sau này mang tên
Cao Lãnh, lúc ấy thuộc khố trường Bả Canh. Phải chăng, ở đây có nhiều lưu dân
xuất thân từ thôn Bả Canh - Bình Định nên Bả Canh được dùng làm tên đặt cho
khố trường này. Sau đó, hai thôn An Bình và Mỹ Trà lần lượt ra đời.
Nguyễn Tú được mọi người cử
làm người đứng đầu khố trường thay mặt nhân dân giao tiếp với quan trên. Với
địa vị này, ông đứng về phía dân chúng chống lại sự áp bức của bọn cường hào
ác bá, giúp người nghèo khó thoát cảnh sưu thuế nặng.
Đến khi vợ chồng ông già yếu
qua đời, mặc dù không có con thừa tự, nhưng hai người vẫn được dân làng mai
táng chu đáo trong niềm thương tiếc và biết ơn. Người đời sau dựng bia ghi
công đức của ông, gọi là bia Tiền hiền làng Mỹ Trà.
|
NGUYỄN TÚ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.466
|
162
|
NGUYỄN HOÀNG TƯ
|
Ông Nguyễn Hoàng Tư (1922 -
1946), tên thật là Nguyễn Văn Tư, bút hiệu Thuý Minh, quê Nha Mân, tổng An Mỹ,
quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (nay là xã Tân Nhuận Đông, huyện Châu Thành, tỉnh
Đồng Tháp).
Ông là thành viên Mặt trận Việt
Minh trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 và là cây bút cách mạng chủ lực, có
nhiều tâm huyết, ông thường xuyên có bài đăng trên tờ tuần báo “Thanh niên”
(1943 - 1944) và tờ báo “Tiến” (1945), cơ quan ngôn luận của Thanh niên tiền
phong. Ông bị thực dân Pháp bắt tại Sài Gòn, những ngày đầu Nam Bộ kháng chiến
(23/9/1945), bị tra tấn dã man và hy sinh khoảng đầu năm 1946 trong nhà
thương Chợ Quán (Sài Gòn) khi mới 24 tuổi đời.
Trong sự nghiệp văn chương,
ông đã hoàn thành tập thơ “Ánh thiêng liêng” và 3 tập kịch thơ “Tháp ngất trời”,
“Trọng Thuỷ - Mỵ Châu”, “Thái tử Đan”, ngoài ra còn có vở kịch thơ ngắn “Trần
lụy” đăng trên tuần báo “Thanh niên” số Xuân Giáp Thân 1944.
|
NGUYỄN HOÀNG TƯ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.474
|
163
|
NGUYỄN ĐÌNH TUẤN
|
Ông Nguyễn Đình Tuấn (1907 -
1944), quê làng Tân Bình, tổng An Phú, quận Thốt Nốt, tỉnh Long Xuyên (nay
thuộc xã Bình Thạnh Trung, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp).
Tháng 5/1928, ông gia nhập Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Chi bộ Hội Lấp Vò, hoạt động cùng các thầy
giáo: Thầy Cưng, thầy Cái, thầy Hanh…, Tháng 11/1929, Chi bộ An Nam Cộng sản
Đảng Lấp Vò ra đời, ông là 1 trong 6 đảng viên đầu tiên của Chi bộ này. Quá
trình hoạt động cách mạng, ông Nguyễn Đình Tuấn được Đảng tín nhiệm giao trọng
trách Ủy viên Xứ uỷ Nam Kỳ. Ngày 07/9/1936, Nguyễn Đình Tuấn bị thực dân Pháp
bắt và dùng mọi cực hình tra tấn, nhưng ông vẫn trung kiên, bất khuất, giữ
khí tiết người đảng viên Cộng sản. Không khai thác được gì và không đủ chứng
cứ buộc tội, ngày 25/3/1938, Pháp trả tự do cho ông. Ra tù, ông tiếp tục hoạt
động cách mạng. Do hậu quả địch tra tấn, ông bệnh nặng và từ trần ngày
23/8/1944 khi vừa tròn 37 tuổi.
|
NGUYỄN ĐÌNH TUẤN
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.468
|
164
|
ĐỔ CÔNG TƯỜNG
|
Ông Đỗ Công Tường (? - 1820),
gốc người miền Trung, là con ông Đỗ Văn Văn, vào Nam dưới thời chúa Nguyễn,
ban đầu định cư ở vàm Rạch Chanh. Thời đó, vùng này còn hoang vu có tên là rừng
Sáu Võ. Ông Văn sinh được hai con trai là Đỗ Công Tường, Đỗ Văn Thoại và bốn
người con gái.
Ông Đỗ Công Tường có tên tục
là Lãnh chưa rõ sinh năm nào, chỉ còn biết khoảng năm 1817, dưới thời Gia
Long, ông cùng vợ đến khai khẩn vạt đất ven bờ rạch Thầy Khâm. Thấy đất tốt,
ông bà trồng quýt. Sở đất ở vị trí gần vàm, nơi rạch Thầy Khâm đổ ra sông Con
(sau gọi là sông Cao Lãnh), nên bà con trong làng mang thổ sản ra đây buôn
bán, lâu ngày thành chợ và gọi nôm na là chợ Vườn Quýt. Cả hai ông bà đều có
lòng thương người, thường cưu mang, giúp đỡ người khốn khó, riêng ông tính
tình cương trực, sẵn sàng giúp kẻ cô thế, nên cả hai đều được mọi người cảm mến.
Do đó, khi làng được thành lập, ông được cử giữ chức câu đương, trông coi việc
phân xử các vụ tranh tụng nhỏ trong làng. Chợ Vườn Quýt ngày tấp nập, đông
người đến mua bán, do ông làm chức Câu đương, nên có người còn gọi chợ Ông
Câu hoặc chợ Câu Lãnh.
Năm Canh Thìn (1820), dân
làng Mỹ Trà bị bệnh dịch tả hoành hành, có nhà chết gần hết. Tiếng kêu cứu,
khóc than vang dậy, cảnh chôn cất người chết diễn ra suốt ngày, ban đêm tiếng
mõ kêu cứu nổi lên từng chập, làng xóm, chợ búa vắng vẻ tiêu điều.
Lúc bấy giờ, người ta cho rằng
bị bệnh dịch là do trời đất quở phạt.
Không thể ngồi yên nhìn cảnh
tượng đau thương ấy, ông bà lập bàn thờ giữa chợ, cầu xin trời đất phù trợ
cho dân chúng tai qua nạn khỏi và nguyện chết thay cho họ. Khấn nguyện xong,
ông bà ăn chay ba ngày, từ ngày mùng sáu đến ngày mùng tám. Đến sáng mùng
chín bà lâm bệnh, đến tối thì qua đời. Đang lo tẩn liệm cho bà thì ông phát bệnh
và đến hai giờ sáng ngày mười một, ông cũng qua đời.
Dân làng an táng ông bà xong
thì bệnh thời khí lần hồi cũng dứt luôn. Do vậy, dân làng nghĩ rằng chính ông
bà là người đã cứu họ thoát chết, nên đã cùng nhau kẻ công người của, lập đền
thờ ông bà bên bờ kinh Thầy Khâm (nay là đường Lê Lợi) ngày đêm khói hương để
tưởng nhớ công lao của hai người, được gọi là miếu Ông bà Chủ chợ.
|
ĐỔ CÔNG TƯỜNG
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.477
|
165
|
NGUYỄNVĂN TUYÊN
|
Ông Nguyễn Văn Tuyên (1762 -
1830), người huyện Vĩnh An, trấn An Giang (thuộc vùng đất Sa Đéc).
Đầu năm 1788 (Mậu Thân), ông
theo quan quân chúa Nguyễn đi đánh giặc, từng làm phó Vệ uý vệ Hổ uy quân Thần
sách. Có lúc bị cách chức, rồi lại cho khôi phục nguyên hàm, theo quân đi
đánh giặc. Năm 1801 (Tân Dậu), được thăng Vệ uý kinh uy doanh Tiền quân. Năm
Gia Long thứ 11 (1812), thăng Vệ uý vệ Chấn bảo nhất quân Chấn vũ, Khâm sai
chưởng cơ. Năm Gia Long thứ 15 (1816), điện quản vệ uý Hữu bảo nhất Hữu quân
kiêm đem quân 2 vệ Hữu bảo nhất, Hữu bảo nhị theo Lê Văn Duyệt đi dẹp giặc
“ác man” ở Quảng Ngãi, chém được hơn 300 đầu giặc, được thưởng 300 quan tiền.
Mùa Đông năm 1819 (Gia Long thứ 18), vâng lệnh, sung làm Phó Đổng lý đi đào
kênh Vĩnh Tế. Năm 1822 (Minh Mạng thứ 3), theo chức cũ làm Trấn thủ Biên Hoà,
vì có tang cha, xin từ chức, khi hết tang được điện bổ Trấn Thủ Định Tường.
Mùa Đông năm 1823 (Minh Mạng
thứ 4), hội đồng với Thống chế Nguyễn Văn Thoại (tức Thoại Ngọc Hầu) và Trần
Công Lại, lại trông coi việc đào kênh Vĩnh Tế, rồi được triệu về kinh đô Huế.
Năm 1824, ra làm trấn thủ Vĩnh Thanh, rồi bổ Thống chế coi biền binh thành
Gia Định. Năm 1827, Tổng trấn Gia Định thành là Lê Văn Duyệt được triệu về
Kinh, Nguyễn Văn Tuyên được cử quyền nhiếp Tổng trấn vụ. Năm sau (1828), khi
Lê Văn Duyệt trở về, Nguyễn Văn Tuyên lại được sung chức như cũ. Năm 1829
(Minh Mạng thứ 10), Nguyễn Văn Tuyên được truyền giao quốc ấn, đóng giữ đồn
Châu Đốc, kiêm lĩnh việc biên giới Hà Tiên. Năm 1830 (Minh Mạng thứ 11), ông
Nguyễn Văn Tuyên bệnh mất, hưởng thọ 68 tuổi. Con trưởng tên là Cửu theo hàm
tập ấm làm quan Phó lãnh binh ở Hải Tây, con thứ tên là Trinh làm ngoại uỷ
cai cơ Trung dũng.
|
NGUYỄNVĂNTUYÊN
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.473
|
166
|
NGUYỄN VĂN ÚT
|
Nguyễn Văn Út (1948 - 2004),
tự Út Nồi, quê xã Phú Hựu, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp. Năm 1962, ông
theo cách mạng, làm giao liên cho Tỉnh đội Vĩnh Long, đến năm 1967, ông chuyển
về Huyện đội Châu Thành.
Ngay trận đầu tiên tham gia
đánh đồn Cả Bần (Lấp Vò) đã giành được thắng lợi. Đêm 30 Tết Mậu Thân năm
1968, ông cùng 2 chiến sĩ đánh diệt một lô cốt bến phà Mỹ Thuận, sau đó đánh
sập cầu Huyền Báo, cắt đứt Quốc lộ 4 đoạn Mỹ Thuận - Vĩnh Long, tạo điều kiện
thuận lợi cho lực lượng tỉnh đội và thị xã đánh chiếm sân bay và thị xã Vĩnh
Long. Tháng 12/1968, một mình ông ra bám sát Liên tỉnh lộ 80, cách đồn Cái Da
300 m, dùng mìn phá huỷ một xe Quân sự (GMC) diệt 13 tên địch. Cuối năm 1969,
đầu năm 1970, ông dùng kỹ thuật đặc công, 3 lần đánh vào Tân Xuân, phá hủy 2
xe, diệt một toán phòng vệ xung kích. Năm 1971, ông chỉ huy tổ đặc công, vượt
qua cồn An Hòa diệt một toán phòng vệ dân sự, thu 20 súng. Năm 1974, ông được
đề bạt Huyện đội trưởng Huyện đội Châu Thành, chỉ huy đánh 8 đồn địch trong
huyện và nhiều trận chống càn quét tái chiếm của địch. Mùa xuân 1975, ông chỉ
huy bao vây, bức rút và đánh diệt 20 đồn và 10 lô cốt của địch góp phần giải
phóng quê hương.
