|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Số hiệu:
|
31-CT/TW
|
|
Loại văn bản:
|
Chỉ thị
|
Nơi ban hành:
|
Ban Chấp hành Trung ương
|
|
Người ký:
|
Trương Thị Mai
|
Ngày ban hành:
|
19/03/2024
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
Ngày công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Số công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
Thường xuyên rà soát, bổ sung danh mục nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, bệnh nghề nghiệp
Ngày 19/3/2024, Ban Bí thư có Chỉ thị 31-CT/TW về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với công tác an toàn, vệ sinh lao động trong tình hình mới, trong đó có yêu cầu thường xuyên rà soát, bổ sung danh mục nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, bệnh nghề nghiệp.Thường xuyên rà soát, bổ sung danh mục nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, bệnh nghề nghiệp
Theo đó, yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, phân cấp, phân quyền, thường xuyên kiểm tra, thanh tra, bảo đảm chính sách, pháp luật được thực hiện nghiêm; thực hiện tốt Chương trình quốc gia về an toàn, vệ sinh lao động.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính theo hướng thiết thực, đơn giản, công khai, minh bạch, tiết kiệm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp, người lao động. Xây dựng cơ sở dữ liệu chuyên ngành để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong quản lý, tiếp nhận và báo cáo tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về an toàn, vệ sinh lao động; tăng cường trao đổi thông tin, kinh nghiệm, hợp tác đào tạo, chuyên gia với các nước.
Chú trọng công tác đánh giá tác động môi trường, nhất là đối với các dự án đầu tư khai thác, sản xuất công nghiệp, xây lắp, nơi có điều kiện lao động nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; kiểm soát các yếu tố nguy hiểm, có hại tại nơi làm việc; thường xuyên rà soát, bổ sung danh mục nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, bệnh nghề nghiệp.
Thực hiện nghiêm việc khai báo, thống kê, báo cáo, điều tra sự cố gây mất an toàn, vệ sinh lao động, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Quan tâm an toàn, vệ sinh lao động đối với các nhóm lao động nữ, chưa thành niên, người khuyết tật, người cao tuổi, giúp việc gia đình, người học nghề, tập nghề, thử việc và lao động được cho thuê lại, lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
Thực hiện tốt chính sách khám sức khoẻ định kỳ, giám định, chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng, điều trị, tiền lương, chi phí y tế, trợ cấp, bồi thường, bảo hiểm và các chính sách khác theo quy định cho người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Quản lý chặt chẽ các dịch vụ huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động; quan trắc môi trường lao động; khám sức khoẻ định kỳ, khám và phát hiện bệnh nghề nghiệp; kiểm định máy, thiết bị, vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động. Nâng cao chất lượng các cơ sở y tế khám, điều trị bệnh nghề nghiệp; cơ sở điều dưỡng, phục hồi chức năng lao động; bộ phận an toàn, vệ sinh lao động, bộ phận y tế, hội đồng an toàn, vệ sinh lao động tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh đáp ứng yêu cầu.
Xem chi tiết tại Chỉ thị 31-CT/TW ngày 19/3/2024.
BAN CHẤP
HÀNH TRUNG ƯƠNG
--------
|
ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
---------------
|
Số: 31-CT/TW
|
Hà Nội, ngày
19 tháng 3 năm 2024
|
CHỈ THỊ
CỦA BAN BÍ THƯ
VỀ TIẾP TỤC TĂNG
CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC AN TOÀN, VỆ SINH LAO ĐỘNG TRONG
TÌNH HÌNH MỚI
Sau 10 năm thực hiện Chỉ thị số 29-CT/TW, ngày
18/9/2013 của Ban Bí thư về đẩy mạnh công tác an toàn, vệ sinh lao động trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế đạt nhiều kết quả
tích cực, tỉ lệ tai nạn lao động nghiêm trọng giảm. Nhận thức, trách nhiệm của
các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, người
lao động và xã hội được nâng lên. Chính sách, pháp luật về an toàn, vệ sinh lao
động tiếp tục được hoàn thiện, mở rộng phạm vi áp dụng cho khu vực không có
quan hệ lao động. Công tác phòng ngừa, đánh giá rủi ro, kiểm soát các yếu tố
nguy hiểm, có hại; chăm sóc sức khoẻ người lao động, cải thiện điều kiện làm việc
và cơ chế hỗ trợ rủi ro cho doanh nghiệp và người lao động được quan tâm hơn.
Tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước, phân công, phân cấp, phối hợp chặt chẽ
hơn giữa các cơ quan, tổ chức và địa phương. Mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế;
đẩy mạnh xã hội hoá, phát triển dịch vụ huấn luyện, kiểm định kỹ thuật an toàn
lao động, quan trắc môi trường lao động.
Tuy nhiên, công tác an toàn, vệ sinh lao động
chưa đáp ứng yêu cầu, số vụ tai nạn lao động chưa giảm, bệnh nghề nghiệp chưa
được quan tâm, nhất là trong khu vực không có quan hệ lao động. Một số cấp uỷ,
chính quyền, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, người lao động chưa coi
trọng công tác an toàn, vệ sinh lao động; nguồn lực đầu tư, công tác quản lý
nhà nước có mặt còn hạn chế; chưa chú trọng đúng mức công tác phòng ngừa, thanh
tra, kiểm tra, giám sát, phát hiện, xử lý vi phạm. Ý thức chấp hành pháp luật của
người lao động, người sử dụng lao động chưa nghiêm. Việc nghiên cứu, ứng dụng
khoa học, công nghệ tiên tiến về an toàn, vệ sinh lao động chưa theo kịp thực
tiễn.
Để đẩy mạnh công tác an toàn, vệ sinh lao động
đáp ứng yêu cầu tình hình mới gắn với Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội, mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và hội nhập quốc tế, Ban Bí thư yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tập trung lãnh đạo,
chỉ đạo thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:
1. Bảo đảm quyền của người lao động được
làm việc trong điều kiện an toàn, vệ sinh lao động và bảo vệ tài sản, quyền, lợi
ích hợp pháp, chính đáng của Nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân. Nâng cao
nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp, người lao động. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm
tra, giám sát việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; kết hợp chặt chẽ giữa chủ động phòng ngừa với phát hiện, xử lý nghiêm vi
phạm. Nêu cao trách nhiệm người đứng đầu đối với công tác an toàn, vệ sinh lao
động, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, có ý nghĩa quan trọng trong
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh con người, góp phần cho phát triển
bền vững doanh nghiệp và đất nước.
Phấn đấu giảm tai nạn lao động, nhất là tai nạn
lao động nghiêm trọng, tỉ lệ tai nạn lao động chết người giảm ít nhất 4%/năm; số
người lao động làm việc trong môi trường tiếp xúc với các yếu tố có nguy cơ được
khám, phát hiện bệnh nghề nghiệp tăng ít nhất 5%/năm; số cơ sở phát sinh yếu tố
có hại được quan trắc môi trường lao động tăng ít nhất 5%/năm.
2. Thường xuyên tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
an toàn, vệ sinh lao động cho cán bộ lãnh đạo, quản lý, doanh nghiệp, cơ sở sản
xuất, kinh doanh, người sử dụng lao động và người lao động. Tạo điều kiện cho
người lao động, nhất là người làm việc trong khu vực không có quan hệ lao động
được tiếp cận thông tin về những vấn đề liên quan đến an toàn, vệ sinh lao động,
nâng cao nhận thức, trách nhiệm, chủ động phòng ngừa. Đổi mới nội dung, đa dạng
hoá hình thức thông tin, tuyên truyền phù hợp với từng nhóm đối tượng lao động,
quan tâm ngành, lĩnh vực có nguy cơ cao. Nâng cao hiệu quả, thu hút sự tham gia
của doanh nghiệp, người lao động trong Tháng hành động về an toàn, vệ sinh lao
động, Tháng Công nhân hằng năm.
