VĂN PHÒNG CHÍNH
PHỦ
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 42/TB-VPCP
|
Hà Nội, ngày 24
tháng 01 năm 2018
|
THÔNG BÁO
KẾT
LUẬN CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ NGUYỄN XUÂN PHỨC TẠI HỘI NGHỊ TỔNG KẾT NGÀNH NÔNG
NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN NĂM 2017 VÀ TRIỂN KHAI NHIỆM VỤ NĂM 2018
Ngày 04 tháng 01 năm 2018, tại Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã dự và chỉ đạo Hội
nghị trực tuyến tổng kết công tác năm 2017 và triển khai kế hoạch năm 2018 của
ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn. Cùng dự có các đồng chí: Nguyễn Xuân
Cường - Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Mai Tiến Dũng - Bộ
trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ; lãnh đạo và đại diện các Bộ, cơ quan: Kế
hoạch và Đầu tư, Tài chính, Tài nguyên và Môi trường, Khoa học và Công nghệ, Y
tế, Công Thương, Xây dựng, Lao động - Thương binh và Xã hội, Thông tin và Truyền
thông, Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ủy ban Dân tộc, Ủy ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban Kinh tế Trung ương, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội,
Ủy ban Khoa học công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, Liên minh Hợp
tác xã Việt Nam, lãnh đạo 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đại diện một
số doanh nghiệp và chuyên gia.
Sau khi nghe báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn về kết quả công tác năm 2017, phương hướng nhiệm vụ năm 2018; ý kiến
phát biểu của đại diện một số địa phương, doanh nghiệp và chuyên gia, Thủ tướng
Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã kết luận, chỉ đạo như sau:
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG
Cơ bản nhất trí với kết quả công tác năm 2017 được
nêu trong báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Báo cáo đã được chuẩn
bị công phu, chất lượng, đánh giá được cả thành tích và những hạn chế, yếu kém
trong chỉ đạo điều hành nông nghiệp nông thôn Việt Nam trong năm vừa qua.
1. Những kết quả đạt được
- Năm 2017, trong bối cảnh tình hình thế giới có
nhiều biến động khó lường, trong nước thiên tai, lũ lụt kỷ lục, kinh tế Việt
Nam vẫn đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Lần đầu tiên sau nhiều năm, chúng
ta đã đạt và vượt toàn bộ 13 chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Tăng trưởng GDP đạt
6,81%, kinh tế vĩ mô ổn định, an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống của người
dân được cải thiện, trong thành công đó có sự đóng góp hết sức quan trọng của
ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn. GDP toàn ngành tăng khoảng 2,9%, gấp
hơn 2 lần năm 2016, đóng góp 0,44% vào mức tăng trưởng chung của cả nước. Tổng
kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 36,37 tỷ USD, cao nhất từ trước đến
nay, trong đó kim ngạch xuất khẩu rau quả tăng 40,5%, tôm tăng 22,3% so với năm
2016; thặng dư thương mại trong nông nghiệp đạt 8,55 tỷ USD. Lần đầu tiên kim
ngạch xuất khẩu rau, củ, quả Việt Nam đã vượt mức xuất khẩu dầu thô và gạo mở
ra hướng đi mới cho ngành nông nghiệp.
- Công tác bảo vệ và phát triển rừng, phòng chống
cháy rừng, phát triển kinh tế hộ, cơ cấu lại và tổ chức sản xuất nông nghiệp có
chuyển biến rõ nét, nông nghiệp công nghệ cao đạt được thành công bước đầu, một
số khu nông nghiệp công nghệ cao ở cả 3 miền được hình thành.
- Nhiều Hội nghị chuyên đề chỉ đạo sản xuất nông
nghiệp được tổ chức, qua đó đã thu hút được lực lượng doanh nghiệp đầu tư vào
nông nghiệp, nông thôn; có nhiều doanh nghiệp đã thành công với các mô hình sản
xuất mới. Bước đầu đã đạt được một số tiến bộ rõ nét trong tổ chức lại sản xuất
nông nghiệp.
