BỘ TƯ PHÁP
TỔNG CỤC THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 1209 /TCTHADS-NV1
V/v
giải đáp nghiệp vụ thi hành án
|
Hà Nội, ngày
27 tháng 5 năm 2013
|
Kính
gửi: Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương
Thời gian qua, nhiều Cục Thi hành
án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có Công văn đề nghị Tổng cục
Thi hành án dân sự giải đáp một số vướng mắc về nghiệp vụ thi hành án dân sự. Sau
khi thống nhất với Vụ Kiểm sát thi hành án dân sự (Vụ 10) Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao, Tổng cục Thi hành án dân sự có ý kiến về các vấn đề đó như sau (dưới
đây, vướng mắc nghiệp vụ địa phương đề nghị giải đáp là phần chữ nghiêng):
I. VỀ LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
2008
1. Khoản 2 Điều 2 quy định:
"2. Những bản án, quyết định sau đây của Toà án cấp sơ thẩm được thi hành
ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị:
a) Bản án,
quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp
mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng,
sức khoẻ, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc;
b) Quyết định
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời."
Nhưng tại Điều 35 Luật Thi hành án dân sự về thẩm quyền thi hành án thì vấn đề này lại không được đặt
ra cho các cơ quan thi hành án dân sự, còn Điều 36 Luật
Thi hành án dân sự về việc ra Quyết
định thi hành án thì đưa vấn đề này vào nhưng nêu một cách chung chung "1.
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành đối với
phần bản án, quyết định sau đây... đ) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời".
Theo các
quy định trên thì Luật Thi hành án dân sự không trao thẩm quyền cụ thể việc ra
Quyết định thi hành án đối với các Bản án, Quyết định quy định tại Khoản 2 Điều 2. Vì vậy, cơ quan thi hành án dân sự không được
ra Quyết định thi hành án đối với các trường hợp này. Tuy nhiên, trên thực tế,
các cơ quan Thi hành án dân sự vẫn ra Quyết định thi hành án đối với các Bản
án, Quyết định trên.
Các Bản án,
Quyết định quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật Thi hành án dân sự
là Bản án, Quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Theo Điểm a, Khoản
1 và Điểm a Khoản 2 Điều 35 Luật Thi hành án dân sự quy định về thẩm quyền
thi hành án thì các Bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án đã bao hàm cả Bản án,
quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp
mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng,
sức khoẻ, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc và Quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời do Tòa án cấp sơ thẩm ban hành. Như vậy,
căn cứ vào Điều 35,
cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án đối với các
trường hợp trên. Tuy nhiên, đối với Bản án, Quyết định quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 2 không thuộc trường hợp cơ quan thi hành
án dân sự chủ động ra quyết định thi hành án nên cơ quan thi hành án dân sự chỉ
thi hành khi có đơn yêu cầu thi hành án.
2. Khoản 2 Điều 12 quy định: "Viện Kiểm sát các cấp trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình kiểm sát việc tuân theo pháp luật về thi
hành án của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức và cá
nhân có liên quan đến việc thi hành án nhằm bảo đảm việc thi hành án kịp thời,
đầy đủ, đúng pháp luật”. Vậy trong quá trình tổ chức thi hành án, Cơ quan thi
hành án dân sự có phải chủ động mời Viện Kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân
theo pháp luật công tác thi hành án dân sự hay không?
Luật Thi hành
án dân sự không quy định cơ quan thi hành án dân sự mời hay không mời Viện Kiểm
sát nhân dân kiểm sát các hoạt động về thi hành án. Cơ quan thi hành án dân sự
mời hay không mời không làm mất đi tính chủ động của Viện Kiểm sát trong quá
trình kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động thi hành án. Viện Kiểm
sát chủ động kiểm sát hoạt động thi hành án thông qua việc kiểm sát thường
xuyên các quyết định về thi hành án do Cơ quan thi hành án dân sự gửi (theo luật
định) và nếu cần thiết Viện Kiểm sát sẽ thực hiện các quyền yêu cầu cung cấp hồ
sơ, tài liệu hoặc trực tiếp kiểm sát hoạt động thi hành án. Tuy nhiên cơ quan
thi hành án dân sự nên chủ động phối hợp chặt chẽ với Viện Kiểm sát trong quá
trình tổ chức thi hành án để việc thi hành án đạt hiệu quả, đúng pháp luật, hạn
chế thấp nhất vi phạm pháp luật.
3. Khoản 2 Điều 34 quy định việc từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án
phải được thông báo bằng văn bản cho người nộp đơn yêu cầu thi hành án. Có ý kiến
cho rằng cần bổ sung vào Điều luật quy định cơ quan thi hành án dân sự phải thông
báo việc từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án cho Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp
để thực hiện việc kiểm sát.
Luật Thi hành
án dân sự chỉ quy định cơ quan thi hành án dân sự phải gửi các Quyết định về
thi hành án cho Viện Kiểm sát. Còn các văn bản, tài liệu khác thì không bắt buộc
gửi tất cả cho Viện Kiểm sát. Đối với các văn bản, tài liệu này Viện Kiểm sát nếu
xét thấy cần để thực hiện nhiệm vụ, chức năng kiểm sát thì thực hiện quyền yêu
cầu cung cấp hồ sơ tài liệu; hoặc thông qua kiểm sát thường xuyên các quyết định
thi hành án; hoặc trực tiếp kiểm sát.
4. Khoản 2 Điều 39 quy định: "Việc thông báo phải thực hiện
trong 3 ngày làm việc, kể từ ngày ra văn bản, trừ trường hợp cần ngăn chặn
đương sự tẩu tán tài sản, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án".
Thực tế cho
thấy, việc thực hiện quy định này rất khó khăn nhất là đối với miền núi dân cư
thưa thớt, điều kiện đi lại khó
khăn và các xã cách trung tâm huyện lỵ, đồng bào phải đi làm nương rẫy xa nhà
nhiều ngày mới về, Chấp hành viên phải đi lại nhiều lần mới gặp nên khó khăn
cho việc giao nhận thông báo. Bên cạnh đó, một số cơ quan thi hành án có số lượng
vụ việc phải tổ chức thi hành lớn, trong khi biên chế, kinh phí, phương tiện
còn hạn chế, địa bàn hoạt động rộng thì không thể đảm bảo thông báo cho tất cả
các đương sự, các vụ việc kịp thời theo quy định của Luật.
Thực tế, Luật
quy định như vậy nhằm tránh kéo dài việc thi hành án. Cần hiểu là phải thực hiện
việc thông báo trong thời hạn 3 ngày làm việc mà không phải trong 3 ngày phải
đưa thông báo đến tay người được thông báo. Việc thông báo đến nơi cần được
thông báo còn tùy thuộc hình thức thông báo vì không phải chỉ có một hình thức
thông báo là đưa trực tiếp cho đương sự mà có nhiều hình thức khác được quy định
tại khoản 3 Điều
này.
5. Khoản 2 Điều 44 quy định: "Trong thời hạn 10 ngày kể từ
ngày chủ động ra Quyết định thi hành án hoặc kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu
xác minh của người được thi hành án. Chấp hành viên phải tiến hành việc xác
minh. Trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải
xác minh ngay..."
Một số ý kiến
cho rằng Luật quy định thời gian xác minh trong thời hạn 10 ngày là quá ít. Bởi
theo quy định tại khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự,
cơ quan thi hành án dân sự phải ra Quyết định thi hành án trong 5 ngày làm việc,
kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu thi hành án, kể từ khi ra Quyết định thi hành
án thì trong thời hạn 2 ngày mới phân công Chấp hành viên. Như vậy, còn 3 ngày
thì Chấp hành viên không đủ thời gian để tiến hành xác minh. Luật không có gia
hạn về thời hạn xác minh nên tình trạng Chấp hành viên vi phạm về thời hạn xác
minh điều kiện thi hành án xẩy
ra nhiều, chưa có biện pháp khắc phục. Vi vệc xác minh điều kiện thi hành án được tiến hành trong thời gian tự
nguyện thi hành án; nếu người phải thi hành án tự nguyện thi hành án thì việc
xác minh điều kiện thi hành án
là không cần thiết
Trường hợp này
cần hiểu là: Thời hạn ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu là 5 ngày, và
10 ngày để tính thời gian xác minh là tính từ ngày ra Quyết định thi hành án
theo đơn yêu cầu, và trừ 2 ngày phân công Chấp hành viên thì còn 8 ngày để Chấp
hành viên tiến hành xác minh lần đầu. Đồng thời việc xác minh có thể bằng hình
thức Chấp hành viên ban hành công văn yêu cầu đơn vị, tổ chức đang nắm giữ
thông tin về tài sản hoặc đang quản lý tài sản, tài khoản của người phải thi
hành án cung cấp thông tin về tài sản, hoặc trực tiếp xác minh... Tuy nhiên,
trên thực tế cũng có trường hợp cùng một lúc có nhiều Quyết định thi hành án được
ban hành nên Tổng cục Thi hành án dân sự sẽ nghiên cứu, đề xuất vào nội dung sửa
đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự 2008.
6. Khoản 1 Điều 45 quy định
thời hạn tự nguyện thi hành án là 15 ngày kể từ ngày người phải thi hành án nhận
được thông báo hợp lệ Quyết định thi hành án. Khoản 1 Điều 46
lại quy định: hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 45 của Luật này người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án
thì bị cưỡng chế. Trong thực tế đương sự có điều kiện và tự nguyện thi hành án nhưng để giải quyết tài sản
thì cần thời gian nhiều hơn đặc biệt liên quan đến tài sản là nhà cửa và đất
đai; có trường hợp Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án nhưng
để thực hiện xong thì không dưới 3 tháng hoặc có khi kéo dài trên một năm, kèm
theo đó là huy động lực lượng, chi phí cưỡng chế, gây mất an ninh trật tự tại địa
phương.
Do đó, đề
nghị sửa đổi khoản 1 Điều 45 Luật Thi hành án dân sự theo
hướng kéo dài thời gian tự nguyện thi hành án là 30 ngày, đối với thi hành án
liên quan đến nhà đất thì thời gian tự nguyện là 60 ngày. Có như vậy thì đương
sự mới đủ thời gian giải quyết tài sản, lo liệu nơi ăn chốn ở và tự chủ trong
việc thi hành án có lợi hơn là áp dụng biện pháp cưỡng chế.
Án có hiệu lực
phải được thi hành, nhưng để đảm bảo tính nhân đạo, khuyến khích đương sự tự
nguyện thi hành án, Luật đã quy định thêm thời gian tự nguyện là 15 ngày, khi hết
thời hạn "thì bị cưỡng chế". Việc cưỡng chế thực hiện ngay sau khi hết
hạn luật định. Việc cưỡng chế hoàn thành xong ngay hay kéo dài còn tùy thuộc
vào vụ việc cụ thể mà không có giới hạn về mặt thời gian. (Ví dụ: kéo dài do
khi kê biên có tranh chấp, khiếu nại... hoặc thi hành xong ngay khi tiến hành
khấu trừ trên tài khoản...)
7. Điều 46 quy định:
“1. Hết thời
hạn quy định tại khoản 1 Điều
45 của Luật này, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng
chế.
2. Không tổ
chức cưỡng chế thi hành án trong thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ sáng ngày hôm
sau, các ngày nghỉ, ngày lễ theo quy định của pháp luật và các trường hợp đặc
biệt khác do Chính phủ quy định”.
Như vậy, hết
thời hạn tự nguyện nếu người phải thi hành án có điều kiện nhưng không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng
chế. Luật không quy định thời điểm ra Quyết định cưỡng chế dẫn đến việc Cơ quan
thi hành án dân sự tùy tiện, có việc tổ chức cưỡng chế ngay sau khi hết thời
gian tự nguyện, có việc để kéo dài. Đề nghị quy định rõ thời hạn ra quyết định
cưỡng chế bao nhiêu ngày kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án.
Đến nay
chưa có văn bản hướng dẫn của Chính phủ về những "trường hợp khác"
không được tổ chức cưỡng chế theo quy định tại khoản 2 Điều này.
Về nguyên tắc
hết thời hạn tự nguyện, nếu người phải thi hành án có điều kiện nhưng không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế,
tuy nhiên do có các biện pháp cưỡng chế khác nhau nên Chấp hành viên có quyền lựa
chọn để áp dụng biện pháp cưỡng chế thích hợp theo quy định của Luật và qui định
tại Điều 8 Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự.
Bên cạnh đó,
khi thực hiện cưỡng chế cần chú ý thực hiện quy định tại Khoản
2 Điều 8 Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính
phủ: “Ngoài những trường hợp do Luật Thi hành án dân sự quy định, cơ quan thi
hành án dân sự không tổ chức cưỡng chế thi hành án có huy động lực lượng trong
thời gian 15 ngày trước và sau tết Nguyên đán; các ngày truyền thống đối với
các đối tượng chính sách, nếu họ là người phải thi hành án.”
8. Trên thực tế phát sinh một số khoản phải thi hành
án cần ưu tiên nhưng chưa đưa vào Khoản 1 Điều 47 quy định
về thứ tự thanh toán tiền thi hành án. Ví dụ: Bên phải thi hành án là đơn vị
kinh tế phải thanh toán các khoản bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội. Bên được thi
hành án là cơ quan bảo hiểm xã hội nên ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động,
nếu không được ưu tiên thanh toán, phải chia theo tỷ lệ (trong trường hợp có
nhiều người được thi hành án) là chưa phù hợp.
Điều 47 Luật Thi hành án dân sự quy định về thứ tự thanh toán tiền thi hành án.
Các trường hợp không được quy định ưu tiên thì sẽ được thanh toán theo quy định
tại Điểm c Khoản 1 Điều 47 về “các khoản phải thi hành khác
theo bản án, quyết định”.
- Khoản án
phí có được ưu tiên thanh toán trước nghĩa vụ được bảo đảm từ việc bán tài sản
cầm cố, thế chấp hoặc bán tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm
thi hành một nghĩa vụ cụ thể (sau khi trừ đi các chi phí về thi hành án) hay
không?
Khoản
3 Điều 47 quy định: “Số tiền thu
được từ việc bán tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bán tài sản mà bản án, quyết định
tuyên kê biên để bảo đảm thi hành một nghĩa vụ cụ thể được ưu tiên thanh toán
cho nghĩa vụ được bảo đảm đó sau khi trừ các chi phí về thi hành án”. Theo quy
định tại Điều 90 Luật Thi hành án dân sự thì Chấp hành viên có quyền kê biên xử lý tài sản
của người phải thi hành án đang cầm cố, thế chấp nếu giá trị tài sả n đó lớn
hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế, sau khi xử lý tài sản kê biên
người nhận cầm cố, nhận thế chấp được ưu tiên thanh toán theo quy định tại khoản 3 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự. Như vậy, trong trường
hợp xử lý tài sản của người phải thi hành án đang cầm cố, thế chấp thì số tiền
thu được phải ưu tiên thanh toán cho người nhận cầm cố, nhận thế chấp trước mà không
ưu tiên thanh toán khoản án phí. Tương tự đối với trường hợp bản án, quyết định
tuyên kê biên để đảm bảo thi hành một nghĩa vụ cụ thể thì số tiền thu được khi
xử lý tài sản sau khi trừ các chi phí về thi hành án được ưu tiên thanh toán
cho nghĩa vụ cụ thể mà bản án, quyết định đã tuyên, không ưu tiên thanh toán khoản
án phí đối với bản án này.
9. Điểm b Khoản 2 Điều 47 quy định: "Trong trường hợp có nhiều người được
thi hành án thì việc thanh toán tiền được thực hiện như sau: Số tiền thi hành
án thu theo Quyết định cưỡng chế thi hành án nào thì thanh toán cho những người
được thi hành án đã có đơn yêu cầu tính đến thời điểm có Quyết định cưỡng chế
đó. Số tiền còn lại được thanh toán cho những người được thi hành án theo các
Quyết định thi hành án khác tính đến thời điểm thanh toán. Số tiền còn lại được
trả cho người phải thi hành án"
Điều luật chưa quy định thủ tục, hình thức để cơ quan
thi hành án dân sự giữ lại số tiền còn lại sau khi đã chi trả lần đầu theo quyết
định cưỡng chế để chi trả tiếp cho những người được thi hành án tiếp theo (ví dụ
như phải ra Quyết định thu giữ số tiền còn lại để thi hành án). Đồng thời, Luật
cũng chưa quy định số tiền còn lại gửi giữ ở đâu, trong thời hạn bao nhiêu ngày
phải nộp vào nơi gửi giữ.
