TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 62/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy xét xử sơ thẩm, công khai vụ án thụ lý số 70/2022/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2022 về việc Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2022/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 31/2022/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Y, sinh năm 1986 Nơi ĐKHKTT: tổ dân phố B, thị trấn D, huyện Y, tỉnh Thái Bình.
Chỗ ở hiện nay: thôn Đ, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương.
Bị đơn Anh Tô Văn P, sinh năm 1979 Trú tại: tổ dân phố B, thị trấn D, huyện Y, tỉnh Thái Bình.
(Anh Phong có mặt, chị Yến có đơn xin xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án và đơn xin xét xử vắng mặt, chị Y trình bày: Chị và anh P tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn năm 2017 tại UBND xã H1 (nay thị trấn D), huyện Y, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn anh chị sinh sống và làm ăn tại địa phương, trong quá trình chùng sống, vợ chồng thường xuyên cải vã, anh Phong ghen tuông vô cớ và không chăm lo cho gia đình nên vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Đến tháng 5/2020 chị đã bỏ về nhà ố mẹ đẻ ở HD sinh sống, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay, không ai còn quan tâm đến nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, có chung sống với nhau cũng không có hạnh phúc nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh P.
Về con chung: Chị và anh P có 01 con chung là Tô Văn Đ1, sinh ngày 24/8/2018, hiện con chung đang ở với anh P, chị đề nghị giao con chung cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng, chị có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh P mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con chung thành niên.
Về tài sản chung: Chị xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa, anh P trình bày: Anh và chị Y kết hôn với nhau năm 2017, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn D, sau khi kết hôn vợ chồng sinh sống và làm ăn tại địa phương. Đầu năm 2020 chị Y đã bỏ về nhà ố mẹ đẻ ở HD sinh sống, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay, quan điểm của anh là không đồng ý ly hôn vì gia đình là tế bào của xã hội, tế bào có tốt thì xã hội mới tốt nên việc chị Y đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh là phá hoại hạnh phúc gia đình nên anh không đồng ý ly hôn.
Về con chung: Anh và chị Y có 01 con chung là Tô Văn Đ1, sinh ngày 24/8/2018, hiện con chung đang ở với anh P, anh không đồng ý ly hôn nên cũng không thể hiện quan điểm về ai là người trực tiếp nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy phát iểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử và nghị án đều đúng quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản Điều 51; Điều 56; Điều 81, Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân gia đình xử cho chị Y được ly hôn anh P. Về con chung: Giao con là Tô Văn Đ1, sinh ngày 24/8/2018 cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng, anh P chưa thể hiện quan điểm về việc giải quyết con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung nên tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung của chị Y cho anh P cho đến khi anh P có yêu cầu. Về tài sản chung, nợ chung: Do đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết, chị Y phải chịu án phí sơ thẩm.
Tại đơn xin xét xử vắng mặt, chị Y vẫn giữ nguyên yêu cầu trên, không thay đổi bổ sung gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Bị đơn có mặt tại phiên tòa, Nguyên đơn là chị Y có đơn xin xét xử vắng mặt vì vậy căn cứ Điều 228, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo thủ tục chung.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Việc kết hôn giữa anh P và chị Y là hợp pháp, trong quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nhưng cả hai đều không có iện pháp hàn gắn hạnh phúc gia đình dẫn đến mâu thuẫn trở nên trầm trọng. Anh P không đồng ý ly hôn nhưng anh cũng không có iện pháp hàn gắn tình cảm hạnh phúc gia đình, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2020 đến nay, mỗi người một nơi, không ai còn quan tâm gì đến nhau nữa. Như vậy, có căn cứ xác định vợ chồng chị Y và anh P đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ vợ chồng, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình xử cho chị Y được ly hôn anh Phong.
[3]. Về con chung: Chị Y và anh P có 01 con chung là Tô Văn Đ1, sinh ngày 24/8/2018, từ khi vợ chồng sống ly thân con chung đang ở với anh P, có điều kiện sinh hoạt và chỗ ở ổn định, chị Y đề nghị giao con chung cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng, chị có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh P, vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết giao con chung cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng, buộc chị Y phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh P mỗi tháng 1.000.000 đồng [4]. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Y và anh P xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết.
[5]. Về án phí: Chị Y phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 51, 53, 54, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 28, 35, 39, 147, 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Nghị quyết 326/2016 về Án phí, Lệ phí Toà án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Y được ly hôn anh Tô Văn P.
2. Về con chung: Giao con chung là Tô Văn Đ1, sinh ngày 24/8/2018 cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng, chị Y có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh P mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con chung thành niên, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, chị Y có quyền đi lại thăm nom, giáo dục con chung, không ai được ngăn cản. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con được đặt ra giải quyết khi có yêu cầu.
3. Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết.
4. Về án phí: Chị Y phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con. Chuyển số tiền 300.000 đồng chị Y đã nộp tạm ứng án phí tại iên lai số 0004136 ngày 06/5/2022 tại Chi cục Thi hành án huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình sang thi hành án phí, chị Yến còn phải chịu 300.000 đồng án phí.
5.Về quyền kháng cáo bản án: Anh P có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Y vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày ản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.
Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 62/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 62/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về