Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 46/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 46/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 29 tháng 9 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số 91/2022/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 7 năm 2022 về “Tranh chấp ly hôn và nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị D, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Thôn S, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Lê Văn L, sinh năm 1987.

Địa chỉ: Thôn S, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 09/6/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Phạm Thị D trình bày: Chị và anh Lê Văn L tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh T ngày 08/02/2010. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cãi chửi nhau. Do không thể chung sống được nên chị và anh L đã sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị D đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh Lê Văn L.

Về con chung: Chị D khai, vợ chồng có 01 con chung, cháu tên là Lê Hà V, sinh ngày 20/10/2010. Hiện cháu V đang ở với chị D, chị D đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hà V, không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị, hiện nay chị đang làm công nhân thu nhập hàng tháng khoảng 8 triệu đến 9 triệu đồng.

Về tài sản: Chị Phạm Thị D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Toà án đã triệu tập hợp lệ anh Lê Văn L đến Toà án để viết bản khai nhưng anh L không có mặt mà không có lý do nên không có bản khai của anh L.

Tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Quá trình nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết và quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự đã được thực hiện các quyền của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Chị D đề nghị Toà án giải quyết cho ly hôn với anh L và được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hà V là phù hợp với quy định tại Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 và khoản 1, Điều 88 Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị D. Ghi nhận sự tự nguyện của chị D về việc không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Anh Lê Văn L đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến Tòa án để tham gia phiên hòa giải nhưng anh L không có mặt mà không có lý do nên Tòa án không tiến hành hoà giải được vụ án. Anh L cũng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn không có mặt, chị D vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị D và anh L là phù hợp với quy định tại khoản 2, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: Chị Phạm Thị D và anh Lê Văn L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Theo chị D, quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cãi, chửi nhau. Kết quả xác minh ngày 01/8/2022 có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã H cũng cho thấy, quá trình chung sống giữa chị D và anh L phát sinh nhiều mâu thuẫn nguyên nhân là do anh L chơi bời và vợ chồng nghi kỵ lẫn nhau, dẫn đến vợ chồng sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay. Như vậy trong cuộc sống vợ chồng giữa chị D và anh L luôn xảy ra mâu thuẫn, xung đột, một thời gian dài vợ chồng sống ly thân và không còn quan tâm đến nhau, chứng tỏ đời sống chung vợ chồng đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giải quyết cho chị D được ly hôn anh L là phù hợp.

[3]. Về con chung: Chị D khai, vợ chồng có 01 con chung, cháu tên là Lê Hà V, sinh ngày 20/10/2010, chị D cũng xuất trình cho Tòa án bản sao giấy khai sinh của cháu Hà V, trong giấy khai sinh thể hiện cháu Hà V là con chung của chị D và anh L. Mặt khác, cháu Hà V được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nên đủ cơ sở khẳng định cháu Hà V là con chung của chị D và anh L. Từ khi vợ chồng sống ly thân, cháu Hà V do chị D trực tiếp nuôi dưỡng, cháu Hà V cũng có nguyện vọng được ở với chị D. Để tránh xáo trộn về tâm lý cũng như việc học tập cháu, do đó, giao cháu Hà V cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của chị D về việc không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

[4]. Về tài sản: Chị Phạm Thị D không yêu cầu Toà án giải quyết, nên miễn xét.

[5]. Về án phí: Chị Phạm Thị D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 và khoản 1, Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 6; khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Phạm Thị D và anh Lê Văn L.

2. Về con chung: Công nhận cháu Lê Hà V, sinh ngày 20/10/2010 là con chung của chị D và anh L. Giao cháu Hà V cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng, anh L không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị D.

Anh L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Anh L không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của chị D.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị D phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị D đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2021/0004345 ngày 07/7/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Chị D đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị D, anh Lê Văn L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 46/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:46/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về