Bản án về tội môi giới mại dâm số 22/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 22/2023/HS-PT NGÀY 27/02/2023 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 27 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 09/2023/TLPT-HS ngày 17 tháng 01 năm 2023 đối với bị cáo Danh Thị Thúy H; do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án Hình sự sơ thẩm số: 62/2022/HS-ST ngày 13 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Tây Ninh.

Bị cáo kháng cáo: Danh Thị Thúy H, sinh năm 1988, tại tỉnh K; nơi đăng ký HKTT: ấp V, xã P, huyện V1, tỉnh K; chỗ ở hiện nay: ấp N, xã B, huyện D, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Khơ me; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Danh S, đã chết và bà Thị Đ, đã chết; có chồng tên Danh T, sinh năm 1985 (đã ly hôn), con có 01 người sinh năm 2005; tiền án, tiền sự: Không có; bị bắt tạm giam từ ngày 10-7- 2022 cho đến nay; có mặt.

Ni có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Chị Thạch Trương Phương M, sinh năm 1982; cư trú tại: ấp L, xã L1, thị xã H1, tỉnh Tây Ninh;

- Chị Nguyễn Thị Kim D1, sinh năm 1980; cư trú tại: ấp N1, xã B, huyện D, tỉnh Tây Ninh;

- Anh Lê Hồng T1, sinh năm 1987; cư trú tại: ấp N2, xã B, huyện D, tỉnh Tây Ninh;

- Anh Vương Bình Y, sinh năm 1990; cư trú tại: ấp N3, xã B, huyện D, tỉnh Tây Ninh;

Nhng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội D1 vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 11 giờ ngày 10-7-2022, Công an huyện D, tỉnh Tây Ninh tiến hành kiểm tra nhà nghỉ “MC”, thuộc ấp N, xã B, huyện D do chị Nguyễn Thị Cẩm T2 làm chủ. Qua kiểm tra phát hiện tại phòng trọ số 05, Thạch Trương Phương M đang thực hiện hành vi bán dâm cho Lê Hồng T1 và tại phòng trọ số 7, Nguyễn Thị Kim D1 đang thực hiện hành vi bán dâm cho Vương Bình Y. Qua đó xác định, Danh Thị Thúy H là chủ quán cà phê “Như Ý” thuộc ấp N, xã B, huyện D là người môi giới cho D1 và M bán dâm cho T1 và Y tại nhà nghỉ “MC” ngày 10-7-2022.

Quá trình điều tra H khai nhận, từ đầu tháng 7-2022, bị cáo bắt đầu bán quán cà phê và hoạt động môi giới mại dâm để thu lợi. Khi khách đến uống nước, nếu có nhu cầu mua dâm thì liên hệ với bị cáo để bị cáo trực tiếp hoặc gọi điện thoại liện hệ với gái bán dâm cho khách và sẽ được khách trả tiền công điện thoại hoặc giới thiệu gái bán dâm với số tiền từ 50.000 đồng trở lên; cụ thể: Vào khoảng 10 giờ ngày 10- 7-2022, Lê Hồng T1 và Vương Bình Y, đến quán cà phê “Như Ý” của bị cáo để uống nước. Tại đây, T1 và Y kêu 02 chai sữa đậu nành và yêu cầu 02 gái bán dâm thì bị cáo đồng ý. Sau đó, bị cáo liên lạc bằng mạng Zalo tài khoản “âm thầm bên anh” đăng ký bằng số điện thoại 0989.134.843 gọi qua mạng Zalo có tên “Chị D1 887” gặp Nguyễn Thị Kim D1 để nói D1 và Thạch Trương Phương M đến quán cà phê “Như Ý” bán dâm cho 02 khách nam thì D1, M đồng ý. Khi D1 và M đến quán cà phê “Như Ý” thỏa thuận giá bán dâm là 500.000 đồng/lần, thì T1 và Y đồng ý. Khi thỏa thuận xong, T1 và Y trả cho bị cáo 40.000 đồng tiền nước uống và 100.000 đồng tiền công giới thiệu gọi điện thoại cho gái bán dâm. Sau đó, D1 đi cùng với Y đến phòng trọ số 07; M đi cùng với T1 đến phòng trọ số 05 nhà nghỉ “MC” để mua bán dâm, thì bị lực lượng công an kiểm tra, phát hiện.

Ngoài ra, bị cáo còn khai nhận: Khoảng 13 giờ ngày 07-7-2022, bị cáo sử dụng mạng Zalo tài khoản “âm thầm bên anh” gọi cho Thạch Trương Phương M đến quán cà phê “Như Ý” để bán dâm cho người đàn ông khoảng 35 tuổi, không rõ họ tên, địa chỉ. Sau khi thỏa thuận xong, M trả tiền nước uống 40.000 đồng cho bị cáo và đến nhà nghỉ để mua bán dâm.

