Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa chị N và anh S số 18/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦU NGANG, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 18/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON GIỮA CHỊ N VÀ ANH S

Trong ngày 28 tháng 4 năm 2022, tại Toà án nhân dân huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 151/2022/TLST-HNGĐ, ngày 22/02/2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2022/QĐST-HN, ngày 04/4/2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lâm Hoàng N, sinh năm 1990; Địa chỉ: Ấp TH, xã TH, huyện CN, tỉnh Trà Vinh. Có mặt

Bị đơn: Anh Bùi Văn S, sinh năm 1965; Địa chỉ: Ấp TH, xã TH, huyện CN, tỉnh Trà Vinh. Có mặt Con chung chị N và anh S tên:

+ Lâm Minh T, sinh ngày 04/02/2011. Có mặt

+ Lâm Bùi Anh T, sinh ngày 11/02/2012. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các bản khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn chị Lâm Hoàng N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh Bùi Văn S quen biết năm 2010 xác lập quan hệ hôn nhân không có đăng ký kết hôn, thời gian chung sống chị và anh S có 02 con chung tên Lâm Minh T, sinh ngày 04/02/2011 và Lâm Bùi Anh T, sinh ngày 11/02/2012 anh S đang nuôi dưỡng, chị N cho rằng thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc về sau thì xảy ra mâu thuẩn do không có tiếng nói chung cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc ly thân từ tháng 6/2018 cho đến nay, tình cảm giữa vợ chồng không còn. Nay chị N yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Bùi Văn S.

Về con chung tên: Lâm Minh T, sinh ngày 04/02/2011 và Lâm Bùi Anh T, sinh ngày 11/02/2012 chị yêu cầu được nuôi và không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Quá trình thụ lý giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa chị N không tranh chấp, không khởi kiện, không đặt ra yêu cầu giải quyết.

Về số nợ phải thu, phải trả: Chị N không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại các bản khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa bị đơn anh Bùi Văn S trình bày:

Về xác lập quan hệ hôn nhân, về kết hôn, về con chung chị N trình bày là đúng. Về tài sản chung, về số nợ phải thu, phải trả anh không khởi kiện, không tranh chấp và không đặt ra yêu cầu Tòa án giải quyết. Nguyên nhân mâu thuẩn giữa vợ chồng anh cho rằng không có mâu thuẩn gì và chị N tự bỏ nhà đi từ tháng 6/2018, từ khi ly thân cho đến nay mạnh ai nấy sống, không còn quan tâm nhau, mọi nhu cầu thiết yếu hàng ngày mỗi người tự lo liệu để sinh sống.

Nay chị N yêu cầu ly hôn anh cũng đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị N; về con chung anh và chị N có 02 Lâm Minh T, sinh ngày 04/02/2011 và Lâm Bùi Anh T, sinh ngày 11/02/2012 từ khi anh chị ly thân 02 con sống chung với anh, anh yêu cầu được nuôi hai con chung và không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung, về nợ chung của vợ chồng anh không khởi kiện, không tranh chấp và không đặt ra không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra anh không có yêu cầu gì khác.

Tại các bản khai, tại phiên tòa con chung của chị N và anh S tên Lâm Minh T, sinh ngày 04/02/2011 ý kiến: Trường hợp cha mẹ ly hôn với nhau, nguyện vọng của con Lâm Minh T được sống với cha.

Tại các bản khai, tại phiên tòa con chung của chị N và anh S tên Lâm Bùi Anh T, sinh ngày 11/02/2012 ý kiến: Trường hợp cha mẹ ly hôn với nhau, nguyện vọng của con Lâm Bùi Anh T được sống với cha.

Lời phát biểu của Kiểm sát viên:

- Về việc tuân theo pháp luật: Về thủ tục thụ lý hồ sơ vụ án, xác định quan hệ pháp luật, xác định người tham gia tố tụng, thành phần tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm đều đúng quy định pháp luật. Các văn bản tố tụng từ khi nhận đơn khởi kiện cho đến khi ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử đều tống đạt đầy đủ cho các đương sự nhận. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã tiến hành đầy đủ trình tự thủ tục đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần đơn khởi kiện của chị N, tuyên bố không công nhận chị N và anh S là vợ chồng, về con chung Lâm Minh T, sinh ngày 04/02/2011 và Lâm Bùi Anh T, sinh ngày 11/02/2012 cho anh S được tiếp tục nuôi và theo nguyện vọng của hai con chung được sống với anh S, về cấp dưỡng nuôi con anh S không yêu cầu nên không xem xét. Về tài sản chung và về số nợ phải thu, phải trả chị N và anh S không tranh chấp, không yêu cầu nên không xem xét, về án phí chị N phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Về thẩm quyền giải quyết: Xét thấy bị đơn anh Bùi Văn S có nơi cư trú trên địa bàn huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cầu Ngang theo quy định tại Điều 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Xét đơn khởi kiện của chị Lâm Hoàng N khởi kiện xin ly hôn với anh Bùi Văn S và yêu cầu được nuôi con nên xác định quan hệ tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” là đúng quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy chị N và anh S chung sống với nhau như vợ chồng vào năm 2010 nhưng đến nay chị N và anh S không có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Từ đó xác định hôn nhân của chị N và anh S là không hợp pháp.

