Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 110/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 110/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/08/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 08 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 261/2022/TLST-HNGĐ ngày 06/5/2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 188/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 04/7/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 174/2022/QĐST-HNGĐ ngày 27/7/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1988 Địa chỉ: ấp S, xã V, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: anh Nguyễn Quốc T, sinh năm 1985 Địa chỉ: ấp T, thị trấn Ó, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.

Nguyên đơn chị N có mặt. Bị đơn anh T vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện chị Nguyễn Thị N trình bày:

Chị với anh Nguyễn Quốc T chung sống với nhau từ năm 2005, không tổ chức đám cưới cũng không đăng ký kết hôn. Cuộc sống vợ chồng sau khi sống chung chỉ hạnh phúc thời gian đầu, sau này thì phát sinh nhiều mâu thuẫn nguyên nhân do anh Thá chơi cờ bạc, đá gà dẫn đến vợ chồng thường xuyên cự cãi nhau, nhiều lúc anh T đánh đập và cầm dao đòi giết chị. Nhận thấy không thể tiếp tục sống chung nên chị đã quyết định sống ly thân từ năm 2019 cho dến nay. Hiện nay tình cảm không còn, không muốn hàn gắn lại nên chị N yêu cầu giải quyết như sau:

+ Về quan hệ hôn nhân: chị Nguyễn Thị N xin được ly hôn với anh Nguyễn Quốc T.

+ Về quan hệ con chung: có hai con chung tên Nguyễn Thanh T sinh ngày 12/12/2008 và Nguyễn Quốc K sinh ngày 24/11/2015 hiện nay đang sống với anh T. Sau ly hôn chị N đồng ý để anh T tiếp tục nuôi con, không cấp dưỡng.

+ Về tài sản chung và nợ chung: không có.

- Bị đơn anh Nguyễn Quốc T: Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật cho anh T nhưng từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến nay anh T vắng mặt và không có văn bản nào thể hiện ý kiến đối với yêu cầu của chị N.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

+ Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong thời hạn chuẩn bị xét xử:

Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến thời điểm hiện tại, nhận thấy Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 như: Xác định đúng quan hệ tranh chấp, thụ lý và giải quyết theo quy định tại Điều 28 và Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Quá trình thụ lý Thẩm phán đã thực hiện đầy đủ khi tiến hành lập hồ sơ vụ án, thu thập chứng cứ, lấy lời khai của đương sự, tống đạt và niêm yết hợp lệ các thông báo và quyết định, thời hạn chuẩn bị xét xử đúng theo quy định của pháp luật.

+ Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa:

Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về xét xử sơ thẩm vụ án.

+ Về chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.

Bị đơn vắng mặt không có lý do tại phiên tòa nên đã tự từ bỏ quyền của mình.

+ Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 8, 9, 14, 53, 81, 82, 83, và 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, tuyên:

Về hôn nhân: không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Quốc T.

Về con chung: giao con chung Nguyễn Thanh T và Nguyễn Quốc K cho anh T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị N không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: không xem xét.

Chị N yêu cầu ly hôn nên phải nộp án phí hôn nhân sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về ly hôn. Bị đơn anh Nguyễn Quốc T có đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp T, thị trấn Ó, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn.

[1.2] Bị đơn anh Nguyễn Quốc T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh T.

[2] Về nội dung tranh chấp:

[2.1] Chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Quốc T chung sống với nhau từ năm 2005 nhưng đến nay vẫn chưa đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Theo chị N, sau khi sống chung vợ chồng sống hạnh phúc, đến năm 2019 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh T thường xuyên bài bạc gây ra nợ nần, ngoài ra anh T thường xuyên đánh đập vợ dẫn đến chị quyết định sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay. Do thời gian ly thân đã lâu, không thể hàn gắn lại được nên chị N xin được ly hôn với anh T Tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của luật này và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý”. Tại khoản 2 Điều 53 cũng quy định: “Trong trường hợp không có đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này”. Như vậy, mặc dù chị N và anh T đã chung sống với nhau một thời gian dài và đã có con chung nhưng về mặt pháp luật không thừa nhận quan hệ giữa anh, chị là vợ chồng nên việc chị N yêu cầu ly hôn với anh T là không phù hợp mà cần tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Quốc T.

[2.2] Về quan hệ con chung: Qua chứng cứ chị N cung cấp thì chị N và anh T có hai con chung tên Nguyễn Thanh T sinh ngày 12/12/2008 và Nguyễn Quốc K sinh ngày 24/11/2015, từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay anh T là người trực tiếp nuôi con, chị N cũng không có nguyện vọng được nuôi con chung. Tại biên bản lấy lời khai ngày 21/6/2022, mong muốn của cháu Thanh T là được tiếp tục sống với ba sau khi ba mẹ ly hôn. Xét thấy, để đảm bảo ổn định cuộc sống cho cháu, căn cứ vào điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 giao cháu Thanh T và Quốc K cho anh T được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Chị N không phải cấp dưỡng nuôi con do anh T không yêu cầu.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: không có.

[3] Từ những phân tích trên, yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn là chưa phù hợp với quy định của pháp luật, các yêu cầu khác được chấp nhận. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn là phù hợp.

[3] Về án phí: chị N là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Đi ều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: khoản 1 điều 28, điều 35, điều 39, khoản 4 điều 147, khoản 1 điều 227 và khoản 1 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 điều 9, điều 14, khoản 2 điều 53, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và khoản 1 điều 88 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Quốc T.

- Về quan hệ con chung: giao con chung Nguyễn Thanh T sinh ngày 12/12/2008 và Nguyễn Quốc K sinh ngày 24/11/2015 cho anh T được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Chị N không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh T phải tạo điều kiện cho chị N được quyền đến thăm nom, chăm sóc con, không ai được ngăn cản.

Vì lợi ích của con, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con hay việc cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: ghi nhận không có. Tuy nhiên sau khi bản án này có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Quốc T phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

2. Về án phí: chị Nguyễn Thị N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009171 ngày 06/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang nên đã nộp xong.

Chị Nguyễn Thị N được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Quốc T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã (thị trấn) nơi cư trú để yêu cầu xem xét phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 110/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:110/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về