Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 38/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 38/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 13 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 130/2022/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 5 năm 2022 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 80/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 09 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 74/2022/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Hà Huỳnh P; Sinh năm: 1976; (Có mặt) Địa chỉ: đường Q, khóm C, phường M, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

- Bị đơn: Ông Huỳnh Hữu N; Sinh năm: 1975; (Vắng mặt) Địa chỉ: đường Q, khóm C, phường M, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện lập ngày 25 tháng 4 năm 2022, bản tự khai ngày 27 tháng 5 năm 2022 và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Hà Huỳnh P trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Hà Huỳnh P và ông Huỳnh Hữu N chung sống với nhau vào năm 1998 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường m thị xã nay là thành phố S, tỉnh Sóc Trăng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 33; đăng ký ngày 29/7/1998. Sau khi kết hôn, ông bà chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, không thể hàn gắn được. Nguyên nhân do khác biệt về cách sống dẫn đến thiếu hiểu và thông cảm cho nhau nên vợ chồng thường xuyên cải vã, không thể hàn gắn được. Từ khi xảy ra mâu thuẫn cho đến nay, bà Hà Huỳnh P không có gửi đơn yêu cầu địa phương hòa giải cũng như không có nộp đơn yêu cầu Tòa án nào giải quyết.

Nay bà Hà Huỳnh P, nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài nên bà Hà Huỳnh P yêu cầu ly hôn với ông Huỳnh Hữu N.

Về con chung: Bà Hà Huỳnh P trình bày, trong thời gian chung sống bà Hà Huỳnh P và ông Huỳnh Hữu N có 02 người con chung tên Huỳnh Đăng K, nam, sinh ngày 14/10/2000 và Huỳnh Ngọc H, nữ, sinh ngày: 15/6/2011. Hiện đang sống cùng với vợ chồng ông bà tại đường Q, khóm C, phường M, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. Bà Hà Huỳnh P yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Huỳnh Ngọc H, nữ, sinh ngày: 15/6/2011 đến khi đủ 18 tuổi. Hiện nay bà Hà Huỳnh P đang kinh doanh nhà trọ thu nhập ổn định, ngoài ra bà cũng có nguồn thu khác đủ để đảm bảo cho cuộc sống của bà và con sau khi ly hôn do đó, bà Hà Huỳnh P không yêu cầu ông Huỳnh Hữu N cấp dưỡng nuôi con chung tên Huỳnh Ngọc H.

Đối với con chung tên Huỳnh Đăng K, nam, sinh ngày 14/10/2000 đã trưởng thành nên bà Hà Huỳnh P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Bà Hà Huỳnh P trình bày, bà và ông Huỳnh Hữu N tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bà Hà Huỳnh P trình bày, bà và ông Huỳnh Hữu N không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đối với bị đơn ông Huỳnh Hữu N, sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã cấp, tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Các giấy triệu tập; Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ nhưng ông Huỳnh Hữu N không có ý kiến bằng văn bản gửi cho Tòa án, cũng không giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.

- Tại biên bản ghi nhận ý kiến của cháu Huỳnh Ngọc H ngày 27/5/2022, cháu Hân trình bày: Cháu là con ruột của bà Hà Huỳnh P và ông Huỳnh Hữu N; theo cháu Hân, cháu đang học lớp 5, trường Tiểu học Phú Lợi, Phường 2, thành phố Sóc Trăng. Hiện nay, cha mẹ cháu vẫn sống chung nhà với nhau, bình thường cha cháu là ông Huỳnh Hữu N chở cháu đi học. Nay cha mẹ cháu ly hôn thì cháu Hân có nguyện vọng được sống cùng với mẹ là bà Hà Huỳnh P, cháu Hân không có ý kiến cũng như yêu cầu về việc cha cháu là Huỳnh Hữu N phải cấp dưỡng nuôi cháu.

- Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm:

Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã tiến hành các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự như: Xác định đúng thẩm quyền thụ lý vụ án, quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của các đương sự, việc thu thập chứng cứ đúng theo quy định. Về thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu, việc cấp tống đạt đảm bảo đúng theo quy định. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm. Nguyên đơn bà Hà Huỳnh P thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và bị đơn ông Huỳnh Hữu N không thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà Hà Huỳnh P được ly hôn với ông Huỳnh Hữu N; Về con chung giao cháu Huỳnh Ngọc H cho bà Hà Huỳnh P trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi. Do bà Hà Huỳnh P không yêu cầu ông Huỳnh Hữu N cấp dưỡng nuôi cháu Hân nên đề nghị không xem xét. Đối với con chung tên Huỳnh Đăng K, nam, sinh ngày 14/10/2000 đã trưởng thành, bà Hà Huỳnh P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị không xem xét. Về tài sản chung do bà Hà Huỳnh P trình bày tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết đề nghị không xem xét. Về nợ chung, do bà Hà Huỳnh P trình bày không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1]. Nguyên đơn bà Hà Huỳnh P khởi kiện về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con với bị đơn ông Huỳnh Hữu N; địa chỉ đường Q, khóm C, phường M, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.

