Bản án về ly hôn số 39/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 39/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/07/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 12 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang. Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 32/2022/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 02 năm 2022 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2022/QĐST - HNGĐ ngày 06 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Hồng N, sinh năm 1984 (có mặt) Trú tại: ấp P, xã Đ, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang

- Bị đơn: Anh Huỳnh Văn P, sinh năm 1984 (vắng mặt) Trú tại: ấp P, xã Đ, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai của nguyên đơn chị Lê Thị Hồng N trình bày: Chị và anh Huỳnh Văn P chung sống vào năm 2005, đăng ký kết hôn năm 2006. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng thời gian sau thì phát sinh mâu thuẫn, do anh P không chịu làm ăn, thường xuyên cờ bạc, có nhiều phụ nữ khác bên ngoài. Chị N đã về nhà cha mẹ ruột sinh sống từ năm 2015. Do tình cảm không còn chị N yêu cầu ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Huỳnh Phương T, sinh ngày 20/9/2006, hiện đang sống với chị N, chị N yêu cầu nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: không có.

Bị đơn anh Huỳnh Văn P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Về phần thủ tục từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử thực hiện đúng theo trình tự tố tụng. Người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Bị đơn anh Huỳnh Văn P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ vào Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.

 [2] Chị Lê Thị Hồng N và anh Huỳnh Văn P tự nguyện chung sống vào năm 2005 và có đăng ký kết hôn, nên được coi là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Theo lời khai của chị N thì thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, thời gian sau thì mâu thuẫn phát sinh. Do anh P thường hay cờ bạc, không lo cho gia đình và có người phụ nữ khác bên ngoài. Anh P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không có ý kiến gì với cuộc hôn nhân của anh, và qua lời khai của chị N thì anh chị đã không còn sống chung từ năm 2015, điều đó thể hiện anh chị mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chị N yêu cầu ly hôn là có cơ sở để chấp nhận.

[3] Về con chung: Quá trình sống chung chị N và anh P có 01 người con chung tên Huỳnh Phương T, sinh ngày 20/9/2006, là nữ, hiện đang sống với chị N. Cháu T có nguyện vọng sống chung với chị N. Và qua xác minh thể hiện cháu T cũng đang được giáo dục tốt, cháu đang học phổ thông, chị N có đủ điều kiện để nuôi con. Vì vậy Hội đồng xét xử giao con chung cho chị N nuôi dưỡng. Chị N không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con nên anh P chưa phải cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: không có nên không đặt ra giải quyết.

[5] Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Lê Thị Hồng N phải chịu 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 51, Điều 53, Điều 56 và Điều 58 của Luật hôn nhân và gia đình.

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Hồng N và anh Huỳnh Văn P được ly hôn. Về con chung: Giao cháu Huỳnh Phương T, sinh ngày 20/9/2006 cho chị Lê Thị Hồng N trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu T tròn 18 tuổi. Anh Huỳnh Văn P chưa phải cấp dưỡng nuôi con.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con chung, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Lê Thị Hồng N phải chịu là 300.000 đồng, khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí chị N đã đóng theo biên lai số 0010180 ngày 14 tháng 02 năm 2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang thành án phí. Chị N đã đóng xong án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng, thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 39/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:39/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về