TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ LA GI, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 46/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 28 tháng 9 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 196/2022/TLST-HNGĐ, ngày 09/5/2022, về: “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày 08/9/2022, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1996(Vắng mặt) Địa chỉ: Khu phố 9, phường B, thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận
Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh D, sinh năm 1993(Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn B, xã T, thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Nguyễn Thanh D đăng ký kết hôn tại UBND xã Tân Bình, thị xã La Gi năm 2020. Quá trình chung sống, vợ chồng hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn nghiêm trọng do vợ chồng thường hay cãi nhau vì bất đồng quan điểm sống. Hiện nay ông bà đã sống ly thân, mạnh ai nấy sống, không quan tâm lẫn nhau và bà không còn tình cảm với ông D nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn với ông D Về con chung: Vợ chồng có với nhau được 01 người con chung tên Nguyễn Thành L, sinh ngày 05/6/2011. Nếu ly hôn, bà có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Bà không yêu cầu Tòa giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Nguyễn Thanh D có ý kiến:
Ông thống nhất lời trình bày của bà T về thời điểm đăng ký kết hôn, con chung cũng như mâu thuẫn vợ chồng. Ông đồng ý ly hôn vì tình cảm vợ chồng không còn.
Về con chung: Giao con chung cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng, ông không cấp dưỡng.
Về tài sản chung, nợ chung: Ông không yêu cầu Tòa giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử sơ thẩm: Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự; Thẩm quyền thụ lý vụ án, xác định quan hệ pháp luật, tư cách pháp lý và mối quan hệ giữa những người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu, cấp tống đạt văn bản tố tụng cho người tham gia tố tụng là phù hợp quy định pháp luật; việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử thực hiện đúng phiên tòa sơ thẩm; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Đương sự đã thực hiện theo quy định.
Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Thu T được ly hôn ông Nguyễn Thanh D. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Thành L, sinh ngày 05/6/2011 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng. Tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu nên không giải quyết. Về án phí: Bà T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; sau khi nghe quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã La Gi, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
- Bà Nguyễn Thị Thu T khởi kiện ông Nguyễn Thanh D về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”. Bị đơn ông D có nơi cư trú tại thôn B, xã T, thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận. Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là tranh chấp ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận.
- Nguyên đơn bà T và ông D có đơn xin vắng mặt, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung là phù hợp quy định của Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án: Bà T yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông D.
Về con chung: bà có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thành L, sinh ngày 05/6/2011, không yêu cầu cấp dưỡng.
Xét, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy, giữa bà T và ông D tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn vào năm 2020 tại xã Tân Bình, thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận, nên quan hệ hôn nhân của ông bà là hợp pháp. Quá trình chung sống giai đoạn đầu vợ chồng sống hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng thường hay cãi nhau vì bất đồng quan điểm sống. Hiện nay ông bà đã sống ly thân, mạnh ai nấy sống, không quan tâm lẫn nhau nên việc vợ chồng hàn gắn là rất khó. Ngoài ra, ông D cũng xác định tình cảm giữa ông và bà T không còn, cả hai vợ chồng đã ly thân, chứng tỏ hai vợ chồng không có thiện chí giữ gìn quan hệ hôn nhân, cũng như giữa ông, bà không có giải pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Từ những căn cứ trên, nhận thấy mâu thuẫn giữa bà T và ông D đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không còn tồn tại, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho bà T ly hôn ông D là phù hợp theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
[3] Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Thành L, sinh ngày 05/6/2011 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng, bà T không yêu cầu cấp dưỡng là phù hợp Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
[4] Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không có yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[5] Về án phí: Bà T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 147; Điều 228; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án .
Tuyên xử:
[1] Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bà Nguyễn Thị Thu T được ly hôn ông Nguyễn Thanh D.
[2] Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Thành L, sinh ngày 05/6/2011 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng, bà T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
[3] Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.
[4] Về án phí: Bà Nguyễn Thị Thu T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0005053 ngày 09/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã La Gi. Bà T đã nộp đủ tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.
[5] Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung.
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 46/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 46/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị Xã La Gi - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về