VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN
TỐI CAO
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
170/QĐ-VKSTC
|
Hà Nội, ngày
02 tháng 5 năm 2018
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN HÀNH QUY CHẾ TẠM THỜI CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM
SÁT VIỆC KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG, KHÁM NGHIỆM TỬ THI, THỰC NGHIỆM ĐIỀU TRA
VÀ GIÁM ĐỊNH
VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 2014;
Căn cứ Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Xét đề nghị của Vụ trưởng Vụ Thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra án trật tự xã hội, Vụ
trưởng Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Quy chế tạm thời Công tác thực hành
quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực
nghiệm điều tra và giám định.
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký, thay thế Quyết định
số 421/2014/QĐ-VKSTC ngày 17/10/2014 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao về việc ban hành Quy chế công tác kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường,
khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra và giám định.
Điều 3. Thủ trưởng đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu trách nhiệm tổ chức thi
hành Quyết định này./.
Nơi nhận:
- Như Điều 3;
- Lãnh đạo VKSNDTC;
- Lưu VT, V2, V14.
|
VIỆN TRƯỞNG
Lê Minh Trí
|
QUY CHẾ TẠM THỜI
CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM
SÁT VIỆC KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG, KHÁM NGHIỆM TỬ THI,THỰC NGHIỆM ĐIỀU TRA VÀ
GIÁM ĐỊNH
(Ban hành kèm theo Quyết định
số 170/QĐ-VKSTC ngày 02 tháng 5 năm 2018 của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao)
Chương I
NHỮNG
QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi công tác
1. Phạm vi thực hành quyền công tố,
kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường
bắt đầu từ khi nhận được thông báo của Cơ quan có
thẩm quyền điều tra về vụ việc cần khám nghiệm
đến khi kết thúc việc khám nghiệm hiện
trường.
2. Phạm vi thực hành quyền công tố,
kiểm sát việc khám nghiệm tử thi bắt
đầu từ khi nhận được thông báo của Cơ quan điều tra về việc
khám nghiệm đến khi kết thúc việc khám
nghiệm tử thi.
3. Phạm vi thực hành quyền công tố,
kiểm sát việc thực nghiệm điều tra bắt đầu từ khi nhận được
thông báo của Cơ quan điều tra về việc tổ chức thực nghiệm
điều tra, Viện kiểm sát có yêu cầu thực nghiệm Điều tra hoặc
Viện kiểm sát tổ chức thực nghiệm Điều tra đến khi kết thúc
việc thực nghiệm Điều tra.
4. Phạm vi thực hành quyền công tố,
kiểm sát việc giám định bắt đầu từ
khi nhận được quyết định trưng cầu giám định của Cơ quan có
thẩm quyền điều tra, Viện kiểm sát yêu cầu
Cơ quan có thẩm quyền điều tra trưng cầu giám định hoặc Viện kiểm sát ra quyết định trưng cầu giám
định đến khi Viện kiểm sát nhận được kết luận
giám định.
Trường hợp đương sự hoặc người đại diện của họ đề nghị giám định thì phạm vi thực hành quyền
công tố, kiểm sát việc giám định bắt đầu từ khi Cơ quan có thẩm quyền điều tra
hoặc Viện kiểm sát nhận được văn bản đề nghị đến khi Viện
kiểm sát nhận được kết luận giám định.
Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát quân sự các cấp.
2. Người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng của Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát quân
sự các cấp.
3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến công
tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm
hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra và
giám định.
Điều 3. Mục đích công tác
1. Xác định có hay không có tội phạm xảy ra để xử lý
theo quy định của pháp luật. Mọi trường hợp
có người bị giết, nghi bị giết, chết dưới nước, chết do
treo cổ, chết do độc tố, do hơi độc, do điện giật, chết do tai nạn giao thông,
chết do tai nạn lao động và các trường hợp
chết khác chưa xác định được nguyên nhân đều phải tổ chức khám nghiệm hiện trường, khám
nghiệm tử thi, trưng cầu giám định pháp
y và tiến hành xác minh, điều tra ban đầu tại hiện trường để làm rõ căn cứ xử lý
theo quy định của pháp luật.
2. Việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra và giám định phải
kịp thời, khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác,
đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật
trong quá trình khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra và giám định phải
được phát hiện nhằm khắc phục và xử lý
nghiêm minh.
3. Thông qua kết quả khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra và giám định để xác
định vụ việc có dấu hiệu tội phạm hay không
có dấu hiệu tội phạm. Các trường hợp sau khi
khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm
tử thi, thực nghiệm điều tra và giám định xác định có dấu hiệu của tội phạm thì phải khởi tố vụ án hình sự để tiến hành điều tra theo quy định của pháp luật.
Điều 4. Từ ngữ được dùng trong Quy chế
1. “Lãnh đạo Viện” gồm Viện trưởng Viện kiểm sát,
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát được Viện trưởng
phân công hoặc ủy quyền thực hành quyền
công tố, kiểm sát việc khám
nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực
nghiệm điều tra và giám định.
2. “Lãnh đạo đơn vị” gồm Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng đơn vị thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Trưởng
phòng, Phó Trưởng phòng đơn vị thực hành
quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát
xét xử sơ thẩm thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh.
3. “Cơ quan
có thẩm quyền điều tra” gồm
Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra.
4. “Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền điều
tra” gồm Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Cấp trưởng cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra.
5. “Phó Thủ trưởng, Cấp phó Cơ quan có thẩm quyền điều
tra” gồm Phó Thủ trưởng Cơ quan điều
tra, Cấp phó cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
6. “Cán bộ điều tra” được dùng trong Quy chế này là cán bộ điều tra của cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Điều 5. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên khi thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi,
thực nghiệm điều
tra và giám định
1. Yêu cầu điều tra viên, cán bộ điều tra hoặc những người
biết về vụ việc cung cấp các thông tin liên quan đến vụ việc
cần khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi.
2. Kiểm sát viên phải kiểm sát thành phần tiến hành, tham gia việc
khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm
tử thi, thực nghiệm điều tra bảo đảm đúng thẩm quyền, thành
phần theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình
sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
3. Yêu cầu điều tra viên, cán bộ điều tra thu giữ, niêm
phong, bảo quản vật chứng, tài liệu, đồ vật
hoặc dữ liệu điện tử có liên quan đến vụ việc khám
nghiệm; lập biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, vẽ sơ đồ hiện
trường theo đúng quy định của pháp luật.
4. Kiểm sát chặt chẽ việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều
tra và giám định, kịp thời đề ra các yêu cầu cho điều tra viên, cán bộ điều tra, người
có chuyên môn, Giám định viên kỹ thuật
hình sự, Giám định viên pháp y
thu thập, làm rõ các dấu vết thương tích,
giải phẫu tử thi để xác định nguyên
nhân chết, sơ bộ kết luận về nguyên nhân chết
của nạn nhân (nếu có thể) để phục vụ
công tác truy nguyên hình sự và truy tìm người phạm tội đối với những vụ án không quả tang.
5. Yêu cầu điều tra viên, cán bộ điều tra, người có
chuyên môn, Giám định viên kỹ thuật hình
sự, Giám định viên pháp y xác định chính xác phạm vi hiện trường, bao gồm cả hiện
trường chính, hiện trường phụ, hiện trường giả của vụ án,
hiện trường còn nguyên vẹn hay đã bị thay đổi; mở rộng hiện trường để truy tìm dấu vết
và công cụ, phương tiện phạm tội. Phát hiện, mô tả, thu thập đầy đủ, trung thực, khách
quan mọi dấu vết liên quan đến tội phạm và
người phạm tội tại hiện trường. Trong trường hợp cần thiết, Kiểm
sát viên có thể ghi âm hoặc ghi hình
có âm thanh việc khám nghiệm hiện trường, khám
nghiệm tử thi.