Theo quy định
tại Điều 9 Thông tư 22/2011/TT-BTP ngày 2/12/2011 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về hướng dẫn một số
thủ tục trong quản lý hành chính về thi hành án dân sự thì “tất cả các khoản tiền
thu được trong hoạt động thi hành án phải nộp ngay vào quỹ cơ quan thi hành
án...”. Việc giữ, quản lý, chi trả tiền thi hành án được quy định tại Điều 10 Thông tư này.
10. Khoản 1 Điều 48 quy định về điều kiện hoãn thi hành án. Có ý kiến cho rằng Luật chưa
quy định thời hạn hoãn.
Thời hạn hoãn
các trường hợp tại khoản 1 Điều này đến khi "căn cứ hoãn thi hành án quy định tại khoản
1 Điều này không còn" (quy định tại
khoản 4 Điều
này), vì không thể xác định được bao giờ người phải thi hành án hết ốm nặng,
cũng như không thể ấn định thời gian hoãn thi hành án của người được và người
phải thi hành án...
Thời hạn hoãn
theo yêu cầu của người có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều này là 3 tháng và chỉ được yêu cầu hoãn 1 lần.
11. Khoản 2 Điều 48 quy định về điều kiện hoãn thi hành án. Tại đoạn 4 khoản 2 Điều
48: "Thời hạn hoãn thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền
kháng nghị bản án, quyết định không quá 03 tháng, kể từ ngày ra văn bản yêu cầu
hoãn thi hành án". Quy định như trên dẫn đến trong quyết định hoãn thi
hành án của cơ quan thi hành án dân sự phải ghi có hiệu lực trước ngày ban hành
vì cơ quan thi hành án dân sự nhận được văn bản yêu cầu thi hành án mới ra Quyết
định hoãn (ngày ra Quyết định hoãn thi hành án luôn sau ngày ra văn bản yêu cầu
hoãn). Đề nghị sửa Luật cho phù hợp.
Nhìn về hình
thức thấy bất hợp lý như vướng mắc nêu, tuy nhiên Luật quy định như vậy là cho
phép “hồi tố”; đồng thời nhằm không kéo dài việc thi hành án.
12. Điểm d khoản 1 Điều 50 quy định Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải
ra quyết định đình chỉ thi hành án khi bản án, quyết định bị hủy một phần hoặc
toàn bộ. Tuy nhiên, có một số vướng mắc trong quá trình áp dụng quy định này. Tại
khoản 5 Điều 2 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC
ngày 26/7/2010 quy định trường hợp bản án, quyết định bị
kháng nghị đã được tổ chức thi hành một phần thông qua bán đấu giá nay bị hủy,
sửa thì cơ quan thi hành án dân sự tiếp tục hoàn thiện thủ tục theo quy định của
pháp luật cho bên mua đấu giá, trừ trường hợp thủ tục bán đấu giá vi phạm quy định
của pháp luật. Vậy, khi tiến hành cưỡng chế giao tài sản cho người mua trúng đấu
giá thì căn cứ bản án, quyết định nào trong khi bản án, quyết định đã bị hủy, sửa.
Do đó, quy định này thực tế không khả thi.
Điểm
d khoản 1 Điều 50 Luật Thi hành án dân sự và khoản 5 Điều 2 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC
ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao không mâu thuẫn và nhằm đảm bảo quyền lợi người đúng đấu giá,
phù hợp với Điều 258 Bộ luật Dân sự vì bản án, quyết định của Tòa án nếu sai thì sẽ được điều chỉnh bằng Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Đồng thời Điều 135, Điều 136 Luật Thi hành án dân sự cũng đã quy định “Trường hợp bản án, quyết định đó
đã thi hành xong thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự thông báo cho Toà án
đã ra quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm, Viện kiểm sát cùng cấp và đương sự”
và “Trường hợp tài sản đã được chuyển dịch hợp pháp cho người thứ ba chiếm hữu
ngay tình thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người
này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa hoặc tài
sản thi hành án đã bị thay đổi hiện trạng thì chủ sở hữu tài sản ban đầu không
được lấy lại tài sản nhưng được bồi hoàn giá trị của tài sản”. Vì vậy, cơ quan
thi hành án dân sự căn cứ vào quy định của Điều 258 Bộ luật
Dân sự, Luật Thi hành án dân sự, Nghị định
17/2010/NĐ-CP ngày 4/3/2010 về bán đấu giá tài sản, Thông tư 23/2010/TT-BTP
ngày 06 tháng 12 năm 2010 quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện Nghị định 17/2010/NĐ-CP,
Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 khi
cưỡng chế giao tài sản cho người mua trúng đấu giá.
13. Khoản 2 Điều 51 quy định: "Khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành thì người được thi hành án có quyền
yêu cầu thi hành bản án, quyết định trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 30 của Luật này, kể từ ngày phát hiện người phải
thi hành án có điều kiện thi
hành".
Có ý kiến
cho rằng, như vậy, nếu sau thời hạn 5 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật (khoản 1 Điều 30 Luật Thi hành án dân sự),
người được thi hành án mới phát hiện người phải thi hành án có điều kiện thi hành, thì không có quyền yêu cầu thi hành
án. Như vậy, quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án sẽ bị hạn chế.
Trong trường hợp
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự trả đơn yêu cầu đối với các trường hợp
quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật Thi hành án dân sự, khi
người phải thi hành án có điều kiện
thi hành thì người được thi hành án có quyền yêu cầu thi hành bản án khi đáp ứng
đủ hai điều kiện:
+ Trong thời hạn
là 5 năm (thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật Thi hành
án dân sự)
+ Thời điểm để
tính thời hạn là kể từ ngày phát hiện người phải thi hành án có điều kiện thi hành theo quy định tại khoản
2 Điều 51 Luật Thi hành án dân sự (không phải kể từ ngày bản án, quyết định
có hiệu lực pháp luật như ý kiến trên nêu).
14. Điều 52 quy định về
kết thúc thi hành án. Có ý kiến cho rằng: có quyết định trả đơn yêu cầu thi
hành án chưa phải là kết thúc thi hành án mà chỉ là chưa có điều kiện thi hành.
Việc trả đơn
yêu cầu thi hành án Luật quy định là đương nhiên kết thúc việc thi hành án. Tuy
nhiên, trong trường hợp trả đơn yêu cầu thi hành án do người phải thi hành án
không có điều kiện thi hành thì khi
phát hiện người phải thi hành án có điều
kiện thi hành Luật lại quy định người được thi hành án được quyền yêu cầu thi
hành án trở lại.
15. Khoản 1 Điều 55 quy định: "Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân
sự phải ủy thác thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi
hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở".
Như vậy về
cơ bản có 3 căn cứ để ủy thác thi hành án dân sự, đó là căn cứ về cư trú hoặc
có trụ sở; căn cứ về nơi làm việc; căn cứ về tài sản. Nhưng thực tiễn thi hành
án dân sự cho thấy để hiểu và thống nhất áp dụng được các căn cứ ủy thác trong
thi hành án dân sự là không đơn giản. Ví dụ hiểu thế nào là nơi cư trú làm căn
cứ ủy thác (đương sự từ nơi này đến nơi khác làm thuê trong thời gian ngắn, có
được xem là căn cứ về nơi cư trú của được sự để ủy thác thi hành án không). Qua
thực tế không phải những thông tin về lý lịch nào của đương sự được Tòa án ghi
nhận trong bản án khi nào cũng chính xác, có trường hợp Cơ quan cảnh sát điều tra nghe lời khai thiếu căn cứ của đương sự, sau
đó không xác minh lại, nên đến giai đoạn thi hành án dân sự thì có thể là nơi
cư trú của đương sự không còn tồn tại hoặc không có trên thực tế. Do đó, có ý
kiến cho rằng Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn chưa quy định rõ
về căn cứ ủy thác và trả lại ủy thác.
Trường hợp căn
cứ địa chỉ của người phải thi hành án ghi tại bản án, cơ quan thi hành án dân sự
ủy thác đến cơ quan thi hành án dân sự theo địa chỉ của người phải thi hành án
ghi tại bản án. Nơi nhận ủy thác qua xác minh thấy người phải thi hành án không
có tại địa chỉ đã ghi trong bản án mà trả lại quyết định ủy thác là chưa đúng luật.
Luật quy định chỉ trả lại ủy thác thi hành án khi sai sót về thẩm quyền của cơ
quan nhận ủy thác, sai sót về nội dung thi hành án.
Đối với trường
hợp không xác định được địa chỉ ghi trong bản án, cơ quan Thi hành án dân sự
nơi được ủy thác phải nhận ủy thác và đồng thời tiến hành xác minh tiếp; Nếu
xác định được nơi người phải thi hành án có tài sản, cư trú, làm việc là nơi
khác thì ủy thác tiếp.
Do vậy, khi tiến
hành xác minh nơi cư trú của người phải thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự
cần căn cứ Điều 12 Luật cư trú quy định về nơi cư trú của công dân để làm căn cứ ủy thác:
1. Nơi cư trú
của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của
công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú.
Chỗ ở hợp pháp
là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở hợp
pháp có thể thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân
cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật.
Nơi thường trú
là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở
nhất định và đã đăng ký thường trú.
Nơi tạm trú là
nơi công dân sinh sống ngoài nơi đăng ký thường trú và đã đăng ký tạm trú.
2. Trường hợp
không xác định được nơi cư trú của công dân theo quy định tại khoản 1 Điều này thì nơi cư
trú của công dân là nơi người đó đang sinh sống.
16. Khoản 1 Điều 55 cũng quy định
mang tính chất bắt buộc là "phải ủy thác thi hành án". Nhưng trong thực
tiễn cơ quan Thi hành án dân sự thực hiện không thống nhất quy định trên. Vì vậy,
đề nghị Tổng cục Thi hành án dân sự hướng dẫn cụ thể.
Khoản
1 Điều 55 quy định các trường hợp
phải ủy thác thi hành án, nhưng cơ quan Thi hành án dân sự không ủy thác mà tự
mình tiến hành tổ chức thi hành án là không đúng quy định, dẫn đến hậu quả như
đương sự khiếu nại về thẩm quyền, địa phương không hỗ trợ khi tổ chức cưỡng chế...
Vì vậy cơ quan Thi hành án dân sự phải thực hiện ủy thác theo đúng quy định của
Luật. Tuy nhiên, khi ủy thác thi hành án cũng cần xem xét: đối với tài sản là bất
động sản thì cần ủy thác ngay; đối với tài sản là động sản do sẽ dễ dàng bị tẩu
tán trong thời gian các cơ quan Thi hành án dân sự thực hiện việc ủy thác và nhận
ủy thác nên cần áp dụng theo hướng cơ quan Thi hành án dân sự đang tổ chức thi
hành án có thể áp dụng các biện pháp bảo đảm đối với tài sản là động sản của
người phải thi hành án ở địa phương khác rồi mới thực hiện việc ủy thác.
17. Thi hành nghĩa vụ liên đới, có xác định từng phần
của từng người thì có được tách ra để ủy thác hay không?
Về nguyên tắc,
khi xử lý tài sản của những người phải thi hành án có nghĩa vụ liên đới ở nhiều
nơi khác nhau thì cơ quan Thi hành án dân sự không được tách ra để ủy thác vì đối
với việc thi hành nghĩa vụ liên đới chỉ được ra một quyết định thi hành án.
Trong trường hợp này, theo quy định tại khoản 2 Điều 55 Luật
Thi hành án dân sự, trường hợp thi hành nghĩa vụ liên đới mà người phải thi
hành án cư trú hoặc có tài sản ở các địa phương khác nhau thì Thủ trưởng cơ
quan Thi hành án dân sự uỷ thác toàn bộ nghĩa vụ thi hành án đến cơ quan Thi
hành án dân sự thuộc một trong các địa phương nơi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án. Vì vậy, cơ quan Thi hành án dân sự ban đầu (nơi đã nhận Bản
án, Quyết định của Toà án do Toà án chuyển giao để đưa ra thi hành) căn cứ vào
nội dung Bản án, Quyết định của Toà án có thể uỷ thác toàn bộ nghĩa vụ thi hành
án đến cơ quan Thi hành án dân sự thuộc một trong các địa phương nơi người phải
thi hành án có điều kiện thi hành
án (uỷ thác thẳng); nếu đã thụ lý và ra Quyết định thi hành án thì trước khi ủy
thác phải xác minh tất cả tài sản của các đương sự ở các nơi cần ủy thác để ủy
thác toàn bộ nghĩa vụ thi hành án cho một cơ quan Thi hành án dân sự nơi người
phải thi hành án có điều kiện thi
hành án. Việc ủy thác cần đảm bảo không làm mất tính liên đới của việc thi hành
án và các cơ quan Thi hành án dân sự có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với nhau
trong việc tổ chức thi hành các nghĩa vụ thi hành án.
18. Về thẩm quyền ra quyết định thi hành án trở lại
đối với việc trả đơn yêu cầu thi hành án mà trước đó việc thi hành án đã được ủy
thác nhiều nơi:
Trường hợp
này, việc ra Quyết định thi hành án trở lại thuộc thẩm quyền của cơ quan thi
hành án đã ra quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án. Tuy nhiên, trong trường hợp
người phải thi hành án có điều kiện thi hành án tại địa phương khác, để việc tổ
chức thi hành án thuận lợi, kịp thời, đúng pháp luật, thì khi nhận được đơn yêu
cầu thi hành án trở lại, cơ quan thi hành án đã ra Quyết định trả đơn yêu cầu
thi hành án sẽ ra Quyết định thi hành án trở lại theo quy định tại khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự và uỷ thác việc thi
hành án đến cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có điều kiện thi hành theo trình tự thủ tục của pháp luật.
19. Điều 60 quy định:
Người được thi hành án phải nộp phí thi hành án dân sự. Hiện có những ý kiến
như sau:
+ Luật
quy định rất rõ ràng về đối tượng phải nộp phí thi hành án là người được thi
hành án, trên thực tế việc thu phí thi hành án cũng có vướng mắc: đối với trường
hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhận được tiền, tài sản thông qua
quá trình thi hành án, Luật chưa quy định họ phải nộp phí thi hành án, chưa tạo
nên sự bình đẳng trước pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người phải thi hành
án, người được thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Dù người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có làm đơn yêu cầu thi hành án hay không,
nhưng cơ quan thi hành án dân sự đã tổ chức thi hành bản án mà trong đó, họ được
hưởng quyền và lợi ích thì họ cũng phải nộp phí thi hành án. Do đó, cần thiết
có văn bản hướng dẫn thi hành Điều 60 một cách thi tiết hơn, rõ ràng hơn.
Cần phải
phân biệt thế nào là người được thi hành án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan (Điều 3 Luật Thi hành án dân sự đã quy định), theo đó khi người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan được nhận tài sản, được hưởng quyền, lợi ích trong bản án,
quyết định thì họ có tư cách là người được thi hành án và phải nộp phí theo quy
định. Ngược lại khi họ phải thực hiện nghĩa vụ thì họ lại có tư cách người phải
thi hành án nên không phải nộp phí.
+ Người
được thi hành án phải đóng phí thi hành án dân sự là không hợp lý. Lý do, người
được thi hành án phải mất một khoảng thời gian bỏ ra để yêu cầu khởi kiện, thiệt
hại về thu nhập trong thời gian cho vay, mượn tài sản... Khi yêu cầu Tòa án giải
quyết xong lại phải tốn một khoản phí thi hành án là không thể chấp nhận được,
gây thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án, không tạo sự
công bằng trong xã hội, nếu không bỏ điều luật này thì sửa lại người phải thi hành án phải
chịu phí thi hành án mới phù hợp.
Về việc này
cần hiểu rằng, việc khởi kiện tại Tòa án để bảo vệ quyền lợi của đương sự và việc
làm đơn yêu cầu thi hành án để đòi quyền lợi là hai giai đoạn độc lập. Do vậy,
khi khởi kiện tại Tòa án để bảo vệ quyền lợi của mình thì đương sự là bên thua
kiện đã phải chịu một khoản tiền án phí với nhà nước (trừ khi các bên đương sự
thỏa thuận với nhau); sang giai đoạn thi hành án, người được thi hành án làm
đơn yêu cầu thi hành án để đòi quyền lợi cho mình thì phải chịu một khoản phí
thi hành án nhất định là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật và công bằng
xã hội.
