Bản án về ly hôn số 929/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 12, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 929/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/07/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 29 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 318/2022/TLST– HNGĐ ngày 21 tháng 3 năm 2022 về việc “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 452/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 521/2022/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 7 năm 2022, giữa:

1. Nguyên đơn: Bà Trương Thị Phương TH, sinh năm: 1984 - có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Địa chỉ: A, khu phố x, phường Trung Mỹ T, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Trần Thái X, sinh năm: 1976 - vắng mặt.

Địa chỉ: B, khu phố x, phường Tân Hưng T, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và bản tự khai, nguyên đơn bà Trương Thị Phương TH trình bày: Bà và ông Trần Thái X là vợ chồng hợp pháp, có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 43, do Ủy ban nhân dân phường Trung Mỹ Tây, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 24/3/2006. Quá trình sống chung, hai vợ chồng có nhiều mâu thuẫn xảy ra, đã nhiều lần cố gắng hàn gắn nhưng không thành.

Nhận thấy, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với X.

Bà và ông X có 01 (một) con chung là cháu Trần Đăng Khôi, sinh ngày 11/11/2007. Cháu Khôi hiện đang trực tiếp ở với bà, có chỗ ở và nơi học hành đầy đủ. Bà có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung; không yêu cầu ông X cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nghĩa vụ về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Trần Thái X đã được Tòa án thông báo về việc thụ lý vụ án; thông báo và triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; triệu tập tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, thông qua việc kiểm sát thụ lý, lập hồ sơ vụ án và kiểm sát trực tiếp tại phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân Quận 12 có ý kiến như sau:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký: thực hiện đúng trình tự, thủ tục pháp luật tố tụng dân sự.

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể t khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng. Bị đơn không có mặt theo triệu tập của Tòa án.

- Về việc giải quyết vụ án:

+ Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Trương Thị Phương TH và ông Trần Thái X.

+ Về con chung: Các đương sự có 01 (một) con chung là cháu Trần Đăng Khôi, sinh ngày 11/11/2007. Giao cháu Khôi cho bà TH trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc; tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với ông X do bà TH chưa có yêu cầu.

+ Về tài sản chung, nghĩa vụ về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về thủ tục tố tụng:

- Các đương sự tranh chấp với nhau về việc ly hôn. Đây là quan hệ pháp luật tranh chấp về “Ly hôn” theo quy định tại Khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Bị đơn cư trú tại Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh, nên căn cứ theo điểm a Khoản 1 Điều 35 và điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ đến lần thứ 02 (hai) nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử không thể xem xét các ý kiến, yêu cầu của bị đơn trong vụ án và đương nhiên bị đơn phải gánh chịu các hậu quả pháp lý bất lợi trong vụ án này.

Ngày 14/6/2022 nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Căn cứ theo quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 227 và Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự nêu trên.

2. Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Bị đơn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, không cung cấp tài liệu, chứng cứ cũng như lời khai nên Tòa án căn cứ vào chứng cứ do nguyên đơn cung cấp làm căn cứ giải quyết vụ án.

2.1. Về hôn nhân: Nguyên đơn và bị đơn kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 43, do Ủy ban nhân dân phường Trung Mỹ Tây, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 24/3/2006, phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên là hôn nhân hợp pháp. Qúa trình chung sống, các đương sự phát sinh nhiều mâu thuẫn, không thể tự giải quyết được dù đã áp dụng nhiều biện pháp nên nguyên đơn có yêu cầu xin ly hôn với bị đơn.

Tại Khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định:

“Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

Xét, mâu thuẫn giữa các đương sự là có thật, chủ yếu do tính tình không phù hợp, bất đồng quan điểm sống, mặc dù đã áp dụng nhiều biện pháp nhưng vẫn không thể hòa hợp được; hiện nay cả hai cũng đã sống ly thân.

Xét, vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình và có nghĩa vụ sống chung với nhau. Tòa án đã tạo điều kiện để hai bên hòa giải, giải quyết mâu thuẫn gia đình nhưng bị đơn vắng mặt nhiều lần không có lý do. Hội liên hiệp phụ nữ phường Trung Mỹ Tây, Quận 12 cũng có văn bản trả lời cho Tòa án về mâu thuẫn giữa các đương sự. Vì vậy, nhận thấy hôn nhân giữa các đương sự đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ theo Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn đối với bị đơn.

2.2. Về con chung: Các đương sự có 01 (một) con chung là Trần Đăng Khôi, sinh ngày 11/11/2007. Nguyên đơn có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung.

Tại Khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định:

“Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

Hội đồng xét xử xét thấy, việc giao con cho ai nuôi dưỡng cần phải xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Cháu Khôi (trên 07 tuổi) đang trực tiếp ở với nguyên đơn, có nơi ở, học hành ổn định và có nguyện vọng được tiếp tục sống cùng mẹ sau khi cha mẹ cháu ly hôn. Vì vậy, để đảm bảo sự ổn định nơi ăn ở, học hành, sự ổn định về tinh thần, sức khỏe của cháu Khôi, nên Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục giao cháu Khôi cho nguyên đơn trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

2.3. Về cấp dưỡng nuôi con: Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với bị đơn do nguyên đơn chưa có yêu cầu.

2.4. Về tài sản chung và nghĩa vụ về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng.

4. Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 147; Điều 208; Điều 227; Điều 228 và Điều 271 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các điều 9, 51, 53, 54, 56, 57, 58 và 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Luật phí, lệ phí năm 2015;

Căn cứ Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ vào Luật Thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trương Thị Phương TH.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Trương Thị Phương TH và ông Trần Thái X.

Kể t ngày án có hiệu lực pháp luật, Giấy chứng nhận kết hôn số 43, do Ủy ban nhân dân phường Trung Mỹ Tây, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 24/3/2006 không còn giá trị pháp lý.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao 01 (một) con chung là cháu Trần Đăng Khôi, sinh ngày 11/11/2007 cho bà Trương Thị Phương TH trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục.

2.2. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với ông Trần Thái X do bà Trương Thị Phương TH chưa có yêu cầu.

2.3. Vì lợi ích của con chung, các bên không được quyền ngăn cản việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung, được quyền yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con; các bên và cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại Khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 được quyền yêu cầu thay đổi quyền nuôi con.

3. Về tài sản chung và nghĩa vụ về tài sản chung: Không xem xét.

4. Về án phí: Bà Trương Thị Phương TH phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình là 300.000 đồng (ba trăm nghìn) đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp, theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0022976 ngày 21/3/2022 của Chi cục Thi hành án Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà TH đã nộp đủ án phí.

5. Quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu thi hành án:

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

6. Quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

464
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 929/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:929/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 12 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về