Xét thấy quá trình chung sống giữa chị N và anh S tuy chưa thống nhất nhau về quan điểm đời sống vợ chồng, lối sống, về cách ứng xử giao tiếp thì anh chị phải biết tự điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với cuộc sống hiện tại, cùng nhau góp ý xây dựng, chia sẽ và tôn trọng lẫn nhau để tìm cách giải quyết mọi vấn đề một cách êm đẹp nhất nhằm bảo vệ hạnh phúc gia đình. Khi mâu thuẫn phát sinh chị N và anh S đều bỏ mặt cho hậu quả xảy ra, không còn quan tâm đến tình nghĩa vợ chồng, anh chị luôn bất hòa với nhau về mọi mặt và anh, từ khi ly thân tháng 6/2018 đến nay anh chị cũng không quan tâm đến hạnh phúc gia đình mạnh ai nấy sống làm cho tình cảm vợ chồng ngày càng rạng nức.

Mặt khác khi xác lập quan hệ hôn nhân, chị N và anh anh S có đủ điều kiện đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, nhưng chị N và anh S không đăng ký kết hôn mà lại chung sống với nhau như vợ chồng là vi phạm Điều 09 của Luật hôn nhân và gia đình, điểm b khoản 03 Nghị quyết số: 35/2000/QH10 - Quốc hội khoá X nên không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Tại phiên tòa hôm nay chị N xác định tình cảm vợ chồng không còn cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh S và tại phiên tòa hôm nay anh Bùi Văn S cũng đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị N, nghĩ nên tuyên bố không công nhận chị N và anh S là vợ chồng, là đúng quy định Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về nuôi con: Xét thấy con tên Lâm Minh T, sinh ngày 04/02/2011 và Lâm Bùi Anh T, sinh ngày 11/02/2012 là con của chị N và anh S, trong thời gian vợ chồng ly thân từ tháng 6/2018 đến nay con chung Lâm Minh T và Lâm Bùi Anh T sống với anh S, được anh S nuôi dưỡng chăm sóc chu đáo về mọi mặt và theo nguyện vọng của con Lâm Minh T và Lâm Bùi Anh T được sống chung với an S. Tại phiên tòa anh S xin được quyền nuôi dưỡng con chung là phù hợp, để con chung Lâm Minh T và Lâm Bùi Anh T có cuộc sống ổn định về thể chất, trí tuệ, đạo đức và tinh thần, Hội đồng xét xử giao con chung Lâm Minh T, sinh ngày 04/02/2011 và Lâm Bùi Anh T, sinh ngày 11/02/2012 cho anh S được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về tài sản chung: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay chị N và anh S không khởi kiện, không tranh chấp. Hội đồng xét xử không xem xét.

Về số nợ phải thu, phải trả: Chị N và anh S không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết, Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí sơ thẩm: Chị N phải nộp án phí theo quy định pháp luật.

- Xét đề nghị của Kiểm sát viên là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 01 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 235 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 09, 14, 51, khoản 02 Điều 53, 56, 57, 81, 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm b khoản 03 Nghị quyết số: 35/2000/QH10 của Quốc hội khoá X. Kỳ họp thứ 7, thông qua ngày 09/6/2000.

Căn cứ vào khoản 5, Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử: Chấp nhận một phần đơn khởi kiện của chị Lâm Hoàng N.

Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận chị Lâm Hoàng N và anh Bùi Văn S là vợ chồng.

Về nuôi con: Anh Bùi Văn S được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con tên Lâm Minh T, sinh ngày 04/02/2011 và Lâm Bùi Anh T, sinh ngày 11/02/2012.

Chị Lâm Hoàng N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền ngăn cản. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Về tài sản chung: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay chị N và anh S không khởi kiện, không tranh chấp. Hội đồng xét xử không xem xét.

Về số nợ phải thu, phải trả: Chị N và anh S không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết, Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Buộc chị Lâm Hoàng N có nghĩa vụ nộp 300.000 đồng, nhưng được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số 0008044 ngày 17/02/2022 do chị N nộp cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cầu Ngang thu, chị Lâm Hoàng N đã nộp đủ án phí.

Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định tại Điều 179 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

350
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa chị N và anh S số 18/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:18/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cầu Ngang - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về