6. Kiểm tra, đối chiếu giữa sơ đồ hiện trường, biên bản
khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm
tử thi, thực nghiệm điều tra và các tài liệu liên
quan khác so với thực tế hiện trường, diễn biến quá trình
khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi,
thực nghiệm điều tra để bảo đảm chính xác, khách quan, toàn diện và theo đúng quy định của pháp luật.
7. Kiểm sát viên được phân công thực
hành quyền công tố, kiểm sát
việc khám nghiệm hiện trường, khám
nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra phải có mặt từ khi bắt đầu đến khi kết thúc, ký tên vào sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và thực nghiệm điều tra.
8. Mọi trường hợp Kiểm sát viên không trực tiếp thực hành
quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra thì không được ký
vào các loại biên bản trên.
Điều 6. Tiếp nhận, xử lý và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm có
liên quan đến khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi
Lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phân công Kiểm sát viên trực nghiệp vụ 24/24 giờ để tiếp nhận,
quản lý đầy đủ tố giác, tin báo về tội
phạm có liên quan đến khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm tử thi do cơ quan, tổ chức, cá
nhân chuyển đến. Kiểm sát viên phải ghi vào
sổ thụ lý; ghi rõ giờ, ngày, tháng,
năm tiếp nhận; nội dung tố giác, tin báo về
tội phạm có liên quan đến khám nghiệm
hiện trường, khám nghiệm tử thi; tên, tuổi và địa chỉ của cơ quan, tổ chức, cá nhân
cung cấp; kịp thời báo cáo lãnh đạo đơn vị,
lãnh đạo Viện để chuyển ngay các tố
giác, tin báo về tội phạm kèm theo các tài liệu có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết. Nếu là thông
tin do Cơ quan có thẩm quyền điều tra cung cấp, Kiểm sát
viên được phân công trực phải báo cáo
ngay lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để kịp
thời phân công Kiểm sát viên thực hành
quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi.
Kiểm sát viên, Kiểm tra viên phải
giữ bí mật thông tin của cá
nhân đã cung cấp tố giác, tin báo có liên quan đến khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi nếu có yêu cầu.
Điều 7. Thẩm quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm
hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra và giám định
1. Thẩm quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm
hiện trường, khám nghiệm tử thi theo thẩm quyền giải quyết
các vụ án hình sự và theo lãnh
thổ. Các vụ án giết người,
nghi giết người; các vụ tai nạn lao động, tai nạn giao thông;
các vụ cháy, nổ đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp hoặc các vụ việc xảy ra có
liên quan đến yếu tố nước ngoài; các vụ việc
đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp khác do Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu tiến hành khám nghiệm thuộc thẩm quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân
khu.
2. Trong trường hợp vụ việc thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân
khu, khi có yêu cầu thì Viện trưởng hoặc Phó
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện,
Viện kiểm sát quân sự khu vực nơi xảy ra tội phạm hoặc nơi
có dấu vết tội phạm có trách nhiệm phân
công Kiểm sát viên phối hợp, tham gia thực hành
quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi.
Chương II
THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT VIỆC KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG, KHÁM NGHIỆM TỬ THI,
THỰC NGHIỆM ĐIỀU TRA VÀ GIÁM ĐỊNH
Điều 8. Trách nhiệm của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố, kiểm
sát việc khám nghiệm hiện trường
Khi nhận được thông báo của Cơ quan có thẩm quyền điều tra, lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải cử Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám
nghiệm hiện trường đối với tất cả các vụ việc
mà Cơ quan có thẩm quyền điều tra tiến hành khám
nghiệm theo quy định của pháp luật.
Đối với các vụ việc phức tạp, các vụ án giết người không quả
tang, các vụ tai nạn giao thông, các vụ tai nạn lao động gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng, các vụ án mà người
phạm tội là nhân sỹ trí thức hoặc các
chức sắc tôn giáo, người có uy tín
cao thuộc các dân tộc ít người, các vụ án được dư luận xã
hội đặc biệt quan tâm hoặc các trường hợp khác khi xét thấy cần thiết thì
lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải trực tiếp
cùng Kiểm sát viên thực hành
quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường.