Ông đã được tặng Huân chương
Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Giải phóng hạng Nhì, hạng Ba, Huân chương
Chiến công hạng Nhì và danh hiệu chiến sĩ thi đua cấp Quân khu. Ngày
20/12/1994, ông Nguyễn Văn Út được Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
|
NGUYỄN VĂN ÚT
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.479
|
167
|
PHAN VĂN ÚT
|
Ông Phan Văn Út (1932 -
1951), tên thường dùng Út Ngọ, quê làng Tân Phú Trung, tỉnh Sa Đéc (nay là xã
Tân Phú Trung, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp). Năm 17 tuổi, ông tham gia
công tác ở xã. Ông được cài cắm vào Tổng hành dinh lực lượng vũ trang “Bảo Quốc
Đoàn” của Cao Đài (thân Pháp) tại Sa Đéc, do Văn Thành Cao chỉ huy.
Nhận được tin sẽ có đoàn quan
chức cấp cao của Pháp đi “kinh lý” Sa Đéc vào cuối tháng 7/1951, Thị đội và
Công an thị xã Sa Đéc lên kế hoạch đánh địch bằng chất nổ, ông Phan Văn Út Út
nhận trách nhiệm ấy. Sáng ngày 31/7/1951, phái đoàn cấp cao của Pháp và Nam
phần đến Tiểu khu Sa Đéc. Đúng vào lúc đoàn quan khách duyệt hàng quân danh dự
“Thanh niên Bảo Quốc Đoàn” thì ông hành động. Hai tiếng nổ long trời, đanh gọn
làm náo loạn cả Tiểu khu, giết chết thiếu tướng Săng - xông (Chanson), Tư lệnh
quân đội Pháp ở Nam Bộ, Thái Lập Thành, Thủ hiến Nam phần Việt Nam, 2 sĩ quan
cấp tá Pháp, 12 tên khác bị thương. Ông Phan Văn Út hy sinh anh dũng.
Ngày 16/8/1951, Ủy ban Kháng
chiến Hành chánh Nam Bộ quyết định truy tặng ông Huy hiệu Kháng chiến Nam Bộ
và đề nghị lên Chánh phủ tặng huy chương cho ông. Ngày 22/7/1998, Chủ tịch nước
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã truy tặng danh Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân cho Liệt sỹ Phan Văn Út.
|
PHAN VĂN ÚT
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.481
|
168
|
NGUYỄN NHƯ VĂN
|
Ông Nguyễn Như Văn (1924 -
2001), quê xã Dị Sử, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Thuở nhỏ, ông sinh sống ở Lào.
Ông là cán bộ thuộc Chi đội Hải ngoại 4, cùng đơn vị tình nguyện về nước,
kháng chiến chống Pháp. Tháng 5/1947, về tới tỉnh Sa Đéc, cuối năm đơn vị đổi
phiên hiệu là Trung đoàn 109. Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương
trên đường hành quân về nước. Cuối năm 1948, ông là Tiểu đoàn trưởng Tiểu
đoàn 325, Liên Trung đoàn 109-111 và được chỉ định vào Tỉnh ủy Sa Đéc. Tháng
10/1949, ông là Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội Sa Đéc, rồi Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội
Long Châu Tiền. Khi thành lập tỉnh Long Châu Sa, ông là Tỉnh ủy viên, Tỉnh đội
phó Tỉnh đội Long Châu Sa.
Tháng 7/1954, lực lượng vũ
trang tỉnh Long Châu Sa tổ chức thành Trung đoàn 668 tập kết ra Bắc, ông là
Chính uỷ, Bí thư Trung đoàn uỷ Trung đoàn. Sau đó trải qua một số chức vụ
khác. Năm 1966, ông trở về Nam chiến đấu và là Trưởng phòng Tình báo Bộ Tổng
Tham mưu Quân Giải phóng miền Nam. Ông tham gia cuộc Tổng tấn công Xuân Mậu
Thân 1968 và Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn. Từ năm 1978, ông là Cục
phó Cục Tình báo phụ trách phía Nam (Tây Nam), tham mưu phó Bộ Tư lệnh Sự
đoàn 19 (1979), được phong quân hàm Thiếu tướng vào cuối năm 1984. Từ tháng
7/1987, ông là Cục trưởng Cục Tình báo, Bộ Tổng Tham mưu; Tổng cục trưởng Tổng
cục II, Bộ Quốc phòng, Bí thư Đảng uỷ Tổng Cục (1993). Ông được thăng quân
hàm Trung tướng tháng 4/1989. Tháng 10/1995, ông nghỉ hưu.
Trung tướng Nguyễn Như Văn đã
được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng, Huân chương Độc
lập hạng Nhì, 3 Huân chương Quân công (2 hạng Nhì, 1 hạng Ba), Huân chương
Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhì, 5 Huân chương Chiến
công (3 hạng Nhất, 2 hạng Nhì), và nhiều huân huy chương khác.
|
NGUYỄN NHƯ VĂN
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.483
|
169
|
PHẠM VĂN VẼ
|
Phạm Văn Vẽ (1930 - 1964),
quê làng Tân Dương, quận Lai Vung, tỉnh Sa Đéc (nay là xã Tân Dương, huyện
Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp). Khi hy sinh ông đang là Xã đội trưởng xã Tân
Dương.
Sau Cách mạng tháng Tám năm
1945, mới 15 tuổi, ông đã cùng
với nhiều thanh niên địa
phương tham gia cách mạng, làm liên lạc cho Vệ Quốc đoàn. Kết thúc cuộc kháng
chiến chống Pháp, ông được phân công ở lại địa phương hoạt động hợp pháp, xây
dựng cở sở. Năm 1960, ông vào du kích xã. Với tài bơi lặn và đánh địch bằng lựu
đạn, từ năm 1960 đến lúc hy sinh (ngày 16/12/1964), ông đã tổ chức Đội du
kích xã đánh đồn trên 10 trận, chống càn 08 trận. Riêng ông đã dùng lựu đạn
tiêu diệt hơn 70 tên địch, trong đó có 02 cố vấn Mỹ, phá hỏng 01 tàu chiến Mỹ,
thu nhiều vũ khí. Trận chiến đấu cuối cùng của ông là ngày 16/12/1964, ông chỉ
huy đội du kích xã Tân Dương phối hợp với đơn vị của thị xã Sa Đéc phục kích
đánh tàu Mỹ đi càn quét ở vùng Vĩnh Thạnh, Long Hưng trở về Sa Đéc. Trận này,
ông cùng đồng đội bắn cháy 1 tàu giặc, diệt 48 tên (có 2 lính Mỹ). Ông cùng 3
chiến sĩ anh dũng hy sinh.
Ngày 29/01/1996, Liệt sỹ Phạm
Văn Vẽ được Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh
hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
|
PHẠM VĂN VẼ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.485
|
170
|
NGUYỄN VĂN VĨ
|
Ông Nguyễn Văn Vĩ (1895 - 1976),
còn gọi là Michel Văn Vĩ, quê Sa Đéc, có quốc tịch Pháp, du học tại Pháp và tốt
nghiệp tại Trường Cao học Thương nghiệp Paris. Ông là một trong những người
sáng lập hội SAMIPIC, vận động góp tiền để cấp học bổng cho số học sinh
nghèo, học giỏi. Ông cũng là Hội trưởng Hội tương tế Sa Đéc, tập hợp một số đồng
hương, lo việc quan, hôn, tang, tế…Ông đứng ra thành lập Hội Truyền bá Quốc
ngữ Nam Kỳ và nhận được giấy phép hoạt động do chính Thống đốc Nam Kỳ ký ngày
18/8/1944. Ông là một trong những nhân sĩ trí thức Nam Bộ đầu tiên tại Sài
Gòn gia nhập Đảng Dân chủ Việt Nam, hoạt động bí mật trong vùng tạm chiếm.
Ngày 01/8/1954, ông và nhiều
nhân sĩ trí thức miền Nam hưởng ứng, tham gia Ủy ban Hoà Bình khu Sài Gòn -
Chợ Lớn của luật sư Nguyễn Hữu Thọ. Tháng 4/1964, Đại hội lần II Ủy ban Trung
ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, ông được mời vào Ủy ban Mặt trận
Trung ương với bí danh Huỳnh Đàn, một công thương gia yêu nước. Ngày
16/11/1964, phản đối Mỹ và chư hầu ồ ạt đổ quân vào miền Nam, ông tham gia
“Phong trào Dân tộc tự quyết” do luật sư Nguyễn Long và một số trí thức Sài
Gòn thành lập. Sau đó, ông cùng một số nhân sĩ trí thức bị địch bắt vì tham
gia “Phong trào Dân tộc tự quyết” và “Ủy ban vận động Hoà bình”. Đến cuối năm
1967, ông được thả ra, khi đã 72 tuổi, bị tù đày nên sức khoẻ yếu và mất năm
1976.
|
NGUYỄN VĂN VĨ
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.488
|
171
|
VÕ THỊ VIỆT
|
Bà Võ Thị Việt (1920 - 2014),
tên gia đình là Võ Thị Vị, thường gọi là Năm Việt, quê làng An Tịch, quận
Châu Thành, tỉnh Vĩnh Long (nay là xã An Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng
Tháp). Từ năm 1930 - lúc còn đi học, bà đã tham gia canh gác, in tài liệu mật,
dán rải truyền đơn trong xóm ấp. Bà tích cực tuyên truyền chống Nhật, Pháp
tham gia cướp chính quyền ở thị xã Sa Đéc tháng 8/1945. Năm 1953, bà là Hội
phó Phụ nữ tỉnh Long Châu Sa. Sau đình chiến, bà hoạt động bí mật, là Trưởng
ban Phụ vận Tỉnh ủy Sa Đéc. Đầu năm 1957, bà là Huyện ủy viên Huyện ủy Châu
Thành, tỉnh Vĩnh Long. Năm 1967, bà được bầu vào Tỉnh ủy Vĩnh Long, làm Hội
trưởng Phụ nữ tỉnh, kiêm Trưởng ban Chỉ đạo đấu tranh chính trị tỉnh và Ủy
viên Ban Chấp hành Phụ nữ Khu Tây Nam Bộ. Từ năm 1968, bà phụ trách thị xã Sa
Đéc, là Tổng Thư ký Ủy ban nhân dân Cách mạng tỉnh Vĩnh Long. Đến năm 1971,
bà là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Long, trong Phân ban Tỉnh ủy vùng thị
xã Sa Đéc, Lai Vung, Lấp Vò, Châu Thành. Khi thành lập tỉnh Sa Đéc, năm 1974,
bà được chỉ định làm Phó Bí thư Tỉnh ủy. Chuẩn bị giải phóng Sài Gòn, bà được
trên điều động về Khu Sài Gòn - Gia Định, làm Trưởng đoàn cán bộ công tác gây
dựng cơ sở cánh C.
Liền sau giải phóng bà nhận
nhiệm vụ Bí thư Ban Cán sự Đảng đoàn quận 3, rồi Phó Bí thư Quận ủy quận 3,
Trưởng Ban Tổ chức Quận ủy quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 7/1977, bà là
Bí thư Quận ủy Quận 3. Năm 1984, bà nghỉ hưu và qua đời năm 2014.
Quá trình hoạt động cách mạng
bà đã được Đảng và Nhà nước trao tặng Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng, Huân chương
Độc lập hạng Nhì, Huân chương Quyết thắng hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến
hạng Nhất và nhiều huy chương cao quý khác.
|
VÕ THỊ VIỆT
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.494
|
172
|
NGUYỄN VĂN VÓC
|
Nguyễn Văn Vóc (1942 - 1968),
tên thường dùng là Lê Hồng, quê ở ấp An Lợi xã Thanh Mỹ, huyện Mỹ An, tỉnh Kiến
Phong (nay thuộc huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp).
