BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
--------
|
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
--------
|
Số 02-KL/TW
|
Hà Nội, ngày
26 tháng 04 năm 2016
|
KẾT LUẬN
CỦA BAN BÍ THƯ
VỀ TỔNG KẾT 10
NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 41-NQ/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ KHÓA IX VỀ BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
Tại phiên họp ngày 15/4/2016, sau khi nghe Ban
Tuyên giáo Trung ương đọc Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số
41-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và ý kiến của các cơ quan liên quan, Ban
Bí thư kết luận:
1- Đánh giá tình hình
Sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết, các cấp ủy
đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể đã chỉ đạo, quán triệt, thực hiện các
quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác bảo vệ môi
trường đạt được những kết quả quan trọng. Ô nhiễm môi trường từng bước được
ngăn chặn; chất lượng môi trường có bước được cải thiện; bảo tồn đa dạng sinh
học được chú ý bảo vệ. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về bảo vệ môi
trường tiếp tục được hoàn thiện. Hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường được tăng
cường, mở rộng…
Tuy
nhiên, bên cạnh kết quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Còn có khoảng
cách lớn giữa nhận thức và hành động, giữa cam kết và thực hiện, chưa hình
thành thói quen, ý thức bảo vệ môi trường trong xã hội. Xu hướng gia tăng các
nguồn gây ô nhiễm, suy giảm chất lượng môi trường sống, suy thoái đa dạng sinh
học vẫn đang ở mức cao, đáng lo ngại. Ô nhiễm môi trường ở nhiều khu vực đô
thị, nông thôn, làng nghề, cụm công nghiệp, lưu vực sông… đang ở mức cao; nhiều
khu vực ô nhiễm, tồn lưu hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật chậm được khắc phục;
nhiều cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng chưa được xử lý triệt để. Nhiều chỉ tiêu
bảo vệ môi trường trong Chiến lược, Kế hoach phát triển kinh tế - xã hội và
Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia chưa đạt hoặc chỉ đạt ở mức thấp.
Nguyên
nhân của những hạn chế, yếu kém trên chủ yếu là do nhận thức và trách nhiệm của
một số cấp ủy đảng, chính quyền, người đứng đầu địa phương, đơn vị chưa đầy đủ.
Phát triển kinh tế - xã hội chưa thực sự gắn với bảo vệ môi trường, phát triển
bền vững. Công tác quản lý nhà nước về môi trường có nơi, có lúc còn buông
lỏng; vai trò thống nhất quản lý nhà nước, điều phối nguồn lực bảo vệ môi
trường của ngành môi trường còn yếu; chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về
bảo vệ môi trường còn phân tán, chồng chéo; sự phối hợp giữa các cấp, các
ngành, đơn vị liên quan trong bảo vệ môi trường thiếu chặt chẽ; năng lực, kinh
nghiệm, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ quản lý bảo vệ môi trường của cán bộ môi
trường chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là ở cấp huyện, cấp xã. Hệ thống pháp luật,
cơ chế, chính sách còn bất cập, chồng chéo, khó thực hiện. Nguồn lực đầu tư cho
bảo vệ môi trường còn hạn chế; xã hội hóa bảo vệ môi trường chưa hiệu quả,
thiếu cơ chế huy động, thu hút khối tư nhân tham gia.
2- Nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới
Để sớm khắc phục những hạn chế, yếu kém nêu trên, đạt được các mục
tiêu về bảo vệ môi trường đã được xác định trong Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ
Chính trị khóa IX, Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX
và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Ban Bí thư yêu cầu các cấp ủy đảng, chính
quyền tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
- Đổi mới nội dung tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức trách
nhiệm về bảo vệ môi trường của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các
ngành, doanh nghiệp và mọi người dân. Hết sức chú ý đến yếu tố môi trường, phát
triển kinh tế xanh, bền vững trong thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi
mới mô hình tăng trưởng. Xây dựng tiêu chí, chuẩn mực về bảo vệ môi trường
trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Hình thành các thiết chế
văn hóa, đạo đức, ứng xử thân thiện với môi trường trong toàn xã hội.
- Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền đối với
công tác bảo vệ môi trường. Làm rõ vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp
ủy, chính quyền địa phương để xảy ra tình trạng ô nhiễm môi trường kéo dài.
Thực hiện giao chỉ tiêu, đánh giá, xếp hạng công tác bảo vệ môi trường đối với
các ngành, địa phương.