- Công tác phòng chống thiên tai vận hành theo tổ
chức bộ máy mới, sâu sát, kịp thời, hiệu quả hơn, thể hiện tinh thần trách nhiệm
cao của ngành. Năm 2017, thiên tai kỷ lục (16 cơn bão, 4 áp thấp nhiệt đới, nhiều
đợt mưa lũ, sạt lở đất), trong đó nhiều cơn bão rất mạnh; cả hệ thống chính trị
vào cuộc, công tác dự báo, cảnh báo, chỉ đạo ứng phó kịp thời, quyết liệt đã
góp phần giảm thiệt hại, trong đó có đóng góp rất lớn của ngành nông nghiệp và
phát triển nông thôn, trực tiếp là lực lượng làm công tác tham mưu chỉ đạo
phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn các cấp.
- Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn
mới được chỉ đạo sát sao, đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Hệ thống khung
khổ pháp lý về hướng dẫn thực hiện Chương trình cơ bản được hoàn thiện, nâng
cao chất lượng các tiêu chí, đi vào chiều sâu, tạo điều kiện thuận lợi cho các
địa phương triển khai thực hiện. Đến hết năm 2017 có 2.884 xã và 43 đơn vị huyện
được công nhận đạt chuẩn, số xã đạt chuẩn nông thôn mới vượt kế hoạch đặt ra, đời
sống của người dân nông thôn từng bước được cải thiện.
- Công tác quản lý vật tư đầu vào trong nông nghiệp
có một số tiến bộ rõ rệt.
Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ghi nhận,
đánh giá cao và biểu dương Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cấp ủy,
chính quyền các địa phương, bà con nông dân cả nước, các doanh nghiệp, tổ chức,
cá nhân đã chung sức, đồng lòng, tham gia phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt
Nam và đạt được nhiều thành tích vượt bậc, đóng góp quan trọng vào việc phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2. Những tồn tại, hạn chế
Bên cạnh kết quả đạt được, ngành nông nghiệp cũng
còn một số tồn tại, hạn chế, bất cập cần thẳng thắn nhìn nhận để tập trung khắc
phục, tháo gỡ trong thời gian tới:
- Tái cơ cấu chưa mạnh mẽ; đổi mới và phát triển
các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp còn chậm, còn lúng túng về mô hình tổ
chức sản xuất trong nông nghiệp; sản xuất nông nghiệp theo thói quen, tiểu
nông, đơn giản, nhỏ lẻ theo mô hình kinh tế hộ vẫn chiếm tỷ trọng cao, phổ biến
ở nông thôn và bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém cản trở quá trình sản xuất nông nghiệp
hàng hóa quy mô lớn. Việc chuyển đổi, thành lập mới hợp tác xã nông nghiệp theo
Luật Hợp tác xã 2012 còn chậm; chưa có nhiều mô hình liên kết hiệu quả theo chuỗi
giá trị. Doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp có tiến bộ nhưng còn ít,
quy mô nhỏ, năng lực tài chính thấp.
- Năng suất nông nghiệp thấp, giá trị gia tăng của
các sản phẩm nông nghiệp chưa cao, phần lớn là xuất khẩu thô; thu nhập của người
nông dân đã được cải thiện nhưng còn rất thấp so với người dân ở đô thị. Đời sống
của bộ phận không nhỏ người nông dân, ngư dân, diêm dân, đặc biệt là vùng bị
thiên tai, lũ lụt, vùng bãi ngang, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số còn hết sức khó khăn. Do vậy, cần tiếp tục quan tâm hơn nữa đến phát triển
nông nghiệp, nông thôn để nâng cao đời sống của người dân (khoảng 70% người dân
sống ở nông thôn).
- Tình trạng vi phạm quy định pháp luật trong các
lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản còn phổ biến. Tình trạng đánh bắt hải
sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định còn xảy ra ở nhiều nơi,
chưa có giải pháp ngăn chặn mạnh mẽ. Tình trạng phá rừng, nhất là rừng tự nhiên
còn diễn ra; một số bộ, địa phương chưa quản lý chặt chẽ rừng phòng hộ, rừng tự
nhiên.