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng vụ án: 01 (một) bì thư niêm phong có dấu đỏ của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và dấu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện D, bên trong có 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng) tiền Việt Nam;

01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Huawei, màu xanh, số IMEI 1: 867907038311211, số IMEI 2: 867907038341226, đã qua sử dụng.

Đối với hành vi mua dâm của Vương Bình Y và Lê Hồng T1 đã vi phạm quy định tại khoản 1, Điều 24 Nghị định số: 144/2021/NĐ-CP; hành vi bán dâm của Thạch Trương Phương M và Nguyễn Thị Kim D1 đã vi phạm quy định tại khoản 1, Điều 25 Nghị định số: 144/2021/NĐ-CP ngày 31-12-2021 của Chính phủ, Công an huyện D đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Y và T1 mỗi người 1.500.000 đồng; xử phạt đối với M và D1 mỗi người 400.000 đồng là có căn cứ.

Đối với hành vi lợi dụng kinh doanh của chủ nhà nghỉ “MC” Nguyễn Thị Cẩm T2 để hoạt động mua bán dâm đã vi phạm quy định tại khoản 2, Điều 27 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP ngày 31-12-2021 của Chính phủ, Công an huyện D, tỉnh Tây Ninh xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số: 62/2022/HS-ST, ngày 13 tháng 12 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện D , đã quyết định:

Căn cứ các điểm d, đ khoản 2, Điều 328; các điểm s, r khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

TuY bố bị cáo Danh Thị Thúy H phạm tội “Môi giới mại dâm”.

Xử phạt bị cáo Danh Thị Thúy H 03 (ba) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10-7-2022.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuY về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 21-12-2022, bị cáo H làm đơn kháng cáo cho rằng, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức án 03 nằm tù, bị cáo đề nghị cấp phúc thẩm xem xét lại án phạt đối với bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, vì cho rằng cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 03 năm tù là nặng, đề nghị cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh phát biểu quan điểm về vụ án:

- Về tố tụng: Xét các hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng của cấp sơ thẩm, phúc thẩm thực hiện đúng với trình tự tố tụng theo quy định của pháp luật và hợp pháp.

- Về nội D1: Bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo Danh Thị Thúy H 03 năm tù về tội “Môi giới mại dâm” là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để lo cho con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội D1 vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Danh Thị Thúy H khai trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án tại cấp sơ thẩm, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng của cấp sơ thẩm. Do đó, hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng của cấp sơ thẩm là hợp pháp, đúng pháp luật.

[1.2] Bị cáo kháng cáo trong thời hạn luật định phù hợp tại Điều 331, 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về nội dung: Ngày 07-7-2022, tại quán cà phê “Như Ý”, thuộc ấp N, xã B, huyện D, tỉnh Tây Ninh, bị cáo Danh Thị Thúy H đã môi giới cho một đôi nam nữ mua, bán dâm; đến ngày 10-7-2022, bị cáo tiếp tục môi giới cho 02 đôi nam nữ mua, bán dâm tại nhà nghỉ “MC” để thu lợi bất chính số tiền 100.000 đồng thì bị phát hiện. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận khi khách đến quán uống nước có nhu cầu, thì bị cáo liên lạc cho gái bán dâm đến quán cà phê “Như Ý” để thỏa thuận bán dâm cho khách, do đó cấp sơ thẩm xét xử bị cáo phạm tội “Môi giới mại dâm” theo quy định tại điểm d, đ khoản 2 Điều 328 của Bộ luật Hình sự, là có căn cứ.

[3] Vụ án có tính chất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương nên cần có mức án tương xứng. Xét bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, thấy rằng: Cấp sơ thẩm khi xét xử đã xem xét cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện khai ra hành vi phạm tội trước đó theo quy định tại điểm s, r khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức án 03 năm tù là phù hợp, không nặng; tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt, nhưng không cung cấp được chứng cứ gì mới cho yêu cầu kháng cáo của mình, nên không có cơ sở để xem xét.

[4] Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[5] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận, nên bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Danh Thị Thúy H.

Giữ nguyên Bản án Hình sự sơ thẩm số: 62/2022/HS-ST, ngày 13 tháng 12 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện D , tỉnh Tây Ninh.

1. Căn cứ điểm d, đ khoản 2 Điều 328; điểm s, r khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Xử phạt bị cáo Danh Thị Thúy H 03 (ba) năm tù, về tội “Môi giới mại dâm”.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10-7-2022.

2. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Danh Thị Thúy H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

339
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội môi giới mại dâm số 22/2023/HS-PT

Số hiệu:22/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về