Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 02/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO THẮNG - TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 02/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/02/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 17 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 201/2021/TLST- HNGĐ ngày 21/10/2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 10/01/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2022/QĐST-HNGĐ ngày 19/01/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Đỗ Quang T, sinh năm 1982 Địa chỉ: Tổ dân phố K, thị trấn H, huyện H, tỉnh Thái Bình.Có mặt.

Bị đơn: Chị Đặng Thị T, sinh năm 1986 Địa chỉ: Thôn N, xã X, huyện B, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt lần 2 không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện nhận ngày 19/10/2021, bản tự khai ngày 21/10/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án thì anh Đỗ Quang T và chị Đặng Thị T tự nguyện về chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2008, đến ngày 07/5/2012 anh chị đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện B, tỉnh Lào Cai, giấy chứng nhận kết hôn số 56/2012 quyển số 01/2012. Sau kết hôn anh chị chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính do tính tình không hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau. Khi mâu thuẫn xảy ra anh chị đã nhiều lần nói chuyện với nhau để tìm cách khắc phục mâu thuẫn, nhưng không khắc phục được, mà mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn, do không khắc phục được mâu thuẫn anh chị đã tự sống ly thân từ giữa năm 2019, trong thời gian sống ly thân hai bên không còn quan tâm thăm hỏi đến nhau. Hiện nay chị T đã cắt chuyển hộ khẩu về xã X, huyện B, tỉnh Lào Cai và đang ở cùng mẹ đẻ tại Thôn N, xã X, huyện B, tỉnh Lào Cai. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Đặng Thị T.

Đối với bị đơn chị Đặng Thị T tại bản tự khai ngày 22/10/2021 chị xác nhận đúng là chị và anh Đỗ Quang T tự nguyện về chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2008, đến ngày 07/5/2012 anh chị đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện B, tỉnh Lào Cai. Sau kết hôn anh chị chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến tháng 02 năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình không hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau. Khi mâu thuẫn xảy ra anh chị đã nhiều lần nói chuyện với nhau để tìm cách khắc phục mâu thuẫn, nhưng không có kết quả, anh T còn đánh chị nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn, do mâu thuẫn trầm trọng nên anh chị đã tự sống ly thân từ tháng 9/2019 và không còn quan tâm thăm hỏi đến nhau. Trong thời gian sống ly thân chị đã cắt chuyển hộ khẩu về xã X, huyện B, tỉnh Lào Cai sinh sống. Nay anh Đỗ Quang T khởi kiện xin ly hôn chị, chị nhất trí đề nghị Tòa án giải quyết cho vợ chồng chị được ly hôn.

Về con chung: Anh Đỗ Quang T và chị Đặng Thị T đều xác nhận trong thời gian chung sống vợ chồng anh chị có 02 người con chung cháu Đỗ Thị H, sinh ngày 24/8/2009 và cháu Đỗ Thị Trà M, sinh ngày 10/6/2014, cả 02 cháu đều khỏe mạnh phát triển bình thường, hiện các cháu đang ở cùng anh Đỗ Quang T. Khi ly hôn anh chị đều có nguyện vọng để anh Đỗ Quang T trực tiếp nuôi dưỡng cả 2 cháu, chị Đặng Thị T không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản chung và công nợ chung: Anh Đỗ Quang T và chị Đặng Thị T đều xác nhận trong thời gian chung sống vợ chồng anh chị không có tài sản chung, không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nợ, khi ly hôn anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản về việc lấy ý kiến của con chưa thành niên ngày 12/11/2021 cháu Đỗ Thị H và cháu Đỗ Thị Trà M đều có nguyện vọng được bố đẻ là anh Đỗ Quang T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Về việc cung cấp tài liệu chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án, Nguyên đơn đã cung cấp đầy đủ các tài liệu chứng cứ về nhân thân, địa chỉ thường trú, chứng cứ chứng minh về việc có đăng ký kết hôn và có con chung, chứng cứ chứng minh về mâu thuẫn gia đình, thu nhập cá nhân. Bị đơn không cung cấp tài liệu chứng cứ gì.

