TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 25/2022/HNGĐ-ST NGÀY 06/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 06 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quế Võ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 259/2022/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2022 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 34/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1973. Vắng mặt.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1970. Vắng mặt.
Đều HKTT: thôn Thịnh C, thị trấn P, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Nguyên đơn là bà Nguyễn Thị L trình bày:
Bà và ông Nguyễn Văn H kết hôn với nhau từ năm 1992 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Việt Hùng, huyện Quế Võ. Sau khi kết hôn được một thời gian thì ông H thường xuyên uống rượu rồi về đánh đập bà L, nhưng vì các con còn nhỏ nên bà vẫn cam chịu sống như vậy. Đến giữa năm 2020 thì ông H đánh đập bà L nhiều hơn, và nhiều lần dọa giết bà. Lúc này các con của ông bà đã lập gia đình ra ở riêng, do sợ bị ông H đánh nên bà L đã phải dọn ra ở cùng với con gái. Vợ chồng ông bà đã sống ly thân từ đó đến nay, trong thời gian này ông H vẫn tìm để đánh đập bà. Nay bà L thấy rằng cuộc sống hôn nhân của vợ chồng không còn hạnh phúc nữa, bà không còn tình cảm gì với ông H, nên đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn ông H.
Về con chung: Vợ chồng ông bà có 02 con chung là Nguyễn Thị Y, sinh năm 1993 và Nguyễn Hoàng S, sinh năm 1995. Hiện nay chị Y và anh S đều đã trưởng thành, không ai bị mất khả năng lao động nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Bị đơn là ông Nguyễn Văn H trình bày:
Quá trình chung sống vợ chồng ông bà không có mâu thuẫn gì lớn, chỉ thỉnh thoảng có cãi nhau do bất đồng trong cuộc sống hàng ngày. Đến năm 2020 lúc đó do dịch bệnh Covid bùng phát nên công việc kinh doanh xe taxi của vợ chồng ông bà bị thua lỗ, phải bán xe đi để trả nợ nhưng vẫn không hết. Sau đó bà L đã tự ý bỏ nhà đi, ông H không thể liên lạc được với bà L từ đó đến nay. Bà L cũng không về nhà thăm nom hay quan tâm gì ông H. Nay bà L yêu cầu ly hôn thì ông H không đồng ý, vì ông cho rằng vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn và cũng đã lớn tuổi, có cháu nội, cháu ngoại rồi nên không muốn ly hôn. Tuy nhiên, ông H không có cách nào để gặp mặt và nói chuyện được với bà L.
Về con chung và tài sản: Ông H không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã tuân thủ đúng và đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Đối với bị đơn là ông Nguyễn Văn H không tuân thủ nghĩa vụ của đương sự trong việc tham gia tố tụng tại Tòa án. Về quan điểm giải quyết vụ án, đề nghị HĐXX áp dụng Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và Gia đình:
- Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà L với ông H.
- Về án phí: Bà L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Nguyễn Thị L khởi kiện yêu cầu giải quyết ly hôn đối với ông Nguyễn Văn H có hộ khẩu thường trú tại thôn Thịnh C, thị trấn P, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện Quế Võ.
Bà L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, còn ông H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ ba nhưng vẫn vắng mặt, nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2] Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị L và ông Nguyễn Văn H kết hôn với nhau từ năm 1992 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Việt Hùng, huyện Quế Võ nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân theo bà L là do ông H thường xuyên uống rượu rồi về đánh đập bà. Còn theo ông H là do làm ăn bị thua lỗ nên bà L đã tự bỏ nhà đi. Hội đồng xét xử thấy rằng, bà L, ông H đã không chung sống với nhau khoảng 02 năm nay, trong thời gian này vợ chồng không còn quan tâm gì tới nhau. Mặc dù ông H không đồng ý ly hôn nhưng cũng không có biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Xét thấy mâu thuẫn giữa bà L và ông H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà L đối với ông H.
[3] Về con chung và tài sản: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.
[4] Về án phí: Bà L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 28, 147, 186, 227, 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:
1. Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị L được ly hôn ông Nguyễn Văn H.
2. Về án phí: Bà L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Xác nhận bà L đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0005209 ngày 20/7/2022 của Chi cục THADS huyện Quế Võ.
Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 25/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 25/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 06/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về