- Sản xuất nông nghiệp còn tự phát, bị động; công
tác dự báo cung, cầu thị trường, thông tin thị trường còn yếu; tình trạng được
mùa mất giá chậm được khắc phục nên vẫn còn tình trạng phải giải cứu nông sản.
- Hạ tầng nông nghiệp còn nhiều bất cập, chưa tạo điều
kiện thuận lợi cho chuyển đổi sản xuất nông nghiệp; nhiều hệ thống thủy lợi, đê
điều, hồ đập, kênh mương xuống cấp, không bảo đảm an toàn khi có thiên tai,
lãng phí nguồn nước; bờ sông bờ biển sạt lở ở nhiều nơi đe dọa trực tiếp đến an
toàn dân cư, cơ sở hạ tầng.
- Thu hút nguồn lực xã hội đầu tư vào nông nghiệp
thấp, chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu phát triển của ngành; thiếu nguồn
lực thực hiện các chương trình, đề án và dự án trọng điểm của ngành.
- An toàn vệ sinh thực phẩm có tiến bộ nhưng chuyển
biến chưa rõ nét, việc phổ biến cho nông dân tự giác bảo vệ mình và bảo vệ xã hội
còn hạn chế, vẫn còn tình trạng “rau 2 luống, lợn 2 chuồng”,
- Một số ngành, địa phương chưa tập trung làm tốt
công tác chỉ đạo phát triển nông nghiệp, nông thôn; chưa quan tâm đối thoại, giải
quyết vấn đề bức xúc khiếu kiện của người dân.
II. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ
1. Định hướng thời gian tới
Trong năm 2018 và thời gian tới phải tạo chuyển biến
rõ nét hơn, thực chất hơn trong cơ cấu lại ngành nông nghiệp, tập trung phát
triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao, tận
dụng tốt cơ hội của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nâng cao năng suất,
chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới gắn với
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân.
2. Nhiệm vụ
Cơ bản đồng ý với mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp
chủ yếu năm 2018 và thời gian tới được đề cập trong báo cáo của Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn và ý kiến của các đại biểu. Mục tiêu cụ thể đối với
ngành nông nghiệp trong năm 2018 đã được xác định tại Hội nghị Chính phủ với
các địa phương là: tăng trưởng khu vực nông nghiệp đạt 3,0%, trong đó, nông
nghiệp 2,25%, lâm nghiệp 6,0%, thủy sản 5%); kim ngạch xuất khẩu khoảng 40 tỷ
USD; có ít nhất 52 đơn vị hành chính cấp huyện và 37% số xã đạt chuẩn nông thôn
mới.
Yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đặc
biệt là các địa phương tập trung chỉ đạo, tổ chức triển khai đồng bộ các Nghị
quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, nhất là Nghị quyết 01/NQ-CP của Chính phủ
ngay từ đầu năm 2018; khẩn trương xây dựng hệ thống chỉ tiêu cụ thể để phục vụ
hiệu quả cho công tác chỉ đạo điều hành của toàn ngành; quán triệt và thực hiện
nghiêm phương châm “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, hiệu quả”. Tập
trung chăm lo Tết cho người dân nông thôn, nhất là bà con nông dân ở các vùng bị
thiên tai, vùng núi, vùng sâu, vùng xa, đảm bảo lương thực, thực phẩm, chỗ ở
cho người dân.
Quan tâm giải quyết đồng bộ những vấn đề bức xúc
trong nông nghiệp, nông thôn để bảo vệ và nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp,
trong đó có vấn đề giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật giả, kém chất lượng.
Đặc biệt cần quan tâm đến tổ chức sản xuất, thị trường là đầu ra cho sản phẩm
nông nghiệp. Chú trọng việc khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường ở nông
thôn.