Trường hợp cần thiết, Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng
Viện kiểm sát cấp dưới đề nghị Viện kiểm sát cấp trên phân công Kiểm sát viên cùng tham
gia thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm
hiện trường.
Điều 9. Nhiệm vụ của Kiểm sát viên trước khi khám nghiệm hiện trường
Trước khi khám nghiệm hiện trường, Kiểm sát
viên phải chủ động nắm tình hình, yêu cầu điều
tra viên, cán bộ điều tra thông báo nội
dung, diễn biến ban đầu của sự việc xảy ra để tham gia ý kiến vào việc chuẩn bị khám nghiệm; chủ động yêu cầu điều tra viên, cán bộ điều tra tiến hành khám nghiệm hiện trường, bảo
đảm đúng quy định tại Điều 201 Bộ luật Tố tụng
hình sự.
Điều 10. Nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong quá trình khám nghiệm hiện
trường
1. Kiểm sát viên phải phối hợp với điều tra viên,
cán bộ điều tra, người có chuyên môn để thống
nhất nội dung, kế hoạch, trình tự khám nghiệm hiện trường, bảo đảm khách quan, toàn diện và
đúng pháp luật.
Kiểm sát việc lấy lời khai những người biết sự việc
ngay tại hiện trường, nếu thấy người làm chứng, người bị hại
hoặc đối tượng có thể chết hoặc mất khả năng khai báo,
Kiểm sát viên phải yêu cầu điều tra viên, cán bộ điều tra lấy ngay lời
khai và ghi âm lời khai của họ.
2. Kiểm sát viên phải chủ động nắm tình hình về hiện trường qua thông báo của điều tra viên,
cán bộ điều tra, thông tin do người dân
xung quanh khu vực hiện trường cung cấp; hoặc tự mình quan
sát và phân tích các yếu tố để đánh giá tình trạng hiện trường còn nguyên vẹn hay đã bị thay đổi, nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi ấy do
các yếu tố con người, thời tiết, động vật qua lại hoặc các
yếu tố khách quan khác; xác định phạm vi cần
khám nghiệm và những loại dấu vết, vật
chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử cần được xem xét,
thu giữ để yêu cầu điều tra viên, cán
bộ điều tra thực hiện.
3. Trong quá
trình khám nghiệm hiện trường, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ các hoạt
động khám nghiệm. Yêu cầu diều tra viên,
cán bộ điều tra, người có chuyên môn thực hiện
đúng trình tự, thủ tục khám nghiệm; vẽ
sơ đồ, chụp ảnh, đo đạc và mô tả thực trạng hiện trường
theo quy định của pháp luật. Yêu cầu
biên bản khám nghiệm hiện trường phải
được lập, sơ đồ hiện trường phải được vẽ ngay tại nơi khám nghiệm.
Kiểm sát viên phải ghi chép đầy
đủ, chính xác, rõ ràng, cụ thể các tình tiết, đặc điểm, vị trí của dấu vết, vật chứng, đồ vật,
tài liệu quan trọng tại hiện trường để có cơ sở xem xét đối chiếu, kiểm tra với biên bản và sơ đồ khám nghiệm hiện
trường. Trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có thể chụp ảnh,
ghi hình, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường,
xem xét tại chỗ dấu vết, đồ vật, tài liệu có liên quan đến tội phạm, lấy lời khai và
ghi âm lời khai của người bị hại, người làm chứng và những người biết việc. Các tài liệu này được lưu hồ sơ kiểm sát.