Sau cuộc đồng khởi năm 1959,
1960, xã Thanh Mỹ được giải phóng, ông được tiếp nhận vào công tác ở đơn vị
Giao bưu tỉnh Kiến Phong. Năm 1964, ông làm Tiểu đội phó, Trung đội giao liên
B412, chuyên đưa rước “khách đặt biệt” và bất thường. Từ năm 1964 - 1968, ông
nhiều lần tổ chức đưa các cán bộ lãnh đạo cấp cao xuống chiến trường, vượt
qua các tuyến phòng thủ, chốt chặn của địch ở biên giới, qua Đồng Tháp Mười,
xuống Mỹ Tho, Bến Tre và các tỉnh Tây Nam Bộ. Nổi bật là tuyến công tác từ
ngày 13 đến ngày 16/5/1968, Đội giao liên B412 được giao nhiệm vụ bảo vệ và
đưa đoàn khách gồm 5 cán bộ, trong đó có 4 cán bộ là Bí thư, Phó Bí thư Tỉnh ủy
các tỉnh: Bến Tre, Gò Công, Mỹ Tho, Kiến Phong và ông Tám Dần là Chỉ huy phó
kiêm Tham mưu trưởng Quân khu 8 từ chiến trường về Trung ương Cục. Đến 4 giờ
sáng ngày 16/5/1968, đoàn tới ngã tư Cô Đông, thuộc xã Tân Công Sính, huyện
Tam Nông. Tại đây diễn ra trận chiến rất ác liệt giữa ta và địch, đến 12 giờ
trưa, địch cho 30 lượt máy bay đổ thêm 400 quân, trong đó có 1 đại đội biệt
kích Mỹ, liên tiếp mở 3 đợt tấn công, nhưng đều thất bại. Đến 1 giờ chiều,
sau 7 đợt đánh địch, bên ta một chiến sĩ hy sinh, cả đơn vị chỉ còn lại 13
người, mỗi người chỉ còn vài chục viên. Trước tình hình đó, đơn vị quyết định
dồn đạn cho tổ tiền duyên và ông tình nguyện ở lại chặn địch, còn tất cả tập
trung bí mật dẫn đoàn khách rút lui khỏi trận địa. Sau đợt tấn công thứ 8 của
địch, trên trận địa, chỉ còn một mình ông Nguyễn Văn Vóc phải chống trả với một
tiểu đoàn địch, ông đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và hy sinh anh dũng.
Năm 1997, Liệt sỹ Nguyễn Văn
Vóc được Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
|
NGUYỄN VĂN VÓC
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.496
|
173
|
NGUYỄN VĂN VOI
|
Nguyễn Văn Voi (1949 - 1973),
quê làng An Tịch, tổng An Hội, quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (nay là xã An Hiệp,
huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp).
Ông tham gia đội du kích xã
lúc 20 tuổi. Cuối tháng 02/1969, ông dùng lựu đạn giết được một mật báo viên
ác ôn của Ty cảnh sát, làm chấn động dư luận trong vùng. Tháng 5/1969, một
mình ông lẻn đến gần đồn Tề Xã, quăng 2 trái lựu đạn vào đồn làm bị thương nặng
2 tên. Tháng 3/1970, ông bí mật đột nhập trụ sở Hội đồng xã lấy một máy đánh
chữ. Một lần khác, ông dùng mìn đánh sập trụ sở, làm cho Tề xã, ấp hết sức
hoang mang. Năm 1971 - 1972, ông được giao nhiệm vụ diệt một số tên ác ôn
trong đoàn cán bộ bình định, ông đã hoàn thành xuất sắc, diệt 1 tên chỉ cách
đồn 150m, 1 tên tại nhà, 1 tên trên đường đi và bắn bị thương 1 tên, các tên
còn lại hoảng sợ chuyển đi nơi khác. Tháng 8/1973, trong trận đánh đồn Xẻo
Mây (Tân Lễ), ông đã anh dũng hy sinh.
Ngày 30/8/1995, Liệt sĩ Nguyễn
Văn Voi được Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh
hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
|
NGUYỄN VĂN VOI
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.498
|
174
|
NGUYỄN LONG XẢO
|
Ông Nguyễn Long Xảo (1905 -
1996), thường gọi Bảy Xảo, quê làng Tân Thuận Tây, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc
(nay là xã Tân Thuận Tây, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Ông sớm giác
ngộ và tham gia hoạt động cách mạng, tháng 02/1930, ông được kết nạp vào Đảng,
hoạt động ở tỉnh Long Xuyên.
Tháng 02/1935, ông là Bí thư
Chi bộ liên xã Hoà An - Tân Thuận Đông. Từ năm 1937 đến tháng 8/1939, ông
công tác ở Ban hành động quận Cao Lãnh (hoạt động phong trào Đông Dương đại hội).
Tháng 3/1945, ông được bầu vào Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Sa Đéc, được phân công
làm Trưởng ban Quân sự quận Cao Lãnh. Từ tháng 3/1946 đến tháng 9/1954, ông
là Tỉnh ủy viên rồi Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Sa Đéc, Long Châu Sa (phụ trách
tổ chức, tài chính, kiểm tra), Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh, Thư ký Liên hiệp
Công Đoàn tỉnh…Tháng 10/1954, ông tập kết ra miền Bắc. Từ tháng 01/1955 đến
tháng 8/1964, ông giữ các chức vụ: Bí thư chi bộ Nông trang Nam Bộ Quý Cao, Tỉnh
ủy viên tỉnh Kiến An (1961 - 1962)… Tháng 8/1964, ông nghỉ hưu và mất năm
1996.
Ông Nguyễn Long Xảo được tặng
Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huy hiệu Thành
đồng Tổ quốc.
|
NGUYỄN LONG XẢO
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.501
|
175
|
NGUYỄN HỮU XUYẾN
|
Ông Nguyễn Hữu Xuyến (1917 -
2007), thường gọi là Tám Kiến Quốc, quê ở xã Đình Bảng, huyện Tiên Sơn, tỉnh
Hà Bắc (nay thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh).
Ông tham gia hoạt động cách mạng
tại Sa Đéc từ năm 1937. Năm 1940, ông vào Đảng Cộng sản Đông Dương và bị thực
dân Pháp bắt đày ra Côn Đảo vào năm 1941. Cách mạng Tháng Tám 1945 thành
công, ông trở về Sa Đéc hoạt động trong lực lượng vũ trang của tỉnh. Từ tháng
10/1945 đến năm 1954, ông giữ các chức vụ: Chỉ huy trưởng Cộng hòa vệ binh tỉnh
Sa Đéc, Chi đội trưởng Chi đội 18, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 115, Chỉ huy
trưởng liên Trung đoàn hoạt động khu vực tỉnh Vĩnh Long - Trà Vinh, Tham mưu
trưởng Phân liên khu miền Tây… Sau hiệp định Giơnevơ, tháng 7/1954, ông là Ủy
viên Quân sự của Xứ uỷ Nam Bộ, hoạt động ở miền Tây Nam Bộ. Năm 1957, ông
chuyển lên miền Đông Nam Bộ, đến tháng 6/1958, ông là Trưởng ban Quân sự miền
Đông Nam Bộ. Năm 1961, ông là Tư lệnh lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ. Từ
năm 1965 đến năm 1974, ông là Phó Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam. Tháng
6/1974, ông về công tác tại Bộ Quốc phòng. Tháng 02/1977, ông là Phó Tư lệnh
Quân khu 9. Sau đó ông được nghỉ hưu.
Ông Nguyến Hữu Xuyến được
phong hàm Trung tướng (1986), được tặng Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng, Huân
chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Quân công hạng Nhất, hạng Nhì, Huân
chương Kháng chiến hạng Nhất và nhiều huân chương, huy chương khác.
|
NGUYỄN HỮU XUYẾN
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.502
|
176
|
ĐỖ VĂN Y
|
Ông Đỗ Văn Y (1892 - 1968),
quê làng Hòa An, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là xã Hòa An, thành phố Cao
Lãnh, Đồng Tháp).
Ông tốt nghiệp Trường sư phạm
Gia Định, nhưng không đi dạy học. Hưởng ứng phong trào Duy Tân, ông xuất
dương hoạt động cứu nước cùng với Mạnh Tự Trương Duy Toản. Thông thạo tiếng Đức,
ông từng là Bí thư của Kỳ Ngoại hầu Cường Để trong cuộc Âu du. Ít lâu, ông bị
trục xuất khỏi nước Pháp, đưa về Sài Gòn, rồi bị quản thúc một thời gian. Sau
đó, ông xuống Cần Thơ làm quản lý cho nhà in An Hà. Sau nhiều năm hoạt động
yêu nước bị thất bại, về cuối đời, ông chuyên nghiên cứu văn học yêu nước miền
Nam. Năm 1946, ông đắc cử đại biểu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau khi Pháp tái chiếm Nam Bộ, ông bị giặc Pháp bắt giam, đến năm 1948 mới được
trả tự do. Sau đó, ông lên sống ở Sài Gòn và mất ở đây năm 1968.
|
ĐỖ VĂN Y
|
Đồng Tháp nhân vật chí, Nxb Trẻ, năm 2015. Tr.505
|
177
|
TRƯƠNG THỊ Y
|
Bà Trương Thị Y (1918-1968),
quê làng Mỹ Luông, quận Chợ mới, tỉnh Long Xuyên. Năm 1947, gia đình bà về ở làng
Tân Phú, quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên (nay là thị trấn Thanh Bình, huyện
Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp).
Bà tham gia cách mạng từ
tháng Tám năm 1945. Chồng bà, ông Cù Văn Thạnh (Cù Quang Minh), sinh năm
1919, ông tham gia cách mạng và từ tháng Tám năm 1945, là đảng viên Đảng Cộng
sản Việt Nam, từng giữ nhiều chức vụ ở xã và huyện Thanh Bình cho đến lúc nghỉ
hưu năm 1980.
Bà Trương Thị Y tích cực tham
gia đấu tranh chính trị. Nổi bật là các cuộc đấu tranh trực diện tại quận
Thanh Bình ngày 20/10/1960, ngày 7/01/1961 và ngày 05/3/1961 tại thị xã Cao
Lãnh. Trong trận địch đổ quân càn quét lớn ở hậu xã Bình Thành, Tân Phú,
chúng bắt bà cùng người con gái và một số người khác, giam qua đêm rồi xả
súng bắn chết tất cả vào sáng ngày 25/7/1968, tại Bắc Dầu xã Bình Thành.
Bà sinh được 9 người con, 02
người con thứ tư và thứ năm bị pháo địch bắn chết. Còn lại, con bà có đến 6
người là liệt sĩ.