+ Đối với
những vụ việc người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nhưng sau đó
các đương sự tự nguyện thi hành án, người được thi hành án không có đơn rút yêu
cầu, cơ quan thi hành án dân sự chưa có quyết định cưỡng chế thi hành án nhưng
lại thu được tiền, tài sản để chi trả cho đương sự (có trường hợp cơ quan thi
hành án dân sự không thu được để chi trả mà 2 bên tự giao nhận với nhau) thì
chưa có hướng dẫn, nên thực tế áp dụng không thống nhất. Có trường hợp cơ quan
thi hành án dân sự vẫn thu phí với lý do áp dụng theo quy định tại khoản 1 Điều 33 Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ (thu phí trên số tiền hoặc tài sản người
được thi hành án thực nhận), nhưng có trường hợp lại không thu phí thi hành án
vì chưa có hướng dẫn cụ thể.
Đối với những
vụ việc người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nhưng sau đó các
đương sự tự nguyện thi hành án, người được thi hành án không có đơn rút đơn yêu
cầu thi hành án để hai bên tự nguyện thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự
chưa có Quyết định cưỡng chế thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự không thu
được tiền, mà các bên tự giao nhận với nhau thì không thu phí thi hành án (theo
quy định tại điểm a khoản 3 Điều 2 Thông tư liên tịch số 144/2010/TTLT-BTC-BTP
ngày 22/9/2010).
20. Về điều kiện miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án quy định tại
Điều 61 Luật Thi hành án dân sự và khoản 1 Điều 26 Nghị định số
58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ thì trường hợp mà người phải
thi hành các khoản thu nộp ngân sách nhà nước trên 5.000.000 đồng thì điều kiện được xét miễn, giảm thi hành án là “Người
phải thi hành nghĩa vụ đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước đã thi hành được
ít nhất bằng 1/20 khoản phải
thi hành, nhưng giá trị không được thấp hơn mức án phí không có giá ngạch thì
được xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành theo quy định tại khoản
2 và khoản 3 Điều 61 Luật Thi hành án dân sự”. Thực tế cho thấy, với nhiều
người phải thi hành án điều
kiện này vẫn khó thực hiện nên số lượng án tồn đọng vẫn nhiều.
Trường hợp
này, hiện nay pháp luật quy định điều
kiện xét miễn, giảm đối với người phải thi hành án phải “đã thi hành được ít nhất
bằng 1/20 khoản phải thi hành,
nhưng giá trị không được thấp hơn mức án phí không có giá ngạch”. Tuy
nhiên, thực tiễn cho thấy 1/20 khoản
phải thi hành vẫn là một số tiền lớn đối với nhiều trường hợp, đặc biệt là các
tội phạm về ma túy, lang thang, không rõ nơi cư trú, gia đình không hỗ trợ.
Nhưng vì chưa có quy định khác nên cơ quan thi hành án dân sự cần thực hiện
theo đúng quy định hiện hành, theo đó nếu người phải thi hành án chưa thi hành
được ít nhất bằng 1/20 khoản phải
thi hành, thì chưa đủ điều kiện xét
miễn, giảm thi hành án. Cơ quan Thi hành án dân sự phải thực hiện theo quy định
tại khoản 5 Điều 6 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP: “Đối với việc
thi hành án thuộc diện chủ động thi hành án mà người phải thi hành án không có điều kiện thi hành án thì ít nhất 6 tháng một lần Chấp
hành viên phải thực hiện xác minh điều kiện thi hành án của đương sự. Trường hợp người phải thi hành án không
có điều kiện thi hành án mà đang chấp hành hình phạt tù hoặc không
xác định được địa chỉ, nơi cư trú mới thì thời hạn xác minh giữa các lần không
được quá một năm”.
Hiện nay,
theo Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 58/2009/NĐ-CP, điều kiện đã thi
hành được “một phần” để người phải thi hành nghĩa vụ đối với khoản thu nộp ngân
sách nhà nước được xét miễn, giảm thi hành án sẽ giảm hơn so với quy định hiện
hành. Khi Nghị định này được ban hành và có hiệu lực thì thực hiện theo quy định
mới.
21. Khoản 1 Điều 62 quy định: Về hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa
vụ thi hành án gồm:
"Văn
bản đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án của Thủ trưởng cơ quan thi hành
án dân sự hoặc của Viện trưởng Viện kiểm sát trong trường hợp đề nghị xét miễn,
giảm khoản tiền phạt".
Có ý kiến
cho rằng Luật quy định như vậy chưa rõ ràng còn nhiều cách hiểu chưa thống nhất:
có nơi hiểu là cơ quan Thi hành án dân sự hay Viện trưởng Viện kiểm sát đề nghị
cũng được; có nơi hiểu đối với khoản tiền phạt phải do Viện trưởng Viện kiểm
sát đề nghị mới đúng quy định.
Thẩm quyền,
trình tự, hồ sơ xét miễn giảm nghĩa vụ thi hành án được quy định rất rõ tại Điều 4 Thông tư liên tịch số 10/2010/TTLT-BTP-BTC-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 25/5/2010 hướng dẫn
việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước.
Theo đó:
+ Theo khoản 1 Điều 4, thì cơ quan thi hành án dân sự đề nghị Tòa án
xét miễn, giảm các khoản tiền thi hành án trừ trường hợp đối với các khoản tiền
phạt theo qui định tại khoản 2 Điều 58 và khoản 3 Điều 76 Bộ luật
Hình sự.
+ Theo khoản 2 Điều 4, thì Viện Kiểm sát phải làm văn bản đề nghị Tòa
án xét miễn, giảm tiền thi hành án đối với các khoản tiền phạt còn lại qui định
tại khoản 2 Điều 58 và khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự.
22. Khoản 1 Điều 63 quy định việc xét miễn, giảm nghĩa vụ
thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước thuộc thẩm quyền của Tòa
án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh... nơi cơ quan Thi hành
án dân sự đang tổ chức việc thi hành án có trụ sở.
Có quan điểm
cho rằng theo Điều 63 Luật Thi hành án dân sự và Điều 26 Nghị định số
58/2009/NĐ-CP không quy định Viện
Kiểm sát cấp tỉnh tham dự Hội đồng xét miễn giảm mà chỉ quy định Viện Kiểm sát
cấp huyện. Nhưng cấp huyện lại không nghiên cứu hồ sơ, như vậy việc phát biểu
quan điểm của Viện Kiểm sát tại Tòa sẽ không chính xác.
Ngoài
ra, nhiều trường hợp đủ điều
kiện xét miễn, giảm nhưng đương sự sau khi chấp hành xong hình phạt tù, ra tù bỏ
đi khỏi địa phương, không tìm ra nơi cư trú mới. Như vậy, hồ sơ đề nghị xét miễn
giảm không có đơn đề nghị của đương sự thì một số cơ quan thẩm quyền ở địa
phương không chấp nhận đưa ra xét miễn giảm, các trường hợp này tiếp tục bị tồn
đọng. Đề nghị Luật phải cụ thể hơn đối với trường hợp này.
Điều 7 Thông tư liên tịch số 10/TTLT
BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/5/2010
hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách
nhà nước quy định về kiểm sát hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm thi hành án như sau:
“1. Vào
tháng đầu của mỗi quý, Cơ quan thi hành án dân sự quy định tại Điều 4 của Thông tư liên tịch này có trách nhiệm
chuyển hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm được lập trong quý trước cho Viện kiểm sát
cấp huyện nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc để thực hiện việc kiểm
sát.
Trong thời hạn
mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Viện kiểm sát phải xem xét và chuyển
hồ sơ cho Toà án kèm theo văn bản nêu rõ ý kiến của Viện kiểm sát về các hồ sơ
đề nghị miễn, giảm hoặc văn bản đề nghị miễn, giảm thi hành án và thông báo cho
Cơ quan thi hành án dân sự thụ lý hồ sơ xét miễn, giảm biết.
2. Viện kiểm
sát có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự giải thích những điểm chưa rõ
hoặc bổ sung những giấy tờ cần thiết. Trường hợp có căn cứ xác định rõ người phải
thi hành án có đủ điều kiện để được
xét miễn, giảm thi hành án nhưng Cơ quan Thi hành án dân sự không lập hồ sơ, Viện
kiểm sát có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự lập hồ sơ đề nghị xét miễn,
giảm thi hành án”.
Như vậy,
theo quy định của pháp luật thì Viện kiểm sát có thời hạn 15 ngày để nghiên cứu
hồ sơ trước khi chuyển Tòa án nhân dân có thẩm quyền xem xét tổ chức thực hiện
việc xét miễn, giảm.
Những trường
hợp sau khi chấp hành xong hình phạt tù, ra tù bỏ đi khỏi địa phương, không tìm
ra nơi cư trú mới, như vậy, hồ sơ đề nghị xét miễn giảm không có đơn đề nghị của
đương sự thì theo quy định của pháp luật là chưa đủ điều kiện xét miễn, giảm dẫn đến vụ việc tồn đọng. Tổng
cục tiếp thu kiến nghị này và sẽ đưa vào chương trình sửa đổi, bổ sung Luật để
quy định cụ thể hơn.
23. Theo quy định tại Điều
106 Luật Đất đai 2003 thì người
sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho
thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất...khi có các điều kiện sau:
a. Có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất
b. Đất
không có tranh chấp
c. Quyền
sử dụng đất không bị kê biên để đảm bảo thi hành án
d. Trong thời
hạn sử dụng đất.
Tuy nhiên,
một số trường hợp cơ quan thi hành án không ban hành Quyết định kê biên tài sản
mà chỉ có có công văn gửi cho UBND cấp xã và các phòng, ban chức năng của huyện
yêu cầu không làm thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho tặng, thế chấp, cầm cố
bất kỳ tài sản gì của người phải thi hành án để ngăn chặn tẩu tán tài sản trốn
tránh nghĩa vụ thi hành án.
Trên thực tế,
các bên chỉ tranh chấp dân sự về tiền vay, đã có quyết định, bản án của Tòa án.
Để đảm bảo việc thi hành án thì cơ quan thi hành án phải ban hành Quyết định kê
biên một tài sản nào đó của người phải thi hành án tương ứng với nghĩa vụ trả nợ,
làm sao tạm dừng chuyển dịch... được tất cả các tài sản của người phải thi hành
án trong khi khối tài sản đó có giá trị lớn hơn rất nhiều so với khoản phải thi
hành án. Vậy văn bản nêu trên có đảm bảo tính pháp lý để tạm dừng các giao dịch
của người phải thi hành án hay không?
Căn cứ Khoản 1 Điều 66 và Điều 69 Luật Thi hành án dân sự 2008 và Điều 10 Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ, để tránh đương sự tẩu tán tài sản,
đảm bảo quyền lợi cho người được thi hành án, trước khi ban hành Quyết định kê
biên, Chấp hành viên có quyền ban hành Quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển
quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản. Mặt khác, tại Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự
và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự quy định: “...Kể từ thời điểm
có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc trong trường hợp đã bị áp dụng
biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp bảo đảm thi hành
án, biện pháp cưỡng chế thi hành án mà tài sản bị bán, chuyển đổi, chuyển nhượng,
tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố cho người khác, người phải thi hành án
không thừa nhận tài sản là của mình thì bị kê biên, xử lý để thi hành án”. Do vậy,
cơ quan thi hành án dân sự có công văn đề nghị Ủy ban nhân dân và các cơ quan
chức năng không cho chuyển đổi, chuyển nhượng, cho tặng, thế chấp, cầm cố bất cứ
một tài sản nào của người phải thi hành án là chưa đảm bảo tính pháp lý để tạm
dừng các giao dịch của người phải thi hành án nhưng cần được các cơ quan chức
năng phối hợp với cơ quan thi hành án nhằm hỗ trợ, đảm bảo có hiệu quả việc thi
hành án.
Để đảm bảo về
mặt pháp lý, đối với mỗi vụ việc cụ thể, cơ quan thi hành án dân sự cần tiến hành
xác minh tài sản của đương sự, sau đó ban hành quyết định tạm dừng việc đăng
ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản.
24. Khoản 3 Điều 67 quy định: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ
ngày ra quyết định phong tỏa tài khoản, Chấp hành viên phải áp dụng biện pháp
cưỡng chế...". Nhưng trong thời gian này đương sự chưa hết quyền thỏa thuận
thi hành án và người phải thi hành án chưa hết thời gian tự nguyện thi hành án
theo quy định tại Điều 45 Luật Thi hành án dân sự. Việc Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế
là vi phạm nghiêm trọng đến quyền của người phải thi hành án.
Theo quy định
của pháp luật thì thời hạn tự nguyện thi hành án là 15 ngày kể từ ngày nhận được
thông báo quyết định thi hành án hợp lệ. Tuy nhiên, đối với các trường hợp
đương sự có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án
thì Chấp hành viên có quyền áp dụng ngay các biện pháp quy định tại chương IV của
Luật này. Như vậy, không phải toàn bộ quyết định cưỡng chế phải được ra sau 15
ngày kể từ ngày nhận được thông báo .
Phong tỏa tài khoản
không phải là biện pháp cưỡng chế thi hành án mà là biện pháp bảo đảm thi hành
án. Việc phong tỏa tài khoản là biện pháp ngăn chặn tẩu tán tài sản nên không
nhất thiết phải sau 15 ngày, do vậy việc Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng
chế là đúng quy định của pháp luật, không được xem là vi phạm đến quyền lợi của
người phải thi hành án.
25. Khoản 3 Điều 68 quy định:
"Trong
thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tạm giữ tài sản, giấy tờ, Chấp hành viên ra một
trong các quyết định sau đây:
a) Áp dụng
biện pháp cưỡng chế thi hành án nếu xác định được tài sản, giấy tờ tạm giữ thuộc
sở hữu của người phải thi hành án;
b) Trả lại
tài sản, giấy tờ tạm giữ cho đương sự trong trường hợp đương sự chứng minh tài
sản, giấy tờ tạm giữ không thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án. Việc
trả lại tài sản, giấy tờ tạm giữ phải lập biên bản, có chữ ký của các
bên."
Đoạn 2 Điều 69 quy định:
"Trong
thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra Quyết định, Chấp hành viên thực hiện việc kê
biên tài sản hoặc chấm dứt việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử
dụng, thay đổi hiện trạng tài sản"
Thực tế việc
xác định chủ sở hữu tài sản có rất nhiều trường hợp gặp khó khăn, phức tạp, phụ
thuộc và kết quả trả lời của cơ quan có thẩm quyền. Nhiều trường hợp hết 15
ngày vẫn chưa xác định được chủ sở hữu tài sản thì Chấp hành viên không thể áp
dụng biện pháp cưỡng chế, tạm dừng việc đăng ký chuyển quyền sở hữu hoặc trả lại
tài sản. Vì vậy, quy định thời hạn 15 ngày Chấp hành viên phải ra một trong các
quyết định xử lý nêu trên là khó có tính khả thi, cần quy định thời gian dài
hơn.
Quy định như vậy
nhằm nâng cao trách nhiệm của Chấp hành viên và để tránh tẩu tán tài sản. Còn
việc kê biên phải theo trình tự theo quy định của pháp luật (ra quyết định,
thông báo, kê biên...), khi kê biên mà có tranh chấp mới đề nghị cơ quan có thẩm
quyền giải quyết. Do Luật đã quy định cụ thể thời hạn, nên cơ quan Thi hành án
dân sự đã ra quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng,
thay đổi hiện trạng tài sản của người phải thi hành án cần tích cực trong việc
xác định quyền sở hữu, sử dụng tài sản để thực hiện việc kê biên tài sản hoặc
chấm dứt việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện
trạng tài sản theo đúng thời hạn mà Luật đã quy định. Cơ quan Thi hành án dân sự
cần gửi quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm và các tài liệu có liên quan tới
các cơ quan chức năng để các cơ quan này phối hợp ngăn chặn không cho chuyển
quyền sở hữu, sử dụng, tặng cho tài sản đến khi đủ điều kiện thì áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án.
Về việc này, Tổng
cục sẽ tiếp thu, nghiên cứu kiến nghị trên để đề xuất vào nội dung đổi, bổ sung
Luật Thi hành án dân sự cho phù hợp với thực tế áp dụng. Tuy nhiên, vì hiện nay
Luật thi hành án dân sự chưa được sửa đổi, bổ sung nên Chấp hành viên trong quá
trình tổ chức thi hành án vẫn phải thực hiện đúng quy định này.