Phát huy vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, hội quần chúng, các cơ
quan báo chí trong vận động, tuyên truyền, xây dựng văn hoá an toàn lao động
trong hội viên, đoàn viên và Nhân dân. Đẩy mạnh hoạt động đối thoại, thương lượng
về bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động và điều kiện làm việc, góp phần xây dựng
quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ.
3. Rà soát, bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật, khắc
phục kịp thời hạn chế, bất cập trong thực tiễn, chú trọng chính sách phòng ngừa,
giảm thiểu, khắc phục rủi ro về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; quyền và
nghĩa vụ của người lao động, người sử dụng lao động, tổ chức công đoàn và các tổ
chức có liên quan; chế độ bảo hộ lao động và chăm sóc sức khoẻ người lao động;
biện pháp phòng ngừa, ứng phó, xử lý sự cố tai nạn lao động; tiêu chuẩn, quy chuẩn
kỹ thuật về an toàn, vệ sinh lao động… bảo đảm thống nhất, đồng bộ, khả thi,
phù hợp với các điều ước quốc tế Việt Nam tham gia, tiếp cận tiêu chuẩn thế giới.
4. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, phân cấp,
phân quyền, thường xuyên kiểm tra, thanh tra, bảo đảm chính sách, pháp luật được
thực hiện nghiêm; thực hiện tốt Chương trình quốc gia về an toàn, vệ sinh lao động.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính theo hướng thiết thực,
đơn giản, công khai, minh bạch, tiết kiệm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp,
người lao động. Xây dựng cơ sở dữ liệu chuyên ngành để nâng cao hiệu quả quản
lý nhà nước, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong quản
lý, tiếp nhận và báo cáo tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế về an toàn, vệ sinh lao động; tăng cường trao đổi thông tin,
kinh nghiệm, hợp tác đào tạo, chuyên gia với các nước.
Chú trọng công tác
đánh giá tác động môi trường, nhất là đối với các dự án đầu tư khai thác, sản
xuất công nghiệp, xây lắp, nơi có điều kiện lao động nặng nhọc, độc hại, nguy
hiểm; kiểm soát các yếu tố nguy hiểm, có hại tại nơi làm việc; thường xuyên rà
soát, bổ sung danh mục nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, bệnh nghề
nghiệp. Thực hiện nghiêm việc khai báo, thống kê, báo cáo, điều tra sự cố gây mất
an toàn, vệ sinh lao động, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Quan tâm an
toàn, vệ sinh lao động đối với các nhóm lao động nữ, chưa thành niên, người
khuyết tật, người cao tuổi, giúp việc gia đình, người học nghề, tập nghề, thử
việc và lao động được cho thuê lại, lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
Thực hiện tốt chính sách khám sức khoẻ định kỳ, giám định, chăm sóc sức khoẻ,
phục hồi chức năng, điều trị, tiền lương, chi phí y tế, trợ cấp, bồi thường, bảo
hiểm và các chính sách khác theo quy định cho người bị tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp.
Quản lý chặt chẽ các dịch
vụ huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động; quan trắc môi trường lao động; khám sức
khoẻ định kỳ, khám và phát hiện bệnh nghề nghiệp; kiểm định máy, thiết bị, vật
tư có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động. Nâng cao chất lượng các cơ sở y
tế khám, điều trị bệnh nghề nghiệp; cơ sở điều dưỡng, phục hồi chức năng lao động;
bộ phận an toàn, vệ sinh lao động, bộ phận y tế, hội đồng an toàn, vệ sinh lao
động tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh đáp ứng yêu cầu.
5. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, chú trọng công tác đào tạo, huấn luyện, chuyển giao, cập
nhật kiến thức, kỹ năng an toàn, vệ sinh lao động, phòng, chống bệnh nghề nghiệp,
nhất là đối với người làm công tác an toàn, vệ sinh lao động, y tế tại doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh; thanh tra lao động, thanh tra an toàn, vệ
sinh lao động, bao gồm cả khu vực không có quan hệ lao động. Đẩy mạnh nghiên cứu,
ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến trong chăm sóc sức khoẻ người lao động,
bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động.