3. Một số giải pháp trọng tâm năm 2018
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các địa
phương chủ động, sáng tạo, tìm lợi thế để phát triển, khẩn trương xây dựng kế
hoạch và tổ chức triển khai quyết liệt các nhiệm vụ và giải pháp của ngành đảm
bảo mục tiêu tăng trưởng năm 2018.
- Tạo chuyển biến rõ nét và thực chất trong cơ cấu
lại ngành nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng
tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp. Tổ
chức lại sản xuất nông nghiệp, khuyến khích phát triển liên kết theo chuỗi giá
trị, từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ; giảm chi phí trung gian để nâng cao
thu nhập cho nông dân; tập trung phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao,
nông nghiệp thông minh, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp an toàn, nông nghiệp hữu
cơ. Phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, đẩy mạnh chế biến sâu, chế biến
tinh, ứng dụng khoa học công nghệ, các quy trình sản xuất tiên tiến nhằm nâng
cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam. Tập trung chuyển
đổi, cơ cấu lại cây trồng vật nuôi trên cơ sở khai thác tối đa lợi thế của từng
vùng, chuyển đất lúa kém hiệu quả sang các cây trồng, vật nuôi khác hiệu quả
hơn; đẩy mạnh phát triển kinh tế rừng, kinh tế biển.
- Đẩy mạnh sản xuất - kinh doanh, nhân rộng những
mô hình sáng tạo, hiệu quả như mô hình hội quán ở tỉnh Đồng Tháp, mô hình tích
tụ tập trung ruộng đất, thu hút doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao đầu tư phát
triển nông nghiệp đã thành công ở một số địa phương. Chủ động rà soát, sửa đổi
các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của Chính phủ và của Bộ; kiến
nghị sửa đổi, điều chỉnh, bổ sung một số quy định tại các Luật có liên quan để
kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn tạo điều kiện cho phát triển nông nghiệp, nông
thôn.
- Tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực thủy sản,
triển khai các giải pháp cụ thể phát triển nuôi trồng và khai thác thủy sản bền
vững; quyết liệt ngăn chặn việc khai thác hải sản trái phép, không khai báo,
không quản lý; khẩn trương đề nghị Cộng đồng châu Âu bỏ “thẻ vàng” đối với Việt
Nam trong quý II năm 2018.
- Thúc đẩy phát triển kinh tế lâm nghiệp, thực hiện
nghiêm chủ trương đóng cửa rừng tự nhiên, quản lý chặt chẽ việc chuyển đổi đất
rừng sang các mục đích sử dụng khác.
- Phát triển dịch vụ hậu cần phục vụ nông nghiệp nhằm
giảm chi phí, thời gian vận chuyển, bảo quản, kiểm định, kiểm dịch và các loại
phí liên quan đến sản xuất, tiêu thụ nông sản. Giao các Bộ: Công Thương, Giao
thông vận tải phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các địa
phương rà soát, đề xuất giải pháp phù hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
- Tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, tận dụng
cơ hội và thành quả của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 nhằm nâng cao năng
suất, chất lượng, hiệu quả và bảo vệ môi trường sinh thái.
- Quản lý chặt chẽ chất lượng vật tư nông nghiệp,
nhất là giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật; kiểm soát vệ sinh an toàn thực
phẩm hàng nông sản, kiên quyết xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật vệ sinh an
toàn thực phẩm, sử dụng thuốc kháng sinh không đúng quy định, chất cấm.
- Xây dựng thương hiệu sản phẩm đối với các mặt
hàng nông sản chủ lực; tổ chức lại thị trường trong nước, đặc biệt là hệ thống
bán lẻ; phối hợp với ngành công thương duy trì và phát triển các thị trường xuất
khẩu truyền thống, mở rộng thị trường mới. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại
và khuyến khích tiêu dùng nội địa; phối hợp tổ chức các hoạt động kết nối cung
cầu, liên kết chuỗi giá trị nông sản.
