Chào chị, THƯ VIỆN BẢN ÁN xin giải đáp vấn đề của chị như sau:
Hiện nay, tình trạng sống chung như vợ, chồng mà không đăng ký kết hôn diễn ra khá phổ biến. Vấn đề được nhiều người quan tâm là có được cùng đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nếu có tài sản chung trong quá trình sống chung không?
Hôn nhân là quan hệ giữa nam, nữ sau khi kết hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014. Tại khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 định nghĩa: "Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng".
Có thể thấy quan hệ hôn nhân phải được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền thì mới được xem là vợ chồng. Trường hợp nam, nữ sống chung với nhau như vợ, chồng nhưng không đăng ký kết hôn sẽ không được công nhận là vợ chồng.
Tại Mục 3 Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 quy định: đối với nam và nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 01/01/2001 trở đi mà không đăng ký kết hôn thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng.
Ngoài ra, Điều 14 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 cũng quy định về gải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng.”
Như vậy, nam, nữ chung sống với nhau như vợ, chồng nhưng không đăng ký kết hôn thì không được công nhận là vợ, chồng và không phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng.
Nam, nữ sống chung với nhau như vợ, chồng thì không được công nhận là vợ, chồng; tài sản do hai bên tạo lập được trong thời gian chung sống cũng không được coi là tài sản chung của vợ, chồng.
Việc giải quyết quan hệ tài sản trong trường hợp nam, nữ sống chung với nhau như vợ, chồng được quy định tại Điều 16 Luật Hôn nhân và Gia đình, như sau:
- Quan hệ tài sản giữa hai người nam, nữ chung sống với nhau như vợ, chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận của các bên.
- Nếu các bên không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân sự cũng như các quy định liên quan khác.
Điều 207 Bộ luật Dân sự quy định sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ thể với tài sản, gồm: sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất.
Theo đó, nếu nam, nữ không có quan hệ hôn nhân vẫn có thể cùng sở hữu tài sản và được xác lập theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, tại khoản 2 Điều 98 Luật Đất đai 2013 về nguyên tắc cấp Giấy chứng nhận được quy định như sau:
“Thửa đất có nhiều người chung quyền sử dụng đất, nhiều người sở hữu chung nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất phải ghi đầy đủ tên của những người có chung quyền sử dụng đất, người sở hữu chung nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất và cấp cho mỗi người 01 Giấy chứng nhận; trường hợp các chủ sử dụng, chủ sở hữu có yêu cầu thì cấp chung một Giấy chứng nhận và trao cho người đại diện”.
Như vậy, nam nữ sống chung không đăng ký kết hôn vẫn có thể cùng đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sổ đỏ phải ghi đầy đủ tên của cả hai và sẽ cấp cho mỗi người một Sổ đỏ. Nếu có thỏa thuận thì có thể cấp chung một Sổ đỏ và trao cho người đại diện.