4. Kiểm sát viên đề ra yêu cầu khám
nghiệm trên cơ sở nghiên cứu cơ chế, quy luật hình thành dấu vết để có
thể phát hiện, xác định
được loại dấu vết; dấu vết hình thành đúng hay trái với
quy luật thông thường, sự mâu thuẫn
giữa các dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử để kịp thời yêu cầu thu thập đầy
đủ; tránh trường hợp làm mất, hư hỏng
các dấu vết hoặc làm thay đổi tình
trạng hiện trường. Xác định có hay
không việc tạo hiện trường giả sau khi gây án.
5. Kiểm sát viên phối hợp với điều tra viên, cán
bộ điều tra, người có chuyên môn phân tích, đánh giá các dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện
tử đã thu giữ được tại hiện trường để đặt ra các giả thuyết điều tra, định hướng cho việc khám nghiệm,
thu giữ dấu vết được đầy đủ, chính xác, phục vụ công
tác truy tìm vật chứng, truy bắt người thực hiện hành vi
phạm tội.
Nếu thấy việc khám nghiệm hiện trường chưa đầy đủ,
vi phạm quy định tại Điều 201 Bộ luật Tố tụng hình sự thì
Kiểm sát viên yêu cầu điều tra viên,
cán bộ điều tra, người có chuyên môn bổ
sung, khắc phục; trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ thì yêu cầu ghi ý
kiến của Kiểm sát viên vào biên bản khám
nghiệm và báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh
đạo Viện.
6. Những dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu
điện tử đã thu giữ phải được bảo quản, giữ nguyên
trạng hoặc niêm phong theo quy định của pháp
luật, bảo đảm phục vụ cho việc giám định và
sử dụng làm chứng cứ giải quyết vụ án.
7. Kiểm sát viên phối hợp cùng điều tra viên, cán bộ điều tra phân tích, đánh
giá đúng kết quả khám nghiệm hiện trường;
xem xét quyết định kết thúc khám nghiệm
hoặc tiếp tục bảo vệ hiện trường để có thể khám
nghiệm bổ sung, khám nghiệm lại; xác
định rõ những dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài
liệu, dữ liệu điện tử cần được trưng cầu giám định, nội dung cần trưng cầu để phục vụ cho công tác điều tra, giải quyết vụ án.
8. Kiểm sát viên yêu cầu điều tra viên, cán bộ điều tra quán triệt những người tham gia khám
nghiệm hiện trường giữ bí mật về kết quả khám
nghiệm, tuyệt đối không được tiết lộ, gây
khó khăn cho công tác điều tra, giải quyết vụ
án.
Điều 11. Nhiệm vụ của Kiểm sát viên sau khi kết thúc việc khám nghiệm
hiện trường
Sau khi kết thúc việc khám nghiệm hiện
trường, Kiểm sát viên phải ghi thông tin vào sổ thụ lý khám nghiệm, đồng thời báo cáo
ngay bằng văn bản và đề xuất quan điểm với lãnh
đạo đơn vị, lãnh đạo Viện về kết quả khám
nghiệm hiện trường, những yêu cầu của Kiểm sát
viên không được điều tra viên, cán bộ điều
tra, người có chuyên môn thực hiện hoặc thực hiện không
đầy đủ (nếu có), cần phải khám nghiệm bổ sung, khám nghiệm lại để có ý kiến chỉ đạo.
Kiểm sát viên phải dự thảo ngay báo cáo ban đầu trình lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện gửi Viện kiểm sát cấp trên theo quy
định tại Quy chế về chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân
dân ban hành kèm theo Quyết định số 279/QĐ-VKSTC ngày
01/8/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Điều 12. Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trước khi khám nghiệm tử
thi
Trong mọi trường hợp, khi nhận được thông báo của Cơ quan
điều tra, Kiểm sát viên phải có mặt để
thực hành quyền công tố, kiểm sát
việc khám nghiệm tử thi theo quy định của pháp
luật. Kiểm sát viên phải chủ động phối hợp với
điều tra viên để thống nhất nội dung, kế hoạch khám
nghiệm tử thi. Trước khi khám nghiệm tử thi,
Kiểm sát viên yêu cầu điều tra viên thông báo tóm tắt nội dung vụ việc, thành phần tiến hành, tham gia khám nghiệm, thời gian, địa điểm
tiến hành khám nghiệm.