Đối với vụ án này Toà án không tiến hành hoà giải được về quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng chăm sóc con chung. Vì bị đơn chị Đặng Thị T đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt không có lý do nên Toà án đã tiến hành lập biên bản về việc chị T vắng mặt để giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật Tố tụng: Anh Đỗ Quang T có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai giải quyết “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” với chị Đặng Thị T (địa chỉ: Thôn N, xã X, huyện B, tỉnh Lào Cai). Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa anh Đỗ Quang T và chị Đặng Thị T là hợp pháp. Quá trình chung sống anh chị phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân chính do tính tình không hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau, do không khắc phục được mâu thuẫn nên anh chị đã sống ly thân từ năm 2019, anh Đỗ Quang T đã cung cấp chứng cứ chứng minh mâu thuẫn gia đình theo lời trình bày của anh là đúng sự thật, tại phiên toà anh Đỗ Quang T vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn chị Đặng Thị T. Đối với chị Đặng Thị T vắng mặt tại phiên toà, tại bản tự khai ngày 22/10/2021 chị cũng thừa nhận trong thời gian chung sống anh chị phát sinh mâu thuẫn và vợ chồng chị đã sống ly thân từ năm 2019, hiện nay chị đã cắt chuyển hộ khẩu và về sinh sống với mẹ đẻ ở Thôn N, xã X, huyện B, tỉnh Lào Cai. Anh Đỗ Quang T khởi kiện xin ly hôn chị, chị nhất trí vì tình cảm không còn, tuy nhiên chị vắng mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và Hoà giải. Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ có đủ cơ sở khẳng định tình trạng hôn nhân của anh Đỗ Quang T và chị Đặng Thị T đã đến mức trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được, anh chị sống ly thân đã lâu và không còn quan tâm thăm hỏi đến nhau, nên Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho anh Đỗ Quang T ly hôn chị Đặng Thị T.

[3]. Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng anh chị có 02 người con chung cháu Đỗ Thị H, sinh ngày 24/8/2009 và cháu Đỗ Thị Trà M, sinh ngày 10/6/2014, cả 02 cháu đều khỏe mạnh và phát triển bình thường, hiện các cháu đang ở cùng anh Đỗ Quang T. Khi ly hôn anh chị đều có nguyện vọng để anh Đỗ Quang T trực tiếp nuôi dưỡng cả 2 cháu, chị Đặng Thị T không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Hội đồng xét xử xét thấy cháu Đỗ Thị H và cháu Đỗ Thị Trà M hiện đang ở cùng anh Đỗ Quang T. Trong quá trình giải quyết vụ án anh Đỗ Quang T đã cung cấp cho Tòa án chứng cứ chứng minh công việc hiện nay của anh là lao động tự do, mức thu nhập bình quân từ 7.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng/tháng; Chị Đặng Thị T không cung cấp chứng cứ chứng minh về công việc và thu nhập chị xác nhận hiện đang sống cùng mẹ đẻ, không có việc làm ổn định. Để đảm bảo cuộc sống ổn định của cháu Đỗ Thị H và cháu Đỗ Thị Trà M, xuất phát từ lợi ích mọi mặt của các cháu và nguyện vọng của các cháu. Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu Đỗ Thị H và cháu Đỗ Thị Trà M cho anh Đỗ Quang T tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con chung, anh Đỗ Quang T không yêu cầu về nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[4]. Về tài sản chung và công nợ chung: Trong thời gian chung sống anh Đỗ Quang T và chị Đặng Thị T không có tài sản chung, không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nợ nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[5] Về án phí: Anh Đỗ Quang T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu phí, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xử cho anh Đỗ Quang T ly hôn chị Đặng Thị T 2.Về con chung: Xử giao cháu Đỗ Thị H, sinh ngày 24/8/2009 và cháu Đỗ Thị Trà M, sinh ngày 10/6/2014 cho anh Đỗ Quang T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Chị Đặng Thị T không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Sau khi ly hôn chị Đặng Thị T có quyền, nghĩa vụ thăm nom chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Anh Đỗ Quang T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí anh đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai theo biên lai số 0002718 ngày 21/10/2021.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

323
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 02/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:02/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Thắng - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về