26. Điều 71 quy định về
biện pháp cưỡng chế thi hành án. Trên thực tế phát sinh vướng mắc như sau: Theo
bản án tuyên xác định ranh giới đất, cơ quan Thi hành án dân sự thụ lý đơn yêu
cầu thi hành án, đã tống đạt giấy báo tự nguyện thi hành án cho hai bên đương sự.
Nhưng một bên không tự nguyện nên cơ quan Thi hành án dân sự triệu tập hai bên
đến chứng kiến cùng các ngành chuyên môn, đại diện địa phương cho đo đạc, xuống
mốc ranh giới như bản án tuyên và người yêu cầu thi hành án đã ký nhận vào biên
bản nhận ranh giới đất. Sau đó, người không tự nguyện không chấp nhận và dời bỏ
cột mốc. Người yêu cầu thi hành án khiếu nại cơ quan Thi hành án dân sự chưa
thi hành xong bản án. Vấn đề này giải quyết thế nào? Có thể áp dụng biện pháp
cưỡng chế thi hành án lại không?
Nội dung này
đã được quy định tại khoản 4 Điều 8 Nghị định 58/2009/NĐ-CP
ngày 13/7/2009 của Chính phủ: "Tài sản đã được giao trên thực tế
cho người được nhận tài sản và người đó đã ký nhận vào biên bản giao, nhận tài
sản nhưng sau đó bị đương sự chiếm lại thì cơ quan thi hành án dân sự không có
trách nhiệm giao lại tài sản cho người được nhận tài sản. Người đã nhận tài sản
có quyền yêu cầu Uỷ ban nhân dân hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết".
27. Điều 72 quy định
Quyết định và kế hoạch cưỡng chế thi hành án phải được gửi ngay cho Viện Kiểm
sát nhưng không quy định phải chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm sát để kiểm sát tính hợp
pháp của hồ sơ thi hành án trước khi thực hiện việc cưỡng chế. Từ đó, gây khó
khăn cho công tác kiểm sát, không đảm bảo về thời gian. Khi Viện Kiểm sát ban
hành văn bản yêu cầu cung cấp hồ sơ thì Luật không quy định thời gian để cơ
quan thi hành án dân sự chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm sát.
Trong quá
trình thi hành án kể từ khi ra Quyết định thi hành án đến khi cưỡng chế thi
hành án là cả một quá trình dài qua các giai đoạn như tự nguyện, xác minh điều kiện thi hành án, nếu có điều kiện mà không tự
nguyện mới cưỡng chế, trong cả giai đoạn trước khi cưỡng chế như kê biên tài sản
thì Viện Kiểm sát đã thực hiện quyền kiểm sát thường xuyên do đó không nhất thiết
phải chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm sát nghiên cứu trước khi cưỡng chế.
Tuy nhiên, trong
trường hợp cần thiết thì Viện Kiểm sát có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân
sự cung cấp hồ sơ, tài liệu theo Điều 24 Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân để xem xét hồ sơ trước
khi tiến hành cưỡng chế thi hành án.
28. Vướng mắc trong việc thực hiện quy định tại Điều 74: Cưỡng chế đối
với tài sản thuộc sở hữu chung.
+ Trình tự,
thủ tục xác định phân chia tài sản của người phải thi hành án có chung với người
khác như thế nào?
Trước hết, cần
phải có sự phân biệt giữa tranh chấp tài sản và yêu cầu xác định, phân chia quyền
sở hữu, quyền sử dụng tài sản.
Tranh chấp
liên quan đến tài sản đã kê biên và tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản...là
vụ kiện dân sự. Vì vậy, khi có tranh chấp thì phải do Tòa án giải quyết theo
quy định tại khoản 10, khoản 11 Điều 25 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Do vậy, trong trường hợp này, Cơ quan thi hành án dân sự cần hướng dẫn các
đương sự khởi kiện để Tòa án giải quyết.
Đối với việc
xác định hoặc phân chia quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản mà không có tranh
chấp thì được xác định là việc dân sự. Việc không có tranh chấp ở đây có thể được
hiểu là tài sản đó có sự thống nhất, thỏa thuận giữa người phải thi hành án với
người khác về việc thừa nhận tài sản đó không thuộc quyền sở hữu, sử dụng của
người phải thi hành án mà thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người khác. Tuy
nhiên, người được thi hành án không đồng ý với thỏa thuận đó hoặc Cơ quan thi
hành án dân sự nhận thấy thỏa thuận đó là trái quy định của pháp luật, ảnh hưởng
đến việc thi hành án, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba,
của người được thi hành án thì Cơ quan thi hành án dân sự hướng dẫn các đương sự
hoặc tự mình yêu cầu Tòa án xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản để thi
hành án.
+ Cách thức
xác định phần tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung?
Việc xác định
phần tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung phải được thực
hiện theo đúng quy định tại Điều 74 Luật Thi hành án dân
sự. Tuy nhiên, cần lưu ý:
- Thời điểm
xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản: trước khi kê biên tài sản chung.
- Cách thức
xác định: khi xác định phần tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản
chung cần phân biệt 2 trường hợp:
Đối với tài sản
chung thông thường: việc xác định tài sản riêng của mỗi người trong khối tài sản
chung được thực hiện theo nguyên tắc của Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự.
Theo đó, Chấp hành viên cần thông báo cho các đương sự về việc phân chia, xác định
tài sản của mình trong khối tài sản chung để đương sự tự thỏa thuận. Nhưng sự
thỏa thuận đó không được trái pháp luật, đạo đức xã hội, không ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích của người thứ ba. Trường hợp đã thông báo mà các đương sự
không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không đúng quy định của pháp luật,
đạo đức xã hội, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người thứ ba, ảnh hưởng đến
việc thi hành án, nhằm tẩu tán tài sản... thì Chấp hành viên cần thông báo cho
người được thi hành án đề nghị Tòa án giải quyết xác định, phân chia. Trong trường
hợp người được thi hành án, người phải thi hành án không yêu cầu Tòa án thì Chấp
hành viên yêu cầu Tòa án xác định theo quy định tại Điều
26 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Đối với tài sản
chung của vợ chồng: Chấp hành viên xác định phần tài sản của vợ, chồng trong khối
tài sản chung trên cơ sở Điều 74 Luật Thi hành án dân sự, Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Nghị định
số 70/2001/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình, Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP
ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Căn cứ
vào các quy định trên, Chấp hành viên thông báo cho vợ, chồng biết để họ xem
xét, quyết định. Nếu vợ, chồng không chấp nhận việc phân chia như trên và không
thỏa thuận được thì hướng dẫn vợ, chồng yêu cầu Tòa án xác định quyền sở hữu,
quyền sử dụng tài sản trong khối tài sản chung. Trong trường hợp hết thời hạn
30 ngày, kể từ ngày phần sở hữu được Chấp hành viên xác định, đương sự không khởi
kiện thì Chấp hành viên căn cứ vào kết quả xác minh của mình để tiến hành xử lý
tài sản và thanh toán lại cho vợ hoặc chồng của người phải thi hành án giá trị
phần tài sản thuộc quyền sở hữu của họ.
+ Tài sản
thuộc sở hữu chung là quyền sử dụng đất cấp cho hộ gia đình bị cưỡng chế thi
hành án, Luật chưa quy định rõ ràng tài sản chung của hộ được xác định tại thời
điểm nào (theo hộ khẩu tại thời điểm kê biên tài sản hay theo hộ khẩu tại thời điểm
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất).
Tài sản là quyền
sử dụng đất cấp cho hộ gia đình, theo quy định của pháp luật đất đai là tài sản
chung của các thành viên trong hộ gia đình tại thời điểm cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất.
29. Khoản 1 Điều 74 quy định người được thi hành án hoặc Chấp hành
viên yêu cầu Tòa án xác định phần tài sản của người phải thi hành án trong khối
tài sản chung để đảm bảo thi hành án theo đúng quy định tại khoản
1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự, và Tòa án phải có trách nhiệm thụ lý giải
quyết theo đúng quy định tại khoản 4 Điều 179 Luật Thi hành án
dân sự. Nhưng thời gian qua, Tòa án không thụ lý vì Bộ luật Tố tụng dân sự
không quy định Chấp hành viên hoặc người được thi hành án có quyền yêu cầu Tòa
án xác định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung với
người khác để thi hành án và không quy định thẩm quyền của Tòa án trong việc giải
quyết các vụ việc trên. Như vậy, quy định giữa Luật Thi hành án dân sự và Bộ luật
Tố tụng dân sự có sự chồng chéo, chưa đồng bộ, nên quy định tại khoản
1 Điều 74 và khoản 4 Điều 179 Luật Thi hành án dân sự chưa áp dụng được
trên thực tế.
Đây là vướng mắc
trước khi có Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự (có hiệu lực từ 1/1/2012).
Hiện nay, các khoản 10, 11 Điều 25 của Bộ luật Tố tụng dân sự
đã quy định “Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án”; khoản 7 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự đã quy định
“Những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án” thì Tòa án phải
thụ lý, giải quyết.
+ Chấp hành
viên khởi kiện tại tòa án thì có phải nộp tiền tạm ứng án phí, án phí hay
không?
Trường hợp Chấp
hành viên khởi kiện tại tòa án thì không phải nộp tiền tạm ứng phí án phí, án
phí theo quy định tại khoản 2 Điều 10 Pháp lệnh số 10/2009/PL-UBTVQH12
ngày 27/02/2009 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà
án.
30. Điều 75 quy định:
Trường hợp cưỡng chế đối với tài sản của người phải thi hành án mà có tranh chấp
với người khác thì Chấp hành viên tiến hành cưỡng chế và yêu cầu đương sự, người
có tranh chấp khởi kiện tại Tòa án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Nhưng thực tế nhiều trường hợp đương sự khởi kiện tại Tòa án theo hướng dẫn của
Chấp hành viên nhưng Tòa án không thụ lý vụ việc. Trong khi đó theo Điều 75 Luật Thi hành án dân sự, Chấp hành viên xử lý tài sản đã kê biên theo Quyết định của
Tòa án. Việc Tòa án không thụ lý trong trường hợp này sẽ khó xử lý tài sản đã
kê biên, vì không thể xác định được quyền sở hữu tài sản mà Chấp hành viên đã
tiến hành kê biên.
Thực tế đã
xảy ra đối với tài sản là quyền sử dụng đất, bên nhận chuyển nhượng tài sản khởi
kiện tại Tòa án khi cơ quan thi hành án dân sự kê biên tài sản của người chuyển
nhượng quyền sử dụng đất nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Khi đến Tòa án, do 2
bên đương sự không có tranh chấp về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên
Tòa án ra Quyết định đình chỉ vì không thuộc thẩm quyền giải quyết (theo quy định
tại điểm e, khoản 1 Điều 168 Bộ luật Tố tụng dân sự), dẫn đến
cơ quan thi hành án dân sự không xử lý tài sản để thi hành án được.
Điều 46 Luật Đất đai quy định: Các trường hợp phải đăng ký quyền sử dụng
đất. Đây cũng là căn cứ để cơ quan thi hành án dân sự xác định người phải thi
hành án có tài sản là quyền sử dụng đất để thi hành án. Tuy nhiên, thực tế đã xảy
ra nhiều trường hợp người có tài sản đã lập hợp đồng chuyển nhượng tại Phòng
Công chứng hoặc Văn phòng Công chứng, khi người nhận chuyển nhượng đến Văn
phòng đăng ký quyền sử dụng đất để đăng ký cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
thì được thông báo tài sản đã có Quyết định ngăn chặn việc chuyển nhượng của cơ
quan thi hành án dân sự, việc xử lý tranh chấp như trường hợp trên dẫn đến việc
thi hành án kéo dài, thiệt hại quyền lợi của những người chuyển nhượng tài sản
hợp pháp, ngay tình.
Đây là vướng mắc
trước khi có Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự (có hiệu lực từ 1/1/2012).
Hiện nay, các khoản 10, 11 Điều 25 của Bộ luật Tố tụng dân sự
được sửa đổi, bổ sung quy định về “Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án”; khoản 7 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân
sự đã quy định về “Những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án” thì Tòa án phải thụ lý, giải quyết các trường hợp trên.
31. Điều 80 quy định:
Trường hợp phát hiện người phải thi hành án đang giữ tiền mà có căn cứ xác định
khoản tiền đó là của người phải thi hành án thì Chấp hành viên ra Quyết định
thu tiền để thi hành án. Trường hợp người phải thi hành án không ký vào biên bản
thì phải có chữ ký của người làm chứng.
Như vậy,
trong trường hợp Chấp hành viên ra Quyết định thu tiền nhưng người phải thi
hành án cố tình không giao nộp thì xử lý thế nào? (tương tự là các quy định tại
Điều 78, 79, 81 Luật Thi hành án dân sự)
Trong trường hợp
trên, Chấp hành viên có thể lập biên bản về vi phạm hành chính làm cơ sở để người
có thẩm quyền ra quyết định xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại điểm đ Khoản 3 Điều 7 Nghị định số 60/2009/NĐ-CP ngày 23/7/2009 của
Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp, theo đó: phạt
tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi không chấp hành quyết
định của người có thẩm quyền thi hành án về việc thu tiền từ hoạt động kinh
doanh của người phải thi hành án, của người phải thi hành án đang giữ hoặc của
người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ. Nếu vẫn cố tình không thực hiện
thì có dấu hiệu của tội không chấp hành án (Điều 304 Bộ
luật Hình sự).
32. Khoản 1 Điều 88 quy định: "Trước khi kê biên tài sản là bất động
sản ít nhất là 03 ngày làm việc, Chấp hành viên thông báo cho đại diện chính
quyền xã hoặc đại diện tổ dân phố nơi tổ chức cưỡng chế, đương sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm, tài sản kê biên, trừ trường hợp
cần ngăn chặn đương sự tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành
án"
Trên thực tế
rất khó khăn để biết đương sự sẽ tẩu tán, hủy hoại tài sản. Ngược lại thông báo
cho đương sự lại có thể dẫn đến việc đương sự sẽ tẩu tán tài sản. Vấn đề này
gây nên khó khăn cho công tác thi hành án.
Quy định tại Khoản 1 Điều 88 Luật Thi hành án dân sự là chặt chẽ, việc thi
hành án khó khăn hay không thuộc về trách nhiệm, cách thức thực hiện các quyền
theo quy định pháp luật của Chấp hành viên và cơ quan thi hành án dân sự. Vì
qua quá trình tác nghiệp Chấp hành viên và cơ quan thi hành án dân sự có thể biết
người phải thi hành án có khả năng tẩu tán tài sản hay không, hoặc chống đối trốn
tránh việc thi hành án, hoặc hủy hoại tài sản.... Trong trường hợp có hiện tượng
tẩu tán thì có quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án theo Điều 66 Luật Thi hành án dân sự trước khi thông báo việc kê biên bất động sản.
33. Có một số trường hợp hồ sơ chuyển nhượng, tặng cho...
quyền sử dụng đất đã nộp tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, trong quá
trình xử lý hồ sơ thì cơ quan thi hành án có Quyết định cưỡng chế kê biên quyền
sử dụng đất để thi hành một bản án khác mà bên chuyển nhượng, tặng cho... quyền
sử dụng đất phải thi hành. Sau khi bán đấu giá thành quyền sử dụng đất đã kê
biên, cơ quan thi hành án có văn bản đề nghị UBND có thẩm quyền hủy giấy chứng
nhận cũ đã cấp cho bên chuyển nhượng, tặng cho(bên phải thi hành án) và đề nghị
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bên trúng đấu giá. Tuy nhiên, không đề
cập đến hồ sơ chuyển nhượng trước đó mà người phải thi hành án đã chuyển nhượng,
tặng cho... quyền sử dụng đất cho người khác. Hợp đồng chuyển nhượng, tặng
cho... quyền sử dụng đất trước đó chưa bị tuyên vô hiệu. Vậy hồ sơ này phải xử
lý như thế nào? Quyền lợi của người nhận chuyển nhượng, tặng cho... quyền sử dụng
đất trước đó được giải quyết ra sao?
Đối với quyền
sử dụng đất, tại Điều 692 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất có
hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật
về đất đai”. Khoản 4 Điều 146 Nghị định 181/2004/NĐ-CP
ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai quy định:
“Hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, thuê, thuê lại quyền sử dụng đất...có hiệu
lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất...”. Như vậy,
việc chuyển nhượng, tặng cho... quyền sử dụng đất trong trường hợp này
chưa hoàn tất thủ tục đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất nên hợp đồng
chuyển nhượng, tặng cho... quyền sử dụng đất chưa có hiệu lực. Do đó, đối với
những hồ sơ chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất đã nộp tại Văn phòng đăng
ký quyền sử dụng đất nhưng đang trong quá trình xử lý hồ sơ, chưa hoàn tất việc
đăng ký quyền sử dụng đất thì tài sản là quyền sử dụng đất đó vẫn thuộc về người
phải thi hành án, vì vậy cơ quan thi hành án dân sự vẫn có quyền kê biên, xử lý
quyền sử dụng đất để thi hành án. Tuy nhiên, các bên có quyền đề nghị Tòa án giải
quyết theo thẩm quyền.