Bà Trương Thị Y có 6 con là
liệt sỹ. Bản thân bà cũng là liệt sỹ. Ngày 17/12/1994, Chủ tịch nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng bà danh hiệu Bà Mẹ Việt Nam anh hùng.
|
TRƯƠNG THỊ Y
|
Lịch sử truyền thống cách mạng xã Tân Huề, huyện Thanh Bình
(1930-1975), xuấn bản năm 2000.
|
III. CÁC
DANH TỪ, ĐỊA DANH, PHONG TRÀO ĐẤU TRANH, SỰ KIỆN GẮN VỚI LỊCH SỬ, VĂN HÓA TIÊU
BIỂU CỦA ĐẤT NƯƠC VÀ QUỐC HIỆU NƯỚC TA QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ (51 tên)
Stt
|
Tên
|
Tóm tắt ý nghĩa
|
Tên dự kiến đặt
|
Nguốn trích dẫn
|
3.1. Các danh từ có ý
nghĩa tiêu biểu
|
|
1
|
HOÀ BÌNH
|
Tình trạng yên ổn không có chiến
tranh, không dùng vũ lực, không để xảy ra chiến tranh.
|
HOÀ BÌNH
|
Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, nxb Đà Nẵng, 2009 Tr. 575
|
2
|
THÁI BÌNH
|
Đất nước, đời sống yên ổn,
không có loạn lạc, chiến tranh.
|
THÁI BÌNH
|
Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, nxb Đà Nẵng, 2009 Tr. 1170
|
3
|
DÂN CHỦ
|
Chế độ dân chủ hoặc quyền dân
chủ. Toàn dân có quyền tham dự việc nước hoặc tự do phát biểu ý kiến về việc
nước. Tôn trọng quyền tự do dân chủ, không quan liêu độc đoán.
|
DÂN CHỦ
|
Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, nxb Đà Nẵng, 2009 Tr. 330
|
4
|
THÀNH CÔNG
|
Đạt được kết quả, mục đích
như dự định.
|
THÀNH CÔNG
|
Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, nxb Đà Nẵng, 2009 Tr. 1178
|
5
|
TỰ DO
|
Trạng thái một dân tộc, một xã
hội và các thành viên không bị cấm đoán, hạn chế vô lý trong các hoạt động
chính trị, xã hội. Trạng thái không bị giam cầm hoặc không bị làm nô lệ...
|
TỰ DO
|
Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, nxb Đà Nẵng, 2009 Tr. 1376
|
6
|
ĐOÀN KẾT
|
Kết thành một khối thống nhất,
cùng hoạt động vì một mục đích chung
|
ĐOÀN KẾT
|
Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, nxb Đà Nẵng, 2009 Tr. 433
|
7
|
THỐNG NHẤT
|
Hợp lại thành một khối với một
cơ cấu tổ chức và sự điều hành quản lý chung. Đồng nghĩa với hợp nhất.
|
THỐNG NHẤT
|
Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, nxb Đà Nẵng, 2009 Tr. 1227
|
8
|
THANH NIÊN
|
Người còn trẻ, đang ở độ tuổi
trưởng thành. Là lực lượng to lớn, là nguồn lực dồi dào, mạnh mẽ thúc đẩy sự
phát triển xã hội hiện tại và là người chủ tương lai của đất nước.
|
THANH NIÊN
|
Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, nxb Đà Nẵng, 2009 Tr. 1176
|
9
|
GIẢI PHÓNG
|
Là làm cho được tự do, thoát
khỏi tình trạng bị nô dịch, chiếm đóng, thoát khỏi địa vị nô lệ hoặc tình trạng
bị áp bức, kiềm chế, ràng buộc.
|
GIẢI PHÓNG
|
Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, nxb Đà Nẵng, 2009 Tr. 503
|
10
|
ĐỒNG TÂM
|
Chung một lòng, chung một ý
chí
|
ĐỒNG TÂM
|
Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, nxb Đà Nẵng, 2009 Tr. 452
|
11
|
CHIẾN THẮNG
|
Dành được phần thắng trong
chiến tranh, chiến đấu hoặc trong một cuộc thi đấu thể thao. Đồng nghĩa với
thắng lợi.
|
CHIẾN THẮNG
|
Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, nxb Đà Nẵng, 2009 Tr. 215
|
3.2. Địa danh tiêu biểu
|
|
12
|
ẤP BẮC
|
Địa danh thuộc tỉnh Tiền
Giang.
Ấp Bắc xưa ở làng Tân Phú, quận
Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho, nổi tiếng bởi sự kiện chiến thắng ngày 01/01/1963, mở
màn cao trào diệt Mỹ trong chiến tranh đặc biệt ở miền Nam Việt Nam.
|
ẤP BẮC
|
Sở Văn háo, Thể thao và Du lịch Tiền Giang. “Di tích Ấp Bắc”
https://svhttdl.tiengiang.gov.vn /di-tich-lich-su
|
13
|
VIỆT BẮC
|
Là căn cứ cách mạng của Việt
Nam, nằm về phía Đông Bắc Bắc bộ, nơi Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
đóng đô để lãnh đạo cách mạng kháng chiến đến ngày thắng lợi.
|
VIỆT BẮC
|
Cồng thông tin điện tử Thành phố Huế https://huecity.gov.vn/Du-
khach/Thong-tin-ten-duong- pho/tid/Viet-Bac.
|
14
|
ĐỐNG ĐA
|
Là địa danh thuộc thành phố
Hà Nội, nơi gắn với chiến thắng quân Thanh trong trận Ngọc Hồi - Đống Đa (chiến
thắng Kỷ Dậu) năm 1789. Chiến thắng khẳng định sự tồn tại của nước Đại Việt
trước hiểm họa xâm lược và chấm dứt sự tồn tại của nhà Hậu Lê.
|
ĐỐNG ĐA
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 1, Tr. 878 Tập 2, Tr. 149
|
15
|
BẠCH ĐẰNG
|
Tên chiến thắng của Ngô Quyền
đại phá quân Nam Hán (năm 938); Lê Đại Hành đánh tan quân Tống (năm 981); Trần
Hưng Đạo đại thắng quân Nguyên - Mông (năm 1288).
|
BẠCH ĐẰNG
|
Cục Di sản văn hóa http://dsvh.gov.vn/di-tich-lich- su-bach-dang-2960
|
16
|
BA ĐÌNH
|
Là địa danh lịch sử ở Hà Nội
và thắng cảnh ở tỉnh Thanh Hoá, cũng là tên gọi chung của 03 thôn Mậu Thịnh,
Thượng Thọ và Mỹ Khê. Danh từ này được Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn đặt tên cho
quảng trường tại Thủ đô Hà Nội sau khi Người đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh
ra nước Việt Nam Dan chủ Cộng hoà ngày 02/9/1945.
|
BA ĐÌNH
|
Từ điển Tiếng việt https://vtudien.com/viet-
viet/dictionary/nghia-cua-tu- ba%20%C4%91%C3%ACnh
|
17
|
VÂN ĐỒN
|
Tên chiến thắng của nhà Trần
trong kháng chiến chống Nguyên – Mông năm 1288.
|
VÂN ĐỒN
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V %C3%A2n_%C4%90%E1%B B%93n
|
18
|
CHƯƠNG DƯƠNG
|
Tên chiến thắng của quân dân
nhà Trần đánh bại quân xâm lược Nguyên - Mông, năm 1285.
|
HƯƠNG DƯƠNG
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1 %BA%ADn_Ch%C6%B0%C6
%A1ng_D%C6%B0%C6%A1ng _%C4%91%E1%BB%99
|
19
|
DIÊN HỒNG
|
(Sử) cung điện trong thành
Thăng Long (Hà Nội), xưa là nơi hội yến giữa vua Trần với các bô lão bàn kế
phá giặc Nguyên. Cuối năm 1282, nhà Nguyên điều đại quân chuẩn bị đánh Đại Việt.
Đầu 1285, Thượng hoàng Trần Thánh Tông cho mời các bô lão trong nước về Thăng
Long, đãi yến trước thềm điện Diên Hồng để hỏi kế sách nên đánh hay nên hòa.
Các bô lão đã đồng thanh “Đánh”. Biểu thị ý chí quyết tâm đánh giặc giữ nước
của toàn dân.
|
DIÊN HỒNG
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 1, Tr. 673
|
20
|
VẠN KIẾP
|
Tên một địa danh thuộc huyện
Chí Linh, tỉnh Hải Dương; địa điểm chiến thắng quân xâm lược Nguyên - Mông
năm 1285.
|
VẠN KIẾP
|
Liên Hiệp Các hội Khoa holc5 Kỹ thuật Việt Nam
https://vusta.vn/dau-tich-can-cu- dia-van-kiep-trong-cuoc-
khang-chien-chong-mong- nguyen-p70034.html
|
21
|
CHI LĂNG
|
Tên cửa ải thuộc huyện Chi
Lăng, Lạng Sơn, nơi chiến thắng quân Minh xâm lược của Lê Lợi
|
CHI LĂNG
|
Cổng thông tin điện tử tỉnh Lạng Sơn https://chilang.langson.gov.vn/k
hu-di-tich-lich-su-chi-lang- noi-ghi-dau-nhung-chien- cong-oai-hung
|
22
|
MÊ LINH
|
Nguyên là tên một huyện thuộc
kinh đô Phong Châu, thời thuộc Hán gồm phần đất vùng Sơn Tây, tỉnh Vĩnh Phúc
và Phú Thọ ngày nay, quê hương của Hai Bà Trung. Khi đánh đuổi được Tô Định,
Hai bà lên ngôi và đống đô tại Mê Linh.
|
MÊ LINH
|
Báo điển tử tỉnh Hòa Bình http://www.baohoabinh.com.vn/
16/153690/Me-Linh-mien- que-dam-dau-tich-lich-su,- van-hoa.htm
|
23
|
CỔ LOA
|
Kinh đô của nhà nước Âu Lạc, dưới
thời An Dương Vương (thế kỷ III TCN) và của nhà nước dưới thời Ngô Quyền (thế
kỷ I). Hiện nay, di tích Cổ Loa thuộc xã Cổ Loa, huyện Đông An, thành phố Hà
Nội.
|
CỔ LOA
|
Cục Di sản văn hóa http://dsvh.gov.vn/di-tich-lich-
su-kien-truc-nghe-thuat-va- khao-co-co-loa-2958
|
24
|
THĂNG LONG
|
Kinh đô của nước Đại Việt thời
Lý, Trần, Lê, Mạc, Lê Trung Hưng (1010-1788). Năm 1010, tương truyền khi vua
Lý Công Uẩn rời kinh đô Hoa Lư đến đất Đại La thì thấy rồng bay lên nên gọi
tên kinh đô mới là Thăng Long, hay “rồng bay lên” theo nghĩa Hán Việt.
|
THĂNG LONG
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 4, Tr. 170
|
25
|
HẠ LONG
|
Địa danh thuộc tỉnh Quảng
Ninh. Vịnh Hạ Long là một vịnh kín, xưa kia là địa bàn hoạt động của nghĩa
quân Lãnh Pha, Lãnh Hi chống Pháp cuối thế kỷ XIX. Vịnh Hạ Long được UNESCO xếp
hạnh Di sản thiên nhiên thế giới.
|
HẠ LONG
|
Báo điện tử tỉnh Quảng Ninh https://baoquangninh.com.vn/vi
nh-ha-long-va-nhung-tram- tich-van-hoa-lich-su- 2515335.html
|
26
|
HOA LƯ
|
Kinh đô đầu tiên của nhà nước
phong kiến Trung ương tập quyền ở Việt Nam, gắn với ba triều đại: nhà Đinh,
nhà Tiền Lê và nhà Lý. Với các dấu ấn lịch sử là thống nhất giang sơn, đánh Tống
- dẹp Chiêm; phát tích quá trình định đô Hà Nội. Năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời
kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long (Hà Nội), Hoa Lư trở thành Cố đô.
|
HOA LƯ
|
Cục Di sản văn hóa http://dsvh.gov.vn/di-tich-lich-
su-va-kien-truc-nghe-thuat-co- do-hoa-lu-2952
|
27
|
NHƯ NGUYỆT
|
Tên phòng tuyến và tên chiến thắng
của quân dân Đại Việt thời nhà Lý chống quân Tống năm 1077
|
NHƯ NGUYỆT
|
Báo điện tử tỉnh Bắc Ninh http://www.baobacninh.com.vn/
chi-tiet-bac-ninh-xua-va-nay/- /details/20182/am-vang-chien- thang-nhu-nguyet
|
28
|
ĐIỆN BIÊN PHỦ
|
Địa danh ghi dấu tích chiến thắng
lừng lẫy địa cầu, kết thúc cuộc chiến tranh 9 năm kháng chiến chống Pháp xâm
lược Việt Nam.
|
ĐIỆN BIÊN PHỦ
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 1, Tr. 796
|
29
|
HÀM RỒNG
|
Một địa danh và tên chiến thắng
ở Thanh Hóa trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
|
HÀM RỒNG
|
Cổng thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa https://thanhhoa.gov.vn/portal/P
ages/2022-3-13/NUI-RONG-- SONG-MA--CAU-HAM- RONG-1sg9v3.aspx
|
30
|
HOÀNG SA
|
Hoàng Sa (bãi cát vàng), quần
đảo thuộc huyện Hoàng Sa, thành phố Đà Nẵng (Việt Nam). Gồm hơn 20 hòn đảo
san hô lớn nhỏ, trải trên một vùng biển khoảng 15 nghìn km2 giữa
15°5,- 17°5, vĩ Bắc, 111°-130° kinh Đông, cách Cù Lao Ré 200km, cách đảo Hải
Nam 230 km. Thời chúa Nguyễn, Hoàng Sa thuộc huyện Bình Sơn, phủ Tư Nghĩa, xứ
Quảng Nam. Ngày 30/3/1938, dụ của vua Bảo Đại sát nhập vào tỉnh Thừ Thiên.
Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, do chính quyền miền Nam quản lý. 19/1/1974
bị Trung Quốc đánh chiếm cho tới nay. Ngày 9/12/1982, Chính phủ Việt Nam
thành lập huyện Hoàng Sa thuộc Quảng Nam - Đà Nẵng. Từ tháng 11/1996, thuộc
thành phố Đà Nẵng.
|
HOÀNG SA
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 2, Tr. 336
|
31
|
TRƯỜNG SA
|
Trường Sa: Là huyện đảo thuộc
tỉnh Khánh Hòa, cách vịnh Cam Ranh khoảng 250 hải lý về phía đông. Quần đảo
khoảng trên 100 đảo, đá và bãi cạn, cấu tạo bởi san hô và vụn san hô, nằm
trên một diện tích biển kéo dài từ tây sang đông khoảng 800km và từ bắc xuống
nam khoảng 600km, tổng diện tích các đảo khoảng 10 km, nhiệt độ trung bình
năm khoảng 27,7°C, lượng mưa trung bình 2.810mm/năm. Đặc sản: vích, chim, hải
sản, cá heo. Theo Lê Quí Đôn (“phủ biên tập lục”; 1776), họ Nguyễn đã đặt Đội
Hoàng Sa và Trường Sa. Bản đồ Việt Nam nhà Nguyễn 1834 ghi tên quần đảo là Vạn
Lý Trường Sa. Ngày 14/4/1930 toàn quyền Đông Dương Đơ Lat (De Lattre) điều
khiển thông báo hạm La Malixiơdơ (la Malicieuse) ra Trường Sa cắm cờ và dựng
bia chủ quyền. Ngày 21.2.1993 Thống đốc Nam Kỳ Krôt ây mê (J. K rautheimer)
kí Nghị định số 4762 sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa. Các đảo Trường
Sa, Sơn Ca, Nam Yết, Song Tử Tây, Sinh Tồn, An Bang do quân đội Sài Gòn đóng
giữ. Năm 1978, xây dựng trạm khí tượng Trường Sa 48920. Năm 1988, xây dựng trạm
khí tượng Song Tử Tây. Hiện nay trên quần đảo Trường Sa còn có mặt Philippin,
Malaixia, Đài Loan, Trung Quốc đánh chiếm bãi chữ thập. Ngày 9/12/1982, sáp
nhập Trường Sa vào tỉnh Phú Khánh. Từ tháng 6/1989, là huyện của tỉnh Khánh
Hòa.
|
TRƯỜNG SA
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 4, Tr. 663
|
32
|
TÂY SƠN
|
Huyện ở phía tây tỉnh Bình Định,
quê hương, căn cứ buổi đầu của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn cuối thế kỷ
XVIII. Lập nên triều đại Tây Sơn (1778-1802), do các thủ lĩnh của nghĩa quân
Tây Sơn (Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ) sáng lập. Năm 1802, bị Nguyễn
Ánh lật đổ.
|
TÂY SƠN
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 4, Tr. 109
|
33
|
TRƯỜNG SƠN
|
- Tên một dãy núi dài nhất Việt
Nam ở Trung Bộ. - Tên con đường vận tải, đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh
với một mạng lưới giao thông quân sự chiến lược trong kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước
|
TRƯỜNG SƠN
|
Báo điện tử Chính phủ https://baochinhphu.vn/dia-
danh-lich-su-chien-tich-hao- hung-102256029.htm
|
34
|
DỤC THANH
|
Thuộc tỉnh Bình Thuận.
Dục Thanh là tên viết tắt của
ngôi trường Dục thanh học hiệu được các nhà chí sĩ lập nên nhằm giáo dục, đào
tạo cho con em nhà nghèo theo nội dung yêu nước và tiến bộ, mở mang sự học, nằm
ở thành phố Phan Thiết.
|
DỤC THANH
|
Trang thogn6 tin điện tử Ban Tuyên giáo tỉnh Bình Thuận
https://btgtu.binhthuan.dcs.vn/
Trang-chu/post/214241/di-tich- lich-su-van-ho%CC%81a-dia-
diem-truong-duc-thanh
|
35
|
TÂN TRÀO
|
Thuộc tỉnh Tuyên Quang.
Là chiến khu cách mạng từ năm
1945. Nơi đây diễn ra nhiều cuộc họp quan trọng của Đảng; Hội nghị toàn quốc
của Đảng Cộng sản Đông Dương, họp Quốc dân Đại hội.
|
TÂN TRÀO
|
Cục Di sản văn hóa http://dsvh.gov.vn/di-tich-lich- su-tan-trao-2949
|
36
|
YÊN TỬ
|
Thuộc tỉnh Quảng Ninh.
Tên dãy núi chạy dài khoảng
40 km, ngăn cách hai tỉnh Bắc Giang và Quảng Ninh. Đây là kinh đô Phật giáo
Việt Nam thế kỷ XIII, vua Trần Nhân Tông tu ở chùa Yên Tử lập ra phái Thiền
tông gọi là phá Trúc Lâm và Ngài là đệ nhất tổ.
|
YÊN TỬ
|
Cục Di sản văn hóa http://dsvh.gov.vn/di-tich-lich-
su-va-danh-lam-thang-canh- yen-tu-2962
|
37
|
PHÚ XUÂN
|
Vốn tên là Thụy Lôi, sau Nguyễn
Phúc Thái dời phủ chúa từ Kim Long về đây, đổi thành làng Phú Xuân, nay thuộc
thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Thời chúa Nguyễn Phúc Khoát đóng đô ở đây
gọi là thành Phú Xuân. Khi Nguyễn Huệ lên ngôi gọi là kinh đô Phú Xuân.
|
PHÚ XUÂN
|
Cổng thông tin điện tử tỉnh Thừa Thiên Huế
https://thuathienhue.gov.vn/vi- vn/Thong-tin-du-dia-
chi/tid/Phu-Xuan-Kinh-do- cua-Dai-Viet-duoi-trieu-Tay-
Son/newsid/4303836E-B483- 44CB-BBD8- 1A636AB6B75B/cid/C9C3B4
9B-0564-48F5-B02A- A39D7CB154C7
|
3.3. Phong trào đấu tranh
tiêu biểu
|
|
38
|
ĐÔNG DU
|
Phong trào Đông Du là một phong
trào cách mạng ở Việt Nam đầu thế kỷ 20. Phong trào có mục đích kêu gọi thanh
niên Việt Nam ra nước ngoài (Nhật Bản) học tập, chuẩn bị lực lượng chờ thời
cơ cho việc giành lại độc lập cho nước nhà. Lực lượng nòng cốt cổ động và thực
hiện phong trào là Duy Tân hội và Phan Bội Châu.
|
ĐÔNG DU
|
Bảo tàng lịch sử Quốc gia https://baotanglichsu.vn/vi/Artic
les/3097/14624/phong-trao-djong-du-1905-1908-mot-
hinh-thuc-xay-dung-luc-luong- cach-mang-nhung-nam-djau- the-ky-xx.html
|
39
|
CẦN VƯƠNG
|
Phong trào Cần Vương nổ ra
vào cuối thế kỷ XI do vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương kêu gọi sĩ phu, văn
thân và nhân dân cả nước đứng lên kháng chiến giúp vua, bảo vệ quê hương đất
nước.
|
CẦN VƯƠNG
|
Đại cương lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản giáo dục - 2000 Tâp 1, Tr.67
|
40
|
ĐỒNG KHỞI
|
Tên gọi một phong trào nổi dậy
của nhân dân miền Nam trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước
|
ĐỒNG KHỞI
|
Báo điện tử Quân đội Nhân dân https://www.qdnd.vn/cuoc-thi-
viet-quan-doi-anh-hung-quoc- phong-vung-manh/phong-trao-
dong-khoi-mien-nam-1960- buoc-ngoat-chien-luoc-cua-
cuoc-khang-chien-chong-my- cuu-nuoc-605650
|
41
|
XÔ VIẾT NGHỆ TĨNH
|
Tên phong trào cách mạng của
nhân dân các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh những năm 1930 - 1931 dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam
|
XÔ VIẾT NGHỆ TĨNH
|
Tạp chí Tuyên Giáo Ban Tuyên giáo Trung ương
https://tuyengiao.vn/nghien- cuu/ly-luan/dau-an-xo-viet-
nghe-tinh-tren-hanh-trinh-dau- tranh-vi-doc-lap-tu-do-129577
|
3.4. Sự kiện lịch sử tiêu
biểu
|
|
42
|
3 THÁNG 2
|
Sự kiện - Ngày thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam (03/2/1930)
|
3 THÁNG 2
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 1, Tr. 729
|
43
|
30 THÁNG 4
|
Ngày giải phóng miền Nam,
hoàn toàn thống nhất đất nước (30/4/1975).
|
30 THÁNG 4
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 1, Tr. 453
|
44
|
19 THÁNG 5
|
Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí
Minh (19/5/1890)
|
19 THÁNG 5
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 2, Tr. 352
|
45
|
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
|
Cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc của nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương,
đánh đổ ách thống trị của thực dân và chế độ quân chủ, giành độc lập tự do
(tháng Tám năm 1945)
|
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 1, Tr. 328
|
46
|
2 THÁNG 9
|
Quốc khánh của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945)
|
2 THÁNG 9
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 3, Tr. 65
|
3.5. Quốc hiệu nước ta qua
các thời kỳ lịch sử
|
|
47
|
VĂN LANG
|
Tên nước đầu tiên trong lịch
sử Việt Nam. Theo truyền thuyết trong số 100 con trai của Lạc Long Quân - Âu
Cơ, 50 người theo mẹ lên núi, cùng suy tôn người con cả lên lên làm vua, hiệu
là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu
|
VĂN LANG
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 4, Tr. 820
|
48
|
ÂU LẠC
|
Âu Lạc là nhà nước cổ có thật
và là nhà nước rõ ràng đầu tiên của người Việt cổ được thành lập tại miền Bắc
Việt Nam bởi một nhân vật có thật tên là Thục Phán năm 257 TCN
|
ÂU LẠC
|
Báo điện tử Đồng Tháp
https://www.baodongthap.vn/chinh-tri/quoc-hieu-viet-nam-
qua-cac-thoi-ky-lich-su- 33462.aspx
|
49
|
ĐẠI NAM
|
Là Quốc hiệu của nước ta do
vua Minh Mạng đặt ra vào năm 1838, với ý chí quyết tâm thể hiện sự hùng cường,
lớn mạnh của nước ta thới ấy. Quốc hiệu này tồn tại đền ngày 02/9/1945 thì được
đồi tên thành Việt Nam cho đến ngày nay.
|
ĐẠI NAM
|
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia https://baotanglichsu.vn/vi/
Articles/3096/12689/minh-mang- djat-quoc-hieu-djai-nam-qua-
moc-ban-trieu-nguyen.html
|
50
|
ĐẠI VIỆT
|
Quốc hiệu Việt Nam dưới các
vương triều: Lý, Trần, Lê, Tây Sơn, được Lý Thánh Tông chính thức đặt vào năm
1054 và tồn tại đến năm 1804, khi Gia Long đổi thành Đại Nam. Trừ khoảng thời
gian ngắn dưới triều Hồ (1400 - 1407, mang quốc hiệu Đại Ngu).
|
ĐẠI VIỆT
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 1, Tr. 721
|
51
|
VẠN XUÂN
|
Vạn Xuân là quốc hiệu Việt
Nam thời kỳ 544-602. Năm 544, sau khi giành thắng lợi trong cuộc khởi nghĩa
đánh đuổi quân đô hộ nhà Lương, Lý Bí xưng đế, đặt niên hiệu, dựng triều đình
và chính thức đặt tên nước Vạn Xuân. Năm 602, Lý Phật Tử thất bại trong cuộc
xâm lược của nhà Tùy. Nhà nước Vạn Xuân chấm dứt.
|
VẠN XUÂN
|
Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 4, Tr. 786
|
IV. ĐỊA
DANH, DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TIÊU BIỂUTỈNH ĐỒNG THÁP (25 tên)
Stt
|
tên
|
Tóm tắt ý nghĩa
|
Tên dự kiến đặt
|
Nguồn trích dẫn
|
4. 1. Địa danh tiêu biểu
|
|
1
|
SA ĐÉC
(thành phố Sa Đéc)
|
Hiện có 3 nguồn gốc về địa
danh này:
1. Xuất phát từ tiếng khmer
Phsar - Dek, có nhĩa là chợ sắt hay chợ bán sắt
2. Sa Đéc là tên một vị thần
của người Chân Lạp, có nhiệm vụ phò trợ cho nhân dân trong vùng, thường được
thờ trên sông. Xưa tại rạch Sa Đéc có miếu thờ thần Phsar - Dek.