Trong trường hợp vụ việc có 02 tử thi trở lên, vụ việc được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm
hoặc trong các trường hợp khác khi
xét thấy cần thiết thì lãnh đạo đơn vị, lãnh
đạo Viện phải trực tiếp cùng Kiểm sát
viên thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm
tử thi.
Trường hợp cần thiết, Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng
Viện kiểm sát cấp dưới đề nghị Viện kiểm sát cấp trên phân công Kiểm sát viên cùng thực hành quyền công tố, kiểm sát
việc khám nghiệm tử thi.
Điều 13. Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong quá trình khám
nghiệm tử thi
1. Trong quá
trình khám nghiệm tử thi, Kiểm sát viên phải yêu cầu điều tra viên, Giám định viên pháp y, Giám định viên kỹ thuật hình sự tiến hành chụp
ảnh, mô tả đầy đủ dấu vết để lại trên tử thi, thu thập, bảo quản mẫu vật, phục vụ công tác giám định để xác định nguyên nhân chết hoặc truy tìm tung tích của nạn nhân.
Kiểm sát viên phải ghi chép, mô tả đầy đủ, chính xác, rõ ràng, cụ thể các dấu vết để lại trên tử thi để làm cơ sở xem xét, đối chiếu với biên bản khám nghiệm tử thi.
2. Nếu thấy việc khám nghiệm tử thi chưa đầy đủ, vi phạm
quy định tại Điều 202 Bộ luật Tố tụng hình sự, Kiểm sát
viên yêu cầu điều tra viên, Giám định viên
pháp y, Giám định viên kỹ thuật hình
sự bổ sung, khắc phục; trường hợp không thực
hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì yêu cầu ghi ý kiến của Kiểm sát viên vào biên bản khám nghiệm và báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện.
3. Trường hợp phải khai quật tử thi, Kiểm sát viên phải
kiểm sát về trình tự, thủ tục, bảo đảm
việc khai quật tử thi để khám nghiệm đúng quy định tại Điều 202 Bộ luật Tố tụng hình sự và
các văn bản pháp luật khác có liên
quan.
Điều 14. Nhiệm vụ của Kiểm sát viên sau khi kết thúc việc khám nghiệm tử
thi
Sau khi kết thúc việc khám nghiệm tử
thi, Kiểm sát viên phải ghi thông tin vào sổ thụ lý khám nghiệm, đồng thời báo cáo
ngay bằng văn bản và đề xuất quan điểm với lãnh
đạo đơn vị, lãnh đạo Viện về kết quả khám
nghiệm tử thi, những yêu cầu của Kiểm sát
viên không được điều tra viên, Giám định viên
pháp y, Giám định viên kỹ thuật hình
sự thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ (nếu
có) để có ý kiến chỉ đạo.
Kiểm sát viên phải dự thảo ngay báo cáo ban đầu trình lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện gửi Viện kiểm sát cấp trên theo quy
định tại Quy chế về chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân
dân ban hành kèm theo Quyết định số 279/QĐ-VKSTC ngày
01/8/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Điều 15. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc thực nghiệm điều tra
1. Khi nhận được thông báo của Cơ quan điều tra về việc thực
nghiệm điều tra, lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải cử Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát việc thực
nghiệm điều tra. Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt, phải
được sự đồng ý của lãnh đạo đơn vị, lãnh
đạo Viện và thông báo cho Cơ quan điều tra biết để ghi vào biên bản thực nghiệm điều
tra.
Kiểm sát viên phải nghiên cứu nội
dung, kế hoạch thực nghiệm điều tra, bảo đảm việc dựng lại hiện trường, diễn lại
hành vi, tình huống hoặc tình tiết khác
phù hợp với thực tế khách quan, theo đúng quy định tại Điều 204 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trong trường hợp cần thiết mà Cơ quan điều tra chưa tổ chức thực nghiệm điều tra, thì Kiểm sát
viên kịp thời báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành thực nghiệm điều
tra.