34. Đối với đất vượt mức hạn điền tạm giao cho hộ
canh tác đã được ghi rõ trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có được kê biên
bán đấu giá để thi hành án không?
Khi nhà nước
tiến hành giao đất cho người sử dụng đất thì một trong những đảm bảo của nhà nước
cho người sử dụng đất là Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người
sử dụng đất theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 Luật Đất
đai. Do đó, đối với đất vượt mức hạn điền
tạm giao cho hộ canh tác đã được ghi rõ trong giấy chứng nhận quyền sử dụng thì
người sử dụng dụng đất đó được nhà nước công nhận. Mặt khác, Điều 71 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai hướng dẫn
giải quyết trường hợp đã giao đất nông nghiệp vượt hạn mức được chuyển sang
thuê đất. Thời điểm người sử dụng đất được thực hiện các quyền của mình được
quy định tại Điều 98 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai.
ngày 29/10/2004 của
Chính phủ về thi hành Luật đất đai. Vì vậy, về nguyên tắc trong trường hợp nêu
trên cơ quan thi hành án dân sự có quyền kê biên bán đấu giá để đảm bảo thi
hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 110 Luật Thi hành án
dân sự.
35. Điều 90 quy định
về kê biên, xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp. Có ý kiến cho rằng Luật quy định
chưa rõ ràng, có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến đương sự khiếu nại. Vì trên
thực tế có trường hợp người phải thi hành án có tài sản là quyền sử dụng đất
đang thế chấp Ngân hàng để vay vốn nhưng hợp đồng vay này chưa đến hạn thanh
toán. Song Ngân hàng đồng ý cho cơ quan thi hành án dân sự kê biên, xử lý quyền
sử dụng đất này. Số tiền thu được từ bán quyền sử dụng đất, Ngân hàng được ưu
tiên thanh toán mặc dù hợp đồng vay chưa đến hạn thanh toán, số tiền còn lại được
thanh toán cho người được thi hành án. Từ đó, dẫn đến người phải thi hành án
khiếu nại cho rằng hợp đồng vay vốn Ngân hàng chưa đến hạn nhưng Ngân hàng lại
thanh lý hợp đồng là không đúng.
Quy định trên
là hoàn toàn phù hợp vì theo khoản 2 Điều 90 Luật Thi hành án
dân sự quy định "khi xử lý tài sản kê biên, người nhận cầm cố, thế chấp
được ưu tiên thanh toán theo quy định tại khoản 3 Điều 47 của Luật này". Việc xử lý tài sản được thực hiện
là cả một quá trình dài từ việc xác định giá; hợp đồng ủy quyền bán tài sản;
bán tài sản; các lần giảm giá trong trường hợp không bán được.... Hơn nữa theo
quy định của điều luật này cơ quan thi hành án dân sự chỉ được kê biên, xử lý
tài sản đang cầm cố, thế chấp khi người phải thi hành án không có tài sản nào
khác (hoặc có tài sản nhưng không đủ để thi hành án ) và giá trị của tài sản
đang cầm cố, thế chấp phải lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế
thi hành án.
Về vấn đề khi
Ngân hàng đồng ý để cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản thế chấp trong khi
hợp đồng tín dụng giữa người phải thi hành án và Ngân hàng chưa đến hạn có thể
dẫn đến khiếu nại của người phải thi hành án, Tổng cục Thi hành án dân sự cho rằng:
khiếu nại của người phải thi hành án đối với Ngân hàng về nội dung này không
thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan thi hành án dân sự theo Luật Thi hành
án dân sự. Hơn nữa, hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng và người phải thi hành án
là sự thỏa thuận tự nguyện của hai bên, thông thường tại các Hợp đồng tín dụng
các bên đều quy định điều khoản chấm dứt hợp đồng, trong đó có điều khoản “hợp đồng
được chấm dứt theo quy định khác của pháp luật”. Có thể coi việc chấm dứt hợp đồng
trong trường hợp này là chấm dứt do quy định khác của pháp luật.
36. Điều 92 quy định
về kê biên vốn góp. Nhiều ý kiến cho rằng đây là quy định mới trong Luật Thi
hành án dân sự nên cần có hướng dẫn cụ thể.
Để áp dụng
đúng và có hiệu quả quy định tại Điều 92 Luật Thi hành
án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự, Chấp
hành viên cần vận dụng các quy định của Luật Doanh nghiệp về vốn góp, phần vốn
góp và các nội dung có liên quan. Theo Điều 92 Luật Thi
hành án dân sự nói trên thì có nhiều biện
pháp để xác định phần vốn góp như: yêu cầu cơ quan, tổ chức mà người phải thi
hành án góp vốn cung cấp thông tin về vốn; yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xác định
phần vốn góp; trưng cầu tổ chức có chuyên môn thẩm định phần vốn góp hoặc đương
sự yêu cầu Tòa án xác định .... từ đó xác định tài sản của người phải thi hành
án để kê biên.
37. Khoản 2 Điều 98 quy định trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ
ngày kê biên tài sản, Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định
giá trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có tài sản kê biên.
Nhưng tại một số tỉnh chưa thành lập tổ chức thẩm định giá mà chỉ có Văn phòng
đại diện của Tổ chức thẩm định giá thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
khác thì xử lý như thế nào? Trường hợp các cơ quan chuyên môn từ chối phối hợp
không đưa ra giá hoặc đưa ra những mức giá khác nhau thì Chấp hành viên xác định
giá của tài sản kê biên như thế nào?
Vấn đề này,
sau khi trao đổi với Vụ Kiểm sát thi hành án (Vụ 10) thuộc Viện kiểm sát nhân
dân tối cao; Vụ Pháp chế, Cục Quản lý giá thuộc Bộ Tài chính, Cục Kiểm tra văn
bản quy phạm pháp luật thuộc Bộ Tư pháp và Cục Thi hành án Bộ Quốc phòng, ngày
12/10/2010, Tổng cục Thi hành án dân sự đã có Công văn số 2970/TCTHA-NV1 gửi Cục Thi hành án dân sự các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương hướng dẫn nghiệp vụ một số vấn đề về định giá
tài sản trong thi hành án dân sự, với những nội dung cơ bản sau:
1. Về việc
Chấp hành viên xác định giá tài sản kê biên
Khi xác định
giá đối với tài sản kê biên theo khoản 3 Điều 98 Luật Thi hành
án dân sự và Điều 15 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ, Chấp hành viên cần lưu ý:
Trường hợp
trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản kê biên chưa
có tổ chức thẩm định giá, thì Chấp hành viên yêu cầu đương sự thoả thuận lựa chọn
tổ chức thẩm định giá ở địa bàn khác. Nếu đã yêu cầu mà đương sự không thỏa thuận
hoặc không thỏa thuận được thì Chấp hành viên tiến hành xác định giá tài sản kê
biên theo quy định.
Việc tham khảo
ý kiến của cơ quan tài chính, cơ quan chuyên môn có liên quan trước khi xác định
giá tài sản kê biên theo quy định tại khoản 2 Điều 15 Nghị định
số 58/2009/NĐ-CP cần được thực hiện bằng văn bản. Trường hợp cơ quan tài
chính, cơ quan chuyên môn không có ý kiến theo đề nghị của Chấp hành viên thì
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự báo cáo, đề nghị Ủy ban nhân dân cùng cấp
chỉ đạo các cơ quan nói trên có ý kiến để Chấp hành viên xác định giá tài sản
kê biên.
2. Về bảo đảm
quyền yêu cầu định giá lại tài sản kê biên
Trường hợp
đương sự có yêu cầu định giá lại tài sản kê biên trước khi có thông báo công
khai việc bán đấu giá tài sản theo điểm b khoản 1 Điều 99 Luật
Thi hành án dân sự (không phân biệt bán đấu giá tài sản lần thứ mấy), thì
Chấp hành viên tổ chức định giá lại tài sản kê biên. Chấp hành viên thông báo
cho đương sự biết về việc người yêu cầu định giá lại phải chịu chi phí định giá
lại tài sản theo quy định của pháp luật.
3. Lựa chọn tổ
chức thẩm định giá tài sản kê biên trong trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 98 Luật Thi hành án dân sự
Nếu đương sự
có thoả thuận về tổ chức thẩm định giá thì Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với
tổ chức thẩm định giá đó. Tổ chức thẩm định giá do đương sự lựa chọn là tổ chức
thẩm định giá trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản
kê biên hoặc tổ chức thẩm định giá trên địa bàn khác. Việc thoả thuận của đương
sự về lựa chọn tổ chức thẩm định giá cũng được thực hiện đối với việc định giá
lại tài sản kê biên.
Các trường hợp
khác, Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ thẩm định giá với tổ chức thẩm định
giá trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản kê biên.
4. Khiếu nại
và giải quyết khiếu nại về định giá tài sản kê biên
Trường hợp khiếu
nại việc xác định giá tài sản của Chấp hành viên và khiếu nại về hành vi của Chấp
hành viên trong việc ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá (như: thời hạn,
trình tự, thủ tục ký hợp đồng v.v.) thì được giải quyết theo quy định của Luật
Thi hành án dân sự.
Khiếu nại
(tranh chấp) về kết quả định giá tài sản của tổ chức thẩm định giá được giải
quyết theo pháp luật về thẩm định giá. Nghị định số 101/2005/NĐ-CP ngày 03/8/2005 của
Chính phủ về thẩm định giá và Thông tư số 17/2006/TT-BTC ngày
13/3/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định số 101/2005/NĐ-CP
quy định: Tổ chức thẩm định giá chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động
nghề nghiệp và kết quả thẩm định giá. Việc xử lý tranh chấp về kết quả thẩm định
giá thực hiện theo Điều 23 Nghị định số 101/2005/NĐ-CP nêu trên.
Như vậy, đối với
những khiếu nại về kết quả thẩm định giá tài sản hoặc hành vi, quyết định của tổ
chức thẩm định giá thì cơ quan thi hành án dân sự không thụ lý giải quyết. Nếu
đương sự không đồng ý với kết quả thẩm định giá do tổ chức thẩm định giá đưa ra
và yêu cầu định giá lại tài sản kê biên trước khi thông báo công khai việc bán
đấu giá, thì Chấp hành viên tổ chức định giá lại theo quy định.
Thực tế hiện
nay trên địa bàn một số tỉnh chưa có tổ chức thẩm định giá mà chỉ có Văn phòng
đại diện của các công ty thẩm định giá có trụ sở tại Hà Nội, Hải Phòng... hoạt
động và có chức năng đại diện công ty giao dịch với khách hàng. Vì vậy, trong
trường hợp này, Chấp hành viên ký hợp đồng cung cấp dịch vụ thẩm định giá tài sản
với Tổ chức thẩm định giá qua Văn phòng đại diện của các công ty thẩm định giá
đặt tại nơi có tài sản trong trường hợp có sự ủy quyền của Tổ chức thẩm định
giá.
Kết quả xác định
giá của Chấp hành viên hay của Tổ chức thẩm định giá, Chấp hành viên ban hành
văn bản thông báo về việc xác định giá tài sản để làm căn cứ giá khởi điểm cho
việc bán đấu giá tài sản.
38. Theo quy định tại Điều 99 Luật
Thi hành án dân sự thì đương sự có
quyền yêu cầu định giá lại tài sản kê biên trước khi thông báo công khai bán đấu
giá tài sản. Trong trường hợp giá thẩm định có sự chênh lệch thì cơ quan thi
hành án dân sự giải quyết như thế nào?
Để đảm bảo quyền
yêu cầu định giá lại tài sản kê biên của đương sự trước khi có thông báo công
khai việc bán đấu giá tài sản theo Điểm b Khoản 1 Điều 99 Luật
Thi hành án dân sự thì cơ quan thi hành án dân sự cần hướng dẫn cho đương sự
thỏa thuận về giá tài sản hoặc lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản. Nếu các
bên không thỏa thuận được về các nội dung nêu trên thì Chấp hành viên chấp nhận
đơn yêu cầu định giá lại tài sản của đương sự và hướng dẫn cho đương sự quyền lựa
chọn tổ chức thẩm định giá. Kết quả định giá lại của tổ chức thẩm định giá do
đương sự lựa chọn được xác định làm giá khởi điểm bán đấu giá tài sản. Quá
trình làm việc cần có biên bản cụ thể, chặt chẽ.
39. Điều 100 quy định:
Trường hợp đương sự thỏa thuận để người được thi hành án nhận tài sản đã kê biên
để trừ vào số tiền được thi hành án thì Chấp hành viên lập biên bản về việc thỏa
thuận...Việc giao tài sản để trừ vào số tiền thi hành án được thực hiện trong
thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày có thỏa thuận.
Như vậy,
giao tài sản phải có sự thỏa thuận của các bên đương sự. Tuy nhiên Điều 104 Luật Thi hành án dân sự quy định về xử lý tài sản bán đấu giá không
thành "Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày bán đấu giá không thành mà đương
sự không yêu cầu định giá lại thì Chấp hành viên ra quyết định giảm giá tài sản
để tiếp tục bán đấu giá, mỗi lần giảm giá không quá 10% giá đã định. Trường hợp
giá tài sản đã giảm thấp hơn chi phí cưỡng chế mà người được thi hành án không
nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án thì tài sản được trả lại cho
người phải thi hành án". Trong trường hợp này Luật Thi hành án dân sự lại
không quy định là có sự thỏa thuận của các bên đương sự hay chỉ cần người được
thi hành án đồng ý là cơ quan thi hành án dân sự thực hiện việc giao tài sản để
khấu trừ số tiền thi hành án.
Hiện nay
các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự cũng không quy định vấn
đề này. Do vậy, trường hợp giá tài sản đã giảm thấp hơn chi phí cưỡng chế mà
người được thi hành án đồng ý nhận tài sản bán đấu giá không thành, nhưng người
phải thi hành án không đồng ý giao thì cũng chưa có cơ sở pháp lý để giải quyết
dẫn đến việc thi hành kéo dài và không khả thi.
Quy định
này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc thỏa thuận trong thi hành án dân sự được
quy định tại Điều 6 Luật Thi hành án dân sự.
Cơ quan thi
hành án dân sự phải hiểu đúng tinh thần của điều
luật này, vì Điều
100 quy định về việc 2 bên thoả thuận
nhận tài sản thi hành án mới ở giai đoạn đã kê biên; nhưng tại Điều 104 thì tài sản sau nhiều lần bán đấu giá không thành, nên việc
đồng ý nhận tài sản của người được thi hành án không cần sự thoả thuận của các
đương sự (Luật đã quy định cho người phải thi hành án có quyền nhận tài sản nếu
như nộp đủ tiền thi hành án ngay cả khi đã kê biên và trước khi bán đấu giá 1
ngày). Hai điều luật quy định và điều chỉnh hai phạm vi thi hành án với nội dung khác nhau,
không ràng buộc.
40. Điều 103 quy định:
“Người phải thi hành án, người đang quản lý, sử dụng tài sản không giao tài sản
bán đấu giá cho người mua được tài sản thì thủ tục cưỡng chế giao tài sản được
thực hiện theo quy định tại các điều 114, 115, 116 và 117 của Luật này”.
Thực tiễn
công tác thi hành án có vướng mắc phát sinh: số tiền thu được từ việc bán đấu
giá tài sản do các Tổ chức bán đấu giá tài sản chuyển sang được cơ quan thi
hành án dân sự thực hiện ngay việc thanh toán cho người được thi hành án và người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được tiền.
Tuy nhiên, có nhiều trường hợp, do nhiều nguyên nhân, sau khi bán đấu giá tài sản
thành công lại không thể giao ngay được tài sản cho người trúng đấu giá dẫn tới
việc người trúng đấu giá tài sản gửi nhiều đơn thư khiếu nại, đề nghị giao tài
sản hoặc đề nghị hủy hợp đồng mua bán tài sản.
