Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 61/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 61/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy xét xử sơ thẩm, công khai vụ án thụ lý số 68/2022/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 5 năm 2022 về việc Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2022/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 30/2022/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1999

Bị đơn: Anh Lê Văn A, sinh năm 1998.

Đều trú tại: tổ dân phố B, thị trấn D, huyện Y, tỉnh Thái Bình. (Chị T có đơn xin xử vắng mặt, anh A vắng mặt lần 2)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn và trong quá trình giải quyết vụ án, đơn xin xử vắng mặt, nguyên đơn là chị T trình bày: Chị và anh A tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn năm 2019 tại UBND xã H (nay là thị trấn D), huyện Y, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn anh chị sinh sống và làm ăn tại địa phương, trong quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã nhau, anh A không chịu tu chí làm ăn, không chăm lo gia đình nên phát sinh mâu thuẫn, chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng sống ly thân mỗi người một nơi, không ai quan tâm gì đến nhau nữa, nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, có chung sống với nhau cũng không có hạnh phúc nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh A.

Về con chung: Chị và anh A có 02 con chung là Lê Minh K, sinh ngày 13/6/2019 và Lê Anh T1, sinh ngày 01/6/2021, hiện nay cả hai con chung đang ở với chị, chị đề nghi được trực tiếp nuôi cả hai con chung và không yêu cầu anh A phải cấp dưỡng nuôi con chung cho chị.

Về tài sản chung: Chị và anh A không có tài sản chung, không có nợ chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án anh A không đến làm việc, mẹ đẻ anh A là bà Nguyễn Thu H xác nhận anh Anh và chị T kết hôn năm 2019 đến năm 2020 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn và đã sống ly thân từ đó đến nay. Anh A và chị T có có 02 con chung là Lê Minh K, sinh ngày 13/6/2019 và Lê Anh T1, sinh ngày 01/6/2021, hiện hai cháu đang ở với chị T, về tài sản chung thì các cháu không có và cũng không vay nợ ai. Đề nghị Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật để giải quyết việc ly hôn của các cháu, gia đình đã nhận được các văn bản của Tòa án và thông báo cho cháu A biết nhưng do tính chất của công việc nên cháu A không sắp sếp được thời gian đến Tòa án làm việc, thông qua gia đình, cháu A xác định chị T cương quyết xin ly hôn anh đồng ý và đồng ý giao 02 con chung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng và đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn vắng mặt anh.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Y phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đều đúng quy định của pháp luật, việc bị đơn đã được triệu tập hợp lệ hai lần nhưng vẫn vắng mặt không lý do là vi phạm nghĩa vụ của đương sự theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình xử cho chị T được ly hôn anh A. Về con chung: Giao con chung là Lê Minh K, sinh ngày 13/6/2019 và Lê Anh T1, sinh ngày 01/6/2021 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chị T không yêu cầu anh A phải cấp dưỡng nuôi con chung là sự tự nguyện cần chấp nhận. Về tài sản chung, nợ chung: Do đương sự xác định không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra giải quyết. Chị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Quá trình giải quyết vụ án và đơn xin xử vắng mặt, chị T vẫn giữ nguyên yêu cầu trên, không thay đổi bổ sung gì. Bị đơn là anh A đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn cố tình vắng mặt không đến tham gia phiên tòa nên Hội đồng xét xử căn cứ vào các biên bản xác minh thu thập chứng cứ có trong hồ sơ để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn có đơn xin xử vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt, vì vậy căn cứ Điều 228, Hội đồng xét xử tiếp tục tiến hành xét xử vụ án.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Việc kết hôn giữa chị T và anh A là hợp pháp, quá trình chung sống vợ chồng mới được thời gian ngắn đã bất đồng quan điểm sống và phát sinh nhiều mâu thuẫn nhưng vợ chồng không có biện pháp hàn gắn, chị T và anh A đã sống ly thân mỗi người một nơi, không ai còn quan tâm gì đến nhau. Như vậy xác định mục đích hôn nhân của chị T và anh A không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Chị T xin ly hôn anh A là hoàn toàn có căn cứ, vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình xử cho chị T được ly hôn anh A.

[3]. Về con chung: Chị T và anh A có 02 con chung là Lê Minh K, sinh ngày 13/6/2019 và Lê Anh T1, sinh ngày 01/6/2021, hiện nay cháu K mới trên 03 tuổi, cháu T1 mới trên 01 tuổi và cả hai con chung đang ở với chị T, chị đề nghi được trực tiếp nuôi cả hai con chung và không yêu cầu anh A phải cấp dưỡng nuôi con chung cho chị. Xét đề nghị của chị T về việc trực tiếp nuôi con chung là có căn cứ nên cần thiết giao cả hai con chung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chị T không yêu cầu anh A phải cấp dưỡng nuôi con chung cho chị là sự tự nguyện nên cần chấp nhận.

[4]. Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết.

[5]. Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, Điều 53, Điều 54, khoản 1 Điều 56, các Điều 57, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 28, 35, 39, 147, 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016 về Án phí, Lệ phí Toà án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Lê Văn A.

2. Về con chung: Giao 02 con chung là Lê Minh K, sinh ngày 13/6/2019 và Lê Anh T1, sinh ngày 01/6/2021 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chấp nhận chị T không yêu cầu anh Anh phải cấp dưỡng nuôi con chung cho chị, anh A có quyền đi lại thăm nom, giáo dục con chung, không ai được ngăn cản. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con được đặt ra giải quyết khi có yêu cầu.

3. Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, chuyển số tiền 300.000 đồng chị T đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai số 0004131 ngày 05/5/2022 của Chi cục Thi hành án huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình sang thi hành án phí, chị T đã nộp xong án phí.

5.Về quyền kháng cáo: Chị T và anh A có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

505
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 61/HNGĐ-ST

Số hiệu:61/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về