2. Viện kiểm sát tiến hành thực
nghiệm điều tra khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Trong giai
đoạn điều tra, Viện kiểm sát đã yêu cầu
Cơ quan điều tra thực nghiệm điều tra nhưng Cơ quan điều tra không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ;
b) Trong giai
đoạn truy tố, mà xét thấy việc thực
nghiệm điều tra đơn giản, không cần phải trả hồ sơ để điều
tra bổ sung thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện tự mình hoặc phối hợp với Cơ quan điều tra
tổ chức thực nghiệm điều tra.
Việc thực nghiệm điều tra và lập biên bản thực nghiệm điều tra phải theo đúng quy định tại
Điều 204 Bộ luật Tố tụng hình sự và quy định của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Điều 16. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giám định
1. Kiểm sát viên phải kiểm sát việc
trưng cầu giám định của Cơ quan có thẩm
quyền Điều tra nhằm bảo đảm nội dung trưng cầu giám định cụ
thể, rõ ràng, phù hợp với sự việc và những vấn đề cần yêu cầu kết luận.
Kiểm sát viên phải kịp thời nghiên cứu hồ sơ, tài liệu để phát hiện
các nội dung cần giám định, các
trường hợp bắt buộc phải giám định quy định
tại Điều 206 Bộ luật Tố tụng hình sự, các trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định quy định
tại Thông tư liên tịch số
01/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP ngày 13/12/2017 quy định
những trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định tư pháp
trong giải quyết vụ án, vụ việc về tham
nhũng, kinh tế nhưng chưa được trưng cầu giám định để báo
cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra quyết định trưng cầu giám định
theo quy định tại Điều 205 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trường hợp Kiểm sát viên tham dự giám định, thì phải thông báo trước
cho người giám định biết theo đúng quy định tại Điều 209 Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Nếu thấy nội dung kết luận giám định chưa rõ,
chưa đầy đủ hoặc phát sinh những vấn đề mới
cần phải giám định liên quan đến các
tình tiết của vụ án, vụ việc đã được kết luận trước đó, thì Kiểm sát viên phải kịp thời báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra trưng cầu giám
định bổ sung theo quy định tại Điều 210 Bộ luật Tố
tụng hình sự.
Nếu thấy nghi ngờ kết luận giám định lần đầu không
chính xác hoặc có sự khác nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định thì Kiểm
sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo
đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra trưng cầu giám
định lại hoặc giám định lại lần thứ hai theo
quy định tại Điều 211 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Nếu thấy cần làm sáng tỏ nội dung kết luận giám
định thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện yêu cầu Cơ quan có thẩm
quyền điều tra để yêu cầu tổ chức, cá nhân đã tiến hành giám định giải thích kết luận giám định, hỏi thêm người giám định về những tình tiết cần thiết theo quy định tại Điều 213 Bộ luật tố tụng
hình sự.
3. Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định trưng cầu
giám định khi thuộc một trong các trường
hợp sau đây:
a) Trong giai
đoạn khởi tố, Viện kiểm sát trực tiếp
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;
b) Trong giai
đoạn điều tra, Viện kiểm sát đã yêu cầu
Cơ quan có thẩm quyền điều tra ra quyết định trưng cầu giám
định nhưng Cơ quan có thẩm quyền điều tra không
thực hiện mà nếu không giám định thì không đủ chứng cứ để chứng minh hành
vi phạm tội, tính chất, mức độ, thiệt hại do
hành vi phạm tội gây ra;
c) Trong giai
đoạn truy tố, nếu xét thấy cần thiết.
4. Trường hợp Viện kiểm sát đã trưng cầu giám định mà thấy cần giám định bổ
sung, giám định lại, giám định lại lần
thứ hai hoặc cần làm sáng tỏ nội dung kết luận giám
định thì thực hiện theo quy định tại Khoản 2
Điều này.
5. Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt
chẽ thời hạn gửi quyết định trưng cầu giám định, thời hạn
giám định và thời hạn gửi kết luận giám
định, bảo đảm đúng theo quy định tại các
Điều 205, 208 và 213 Bộ luật Tố tụng hình
sự.
Điều 17. Phát hiện và xử lý vi phạm
1. Kiểm sát viên phải kịp thời phát hiện, mở sổ theo dõi, tổng hợp vi phạm pháp
luật trong hoạt động khám nghiệm hiện trường,
khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra, giám định của Cơ quan có thẩm quyền điều tra, điều tra
viên, cán bộ điều tra để yêu cầu khắc
phục; báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
Viện yêu cầu Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền điều tra xử lý nghiêm minh điều tra viên, cán bộ điều tra vi phạm pháp luật. Nếu vi phạm của điều tra viên, cán bộ điều tra có
dấu hiệu tội phạm, lãnh đạo đơn vị, lãnh
đạo Viện yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra khởi tố vụ án hình sự; nếu có
dấu hiệu tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp
thì báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao, lãnh đạo Viện kiểm sát quân sự trung ương để chỉ đạo Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương xem xét, giải quyết theo thẩm quyền.
Đối với quyết định không có căn cứ và trái
pháp luật của Phó Thủ trưởng, Cấp phó
Cơ quan có thẩm quyền điều tra, điều tra viên thì lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền điều
tra ra quyết định hủy bỏ hoặc trực tiếp ra quyết định hủy bỏ. Đối với quyết định
không có căn cứ và trái pháp luật của
Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền điều tra thì
lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định
hủy bỏ.
Trường hợp Viện kiểm sát quyết định hủy bỏ quyết định
của Cơ quan có thẩm quyền điều tra thì phải gửi ngay cho Cơ quan có thẩm quyền điều tra để
thực hiện.
2. Quá trình
thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm
hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra, giám
định, Kiểm sát viên có trách nhiệm tổng hợp
các vi phạm pháp luật của Cơ quan có
thẩm quyền điều tra, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng thuộc Cơ quan có thẩm
quyền điều tra và người tham gia tố tụng, báo cáo,
đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản kiến nghị, yêu cầu khắc phục
theo quy định tại Khoản 6 Điều 166 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Điều 18. Việc ban hành văn bản tố tụng của Viện kiểm sát
Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên
ban hành văn bản tố tụng khi thực hành quyền
công tố, kiểm sát việc khám
nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực
nghiệm điều tra, giám định theo quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự; Quy chế tạm thời Công tác thực
hành quyền công tố, kiểm sát
việc khởi tố, điều tra và truy tố ban hành
kèm theo Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày 29/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
Quyết định số 15/QĐ-VKSTC ngày 09/01/2018 của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành
Mẫu văn bản tố tụng, văn bản nghiệp vụ thực hiện trong công
tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy
tố.
Chương III
ĐIỀU
KHOẢN THI HÀNH
Điều 19. Hiệu lực thi hành
Quy chế này có hiệu lực kể từ ngày 02 tháng 5 năm
2018, thay thế Quy chế công tác kiểm sát
việc khám nghiệm hiện trường, kiểm sát
khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra, việc tiến hành
giám định ban hành kèm theo Quyết định số
421/2014/QĐ-VKSTC ngày 17/10/2014 của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao.
Điều 20. Trách nhiệm thực hiện
1. Thủ trưởng đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát
quân sự các cấp chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện Quy chế này.
2. Giao Vụ Thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra án
trật tự xã hội chủ trì, phối hợp với Văn phòng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao và các đơn vị có liên quan
theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện Quy chế này.
3. Trong quá
trình thực hiện, nếu có khó khăn, vướng
mắc hoặc phát sinh những vấn đề cần phải sửa đổi, bổ sung
thì kịp thời báo cáo Viện kiểm sát
nhân dân tối cao (qua Vụ Thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra án trật tự xã hội) để tổng
hợp, báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét, quyết định./.