Về việc
này, theo quy định của Bộ luật Dân sự, Nghị định 17/2010/NĐ-CP của
Chính phủ về bán đấu giá tài sản, khi ủy quyền bán đấu giá, cơ quan thi hành án
được nhận tiền bán đấu giá tài sản sau khi trừ các chi phí bán đấu giá tài sản
đồng thời phải có nghĩa vụ giao tài sản cho người trúng đấu giá trong một thời
hạn nhất định được ghi trong hợp đồng, nghĩa vụ giao tài sản chỉ chấm dứt khi
có đủ điều kiện theo quy định tại Điều 374 Bộ luật
Dân sự. Khi nghĩa vụ giao tài sản chưa
chấm dứt thì các nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán tài sản chưa hoàn thành nên trong
trường hợp cơ quan thi hành án dân sự chậm giao tài sản theo thời hạn trong hợp
đồng thì người trúng đấu giá có quyền hủy bỏ hợp đồng mua bán tài sản đã ký kết
và yêu cầu trả lại khoản tiền mua tài sản đã nộp. Do đó, khi chưa giao được tài
sản cho người trúng đấu giá, khoản tiền bán đấu giá tài sản chưa được xác định
là tiền thi hành án để thực hiện việc chi trả cho những người được thi hành án.
Để đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự và người trúng đấu giá, tránh đơn
thư khiếu nại trong việc giao tài sản bán đấu giá, cơ quan thi hành án dân sự cần
chú ý: Đối với khoản tiền bán đấu giá tài sản thu được khi chưa giao được tài sản
cho người trúng đấu giá, cơ quan thi hành án làm thủ tục đứng tên gửi số tiền
đó vào Ngân hàng theo loại tiền gửi tiết kiệm 01 tháng, khi giao xong tài sản
cho người trúng đấu giá thì khoản tiền đó được xác định là tiền thu để thi hành
án và thực hiện thanh toán theo quy định tại Điều 47 Luật
Thi hành án dân sự. Nếu người trúng đấu
giá huỷ hợp đồng mua bán tài sản thì cơ quan thi hành án trả lại số tiền đó cho
họ.
41. Về việc cưỡng chế giao nhà
+ Khoản 1 Điều 115: Trường hợp theo quyết định của Bản án, người
phải thi hành án có nghĩa vụ trả nhà mà họ không có nhà, không có tiền để thuê
nhà hay tạo lập chỗ ở mới thì cơ quan thi hành án có thực hiện việc cưỡng chế
hay không?
Khi cưỡng
chế giao trả nhà theo án tuyên mà người phải thi hành án không có nhà, không có
tiền để thuê nhà hay tạo lập chỗ ở mới thì cơ quan thi hành án vẫn thực hiện việc
cưỡng chế theo quyết định của bản án và quy định tại khoản 1, khoản
2 và khoản 3 Điều 115 Luật Thi hành án dân sự.
+ Khoản 5 Điều 115 quy định: “Trường hợp cưỡng chế giao nhà là
nhà ở duy nhất của người phải thi hành án cho người mua được tài sản bán đấu giá,
nếu xét thấy sau khi thanh toán các khoản nghĩa vụ thi hành án mà người phải
thi hành án không còn đủ tiền để thuê nhà hoặc tạo lập nơi ở mới thì trước khi
làm thủ tục chi trả cho người được thi hành án, Chấp hành viên trích lại từ số
tiền bán tài sản một khoản tiền để người phải thi hành án thuê nhà phù hợp với
giá thuê nhà trung bình tại địa phương trong thời hạn 01 năm”.
Thực tế
áp dụng quy định này cho thấy nếu chỉ trích lại tiền thuê nhà cho người phải
thi hành án thì những người trong gia đình sống phụ thuộc vào người phải thi
hành án sẽ không có nơi ở, trong trường hợp người phải thi hành án hoặc họ là
người già, trẻ em, người tàn tật thì xử lý thế nào? Trong trường hợp phải trích
lại từ số tiền bán tài sản một khoản tiền để người phải thi hành án thuê nhà
phù hợp với giá thuê nhà trung bình tại địa phương trong thời hạn 1 năm là
trích riêng cho người phải thi hành án hay cho cả gia đình của người phải thi
hành án cùng sinh sống chung nhà. Nếu chỉ trích riêng cho người phải thi hành
án còn những người trong gia đình không có nơi ở vì họ không có nguồn thu nhập,
không có tài sản để tạo lập nơi ở mới hoặc thuê nhà để ở thì giải quyết như thế
nào đối với họ.
Theo quy định
trên thì Chấp hành viên chỉ trích lại tiền thuê nhà cho người phải thi hành án.
Tuy nhiên, khi áp dụng thực tiễn, cơ quan thi hành án dân sự cũng cần cân nhắc
đến các đối tượng là những người trong gia đình sống phụ thuộc vào người phải
thi hành án là người già, trẻ em, người tàn tật... để có phương án xử lý hợp
tình hợp lý. Đồng thời, cũng cần báo cáo, đề xuất chính quyền địa phương có
chính sách hỗ trợ cho họ.
42. Điều 120 quy định: "Trường hợp người phải thi hành
án hoặc người đang trông giữ người chưa thành niên không giao người chưa thành
niên cho người được giao nuôi dưỡng thì Chấp hành viên ra Quyết định phạt tiền,
ấn định thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra Quyết định phạt tiền để người
đó giao người chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng. Hết thời hạn đã ấn
định mà người đó không thực hiện thì Chấp hành viên tiến hành cưỡng chế buộc
giao người chưa thành niên hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội không chấp hành án".
Có ý kiến
cho rằng quy định trên là chưa thỏa đáng, bởi lẽ nếu đã áp dụng biện pháp cưỡng
chế rồi mà không thực hiện được thì có áp dụng được việc đề nghị truy cứu trách
nhiệm hình sự không, trong đó Điều luật quy định là chỉ chọn một trong hai biện
pháp. Đề nghị cần quy định rõ hơn như sau: Hết thời hạn đã ấn định mà người đó
không thực hiện thì Chấp hành viên tiến hành cưỡng chế buộc giao người chưa
thành niên. Sau khi hết thời hạn ấn định phạt tiền hoặc áp dụng biện pháp cưỡng
chế thi hành không đạt được thì đề nghị cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội không chấp hành án.
Trong trường
hợp đã áp dụng biện pháp cưỡng chế rồi mà không thực hiện được thì cơ quan thi
hành án dân sự vẫn được đề nghị cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình
sự theo Điều 304 Bộ luật hình sự về tội không chấp hành án. Vì theo quy định tại Điều 3 Bộ luật hình sự về
nguyên tắc xử lý thì mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý
nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật.
43. Khoản 2 Điều 126 quy định:
Sau khi có quyết định trả lại tiền Chấp hành viên thông báo cho đương sự thời
gian, địa điểm nhận lại tiền. Hết thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông
báo mà đương sự không đến nhận lại tiền thì Chấp hành viên phải gửi số tiền đó
theo hình thức tiết kiệm không kỳ hạn. Bất cập trong thực tế hiện nay, nếu số
tiền trả lại cho đương sự chỉ có 50.000đ thì không mở được sổ tiết kiệm nên hiện
nay số tiền tạm ứng án phí phải trả lại còn tồn nhiều.
Trường hợp
này, khoản 1 Điều 10 Thông tư số 22/2011/TT-BTP ngày 02/12/2011
của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một số thủ tục trong quản lý hành chính về
thi hành án dân sự đã quy định cơ quan thi hành án mở tài khoản tại ngân hàng để
gửi đối với khoản tiền gửi không đủ điều kiện để lập sổ tiết kiệm. Cơ quan thi hành án làm thủ tục
đứng tên gửi số tiền đó vào ngân hàng theo loại tiền gửi tiết kiệm 01 tháng cho
đến khi đương sự đến nhận tiền. Cơ quan thi hành án phải mở sổ theo dõi ghi
thông tin về số tiền gửi tiết kiệm cùng với tên người được thi hành án, tên bản
án, tên quyết định thi hành án. Phần lãi suất tiền gửi tiết kiệm sẽ được cộng
vào số tiền gửi ban đầu và trả cho đương sự. Trường hợp hết thời hạn 05 năm kể
từ ngày thông báo mà người được thi hành án không đến nhận thì cơ quan thi hành
án làm thủ tục chuyển nộp số tiền đó vào Ngân sách Nhà nước.
44. Điều 142 quy định
thẩm quyền giải quyết khiếu nại về thi hành án đối với Chấp hành viên và Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự. Có ý kiến cho rằng: như vậy trong trường hợp
khiếu nại về thi hành án đối với Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự thì Luật
chưa quy định ai là người có thẩm quyền giải quyết; Luật chưa quy định cụ thể
thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với trường hợp Chấp hành viên là Thủ trưởng
cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện trực tiếp tổ chức thi hành án. Cần xác định
người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với trường hợp này.
Tại khoản 1 Điều 22 Luật Thi hành án dân sự quy định Thủ trưởng,
Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải là Chấp hành viên... Tại khoản 4 Điều 6, khoản 3 Điều 7 Nghị định số 74/2009/NĐ-CP
ngày 09/9/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Thi hành án
dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và
công chức làm công tác thi hành án dân sự cũng đã quy định rõ. Do đó trong trường
hợp khiếu nại về thi hành án đối với Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự
thì người có thẩm quyền giải quyết là Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự.
Điểm b khoản 2 Điều 142 Luật Thi hành án dân sự quy định Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự
cấp tỉnh giải quyết khiếu nại quyết định và hành vi trái pháp luật của Thủ trưởng
cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện. Trong trường hợp này vì Chấp hành viên là
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện trực tiếp tổ chức thi hành án
do đó thẩm quyền giải quyết là của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh
(Cục trưởng).
45. Điểm a Khoản 2 Điều 161 quy định khi Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân
sự cấp huyện không nhất trí với kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân thì phải
báo cáo với Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh và Viện trưởng Viện
Kiểm sát cấp trên trực tiếp. Như vậy, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp
huyện có cần thông báo cho Viện Kiểm sát đã kháng nghị là không nhất trí với
kháng nghị không?
Việc trả lời
kháng nghị của Viện Kiểm sát thuộc trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan thi hành
án dân sự cho dù có nhất trí hay không nhất trí với kháng nghị (theo khoản e, điều 23; khoản 1, 2 Điều 161 Luật thi hành án dân sự
- Điều 25 Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân); nếu không nhất trí với kháng nghị vẫn phải trả
lời và đồng thời phải báo cáo với Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh
và Viện trưởng Viện Kiểm sát cấp trên trực tiếp (theo khoản 2 Điều
161 Luật thi hành án dân sự).
46. Luật Thi hành án dân sự đã đề cập đến quyền và
nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án. Thực tế nhiều trường
hợp những người này không có điều kiện, không tự mình bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp
của mình, đã phải mời đến các luật sư tham gia. Nhưng Luật Thi hành án dân sự
chưa đề cập đến việc luật sư tham gia trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Chưa
có Điều luật nào quy định để luật sư tham gia với tư cách gì và cơ
quan nào cấp giấy chứng nhận luật sư tham gia vụ việc thi hành án dân sự. Vì
chưa có cơ sở pháp lý nên cơ quan thi hành án dân sự cùng các cơ quan khác có
liên quan khi thực hiện nhiệm vụ còn gặp vướng mắc.
Luật sư được
hành nghề theo quy định của Luật về Luật sư; trong hoạt động thi hành án dân sự
họ thường là người được ủy quyền của đương sự, có thể đương sự ủy quyền để họ
làm đơn đề nghị thi hành án, hoặc ủy quyền trong toàn bộ vụ việc đến khi thi
hành án xong, họ được làm những gì mà luật pháp không cấm nên không cần phải
quy định chi tiết trong Luật Thi hành án dân sự.
II. VỀ
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH SỐ 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC NGÀY 26/7/2010 CỦA BỘ TƯ PHÁP - TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO - VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO HƯỚNG DẪN MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ
PHỐI HỢP LIÊN NGÀNH TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
47. Khoản 5 Điều 2 quy định: Trường hợp bản án, quyết định bị
kháng nghị được tổ chức thi hành án đã được tổ chức thông qua bán đấu giá nay bị
hủy, sửa thì cơ quan thi hành án dân sự tiếp tục hoàn thiện thủ tục theo quy định
của pháp luật cho bên mua đấu giá, trừ trường hợp thủ tục bán đấu giá vi phạm
quy định của pháp luật.
Có ý kiến
cho rằng: khi bản án tuyên sai dẫn đến bản án bị hủy, thì việc bán đấu giá tất
yếu phải bị hủy để khôi phục lại tài sản ban đầu. Do đó quyền lợi của người có
tài sản bị bán đấu giá phải được phục hồi trước tiên, rồi mới tính đến quyền lợi
của người trúng đấu giá. Quy định này không phù hợp thực tế, làm thiệt hại đến
quyền lợi của bên phải thi hành án. Vì nếu như người phải thi hành án đã không
đồng tình với bản án đã xử hoặc cơ quan có thẩm quyền phát hiện bản án tuyên
không đúng có vi phạm về nội dung hay hình thức nên kháng nghị bản án đó, bản
án đã bị kháng nghị nay bị hủy, sửa thì nội dung bản án đã khác, nên không thể
tiếp tục hoàn thiện thủ tục bán đấu giá điều này làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích công dân.
Khoản 5 Điều 2 Thông tư 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC nêu trên phù hợp với Điều
258 Bộ luật dân sự: “Chủ sở hữu được
đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người
thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc
giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản
do bản án, quyết định bị huỷ, sửa” và Điều 4 Nghị định
số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010
của Chính phủ về bán đấu giá tài sản về bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người
mua được tài sản bán đấu giá. Dù bản án, quyết định bị hủy nhưng đã được thi
hành bằng việc bán đấu giá và việc bán đấu giá không vi phạm pháp luật thì quyền
lợi của người trúng đấu giá phải được đảm bảo. Vì trên thực tế, tổ chức bán đấu
giá tài sản, người trúng đấu giá đều không có lỗi. Người có lỗi là Tòa án đã
tuyên Bản án, quyết định đó và vấn đề thiệt hại cho người phải thi hành án được
thực hiện theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Việc xử
lý tài sản sau khi có quyết định giám đốc thẩm đã được quy định tại các Điều 134, 135, 136 Luật Thi hành án dân sự.
48. Khoản 3 Điều 5 quy định: "Nếu người có nghĩa vụ liên đới
không có điều kiện thi hành
án, thì cơ quan thi hành án dân sự yêu cầu những người có điều kiện
thi hành án thực hiện thay phần nghĩa vụ của người đó. Người đã thực hiện thay
phần nghĩa vụ thi hành án có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ liên đới khác
thanh toán lại phần nghĩa vụ mà người đó đã thực hiện thay cho họ theo quy định
tại Điều 298 của Bộ luật Dân sự ".
Thực tế
xảy ra vướng mắc khi áp dụng là: Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự yêu
cầu người có điều kiện thi hành án thi hành thay phần nghĩa vụ cho
người chưa có điều kiện thi
hành án, nhưng người có điều kiện thi hành án đó không thực hiện, mặc dù Chấp
hành viên đã giải thích rõ về quyền và nghĩa vụ của những người có nghĩa vụ
liên đới; đồng thời khi áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản của người
đó thì một số Ban, ngành có liên quan cho rằng Luật quy định chưa rõ về vấn đề
này, hơn nữa Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC
ngày 26/7/2010 chỉ được ban hành trong giới hạn của liên
ngành giữa Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
mà không ban hành rộng ra các cơ quan ban ngành khác. Do vậy, không ràng buộc
được các cơ quan có liên quan phối hợp thực hiện yêu cầu.
Trong trường
hợp người có điều kiện thi hành án không thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên
về việc thi hành thay phần nghĩa vụ của người có nghĩa vụ liên đới không có điều kiện thi hành thì cơ quan thi hành án dân sự có
thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế, yêu cầu người đó phải thi hành nghĩa vụ.
Bộ luật Dân
sự, cũng như Luật Thi hành án dân sự do cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội
ban hành, vì vậy cá nhân, cơ quan, tổ chức phải nghiêm chỉnh thực hiện. Quy định
về trách nhiệm phối hợp của các cơ quan, đơn vị, cá nhân với cơ quan thi hành
án dân sự được quy định rõ tại Điều 11 Luật Thi hành án
dân sự .
Để hướng dẫn
thi hành Luật Thi hành án dân sự, tại Điều 182 Luật Thi
hành án dân sự Quốc hội giao cho “Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành các điều, khoản được giao trong Luật...”, với trách nhiệm đó liên
ngành ban hành các thông tư hướng dẫn; vì thế các cơ quan, tổ chức, cá nhân
liên quan có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong việc thi
hành án.