- Tập trung nâng cao năng lực nghiên cứu và dự báo
thị trường; nghiên cứu kỹ thị trường trước khi đi vào sản xuất; theo dõi sát,
thường xuyên cập nhật và cung cấp thông tin về thị trường, kịp thời điều chỉnh
cơ cấu và quy mô sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, hạn chế cung vượt cầu.
- Tăng cường năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai,
chủ động phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu. Khẩn
trương tổng kết, đúc rút các bài học kinh nghiệm; phát huy tinh thần 4 tại chỗ
trong phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai. Triển khai các biện pháp bảo đảm
an toàn đê điều, hồ đập, tập trung rà soát, bố trí lại dân cư tại các khu vực
có nguy cơ lũ ống, lũ quét, sạt lở đất; thực hiện tốt các chính sách an sinh xã
hội, hỗ trợ kịp thời cho người dân bị tác động bởi thiên tai.
- Tạo chuyển biến thực chất trong thực hiện Chương
trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, tập trung nâng cao năng lực sản
xuất và thu nhập cho người dân nông thôn một cách bền vững, gắn với quản lý, bảo
vệ môi trường, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống và bảo đảm an
ninh nông thôn.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, rà soát, đơn giản
hóa và cắt giảm các thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh;
xây dựng và triển khai Kế hoạch hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Tiếp tục
rà soát, hoàn thiện thể chế, chính sách tín dụng trong nông nghiệp.
III. VỀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
1. Về đổi mới cơ chế chính sách thúc đẩy tái cơ cấu,
hỗ trợ phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới: Bộ Tài nguyên và môi
trường phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn rà soát chính sách
pháp luật về đất đai, sớm trình Chính phủ để trình Quốc hội sửa đổi Luật Đất
đai theo hướng tạo thuận lợi hơn cho tích tụ, tập trung đất đai, sản xuất nông
nghiệp quy mô lớn. Giao Bộ Công Thương phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn tổ chức các hoạt động phát triển thị trường, đàm phán tháo gỡ các rào
cản thương mại để thúc đẩy tiêu thụ nông sản, các cơ quan đại diện ở nước ngoài
hỗ trợ mạnh hơn cho ngành nông nghiệp nghiên cứu, mở cửa thị trường.
2. Về bổ sung vốn trong kế hoạch đầu tư công trung
hạn: Thủ tướng Chính phủ ghi nhận và sẽ thảo luận trong thường trực Chính phủ để
xử lý những vấn đề cấp thiết, nhất là gói hỗ trợ để đầu tư sửa chữa, nâng cấp đảm
bảo an toàn đê điều, hồ đập, khắc phục sạt lở. Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn rà soát, xác định rõ các công trình, dự án thực sự cấp thiết, trên cơ
sở đó phối hợp với các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính đề xuất, báo cáo Thủ
tướng Chính phủ.
3. Về đề xuất xây dựng Nghị định hợp tác xã nông
nghiệp: Trên cơ sở quy định của Luật Hợp tác xã, giao Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp nghiên cứu, đề xuất, báo cáo
Chính phủ.
Văn phòng Chính phủ thông báo để cơ cơ quan liên
quan biết, thực hiện./.
Nơi nhận:
- Ban Bí thư;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng CP;
- Ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Ban Kinh tế Trung ương;
- Các Bộ: NN&PTNT, KH&ĐT, TC, TN&MT, KH&CN, YT, CT, XD,
LĐTBXH, TTTT, TP;
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
- Ủy ban Dân tộc;
- UB Kinh tế của QH; UB KHCN&MT của QH;
- Phòng Thương mại và CN Việt Nam;
- Hội Nông dân Việt Nam;
- Hội Chữ thập đỏ Việt Nam;
- Liên minh Hợp tác xã Việt Nam;
- UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý TTg, TGĐ Cổng TTĐT, các Vụ: TH, KTTH, QHĐP, CN,
TKBT;
- Lưu: VT, NN (2), - Tuynh.
|
BỘ TRƯỞNG, CHỦ
NHIỆM
Mai Tiến Dũng
|