6. Tăng cường nguồn lực Nhà nước và doanh
nghiệp đầu tư cho công tác an toàn, vệ sinh lao động gắn với đổi mới cơ chế tài
chính, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực, ưu tiên bố trí nguồn lực để triển
khai các biện pháp phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đối với cả khu
vực không có quan hệ lao động. Các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền quan tâm lồng
ghép nội dung an toàn, vệ sinh lao động trong chương trình, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của ngành, địa phương; chương trình, dự án liên quan đến lĩnh
vực lao động, y tế, môi trường.
Đẩy mạnh xã hội hoá, huy động và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực trong và ngoài nước cho công tác an toàn, vệ sinh lao động.
Khuyến khích doanh nghiệp chủ động đầu tư, triển khai biện pháp phòng ngừa,
tăng cường công tác tự kiểm tra, giảm thiểu tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp theo hướng đóng, hưởng linh hoạt, nâng mức hưởng,
mức hỗ trợ phù hợp cho người thụ hưởng bảo đảm ổn định cuộc sống, mở rộng
và phát triển nhanh đối tượng tham gia bảo hiểm tai nạn
lao động tự nguyện có sự hỗ trợ của Nhà nước.
7. Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa các bộ, ngành, địa
phương, nhất là các ngành lao động, y tế, môi trường với địa phương, doanh nghiệp,
cơ sở sản xuất, kinh doanh theo chức năng, nhiệm vụ được giao, chú trọng khu vực
không có quan hệ lao động. Kịp thời phát hiện, nhân rộng, biểu dương, khen thưởng
tập thể, cá nhân, mô hình hay, cách làm hiệu quả và xử lý nghiêm vi phạm, nhất
là tổ chức, cá nhân để xảy ra sự cố nghiêm trọng về an toàn, vệ sinh lao động.
8. Tổ chức thực hiện
- Các tỉnh uỷ, thành uỷ, ban đảng, ban cán sự đảng,
đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, tuyên
truyền, cụ thể hoá, tổ chức thực hiện có hiệu quả Chỉ thị phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ được giao, thực tiễn của cơ quan, địa phương, đơn vị.
- Đảng đoàn Quốc hội,
Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
chính sách, pháp luật có liên quan; bố trí nguồn lực; tăng cường kiểm tra,
thanh tra, giám sát việc thực hiện Chỉ thị.
- Ban cán sự đảng
Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Kế hoạch thực hiện Chỉ thị; tổ chức thực
hiện tốt Chương trình quốc gia về an toàn, vệ sinh lao động giai đoạn 2021 -
2025 và các năm tiếp theo; tăng cường năng lực quản lý nhà nước cho các bộ,
ngành có liên quan, chính quyền địa phương.
- Đảng đoàn Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội khác, hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ
tăng cường công tác vận động, tuyên truyền, giám sát, phản biện xã hội góp phần
thực hiện tốt Chỉ thị.
- Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối hợp với
Ban cán sự đảng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các cơ quan liên quan hướng
dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết báo cáo Ban Bí thư kết quả
thực hiện Chỉ thị.
Chỉ thị này phổ biến đến các chi bộ.
Nơi nhận:
- Các tỉnh uỷ, thành uỷ,
- Các ban đảng, ban cán sự đảng,
đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương,
- Ban Bí thư Trung ương
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
- Các đảng uỷ đơn vị sự nghiệp Trung ương,
- Các đồng chí Uỷ viên
Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
- Lưu Văn phòng Trung ương Đảng.
|
T/M BAN BÍ
THƯ
Trương Thị Mai
|
Chỉ thị 31-CT/TW năm 2024 tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác an toàn, vệ sinh lao động trong tình hình mới do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh
Chỉ thị 31-CT/TW ngày 19/03/2024 tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác an toàn, vệ sinh lao động trong tình hình mới do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
10.544
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
info@ThuVienPhapLuat.vn
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng
Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|