49. Khoản 1 Điều 6 quy định: "Kể từ thời điểm có Bản án, Quyết
định sơ thẩm mà người phải thi hành án bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng
cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố tài sản của mình cho người khác, không thừa nhận
tài sản là của mình mà không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án thì tài
sản đó vẫn bị kê biên để thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác. Nếu có tranh chấp thì Chấp hành viên hướng dẫn đương sự thực hiện việc khởi
kiện tại Tòa án để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình. Hết thời hạn 30
ngày, kể từ ngày được thông báo mà không có người khởi thì cơ quan thi hành án
dân sự xử lý tài sản để thi hành án"
Trong thực
tiễn công tác thi hành án dân sự để tiến hành kê biên tài sản, Chấp hành viên
hoặc người được thi hành án phải tiến hành xác minh tài sản của người phải thi
hành án và khi có căn cứ cho rằng người thi hành án có tài sản nhưng không tự
nguyện thi hành án thì Chấp hành viên mới tiến hành kê biên để thi hành án. Chấp
hành viên chỉ kê biên, xử lý khi có căn cứ xác định tài sản đó thuộc quyền sở hữu
hợp pháp của người phải thi hành án. Quyền sở hữu tài sản của một người có thể
chứng minh bằng văn bản (đối với bất động sản và một số động sản theo quy định
của pháp luật) hoặc bằng việc thể hiện đầy đủ các quyền năng của chủ sở hữu
trên thực tế (đối với bất động sản). Tuy nhiên theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14 nói trên thì việc xác
định 1 tài sản được coi là người phải thi hành án có được kê biên hay không lại
căn cứ vào thời điểm người thi hành án chuyển quyền sở hữu cho người khác. Theo
đó, thì nếu như kể từ thời điểm có bản án, quyết định sơ thẩm mà người phải thi
hành án bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng, cho người khác không thừa nhận
tài sản là của mình mà không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án thì tài
sản đó vẫn bị kê biên để thi hành án trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Do vậy, khi áp dụng các quy định trên vào thực tế đã gặp không ít những khó
khăn vướng mắc do thiếu các quy định chi tiết, cũng như thiếu sự thống nhất giữa
các văn bản pháp luật. Cụ thể:
+ Ngay
sau khi có Bản án sơ thẩm, người phải thi hành án đã chuyển nhượng tài sản của
mình là nhà, đất cho người khác. Việc chuyển nhượng này đúng quy định của pháp luật
và đã kê khai đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền (theo quy định tại Điều 168, Điều 170 Bộ luật Dân sự). Như vậy, đối với trường hợp này theo quy định của Bộ luật
Dân sự thì tài sản không còn là tài sản của người phải thi hành án nữa (giấy tờ
xác nhận quyền sở hữu tài sản, sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền cấp đều
không phải là người phải thi hành án).
Nhưng
theo quy định tại Điều này,
thì tài sản vẫn bị kê biên để thi hành án. Sau khi kê biên, Chấp hành viên
thông báo cho người phải thi hành án và người đã nhận chuyển nhượng tài sản khởi
kiện tại Tòa án để bảo vệ quyền lợi của minh nhưng họ không khởi kiện thì Chấp
hành viên sẽ xử lý tài sản. Sau khi tài sản bán đấu giá thành, cơ quan thi hành
án dân sự có trách niệm cung cấp đầy đủ các văn bản, giấy tờ liên quan cho người
mua được tài sản bán đấu giá theo quy định tại khoản 3 Điều
106 Luật Thi hành án dân sự. Nhưng việc lập thủ tục chuyển quyền sở hữu cho
người trúng đấu giá không thực hiện được vì giao dịch giữa người phải thi hành
án và người mua trước đó vẫn còn hiệu lực; còn kết quả bán đấu giá vẫn được
công nhận (theo Điều 4 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của
Chính phủ về bán đấu giá tài sản).
Như vậy,
pháp luật về thi hành án dân sự chỉ qui định từ thời điểm có bản án sơ thẩm mà
người phải thi hành án chuyển nhượng tài sản cho người khác thì tài sản đó vẫn
bị kê biên đảm bảo thi hành án và quy định quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp
đối với người có tranh chấp tài sản kê biên, nhưng không quy định cơ quan thi
hành án dân sự, Chấp hành viên có quyền hủy bỏ hoặc yêu cầu Tòa án hủy bỏ giao
dịch có hiệu lực giữa người phải thi hành án và người khác được thực hiện sau
khi có bản án sơ thẩm. Vì vậy, gây khó khăn cho việc xử lý tài sản của người phải
thi hành án đã chuyển nhượng cho người khác sau khi có bản án sơ thẩm.
+ Bên cạnh
đó, người mua, nhận tài sản không thể biết vào thời điểm đó tài sản đang bị
tranh chấp. Trong nhiều trường hợp, người mua tài sản ngay tình có thể bị mất
tài sản vì người bán đã sử dụng hết tiền và không còn tiền để trả lại cho người
mua.
Mặt khác
pháp luật quy định đương sự có thể khởi kiện tại Tòa án để bảo vệ quyền lợi của
mình, quy định này cũng không khả thi vì bên mua và bên bán không có tranh chấp
thì Tòa án không thể thụ lý để xét xử. Nếu có khởi kiện thì phải chăng là khởi
kiện cơ quan thi hành án dân sự? Trong thực tế người nhận quyền sở hữu tài sản
từ người phải thi hành án thường khiếu nại đến cơ quan thi hành án đối với Quyết
định kê biên vì họ cho rằng cơ quan thi hành án dân sự đã kê biên tài sản thuộc
quyền sở hữu hợp pháp của họ lúc này cơ quan thi hành án dân sự lại phải giải
quyết khiếu nại. Khi đó việc chuyển quyền sở hữu cho người trúng đấu giá sẽ gặp
rất nhiều khó khăn và việc thi hành án bị kéo dài do giao dịch chuyển quyền sở
hữu trước đó đang bị tranh chấp nếu khi hết thời hạn 30 ngày kể từ ngày được
thông báo mà không có người thực hiện thì cơ quan thi hành án dân sự tiếp tục xử
lý tài sản để thi hành án nhưng việc thi hành án cũng bị kéo dài.
+ Luật
Thi hành án dân sự quy định thời hiệu yêu cầu thi hành án là 5 năm. Nhiều trường
hợp người mua tài sản của người phải thi hành án đã tiếp tục chuyển nhượng cho
người khác và tài sản được chuyển nhượng qua nhiều người, hoặc dùng tài sản thế
chấp, cầm cố, bảo lãnh... Do đó khi cơ quan thi hành án dân sự kê biên tài sản
mà người phải thi hành án đã sang nhượng sau khi có bản án, quyết định sơ thẩm
cho người khác dẫn tới khiếu nại của người mua. Hơn nữa, thời điểm sang nhượng
tài sản, người được thi hành án chưa có đơn yêu cầu thi hành án, tài sản của
người phải thi hành án không bị ngăn chặn giao dịch. Như vậy, trường hợp kê
biên tài sản theo khoản 1 Điều 16 Thông tư liên tịch số 14
nêu trên xảy ra rất nhiều khiếu nại.
+ Trong
trường hợp trên, nếu kê biên tài sản đó để đảm bảo thi hành án, thì đến giai đoạn
bán đấu giá tài sản thì xử lý như thế nào? Tài sản thi hành án bây giờ không
còn là của người phải thi hành án nữa thì tài sản đó không thể bán đấu giá được.
Vì theo quy định tại khoản 6 Điều 2 Nghị định 17/2010/NĐ-CP
ngày 04/3/2010 của Chính phủ quy định về bán đấu giá tài sản
thì: “Người có tài sản bán đấu giá phải là chủ sở hữu tài sản, người được chủ sở
hữu ủy quyền bán tài sản”. Do vậy, việc quy định như trên là không khả thi và
khó thi hành trên thực tế.
Theo quy định
tại Điều 75 Luật Thi hành án dân sự thì “Trường hợp
cưỡng chế đối với tài sản của người phải thi hành án mà có tranh chấp với người
khác thì Chấp hành viên tiến hành cưỡng chế và yêu cầu đương sự, người có tranh
chấp khởi kiện tại Toà án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Chấp
hành viên xử lý tài sản đã kê biên theo quyết định của Toà án, cơ quan có thẩm
quyền.
Trong thời hạn
30 ngày, kể từ ngày Chấp hành viên yêu cầu mà đương sự, người có tranh chấp
không khởi kiện tại Toà án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì
tài sản được xử lý để thi hành án theo quy định của Luật này”.
Do đó, Khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC
quy định như vậy là hợp lý, phù hợp với quy định tại Điều
75 Luật Thi hành án dân sự, khoản 2 Điều 168 Bộ luật Dân sự về thời điểm chuyển quyền sở
hữu đối với tài sản và khoản 8 Điều 170 Bộ luật Dân sự về
căn cứ xác lập quyền sở hữu, tránh trường hợp đương sự tẩu tán tài sản, nhằm bảo
đảm hiệu lực của Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Do hiện tại
khi chưa có các quy định khác của pháp luật về việc xác lập quyền sở hữu thì cơ
quan thi hành án dân sự cần thực hiện theo đúng quy định trên.
III. VỀ
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH SỐ 144/2010/TTLT-BTC-BTP NGÀY 22/9/2010 CỦA
BỘ TÀI CHÍNH VÀ BỘ TƯ PHÁP HƯỚNG DẪN VỀ CHẾ ĐỘ THU, NỘP, QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG PHÍ
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
50. Tại điểm a khoản 4 Điều 2
Thông tư quy định "Nếu đương sự có thỏa thuận bằng văn bản hoặc người được
thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự không tiếp tục việc
thi hành án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 của Luật
Thi hành án dân sự và người được thi hành án từ bỏ nhận tiền, tài sản đã
thu được hoặc có đơn rút đơn yêu cầu thi hành án trước khi có quyết định cưỡng
chế thi hành án, thì cơ quan thu phí không thu phí thi hành án". Như vậy,
theo tinh thần hướng dẫn trên thì, hai bên đương sự (người phải và người được
thi hành án) có văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan
thi hành án dân sự không tiếp tục thi hành án nữa thì mới phát sinh việc đình
chỉ việc thi hành án theo điểm c khoản 1 Điều 50 Luật thi hành
án dân sự.
Tuy nhiên,
tại điểm b và c tại khoản 4 Điều 2 Thông tư lại quy định:
b/ Nếu đương sự không có thỏa thuận bằng văn bản hoặc
người được thi hành án không có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự
không tiếp tục việc thi hành án theo quy định tại điểm c khoản
1 Điều 50 của Luật Thi hành án dân sự và việc rút đơn thực hiện sau khi có
quyết định cưỡng chế thi hành án, thì người được thi hành án phải nộp 1/3 (một phần ba) số phí thi hành án phải nộp như của
trường hợp không rút đơn.
c/ Nếu đương sự không có thỏa thuận bằng văn bản hoặc
người được thi hành án không có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự
không tiếp tục việc thi hành án theo quy định tại điểm c khoản
1 Điều 50 Luật Thi hành án dân sự và việc rút đơn thực hiện sau khi cơ quan
thi hành án dân sự đã thực hiện xong việc cưỡng chế; cơ quan thi hành án dân sự
đã thu được tiền, tài sản để chi trả hoặc giao trả cho người được thi hành án,
thì cơ quan thu phí vẫn thu phí thi hành án theo quy định tại Thông tư này.
Nếu hiểu
theo đúng tinh thần tại hai điểm b, c nêu trên thì việc
đình chỉ thi hành án theo điểm c khoản 1 Điều 50 Luật Thi hành
án dân sự không xảy ra. Theo một số ý kiến, cách diễn đạt trong hai điểm b, c nêu trên là khó hiểu, dẫn đến nội dung bị chệch hướng,
không đúng đối tượng cần điều
chỉnh.
Ý kiến về diễn
đạt trong văn bản gây khó hiểu như đã nêu ở trên là đúng. Tuy vậy, nội dung tại
điểm b và điểm c khoản 4 Điều 2 Thông tư vẫn được hiểu
về mức phí thi hành án trong hai trường hợp sau:
b/ Thời điểm rút đơn yêu cầu thi hành án của đương sự
(việc rút đơn theo đúng trình tự pháp luật) xẩy ra sau thời điểm có quyết định
cưỡng chế thi hành án thì phải nộp 1/3
số phí thi hành án phải nộp như của trường hợp không rút đơn.
c/ Thời điểm rút đơn yêu cầu thi hành án của đương sự
(việc rút đơn theo đúng trình tự pháp luật) xẩy ra sau thời điểm cơ quan thi
hành án dân sự đã thực hiện xong việc cưỡng chế; cơ quan thi hành án dân sự đã
thu được tiền, tài sản để chi trả hoặc giao trả cho người được thi hành án, thì
cơ quan thu phí vẫn thu phí thi hành án theo quy định tại Thông tư này.
51. Khoản 2 Điều 4 quy định về khoản tiền 45% phí thi hành án cơ quan
thi hành án dân sự được giữ lại sử dụng. Khoản tiền này có thuộc đối tượng kiểm
sát của Viện kiểm sát nhân dân hay không?
Khoản tiền 45%
phí thi hành án cơ quan thi hành án dân sự được giữ lại sử dụng không thuộc diện
kiểm sát vì đã được cơ quan quản lý ngân sách (Bộ Tài chính) cho phép, hơn nữa
tại khoản 1 điều
này quy định “Phí thi hành án là khoản thu thuộc ngân sách nhà nước, được quản lý,
sử dụng, theo quy định của pháp luật ngân sách và hướng dẫn tại Thông tư này”
do vậy việc kiểm tra, giám sát hoạt động chi, sử dụng khoản phí này thuộc trách
nhiệm của cơ quan Tài chính, cơ quan quản lý thi hành án dân sự và cơ quan thi
hành án dân sự cấp trên.
IV. MỘT SỐ
VẤN ĐỀ KHÁC
52. Về chi phí xác minh điều kiện
thi hành án của người phải thi hành án khi người được thi hành án có yêu cầu Chấp
hành viên xác minh
Ngày 19/12/2011,
Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư liên tịch số 184/2011/TTLT-BTC-BTP
hướng dẫn cơ chế quản lý tài chính về kinh phí tổ chức cưỡng chế thi hành án
dân sự. Để thống nhất áp dụng các quy định của Thông tư liên tịch số 184/2011/TTLT-BTC-BTP
về chi phí xác minh điều kiện thi
hành án khi người được thi hành án có yêu cầu Chấp hành viên xác minh, các Cơ
quan Thi hành án dân sự cần lưu ý:
+ Các
chi phí xác minh thi hành án
Các chi phí
xác minh điều kiện thi hành án theo
quy định tại Khoản 1 Điều 44 Luật Thi hành án dân sự mà
người được thi hành án chịu khi có đơn yêu cầu Chấp hành viên xác minh điều kiện thi hành án bao gồm:
- Chi tiền
công tác phí cho các đối tượng tham gia vào việc xác minh điều kiện thi hành án.
- Chi bồi
dưỡng cho các đối tượng tham gia vào quá trình xác minh điều kiện thi hành án.
- Các khoản
chi khác phục vụ trực tiếp cho việc xác minh điều kiện thi hành án (như tiền sao chép tài liệu; tiền thuê đo
đạc, xác định diện tích đất; thuê phương tiện để đi xác minh...)
+ Thủ tục
lập dự toán, thu, chi tiền chi phí xác minh
Theo quy định
của pháp luật, đối với trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu, Chấp hành viên
chỉ tiến hành xác minh điều kiện
thi hành án của người phải thi hành án khi người được thi hành án có đơn yêu cầu
Chấp hành viên xác minh (trừ trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều
6 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành
án dân sự). Vì vậy, sau khi nhận đơn yêu cầu xác minh, Chấp hành viên thực hiện
các bước sau:
- Lập dự
trù kinh phí xác minh trình thủ trưởng đơn vị phê duyệt;
- Thông báo
và yêu cầu người được thi hành án nộp tiền chi phí xác minh theo dự trù chi phí
xác minh đã được phê duyệt;
- Thu tiền
chi phí xác minh bằng Biên lai thu tiền, chuyển Biên lai, dự trù chi phí xác
minh đã được phê duyệt cho kế toán nghiệp vụ thi hành án và nhập khoản tiền đã
thu vào quỹ;
- Làm thủ tục
tạm ứng tiền chi phí xác minh trước khi đi xác minh;
- Lập đầy đủ
chứng từ theo quy định khi chi tiền chi phí xác minh;
- Thanh
toán tạm ứng, chuyển các chứng từ liên quan đến chi phí xác minh cho kế toán
nghiệp vụ thi hành án ngay sau buổi xác minh;
- Thanh
toán chi phí xác minh với người được thi hành án khi kết thúc việc xác minh, nếu
khoản đã thu còn thiếu so với số chi thực tế thì yêu cầu nộp bổ sung, nếu còn
thừa thì làm thủ tục chi trả cho người được thi hành án.