3. Sa Đéc là tên một vị thần
gọi là Sa-Đích, tiếng địa phương âm lại gọi là Sa Đéc. Ngày xưa Sa Đéc cũng
có thờ vị thần này và theo sách Đại Nam nhất thống chí cũng có ghi: …Ở
núi Tô vùng Thất Sơn có miếu thờ thủy thần Sa-Đích.
|
SA ĐÉC
|
Hội Khoa học lịch sử Tỉnh, từ điển Địa danh Đồng Tháp, Nxb VHNT (2016).
Tr. 402
|
2
|
CÁI TÀU HẠ
(Thị trấn Cái Tàu Hạ, huyện Châu Thành)
|
Theo sách Ký sự đến Việt Nam năm
1657, của Chu Thuấn Thủy: Cái Tàu là người cai quản những người Hoa và coi
xem những việc tàu bè, tức Cai Bạ.
Từ giữa thế kỷ XVII, Cai Tàu
là là một chức vụ được dặt ở xứ Đàng Trong tại những nơi có người Tàu (Trung
Hoa) cư ngụ cùng với việc trông coi tàu bè.
Ngoài ra từ “Cái” còn có
nghĩa là sông là rạch và “Hạ” là phía dưới tính từ thượng nguồn sông Tiền.
|
CÁI TÀU HẠ
|
Hội Khoa học lịch sử Tỉnh, từ điển Địa danh Đồng Tháp, Nxb VHNT (2016).
Tr. 416
|
3
|
BẢO HẬU
(Long Thắng, xã Định Hòa, Lai Vung)
|
Bảo hậu là căn cứ quan trọng
của Nguyễn Ánh trong cuộc chiến với Tây Sơn.
Hiện nay trên nền Bảo Hậu cũ
có một ngôi miếu nhỏ, nhân dân địa phương tổ chức lễ cúng vào vào ngày 12/12
(al) và ngày 12/3 (al) hàng năm
|
BẢO HẬU
|
Hội Khoa học lịch sử Tỉnh, từ điển Địa danh Đồng Tháp, Nxb VHNT (2016).
Tr.95
|
4
|
MƯƠNG KHAI (xã Mỹ Trà, TP Cao Lãnh)
|
Rạch Chanh càng đi sâu vô ngọn
càng hẹp và cạn dần. Vào mùa khô, con nước kém dân ở đây thường thiếu nước
dùng. Hội tề làng Mỹ Trà bắt dân đào vét sâu con rạch từ cầu ông Năm Bé đến cầu
ông Sủng. Từ bên kia, rạch Cái Môn, ông Hội đồng Nguyễn Xuân Vinh (còn gọi là
Hội đồng Chính) cho đào một con kinh nối qua đến cầu ông Sủng. Con kinh thông
với rạch Chanh này được đặt tên là Mương Khai - kinh Hội Đồng, vì nó khai
thông nước trên đất ông Hội đồng Vinh để làm ruộng và vận chuyển lúa.
Mương Khai hiện nay là ranh
hai ấp 1 và 2 của xã Mỹ Trà. Hai bờ Mương Khai - kinh Hội Đồng đã đắp đường đất
và đổ đá chống lầy, đồng thời là đê bao ngăn nước chuyển hai cánh đồng ấp 1
và ấp 2 làm lúa 3 vụ có đê bao khép kín. Dân cư ở đông đúc hai đầu Mương Khai
- kinh Hội Đồng, khoảng giữa còn thưa dân. Đời sống dân còn nghèo, một ít hộ
khá. Đa số sống nghề ruộng, chăn nuôi nhỏ lẻ cá, heo, gà, vịt… Điện đã kéo về.
Để phát triển vùng này, hướng sắp tới sẽ mở rộng, nâng cấp đường trải nhựa, vừa
đi lại lưu thông vừa là đê bao khép kín. Hiện nay tuyến đường vườn Ông Huề đi
đình Cái Môn đang xây bốn cống ngăn và thoát nước. Phía bên ấp 1, nhân dân
ngoài làm 2 vụ lúa còn làm một vụ đậu và một số hộ chuyển qua trồng sen.
|
MƯƠNG KHAI
|
Hội Khoa học lịch sử Tỉnh, từ điển Địa danh Đồng Tháp, Nxb VHNT (2016).
Tr. 382
|
|
|
|
|
|
5
|
NHA MÂN
(xã Tân Nhuận Đông, huyện Châu Thành.)
|
Theo tiếng Khmer Oknha “Ốc
-Nha” là một quan chức địa phương, là danh xưng của “lãnh đạo” cầm đầu một
đơn vị quân đội.
Nha Mân là nói trại của từ Ốc
- Nha -Moon”, Moon là tên của vị quan cai quản vùng đất này.
|
NHA MÂN
|
Hội Khoa học lịch sử Tỉnh, từ điển Địa danh Đồng Tháp, Nxb VHNT (2016).
Tr. 350
|
6
|
CÁI TÀU THƯỢNG
(Hội An Đông, Lấp Vò)
|
Theo sách Ký sự đến Việt Nam
năm 1657, của Chu Thuấn Thủy:
Cái Tàu là người cai quản những
người Hoa và coi xem những việc tàu bè, tức Cai Bạ.
Từ giữa thế kỷ XVII, Cai Tàu
là là một chức vụ được dặt ở xứ Đàng Trong tại những nơi có người Tàu (Trung
Hoa) cư ngụ cùng với việc trông coi tàu bè.
Ngoài ra từ “Cái” còn có
nghĩa là sông là rạch và “Thượng” là phía trên tính từ thượng nguồn sông Tiền.
Tại Hội An Đông, Lấp Vò có
người hoa đến cư trú gọi là Cái Tàu Thượng
|
CÁI TÀU THƯỢNG
|
Hội Khoa học lịch sử Tỉnh, từ điển Địa danh Đồng Tháp, Nxb VHNT (2016).
Tr. 416
|
7
|
BẢO TIỀN
(Long Định, Long Thắng Lai Vung)
|
Cách Bảo Hậu khoảng 6km, Bảo Tiền
cũng là căn cứ của Chúa Nguyễn trong cuộc chiến với Tây Sơn.
Tương truyền, Bảo tiền rộng
khoảng 4ha, xung quanh là bờ thành dày đắp bằng đất, trong và ngoài bờ thành
là đường hào sâu, chiều rộng gần bằng 10m, hầu hết dân binh trong bảo là người
địa phương. Trên nền Bảo Tiền xưa, nhân dân dựng mộy ngôi miếu khoảng 20m2 với
đồ khí tự đơn sơ.
|
BẢO TIỀN
|
Hội Khoa học lịch sử Tỉnh, từ điển Địa danh Đồng Tháp, Nxb VHNT
|
4.2. Di tích lịch sử - văn
hóa tiêu biểu
|
|
8
|
ĐÌNH TÒNG SƠN VÀ ĐỀN THỜ PHẬT THẦY TÂY AN
(Xã Mỹ An Hưng A,huyện Lấp Vò)
|
Thuộc loại hình di tích kiến
trúc nghệ thuật.
Đình Tòng Sơn ra đời vào khoảng
nữa đầu thế kỷ XIX, thờ Thần Thành hoàng Bổn cảnh có sắc phong của vua Tự Đức
năm 1853. Đình là nơi ông Đoàn Minh Huyên đến trị bệnh dịch cho dân vào năm
1849. Lúc đó, đình cất bằng tre lá. Đình có thờ ông Đoàn Minh Huyên cho đến
khi xây dựng đền thờ ông ở bên cạnh đình. Về sau, đình được xây dựng lại kiên
cố, đến năm 1972 có tu bổ thêm. Có 2 lệ cúng trong năm: Hạ điền 17 - 18/04
âl, Thượng điền 17 - 18/12 âl.
Ông Đoàn Minh Huyên (1807 -
1856), người thôn Tòng Sơn, nay là xã Mỹ An Hưng A, huyện Lấp Vò. Là người
sáng lập đạo Bửu Sơn Kỳ Hương có tên là Phật Thầy Tây An. Là người có công vận
động nhân dân khai hoang lập ấp ở nhiều nơi của miền Tây Nam bộ và trị bệnh cứu
dân.
Chùa Phật Thầy được xây dựng
vào năm 1863 trên nền cũ, nơi ông chữa bệnh dịch cho dân năm 1849. Trước sân
chùa có miếu Tam hoàng: Thiên, Địa Nhơn; cột phướng đặt ở giữa. Chính điện là
ngôi Tam bảo thờ bức trần điều thờ Bửu Sơn Kỳ Hương, đối diện có bàn thờ Phật
Thầy Tây An. Tại đây còn giữ những di vật có liên quan đến ông Đoàn Minh
Huyên. Được xếp hạng di tích cấp tỉnh 20/04/2001.
|
TÒNG SƠN
|
Hồ sơ khoa học xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa. Bảo tàng tỉnh Đồng
Tháp
|
9
|
DANH THẮNG TRÀM CHIM (huyện Tam Nông)
|
Thuộc loại hình di tích danh
lam thằng cảnh.
Vườn quốc gia Tràm Chim nằm lọt
thỏm giữa vùng đất trũng ngập nước của Đồng Tháp Mười có diện tích tự nhiên
7.313 ha. Trong hai cuộc kháng chiến nơi đây còn là căn cứ cách mạng của ta.
Năm 1978, tỉnh cho chủ trương trồng tràm nhằm để khôi phục nơi đây thành một
vùng Đồng Tháp Mười nguyên thủy. Năm 1980 đã trồng được 2.300 ha rừng tràm.
Năm 1985 Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp quyết định khoanh vùng 5.200 ha để
tái tạo Đồng Tháp nguyên thủy thu hẹp, giao cho huyện Tam Nông quản lý. Đặc
biệt, từ khi có Sếu đầu đỏ về, Tràm Chim trở nên nổi tiếng. Ngày 02/2/1994 Thủ
tướng Chính phủ đã ký Quyết định số: 47/TTg về việc xác lập khu bảo tồn thiên
nhiên Tràm Chim thuộc huyện Tam Nông tỉnh Đồng Tháp là “Khu bảo tồn thiên
nhiên của quốc gia” với diện tích 7612 ha, có bờ đê bao quanh chu vi gần 60
km. Năm 2012 Ban Thư ký Công ước Ramsar chính thức công nhận Tràm Chim là Khu
Ramsar thứ 2000 của thế giới và là thứ 4 của Việt Nam.