- Kiện toàn tổ chức bộ máy từ Trung ương đến địa phương theo hướng
tổng hợp, thống nhất, tập trung đầu mối; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, vai
trò của ngành môi trường, khắc phục triệt để tình trạng phân tán, chồng chéo
trong quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường. Chú trọng nâng cao năng lực, trình
độ của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường từ Trung ương đến
địa phương, nhất là đối với cấp huyện, cấp xã. Sử dụng nguồn chi sự nghiệp môi
trường để bố trí cán bộ hợp đồng chịu trách nhiệm về công tác bảo vệ môi trường
ở cấp xã.
- Tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng bám sát
thực tiễn, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, tránh chồng chép, xung đột giữa
pháp luật về môi trường với các lĩnh vực khác có liên quan; nghiên cứu xây dựng
luật về không khí sạch, về nguồn nước sạch; phòng ngừa và kiểm soát các nguồn
gây ô nhiễm; về quản lý chất thải; về khắc phục ô nhiễm, cải thiện chất lượng
môi trường; về bảo tồn thiên nhiên và dạng sinh học… đáp ứng yêu cầu của giai
đoạn phát triển mới và phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế.
- Cơ cấu lại, sử dụng hợp lý, hiệu quả, đúng mục đích nguồn chi sự
nghiệp môi trường. Kết hợp tăng chi từ ngân sách với đạng hóa các nguồn vốn đầu
tư trong và ngoài nước cho bảo vệ môi trường như: Thúc đẩy hiệu quả hợp tác
công – tư (PPP) trong đầu tư bảo vệ môi trường; quy định mức chi cho bảo vệ môi
trường theo tỉ lệ vốn đầu tư của các dự án; thực hiện cơ chế cho phép chủ đầu
tư được trực tiếp thu để bù chi bảo vệ môi trường trên nguyên tắc “người gây ô
nhiễm phải trả tiền” và “người hưởng lợi từ môi trường phải trả chi phí”, coi
đây là giải pháp mang tính đột phá để huy động nguồn lực từ xã hội, giảm gánh
nặng từ nguồn ngân sách nhà nước.
- Chú trọng nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận và tổng kết thực
tiễn về bảo vệ môi trường; thúc đẩy đổi mới công nghệ sản xuất và phát triển
công nghệ môi trường; hạn chế phát triển mới và có lộ trình giảm dần các hoạt
động kinh tế tiêu tốn nhiều năng lượng, tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường.
- Thực hiện tổng điều tra, đánh giá, phân loại và có biện pháp kiểm
soát các nguồn thải, nhất là các nguồn thải lớn; tập trung giải quyết các vấn
đề môi trường khu vực đô thị, khu dân cư nông thôn, làng nghề, khu công nghiệp,
cụm công nghiệp, lưu vực sông, ven biển… Khoanh vùng, xử lý, cải tạo các khu
vực bị ô nhiễm, nhất là ô nhiễm tồn lưu hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật. Khôi
phục rừng tự nhiên; thúc đẩy khoanh vùng bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh
học.
3- Tổ chức thực hiện
- Ban Tuyên giáo Trung ương chỉ đạo các cơ quan báo chí ở Trung ương
và địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt các quan điểm, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ môi trường. Xác
định môi trường là vấn đề toàn cầu. Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu vừa là
một nội dung cơ bản của pháp triển bền vững.
- Đảng đoàn Quốc hội chỉ đạo giám sát thi hành Luật Bảo vệ môi
trường năm 2014; bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật khác có liên quan
đến bảo vệ môi trường.
- Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành Trung ương, địa
phương tiếp tục thể chế hóa và tổ chức thực hiện tốt nội dung các nghị quyết,
chỉ thị của Đảng về bảo vệ môi trường; xây dựng các chiến lược, chương trình,
kế hoạch bảo vệ môi trường thuộc phạm vi mình quản lý. Kiện toàn tổ chức, bộ
máy, khắc phục tình trạng chồng chéo, phân tán trong quản lý nhà nước về bảo vệ
môi trường. Rà soát, sửa đổi bổ sung, hoàn thiện, đồng bộ các văn bản, các
chính sách về bảo vệ môi trường, đưa Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 sớm đi vào
cuộc sống.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân làm tốt công
tác tuyên truyền, vận động và giám sát các tổ chức, cá nhân trong việc thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ môi
trường.
- Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan
thường xuyên đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính
trị khóa IX về bảo vệ môi trường; Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý
tài nguyên và bảo vệ môi trường và Kết luận này, định kỳ báo cáo Bộ Chính trị,
Ban Bí thư.
Kết luận này được phổ biến đến từng chi bộ.
|
T/M BAN BÍ THƯ
Đinh Thế Huynh
|