Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 150/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 150/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/08/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 16 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 153/2022/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 5 năm 2022, về việc: "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 202/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 7 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 129/2022/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 7 năm 2022, giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị Ng, sinh năm 1988.

ĐKHKTT: KDC Quảng T, phường P, thị xã M, tỉnh Hải Dương.

Chỗ ở hiện nay: Số nhà 91, thôn 5, xã Q, huyện H, tỉnh Quảng Ninh.

2. Bị đơn: Anh Lê Văn Tr, sinh năm 1989.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: KDC Quảng T, phường P, thị xã M, tỉnh Hải Dương. Nơi cư trú hiện nay: Liên bang Nga.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Thân Thị Đ, sinh năm 1960. Địa chỉ: KDC Quảng T, phường P, thị xã M, tỉnh Hải Dương.

(Chị Ng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; anh Tr và bà Đ có quan điểm đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Đỗ Thị Ng trình bày: Chị và anh Lê Văn Tr được tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện M (nay là phường T, thị xã M), tỉnh Hải Dương vào ngày 25/4/2011. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh Tr chơi bời, cờ bạc, nhiều lần chị bắt gặp và khuyên bảo thì anh lại chửi mắng, xúc phạm chị. Năm 2013 anh Tr đi lao động tại Liên bang Nga, đến năm 2015 chị cũng sang làm ăn tại Liên bang Nga cùng anh mục đích là để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tuy nhiên, trong thời gian sống cùng anh Tr vẫn chơi bời, vợ chồng lại tiếp tục xảy ra mâu thuẫn, cãi vã nên năm 2017 chị trở về Việt Nam sinh sống, còn anh vẫn ở lại Liêng bang Nga làm ăn. Vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Lê Văn Tr.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Lê Minh Kh, sinh ngày 03/4/2012 và Lê Tuấn K, sinh ngày 14/4/2017, hiện các con đang ở với chị. Ly hôn chị đề nghị được nuôi dưỡng con chung Lê Tuấn K và nhất trí giao con Lê Minh Kh cho anh Tr chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi các con thành niên, không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Trong thời gian anh Tr không có mặt tại Việt Nam chị nhất trí giao con Lê Minh Khôi cho bà nội là Thân Thị Đ nuôi dưỡng.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị xác định vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do chị Ng không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh Tr nên Tòa án đã tiến hành xác minh tại gia đình anh Tr. Bà Thân Thị Đ - mẹ đẻ anh Tr trình bày: Bà không biết địa chỉ cụ thể của anh Tr ở nước ngoài nên không thể cung cấp cho Tòa án. Tuy nhiên anh Tr vẫn thường xuyên liên lạc với gia đình qua điện thoại. Bà đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho anh Tr biết. Thông qua gia đình anh Tr có quan điểm xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị Ng có đơn xin ly hôn, anh nhất trí. Anh xác định vợ chồng có hai con chung như chị Ng trình bày là đúng. Anh nhất trí để chị Ng nuôi dưỡng con chung Lê Tuấn K và anh có nguyện vọng nuôi dưỡng con chung Lê Minh Kh cho đến khi con thành niên, không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Trong thời gian anh không có mặt tại Việt Nam, anh ủy quyền cho bà Đ thay anh chăm sóc con Lê Minh Kh. Về tài sản chung, nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh Tr đề nghị được vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

Cháu Lê Minh Kh có nguyện vọng được ở với bố và bà nội. Bà Đạo có quan điểm đồng ý nhận sự ủy quyền của anh Tr.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về đường lối quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn giữa chị Ng và anh Tr đã trầm Tr, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Đỗ Thị Ng ly hôn anh Lê Văn Tr. Về con chung: Giao con chung Lê Tuấn K cho chị Ng nuôi dưỡng, giao con chung Lê Minh Kh cho anh Tr nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Tạm giao con chung Lê Minh Khôi cho bà Đ chăm sóc cho đến khi anh Tr về nước. Chị Ng phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Đỗ Thị Ng sinh sống tại Việt Nam, bị đơn anh Lê Văn Tr có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh tại KDC Quảng T, phường T, thị xã M, tỉnh Hải Dương, hiện anh Tr đang lao động tại Liên bang Nga. Do vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.

Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Ng không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh Tr tại Liên bang Nga. Theo hướng dẫn tại công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã hai lần yêu cầu gia đình anh Tr cung cấp địa chỉ, nhưng gia đình không cung cấp được. Do vậy, áp dụng công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án tiến hành giao các văn bản tố tụng cho bà Đ - mẹ đẻ anh Tr, đồng thời niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật.

Quá trình giải quyết vụ án chị Ng có quan điểm đề nghị được xét xử vắng mặt, thông qua gia đình anh Tr, bà Đ cũng có quan điểm đề nghị được vắng mặt. Do vậy, căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Ng, anh Tr và bà Đ theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị Ng và anh Lê Văn Tr kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện M (nay là phường T, thị xã M), tỉnh Hải Dương vào ngày 25/4/2011, do vậy hôn nhân của anh, chị là hợp pháp. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh Tr chời bời cờ bạc, chị khuyên bảo thì anh chửi bới, xúc phạm chị. Năm 2013 anh đi lao động tại Liên bang Nga, năm 2015 chị cũng sang làm ăn cùng anh để hàn gắn tình cảm vợ chồng, nhưng mâu thuẫn vẫn cứ tiếp diễn nên năm 2017 chị về nước. Vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay không quan tâm đến nhau. Nay chị Ng xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Tr. Thông qua gia đình anh Tr cũng xác định vợ chồng không còn tình cảm và nhất trí ly hôn. Hội đồng xét xử thấy, mâu thuẫn giữa chị Ng và anh Tr đã trầm Tr, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, có căn cứ chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Ng.

[2.2] Về quan hệ con chung: Vợ chồng có 02 chung là Lê Minh Kh, sinh ngày 03/4/2012 và Lê Tuấn K, sinh ngày 14/4/2017, hiện các con đang ở với chị Ng. Chị Ng, anh Tr thống nhất: chị Ng nuôi dưỡng con chung Lê Tuấn K, anh Tr nuôi dưỡng con chung Lê Minh Kh cho đến khi các con thành niên, không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Con chung Lê Minh Kh có nguyện vọng được ở với anh Tr. Anh Tr ủy quyền cho bà Đ chăm sóc con chung Lê Minh Kh cho đến khi anh về nước. Hội đồng xét xử thấy, thỏa thuận của anh chị phù hợp với thực tế và phù hợp với quy định của pháp luật, do vậy cần chấp nhận. Tạm giao con Lê Minh Kh cho bà Đ nuôi dưỡng trong thời gian anh Tr không có mặt tại Việt Nam.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Do các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[3]. Về án phí: Chị Đỗ Thị Ng phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51; 56; 81; 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị Ng.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đỗ Thị Ng ly hôn anh Lê Văn Tr.

2. Về quan hệ con chung: Giao cho chị Đỗ Thị Ng được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Lê Tuấn K, sinh ngày 14/4/2017 và giao cho anh Lê Văn Tr được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Lê Minh Kh, sinh ngày 03/4/2012 cho đến khi các con tròn 18 tuổi. Chị Ng và anh Tr không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Tạm giao con chung Lê Minh Kh cho bà Đ nuôi dưỡng trong thời gian anh Tr không có mặt tại Việt Nam.

Chị Đỗ Thị Ng và anh Lê Văn Tr được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Đỗ Thị Ng phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được đối trừ 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm chị Ng đã nộp, theo biên lai thu số AA/2021/0000381 ngày 25 tháng 5 năm 2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương. Chị Ng đã nộp đủ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Đỗ Thị Ng, bà Thân Thị Đ được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh Lê Văn Tr được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

627
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 150/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:150/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về