Được công nhận là di tích cấp
quốc gia ngày 12/10/2015
|
TRÀM CHIM
|
Hồ sơ khoa học xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa. Bảo tàng tỉnh Đồng
Tháp
|
|
|
|
|
|
10
|
TƯỢNG ĐÀI CHIẾN THẮNG GIỒNG THỊ ĐAM - GÒ QUẢN CUNG
(Xã An Phước, huyện Tân Hồng)
|
Đây là di tích lịch sử cách mạng.
Tiểu đoàn 502 tỉnh Kiến Phong
được thành lập ngày 23/9/1959 tại Giồng Thị Đam. Sau 3 ngày thành lập
(26/9/1959) Tiểu đoàn đã lập một chiến công vang dội tại Giồng Thị Đam- Gò Quản
Cung, đánh bại cuộc hành quân cấp trung đoàn của địch, với thất bại thảm hại
này buộc địch phải họp Hội đồng quân kỷ trung ương kiểm điểm các lực lượng
tham chiến. Đây là một trận đánh lớn thời bấy giờ, giữa lúc cuộc đấu tranh
chính trị của nhân dân miền Nam bị dìm trong bể máu, Trung ương chưa cho phép
đấu tranh vũ trang, cách mạng miền Nam đang trong thời kỳ đen tối. Đây được
xem là “Tiếng sấm đầu mùa” phát đi hiệu lệnh xung phong cho cả miền Nam. Thắng
lợi này không chỉ có ý nghĩa chiến thuật mà mang ý nghĩa chiến lược, nó khẳng
định con đường cách mạng miền Nam phải là con đường bạo lực cách mạng. Được xếp
hạng cấp quốc gia ngày 19/01/2004
|
GIỒNG THỊ ĐAM,
GÒ QUẢN CUNG
|
Hồ sơ khoa học xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa. Bảo tàng tỉnh Đồng
Tháp
|
11
|
ĐÌNH TÂN NHUẬN ĐÔNG
(xã Tân Nhuận Đông, huyện Châu Thành)
|
Đình thờ Thần Hoàng bổn cảnh,
cúng lệ 02 lần/năm. Cúng Kỳ Yên (hạ điền); cúng Thượng điền. Trong quá trình
tồn tại đình là nơi tín ngưỡng cầu quốc thới, dân an, dân làng làm thuận lợi
có được ấm no hạnh phúc. Ngoài ra đình còn là nơi sinh hoạt văn hóa vui chơi,
giải trí trong những dịp hội hè thư giản tinh thần. Được xếp hạng di tích Quốc
gia vào ngày 04/11/2020.
|
TÂN NHUẬN ĐÔNG
|
Hồ sơ khoa học xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa. Bảo tàng tỉnh Đồng
Tháp
|
12
|
NHÀ CỔ NGUYỄN THÀNH GIUNG
(Phường 4, Tp Sa Đéc)
|
Di tích kiến trúc nghệ thuật
nhà cổ ông Nguyễn Thành Giung.
Ông sinh năm 1894 tại làng
Tân Đông, khu tham biện Sa Đéc. Đổ tiến sĩ khoa học năm 1923, Bộ trưởng Bộ
giáo dục và Thanh niên của chính phủ Nam kỳ năm 1951, mất năm 1959 tại Sài
Gòn. Nhà được cất vào năm 1927 theo kiểu biệt thự kiến trúc Pháp để nghỉ dưỡng
mỗi khi ông về quê nghỉ hè, lễ, tết…
Hiện nay là trụ sở của Ủy Ban
nhân dân Phường 4, Thị xã Sa Đéc.
Được xếp hạng di tích cấp tỉnh
ngày 09/12/2009.
|
NGUYỄN THÀNH GIUNG
|
Hồ sơ khoa học xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa. Bảo tàng tỉnh Đồng
Tháp
|
13
|
ĐÌNH VĨNH THỚI - TÂN HOÀ
(Xã Vĩnh Thới, huyện Lai Vung)
|
Được xây dựng năm từ 1889;
qua thời gian tồn tại, đình được trùng tu nhiều lần. Hiện tại, đình có kiến
trúc bề thế, mang phong cách kiến trúc truyền thống của đình làng Nam bộ, là
nơi sinh hoạt tín ngưỡng, vui chơi, giải trí thư giản tinh thần của nhân dân
địa phương. Đình còn lưu giữ nhiều nghi thức cúng tế mang giá trị văn hóa
truyền thống của cư dân Nam bộ.
Được xếp hạng di tích cấp tỉnh
ngày 22/12/2016
|
VĨNH THỚI, TÂN HOÀ
|
Hồ sơ khoa học xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa. Bảo tàng tỉnh Đồng
Tháp
|
14
|
CHÙA BỬU HƯNG
(Xã Long Thắng, huyện lai Vung)
|
Được xếp vào loại hình di
tích kiến trúc nghệ thuật, chùa Bửu Hưng do Nguyễn Đăng Đại Sư từ Phú Xuân (Huế)
vào đây sáng lập vào khoảng đầu thế kỷ 18, khi đoàn cư dân miền ngoài vào
khai phá vùng đất này. Trong thời kỳ lập quốc, Nguyễn Ánh có đến cư trú tại
Chùa này, khi lên ngôi Vua Gia Long có ban sắc tứ cho Chùa năm 1803 với tấm
biển: “Sắc Tứ Bửu Hưng Tự Gia Long Nhị Niên”. Năm 1821 Vua Minh Mạng ban tặng
Chùa 01 tượng Phật Di Đà cao 1,8m, ngang 1,3m và pháp khí thờ tự.
Các lễ cúng lớn trong năm:
Thượng ngươn 15/4 Âl, Trung ngươn 15/7 Âl, Hạ ngươn 15/10 Âl. Được xếp hạng cấp
quốc gia ngày 03/8/2007.
|
BỬU HƯNG, CẢ CÁT
|
Hồ sơ khoa học xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa. Bảo tàng tỉnh Đồng
Tháp
|
15
|
ĐÌNH LONG KHÁNH
(xã Long khánh A, huyện Hồng Ngự)
|
Được xếp vào loại hình di
tích kiến trúc nghệ thuật. Đình Long Khánh ra đời vào khoảng 1830, thờ Thần
Thành hoàng Bổn cảnh.
Năm 1852, Vua Tự Đức sắc
phong thờ Thần Thành hoàng Bổn cảnh. Đình được xây dựng kiến cố từ năm 1908 đến
năm 1911 thì hoàn thành. Đình có qui mô rất lớn, có 114 cột gỗ căm xe tròn,
có các hạng mục: Võ qui, Võ Ca, Tiền tế, Chánh điện, Nhà khách, Miếu Bạch Mã
Thái Giám, Bà Chúa Xứ … đều được xây dựng kiên cố khang trang lộng lẫy.
Năm 1928, 1929 Cụ phó bảng
Nguyễn Sinh Sắc thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh thỉnh thoảng có đến Đình xem mạch
và hốt thuốc trị bệnh cho dân. Năm 1979 trong chiến tranh bảo vệ biên giới
Tây Nam, nơi đây là Quân Y Viện của Sư đoàn 330 điều trị thương tích cho bộ đội.
Các lễ cúng lớn trong năm: Hạ
điền vào ngày 09,10/5 Âl; Thượng điền vào ngày 16,17/12 Âl. Được công nhận di
tích cấp quốc gia vào ngày 18/12/2009
|
LONG KHÁNH
|
Hồ sơ khoa học xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa. Bảo tàng tỉnh Đồng
Tháp
|
16
|
VĂN THÁNH MIẾU
( Phường 1, TP Cao Lãnh)
|
Di tích lịch sử lưu niệm Văn
Thánh Miếu được xây dựng vào năm 1857 tại thôn Mỹ Trà, tổng Phong Thạnh, phủ
Kiến Tường, tỉnh Định Tường do Tiến sĩ Hồ Trọng Đính là tri phủ Kiến Tường chủ
xướng. Miếu thờ Khổng Tử và các học trò của ông, nó thể hiện sự tôn sư trọng
đạo và các giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc. Năm 1878, Văn Thánh Miếu được
về vị trí hiện nay. Từ năm 1951 - 1975, do chiến tranh nên Văn Miếu ngưng hoạt
động. Cho đến năm 1995, thư viện tỉnh Đồng Tháp sử dụng làm trụ sở cơ quan.
Văn Thánh Miếu là biểu tượng
sự tôn sùng nho học của nhân dân Cao Lãnh lúc bấy giờ. Đồng thời nói lên tinh
thần hiếu học và tôn sư trọng đạo của người xưa.
Được UBND tỉnh Đồng Tháp xếp
hạng di tích cấp tỉnh ngày 20/04/2001
|
VĂN THÁNH MIẾU
|
Hồ sơ khoa học xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa. Bảo tàng tỉnh Đồng
Tháp
|
17
|
ĐỊA ĐIỂM ĐỒNG KHỞI CHIẾN THẮNG GIẢI PHÓNG XÃ THANH MỸ
(Xã Thanh Mỹ, huyện Tháp Mười)
|
Được xếp vào loại hình di
tích lịch sử cách mạng.
Đêm 24 rạng 25/12/1959, Tỉnh ủy
Kiến Phong nay là tỉnh Đồng Tháp đã phát động đợt tiến công tiêu diệt đồn
Vinh Huê, trừng trị bọn ác ôn và giành được thắng lợi. Đây là xã được giải
phóng đầu tiên của tỉnh Kiến Phong, mở đầu phong trào các xã trong tỉnh tiến
hành nổi dậy, góp phần mở màn cao trào “ Đồng khởi” khắp miền Nam.
Bia được xây dựng năm 2009.
Được xếp hạng di tích cấp tỉnh ngày 09/12/2009.
|
THANH MỸ
|
Hồ sơ khoa học xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa.
Bảo tàng tỉnh Đồng Tháp
|
18
|
ĐÌNH VĨNH PHƯỚC
|
Đình thần Vĩnh Phước (còn được
gọi là đình Gạo) nằm trên đường Trần Hưng Đạo, thuộc khóm 1, phường 1, thành
phố Sa Đéc. Đình thần Vĩnh Phước được thiết kế tương tự như những ngôi đình cổ
khác ở Nam bộ Việt Nam. Từ ngoài vào trong, đình gồm có: cổng tam quan, sân
đình, và tòa đình chính. Mái tòa đình lợp ngói âm dương, kiểu “thượng lầu hạ
hiên”, trên mái có nhiều hình đắp nổi theo những điển tích xưa… Toàn bộ khung
sườn của đình đều bằng gỗ, được kết cấu chịu lực. Bao lam, thành vọng, hoành
phi, liễn đối trong đình đều được chạm khắc công phu, tinh tế và sơn son thếp
vàng.
Được UBND tỉnh Đồng Tháp xếp
hạng di tích cấp tỉnh ngày 10/4/2003.
|
VĨNH PHƯỚC
|
Hồ sơ khoa học xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa. Bảo tàng tỉnh Đồng
Tháp
|
19
|
CĂN CỨ KHÁNG CHIẾN CỦA TỈNH ỦY KIẾN PHONG (Xã Mỹ Long, Mỹ Hiệp, huyện
Cao Lãnh)
|
Là loại hình di tích lịch sử
cách mạng.