+ Về mức
chi
- Chi bồi
dưỡng cho những người trực tiếp thực hiện xác minh điều kiện thi hành án:
Chấp hành
viên, công chức khác làm công tác thi hành án, kiểm sát viên, cảnh sát: mức
50.000đồng/người/ngày;
Dân quân tự
vệ, đại diện chính quyền địa phương và các đối tượng khác: mức chi 70.000đồng/người/ngày.
- Chi công
tác chi phí cho các đối tượng đi xác minh điều
kiện thi hành án: thực hiện theo
Thông tư số 97/2010/TT-BTC ngày 6/7/2010 của Bộ
Tài chính quy định chế độ công tác phí, chế độ chi tổ chức các hội nghị trong
cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập.
- Các chi
phí khác phục vụ trực tiếp cho việc xác minh điều kiện thi hành án: theo hợp
đồng, hóa đơn, biên nhận hợp pháp đối với các khoản chi phí này.
53. Một số cơ quan thi hành án dân sự có vướng mắc
trong việc lập hồ sơ tương trợ tư pháp đối với trường hợp đương sự ở nước
ngoài. Đề nghị Tổng cục hướng dẫn cách giải quyết.
Trong trường
hợp cần thực hiện ủy thác tư pháp, cơ quan thi hành án dân sự cần chú ý áp dụng
các quy định tại Luật Tương trợ tư pháp 2007. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 23 Thông tư liên tịch số 15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 15/09/2011 của Bộ
Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định
về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự của Luật Tương trợ tư pháp thì cơ
quan thi hành án dân sự có thể áp dụng các quy định tại Thông tư trên để thực
hiện việc ủy thác tư pháp.
+ Nội
dung yêu cầu tương trợ tư pháp
- Tống đạt
giấy tờ, hồ sơ, tài liệu cho người đang ở nước được yêu cầu;
- Triệu tập
người làm chứng, người giám định đang ở nước được yêu cầu;
- Thu thập,
cung cấp chứng cứ ở nước được yêu cầu để giải quyết vụ việc dân sự tại Việt
Nam;
- Các trường
hợp khác theo quy định của pháp luật Việt Nam.
+ Hồ sơ ủy
thác tư pháp
Theo quy định
tại Điều 11 Luật Tương trợ tư pháp thì hồ sơ ủy thác tư pháp về dân sự được lập thành 03 bộ
và phải có các văn bản sau đây:
- Văn bản của
cơ quan có thẩm quyền yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự;
- Văn bản ủy
thác tư pháp về dân sự quy định tại Điều 12 của Luật
Tương trợ tư pháp;
- Giấy tờ
khác theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của nước được ủy thác.
- Các giấy
tờ, tài liệu khác phục vụ cho việc thực hiện ủy thác tư pháp (Ví dụ: Bản án,
Quyết định của Tòa án; Quyết định thi hành án;…).
Ngôn ngữ được
sử dụng trong hồ sơ ủy thác tư pháp được thực hiện theo quy định tại Điều 5 Luật Tương trợ tư pháp và Điều
6 Thông tư 15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC.
Văn bản yêu
cầu thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự phải là bản chính và các văn bản, giấy
tờ, tài liệu khác phục vụ cho việc thực hiện ủy thác tư pháp là bản chính hoặc
bản sao. Bản sao và bản dịch của các văn bản, giấy tờ, tài liệu này phải được
chứng thực hợp lệ theo quy định của pháp luật về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng
thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký.
Trường hợp
vụ việc cần ủy thác tư pháp cho nhiều đương sự có nội dung ủy thác khác nhau hoặc
có địa chỉ khác nhau hoặc khác quốc tịch thì phải lập riêng hồ sơ uỷ thác tư
pháp cho từng đương sự.
+ Thủ tục
ủy thác tư pháp
- Cơ quan
thi hành án dân sự lập hồ sơ ủy thác tư pháp gửi Vụ Hợp tác quốc tế - Bộ Tư
pháp.
- Trong thời
hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ ủy thác tư pháp về dân sự, Bộ
Tư pháp vào sổ ủy thác tư pháp, kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ và chuyển cho cơ
quan có thẩm quyền của nước ngoài theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước ngoài là thành
viên hoặc thông qua kênh ngoại giao. Trường hợp hồ sơ không hợp lệ thì Bộ Tư
pháp trả lại cho cơ quan đã lập hồ sơ và nêu rõ lý do.
- Trong thời
hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản của cơ quan có thẩm quyền của
nước ngoài thông báo kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, Bộ Tư pháp chuyển văn bản
đó cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đã gửi hồ sơ ủy thác tư pháp về dân sự
+ Xử lý
kết quả ủy thác tư pháp trong trường hợp không nhận được thông báo kết quả thực
hiện ủy thác tư pháp
Theo quy định
tại khoản 4 Điều 15 Thông tư 15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC
thì “Sau sáu tháng kể từ ngày Bộ Tư pháp gửi hồ sơ ủy thác tư pháp hợp lệ lần
thứ hai cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài hoặc Bộ Ngoại giao mà không nhận
được thông báo kết quả thực hiện ủy thác tư pháp thì Tòa án yêu cầu ủy thác tư
pháp sẽ căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã thu thập được để giải quyết vụ
việc theo quy định của pháp luật mà không phải tiếp tục yêu cầu ủy thác tư
pháp”. Theo quy định tại Điều 23 Thông tư trên thì “Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác
của Việt Nam, nếu có yêu cầu tương trợ tư pháp hoặc thực hiện ủy thác tư pháp của
cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thì thực hiện quy trình và thủ tục tương
trợ tư pháp tương tự như đối với Toà án quy định tại Thông tư liên tịch này”.
Như vậy, áp
dụng tương tự quy định tại Khoản 4 Điều 15, sau sáu tháng
kể từ ngày Bộ Tư pháp gửi hồ sơ ủy thác tư pháp hợp lệ lần thứ hai cho cơ quan
có thẩm quyền của nước ngoài hoặc Bộ Ngoại giao mà không nhận được thông báo kết
quả thực hiện ủy thác tư pháp thì Cơ quan Thi hành án dân sự cần ủy thác coi
như đã thực hiện đầy đủ các trình tự, thủ tục đối với đương sự ở nước ngoài đó
và sẽ tiếp tục tổ chức thi hành án theo đúng quy định của pháp luật .
54. Hồ sơ thi hành án lưu giữ bản chính hay bản
sao hồ sơ giải quyết khiếu nại về thi hành án
Theo quy định
tại điểm a, khoản 1, Điều 2 Thông tư số 22/2011/TT-BTP
ngày 02/12/2011 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một số thủ tục
trong quản lý hành chính về thi hành án dân sự thì:“… Hồ sơ thi hành án phải thể
hiện toàn bộ quá trình tổ chức thi hành án của Chấp hành viên đối với việc thi
hành án. Chấp hành viên phải ghi chép các công việc và lưu giữ tất cả các tài
liệu đã và đang thực hiện vào hồ sơ thi hành án …”. Do đó, trong hồ sơ thi hành
án cần lưu giữ đầy đủ các loại tài liệu phản ánh quá trình tổ chức thi hành án
trong đó có các tài liệu về giải quyết khiếu nại về thi hành án. Theo quy định
tại Điều 149 Luật Thi hành án dân sự quy định việc giải quyết khiếu nại phải được lập
thành hồ sơ. Do vậy, cơ quan thi hành án phải lập hồ sơ giải quyết khiếu nại;
tài liệu của hồ sơ giải quyết khiếu nại là bản chính, bản sao lưu tại hồ sơ thi
hành án.
55. Khoản 1 Điều 6 Thông tư số
10/2010/TT-BNV ngày 28/10/2010
của Bộ Nội vụ quy định mã số, tiêu chuẩn nghiệp vụ của ngạch công chức Chấp
hành viên và Thư ký thi hành án dân sự quy định: "Chấp hành viên sơ cấp là
công chức chuyên môn nghiệp vụ thi hành án dân sự, có trách nhiệm trực tiếp tổ
chức thi hành án đối với những vụ việc đơn giản, lượng tiền, tài sản phải thi
hành án có giá trị nhỏ thuộc thẩm quyền thi hành của Cục Thi hành án dân sự,
Chi cục Thi hành án dân sự và Phòng Thi hành án cấp quân khu".
Thực tế
cho thấy, tại các Cục Thi hành án dân sự tỉnh có Chấp hành viên sơ cấp. Vậy, Chấp
hành viên sơ cấp được tổ chức thi hành những việc như thế nào thì được gọi là
việc đơn giản, lượng tiền là bao nhiêu, tài sản có giá trị nhỏ là bao nhiêu? Chấp
hành viên sơ cấp của Cục Thi hành án dân sự có được ký tên và đóng dấu của Cục
Thi hành án dân sự hay không?
Khái niệm vụ
việc đơn giản, lượng tiền, tài sản phải thi hành án có giá trị nhỏ chỉ có ý
nghĩa tương đối, không phản ánh đúng tính chất đa dạng, phức tạp của các vụ việc
thi hành án. Thực tiễn công tác thi hành án dân sự cho thấy, có những vụ việc số
lượng tiền, tài sản phải thi hành rất lớn nhưng lại đơn giản, dễ dàng trong việc
thi hành án; ngược lại, có những vụ việc số lượng tiền, tài sản phải thi hành
không nhiều nhưng tính chất vụ việc lại rất phức tạp, khó khăn trong cách giải
quyết. Vì vậy, để xác định rõ thế nào là vụ việc đơn giản, lượng tiền, tài sản
phải thi hành án có giá trị nhỏ và tương ứng với nó là đơn giản, dễ dàng trong
việc tổ chức thi hành án dân sự là không dễ thực hiện. Mặt khác, hiện nay Chấp
hành viên sơ cấp chiếm phần lớn đội ngũ Chấp hành viên, bản thân họ đang tổ chức
thi hành phần lớn các loại việc trong lĩnh vực thi hành án dân sự, trong đó có
những vụ việc có lượng tiền, tài sản phải thi hành rất lớn, rất khó khăn, phức
tạp do các cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh uỷ thác về và vẫn hoàn thành nhiệm
vụ. Do đó, sự phân biệt này chỉ mang tính chất tương đối, trong khi chưa có văn
bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này thì việc xác định, phân công công việc cho
Chấp hành viên chủ yếu dựa trên cách quản lý, trình độ, kinh nghiệm của Thủ trưởng
cơ quan thi hành án dân sự.
Khi thực
thi nhiệm vụ, Chấp hành viên sơ cấp có đầy đủ những nhiệm vụ, quyền hạn quy định
tại Điều 20 của Luật Thi hành án dân sự như Chấp hành viên trung cấp, Chấp hành viên
cao cấp. Khoản 1 Điều 6 Thông tư số 10/2010/TT-BNV ngày 28/10/2010
của Bộ Nội vụ quy định Chấp hành viên sơ cấp có trách nhiệm trực tiếp tổ chức
thi hành án đối với những vụ việc đơn giản, lượng tiền, tài sản phải thi hành
án có giá trị nhỏ thuộc thẩm quyền thi hành của Cục Thi hành án dân sự. Như vậy,
khi được Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự (Cục trưởng) phân công tổ chức
thi hành những vụ việc thuộc thẩm quyền thi hành của Cục Thi hành án dân sự, Chấp
hành viên sơ cấp có đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật để tổ
chức thi hành án, được ký tên và đóng dấu của Cục Thi hành án dân sự để thực
thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
56. Hình thức phân công Chấp hành viên tổ chức
thi hành quyết định thi hành án hiện nay mỗi cơ quan thi hành án dân sự thực hiện
một khác. Có đơn vị ra quyết định phân công, có đơn vị lại bằng hình thức phân
công theo sổ thụ lý. Đề nghị Tổng cục hướng dẫn để thống nhất thực hiện.
“Phân
công”, nghĩa là giao cho làm một phần việc nhất định nào đó. Trong khi thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thể phân
công công việc cho công chức thuộc quyền quản lý của mình bằng nhiều hình thức.
Điều 36 Luật Thi hành án dân sự quy định, sau khi ra quyết định thi hành án, Thủ trưởng cơ
quan thi hành án dân sự phải phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành quyết định
thi hành án đó. Thi hành án dân sự là công việc phức tạp, tác động trực tiếp tới
tài sản, quyền tài sản, quyền nhân thân phi tài sản... hợp pháp của cá nhân, tổ
chức có liên quan tới việc thi hành án. Trong lĩnh vực tư pháp, các chức danh
tư pháp phải chịu trách nhiệm cá nhân về mọi quyết định của mình khi thực thi
nhiệm vụ. Do tính chất quan trọng như vậy, lại dễ xảy ra sai phạm nên cần phải
có sự xác định rõ ràng quyền và trách nhiệm của từng cá nhân trong khi tổ chức
thi hành án. Hơn nữa, việc tổ chức thi hành án còn phải được thực hiện công
khai để các đương sự biết, liên hệ giải quyết công việc, cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền giám sát. Vì vậy, khi phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành quyết định
thi hành án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự nên thống nhất thực hiện dưới
hình thức ra quyết định bằng văn bản. Hiện nay, theo mẫu Quyết định thi hành án
đang được các cơ quan thi hành án dân sự thống nhất sử dụng theo quy định tại
Thông tư số 09/2011/TT-BTP ngày 30/5/2011 của Bộ
Tư pháp ban hành và hướng dẫn việc quản lý, sử dụng các loại biểu mẫu nghiệp vụ
thi hành án dân sự, tại Điều 2 của
Quyết định thi hành án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự nên ghi rõ họ tên
Chấp hành viên cụ thể có trách nhiệm tổ chức thi hành án (VD: Chấp hành viên
Nguyễn Văn A có trách nhiệm tổ chức thi hành Quyết định này). Khi có sự thay đổi
Chấp hành viên thì ra Quyết định thay đổi Chấp hành viên tổ chức thi hành án,
thông báo cho đương sự và các cơ quan hữu quan biết.
57. Trường hợp kết quả xác minh thi hành án thể
hiện quyền sử dụng đất bị kê biên là tài sản duy nhất của người phải thi hành
án. Theo hướng dẫn tại điểm 3 Điều 2 Thông tư số 161/2009/TT-BTC
ngày 12/8/2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế thu nhập
cá nhân đối với một số trường hợp chuyển nhượng, nhận thừa kế, nhận quà tặng là
bất động sản thì đương sự được miễn thuế thu nhập. Tuy nhiên, cơ quan thuế lại
không chấp nhận kết quả xác minh của cơ quan thi hành án dân sự, không coi đó
là căn cứ để xác định đương sự thuộc trường hợp được miễn thuế thu nhập. Đề nghị
có hướng dẫn cụ thể.
Tài liệu, hồ
sơ về miễn thuế thu nhập cá nhân phải thực hiện theo quy định pháp luật về thuế,
vì vậy cơ quan thuế không thể lấy kết quả xác minh của cơ quan thi hành án làm
căn cứ miễn thuế là đúng.
Trên đây là
ý kiến của Tổng cục Thi hành án dân sự về một số vướng mắc nghiệp vụ trong công
tác thi hành án dân sự để các cơ quan thi hành án dân sự nghiên cứu, vận dụng.
Trong quá trình thực hiện nếu có vấn đề chưa cụ thể hoặc chưa phù hợp với thực
tiễn, đề nghị các Cục Thi hành án dân sự phản ánh về Tổng cục Thi hành án dân sự
và Vụ Kiểm sát thi hành án dân sự (Vụ 10) Viện Kiểm sát nhân dân tối cao để hai
ngành phối hợp hướng dẫn, chỉ đạo kịp thời./.
Nơi
nhận:
- Như
trên;
- Lãnh đạo Bộ (để b/c);
- VKSND tối cao (để kiểm sát);
- Lãnh đạo Tổng cục;
- Lãnh đạo Vụ NV1;
- Lưu: VT, NV1, HS.
|
Q.TỔNG CỤC TRƯỞNG
Hoàng Sỹ Thành
|