[2]. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn ông Huỳnh Hữu N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

Về nội dung vụ án:

[3]. Xét yêu cầu ly hôn của bà Hà Huỳnh P, Hội đồng xét xử thấy:

Bà Hà Huỳnh P và ông Huỳnh Hữu N chung sống với nhau và đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyện theo Giấy chứng nhận kết hôn số 33, đăng ký ngày 29 tháng 7 năm 1998 tại Ủy ban nhân dân phường M, thị xã nay là thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. Tại thời điểm kết hôn thì bà Hà Huỳnh P và ông Huỳnh Hữu N đủ điều kiện kết hôn và thực hiện việc đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền nên quan hệ hôn nhân giữa ông, bà được pháp luật công nhận.

Sau khi kết hôn, bà P và ông N chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Bà P cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn là do khác biệt về cách sống dẫn đến thiếu hiểu và thông cảm cho nhau nên vợ chồng thường xuyên cải vã, không thể hàn gắn được. Tòa án đã ra thông báo về phiên hòa giải cho vợ chồng trở về đoàn tụ 02 (hai) lần nhưng ông N vắng mặt nên không tiến hành hòa giải được. Theo quy định tại khoản 1 Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:“Vợ chồng có N vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình” và khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:“Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, N vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

Như vậy, theo quy định trên thì bà P và ông N đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, bà Hà Huỳnh P yêu cầu được ly hôn với ông Huỳnh Hữu N là có căn cứ, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Về nuôi con chung: bà Hà Huỳnh P trình bày, trong thời gian bà và ông N chung sống có với nhau 02 người con chung tên Huỳnh Đăng K, nam, sinh ngày 14/10/2000 và Huỳnh Ngọc H, nữ, sinh ngày: 15/6/2011. Hiện đang sống cùng với vợ chồng ông bà tại đường Q, khóm C, phường M, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. Bà Hà Huỳnh P yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Huỳnh Ngọc H đến khi đủ 18 tuổi. Đối với con chung tên Huỳnh Đăng K, nam, sinh ngày 14/10/2000 đã trưởng thành nên bà Hà Huỳnh P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

Hội đồng xét xử xét thấy, cháu Huỳnh Ngọc H là nữ nên cần được sự quan tâm, chăm sóc của người mẹ để đảm bảo cho sự phát triển tâm sinh lý của cháu. Đồng thời, tại biên bản ghi nhận ý kiến của cháu Huỳnh Ngọc H ngày 27/5/2022, cháu Hân có nguyện vọng được sống cùng với bà Hà Huỳnh P. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Hà Huỳnh P, giao cháu Huỳnh Ngọc H cho bà Hà Huỳnh P trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi.

Ngoài ra, tại khoản 1 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có N vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi” và khoản 3 Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, N vụ thăm nom con mà không ai được cản trở”. Do đó, ông Huỳnh Hữu N có quyền, N vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Đối với con chung tên Huỳnh Đăng K, nam, sinh ngày 14/10/2000 đã trưởng thành nên bà Hà Huỳnh P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[5]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Hội đồng xét xử xét thấy, tại khoản 2 Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:“Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có N vụ cấp dưỡng cho con”. Theo quy định này thì ông Huỳnh Hữu N có N vụ cấp dưỡng nuôi cháu Hân. Tuy nhiên, do Bà Hà Huỳnh P trình bày, bà đủ điều kiện để nuôi con, không yêu cầu ông Huỳnh Hữu N phải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về tài sản chung: Bà Hà Huỳnh P trình bày, bà và ông Huỳnh Hữu N tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về nợ chung: Bà Hà Huỳnh P trình bày, bà và ông Huỳnh Hữu N không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8]. Như đã phân tích trên, đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9]. Về án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn: Nguyên đơn bà Hà Huỳnh P phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, theo quy định tại Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[10]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228, Điều 271, Điều 273 và Khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Điểm a Khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hà Huỳnh P.

- Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Hà Huỳnh P và ông Huỳnh Hữu N - Về nuôi con chung: Giao con chung tên Huỳnh Ngọc H, nữ, sinh ngày:

15/6/2011 cho bà Hà Huỳnh P trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do bà Hà Huỳnh P không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Ông Huỳnh Hữu N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Đối với con chung tên Huỳnh Đăng K, nam, sinh ngày 14/10/2000 đã trưởng thành, bà Hà Huỳnh P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về tài sản chung: Bà Hà Huỳnh P trình bày, bà và ông Huỳnh Hữu N tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về nợ chung: Bà Hà Huỳnh P trình bày, bà và ông Huỳnh Hữu N không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn: Bà Hà Huỳnh P phải chịu án phí sơ thẩm số tiền là 300.000 đồng (bằng chữ: Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng, theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0000454, ngày 25 tháng 4 năm 2022 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Bà Hà Huỳnh P đã nộp xong án phí sơ thẩm.

3. Nguyên đơn bà Hà Huỳnh P có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, bị đơn ông Huỳnh Hữu N không có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

121
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 38/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:38/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về