Tỉnh ủy Kiến Phong (nay là Đồng
Tháp) chọn Xẻo Quít làm căn cứ kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ năm 1960 đến
năm 1975, trong khu vực I di tích có các công trình như: Công sự chiến đấu
các loại, công sự chống bom pháo, Hội trường Tỉnh ủy, nhà làm việc của Bí thư
Tỉnh ủy, nhà của đội C.279. Nhà Văn thư, nhà bếp, nhà đón khách, nhà của đ/C
Chánh văn phòng Tỉnh ủy. Đến tham quan các công trình này ngoài đường bộ ra,
quí khách được tham quan bằng xuồng ba lá len lõi trong rừng tràm nguyên sinh
có tuổi thọ trên 50 năm tuổi và khoảng trên 200 loài động thực vật rất hấp dẫn,
được giao lưu đờn ca tài tử, trải nghiệm các mô hình thú vị như dở chà cá,
đua xuồng bắt vịt, vượt cầu dừa Xẻo Quít và được thưởng thức các món đặc sản
vùng Đồng Tháp Mười.
Được xếp hạng di tích cấp quốc
gia vào ngày 09/4/1992.
|
XẺO QUÍT
|
Hồ sơ khoa học xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa. Bảo tàng tỉnh Đồng
Tháp
|
20
|
VỤ THẢM SÁT
BÌNH THÀNH
|
Thảm sát Bình Thành 1954 là một
vụ thảm sát gây ra bởi quân đội của chính quyền Sài Gòn tại xã Bình Thành,
huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp..
Ngày 12 tháng 11 năm 1954 tiểu
đoàn bảo an số 502 Quân đội Quốc gia Việt Nam tiến hành bố ráp xã Bình
Thành bắn chết 3 người, bắt khoảng 600 người giam ở Trường học xã Bình Thành
để tra tấn. Lúc 14h30 cùng ngày, binh lính Quân đội Quốc gia Việt Nam đem
24 người ra sông thủ tiêu, không cho người nhà mang xác về mai táng, binh
lính Quân đội Quốc gia Việt Nam đào hố chôn chung tại đây. Cộng với 7
người bị giết ngày 11 tháng 11 năm 1954, tổng số người chết là 34.
Được xếp hạng Quốc gia vào
ngày 19/01/2004.
|
BÌNH THÀNH
|
Hồ sơ khoa học xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa. Bảo tàng tỉnh Đồng
Tháp
|
21
|
GÒ THÁP
(Xã Tân Kiều, huyện Tháp Mười)
|
Di tích lịch sử khảo cổ và kiến
trúc nghệ thuật quốc gia đặc biệt Gò Tháp.
Đây là nơi cư trú của một bộ
phận dân cư thuộc Vương quốc Phù Nam (thế kỷ I- thế kỷ VI), là căn cứ kháng
chiến chống Pháp của Thiên Hộ Dương - Đốc Binh Kiều (1862-1866), căn cứ của Xứ
ủy Nam bộ (1946-1949).
Qua nhiều đợt khai quật thu
thập nhiều di vật phong phú như: Gốm thô, Gốm mịn, Gốm màu, Cọc gỗ nhà sàn,
Tượng Thần Vishnu, Shiva … phát hiện nhiều loại hình di tích như: Cư trú, Mộ
táng, kiến trúc … Đặc biệt có 2 lễ hội diển ra vào ngày 14-15/3 âm lịch và
ngày 14-15/11 âm lịch hàng năm thu hút khoảng 200.000 người.
Di tích được xếp hạng cấp quốc
gia đặc biệt vào ngày 27/9/2012
|
GÒ THÁP
|
Hồ sơ khoa học xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa. Bảo tàng tỉnh Đồng
Tháp
|
22
|
NHÀ CỔ HUỲNH CẨM THUẬN
(phường 2, TP Sa Đéc)
|
Di tích kiến trúc nghệ thuật
nhà cổ Huỳnh Cẩm Thuận. Di tích này do ông Huỳnh Cẩm Thuận cất nhà vào năm
1917, kiểu biệt thự, có 3 gian, mặt trước xây kiểu cửa vòm, kiến trúc La Mã
thời phục Hưng thế kỷ 17, cột gỗ tròn, vách gạch, nền lát gạch hoa.
Nội thất trang trí nhiều mảng
chạm Mai, Lan, Cúc, Trúc, sơn son thếp vàng …
Con là Huỳnh Thủy Lê thừa kế ngôi
nhà này, ông là nhân vật chính của tiểu thuyết tự truyện “Người tình” (L’
Amant) do nhà văn nữ người Pháp Marguerite Duras viết vào năm 1984, tiểu thuyết
được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới…. “L/Amant “được trao giải thưởng
Goncourt năm đó.
Được xếp hạng di tích cấp quốc
gia vào ngày 18/12/2009
|
HUỲNH CẨM THUẬN, HUỲNH THUỶ LÊ
|
Hồ sơ khoa học xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa. Bảo tàng tỉnh Đồng
Tháp
|
23
|
CĂN CỨ KHÁNG CHIẾN CẢ TRẤP
(Xã Tân Phước, huyện Tân Hồng)
|
Di tích lịch sử cách mạng căn
cứ kháng chiến Cả Trấp. Được thành lập 1947, căn cứ kháng chiến Cả Trấp là địa
bàn hoạt động, chỉ đạo và chiến đấu trong suốt những năm kháng chiến chống
Pháp và Mỹ của nhiều cơ quan, đơn vị quan trọng của huyện Hồng Ngự, Tam Nông
và tỉnh Châu Đốc. Để giữ vững địa bàn hoạt động, quân và dân ta đã chiến đấu
ngoan cường đánh tan nhiều cuộc càng quyét lớn của địch, từ đó bảo vệ an toàn
khu căn cứ và củng cố tạo lòng tin cho cán bộ, chiến sĩ đấu tranh đến ngày
hoàn toàn thống nhất đất nước.
Được công nhận di tích ngày
12/12/2011
|
CẢ TRẤP
|
Hồ sơ khoa học xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa. Bảo tàng tỉnh Đồng
Tháp
|
24
|
ĐÌNH TÂN PHÚ TRUNG
(xã Tân Phú Trung, huyện Châu Thành)
|
Di tích kiến trúc nghệ thuật
đình Tân Phú Trung. Ngôi đình này được xây vào đầu thế kỷ 19, thờ Thần Thành
hoàng Bổn cảnh và Quan Thánh Đế Quân. Được Vua Tự Đức sắc phong thờ Thần
Thành hoàng Bổn cảnh năm 1854. Đình được xây dựng kiên cố vào năm 1914 đến
nay, các hạng mục kiến trúc còn nguyên vẹn, kiến trúc Đình có quy mô và kết cấu
điển hình của ngôi Đình Nam bộ thời Nguyễn đầu thế kỷ 20; nội thất Đình có
các Hoành phi bao lam, câu đối được chạm khắc rất tinh vi đặc sắc với các đề
tài Long Lân Qui Phụng, Xuân, Hạ, Thu, Đông…được sơn son thép vàng. Đặc biệt
Đình thờ tượng Quan Thánh Đế Quân bằng gỗ trầm rất quý.
Các lễ cúng lớn trong năm: Hạ
điền 16,17,18/1 Âl, Quan Thánh Đế Quân: 24/6 Âl; Thượng điền 16,17/11 Âl
|
TÂN PHÚ TRUNG
|
Hồ sơ khoa học xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa. Bảo tàng tỉnh Đồng
Tháp
|
25
|
ĐÌNH ĐỊNH YÊN
(xã Định Yên, huyện Lấp Vò)
|
Di tích kiến trúc nghệ thuật
đình Định Yên. Ngôi đình này ra đời vào đầu thế kỷ 19, thờ Thần Thành hoàng Bổn
cảnh. Được Vua Tự Đức sắc phong thờ Thần Thành hoàng Bổn cảnh năm 1852.
Đình được xây dựng kiên cố từ
năm 1909 đến năm 1912 thì khánh thành, đến nay các hạng mục kiến trúc còn
nguyện vẹn trừ Võ ca. Kiến trúc Đình có quy mô và kết cấu điển hình của ngôi
Đình Nam bộ đấu thể kỷ 20; nội thất Đình có các Hoành phi, Bao lam, Câu đối
được chạm khắc rất tinh vi, đặc sắc với các đề tài Long, Lân, Quy, Phụng,
Xuân, Hạ, Thu, Đông… được sơn son thép vàng, nhiều bàn thờ, tủ thờ cẩn óc xà
cừ rất tinh xảo.
Có 2 lễ cúng lớn trong năm: Hạ
điền vào ngày 15,16/4 Âl;
Thượng điền: 15,16/11 Âl. Được
xếp hạng cấp quốc gia vào ngày 06/6/2012.
|
ĐỊNH YÊN
|
Hồ sơ khoa học xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa. Bảo tàng tỉnh Đồng
Tháp
|
26
|
Đơn vị bảo vệ các cơ quan Tỉnh ủy Kiến Phong
|
Tình hình cách mạng miền Nam
trong những năm 1958 - 1959 có nhiều chuyển biến quan trọng, phong trào cách
mạng ngày càng dâng cao, chiến trường tỉnh có nhiều thuận lợi, vùng căn cứ giải
phóng của ta được mở rộng. Song, Mỹ-Ngụy vẫn thực hiện âm mưu lấn chiếm vùng
giải phóng của ta bằng mọi cách, chúng tập trung lực lượng, dùng mọi biện
pháp đánh phá vùng căn cứ tìm diệt cơ quan đầu não và lực lượng vũ trang cách
mạng.
Trước âm mưu của Mỹ-Diệm ngày
càng mở nhiều chiến dịch hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng, chúng tổ chức mạng
lưới do thám, chỉ điểm, công dân vụ dày đặc hòng bủa lưới bắt cán bộ, phát hiện
chỗ đóng quân của các cơ quan, bộ đội ta. Trước tình hình đó, công tác bảo vệ
Đảng, bảo vệ các lực lượng cách mạng cáng trở nên khó khăn, phức tạp, đầy thử
thách. Xác định công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ các cơ quan Tỉnh ủy là vấn đề
quan trọng, quyết định sự sống còn của cách mạng. Quán triệt Chỉ thị của
Trung ương Cục, Ban An ninh tỉnh Kiến Phong đã tăng cường lực lượng bảo vệ cơ
quan Tỉnh ủy.
Ngày 27 tháng 9 năm 1959, đơn
vị bảo vệ khu căn cứ Tỉnh ủy (C279) được thành lập, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
mới. Với tinh thần cách mạng tiến công, đơn vị đã vượt qua mọi khó khăn, gian
khổ, bí mật kịp thời phục vụ tốt công tác lãnh đạo của Đảng. Các đồng chí đã
biết dựa vào dân, bố trí nơi ăn nghỉ, hội họp, phương tiện đi lại cho các đồng
chí lãnh đạo Tỉnh ủy. Vũ khí đạn dược thiếu thốn, các đồng chí phải tự tạo lấy
vũ khí, khí tài và tự túc về lương thực. Khi xây dựng căn cứ, đơn vị phải đào
hàng trăm công sự, hàng trăm hầm bí mật. Công sự vừa xây dựng xong bị địch
phát hiện, bắn phá, cơ quan Tỉnh ủy phải chuyển đi, các cán bộ chiến sĩ C279
vẫn luôn bám trụ, không nản chí, luôn đảm bảo an toàn bí mật cho căn cứ. Bên
cạnh đó còn xây dựng căn cứ dự bị để di dời cơ quan Tỉnh ủy khi cần thiết. Đặc
biệt, đơn vị đã bảo vệ tuyệt đối an toàn các đồng chí cán bộ Tỉnh ủy khi địch
càn quét. Suốt từ năm 1959 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đơn vị
C279 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an toàn cơ quan Tỉnh ủy và các đồng
chí lãnh đạo
|
C279
|
Hồ sơ khoa học xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa Căn cứ kháng chiến Tỉnh
ủy Kiến Phong. Bảo tàng tỉnh Đồng Tháp
|
Quyết định 482/QĐ-UBND-HC năm 2022 về Ngân hàng tên đường và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh
Quyết định 482/QĐ-UBND-HC ngày 11/05/2022 về Ngân hàng tên đường và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
4.390
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
info@ThuVienPhapLuat.vn
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng
Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|