Bản án về ly hôn số 31/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM NÔNG, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 31/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/06/2022 VỀ LY HÔN

Vào ngày 21 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Nông và trụ sở Ủy ban nhân dân xã Phú Cường, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 109/2022/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 4 năm 2022 về việc “ Ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2022. Theo Thông báo thay đổi ngày xét xử số 10/TB-TA ngày 24 tháng 5 năm 2022. Theo Quyết định hoãn phiên tòa số 16/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 6 năm 2022. Giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Huỳnh Thị Mỹ M, sinh năm 1991 Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.

2. Bị đơn: Lê Phước T, sinh năm 1990 Địa chỉ: ấp W, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

Các đương sự có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn và các lời khai tại Toà án nhân dân huyện Tam Nông, nguyên đơn chị Huỳnh Thị Mỹ M trình bày :

1. Về hôn nhân:

Tôi và anh Lê Phước T kết hôn với nhau vào năm 2021, chúng tôi có đăng ký kết hôn theo luật định, giấy chứng kết hôn số 34 ngày 26/4/2021 tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp. Sau khi cưới chúng tôi sống rất hạnh phúc, đến đầu năm 2022 chúng tôi luôn có mâu thuẩn và đã ly thân nhau từ đó đến nay. Nguyên nhân do chồng tôi thường xuyên đi nhậu, mỗi khi đi nhậu về thì anh trở thành người khác, anh thể hiện tính côn đồ và có những hành động như: anh đòi nhảy lầu tự tử; đòi đốt xe, đòi giết cháu và nhiều lần xúc phạm đến danh dự nhân phẩm tôi, anh đến trường học (nơi tôi dạy học vì tôi là giáo viên) nói tôi lấy cắp tiền vàng của Mẹ chồng, còn dọa sẽ giết tôi. Tôi rất thông cảm vì những lúc như thế là do anh có rượu trong người và tôi cũng đã nhiều lần khuyên nhưng chồng tôi không nghe, từ đó tính tình không còn phù hợp luôn bất đồng quan điểm nên lúc nào cũng có mâu thuẩn với nhau. Hôm nay tôi thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn.

- Bị đơn anh Lê Phước T trình bày:

Tôi và Huỳnh Thị Mỹ M kết hôn với nhau vào năm 2021, chúng tôi có đăng ký kết hôn theo luật định, giấy chứng kết hôn số 34 ngày 26/4/2021 tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp. Sau khi cưới chúng tôi rất hạnh phúc, đến đầu năm 2022 chúng tôi luôn có mâu thuẩn và đã ly thân nhau từ đó đến nay. Nguyên nhân là tôi có những hành động như vợ tôi trình bày. Vì những lúc như vậy là do tôi có rượu trong người, do áp lực công việc, áp lực gia đình, do tôi nghe lời Mẹ tôi, cho rằng vợ tôi lấy cắp tiền, vàng của Mẹ nhưng thật sự là không có, tôi xin nhận những khuyết điểm này tôi sẻ khắc phục sửa chửa, tôi xin vợ tôi cho tôi cơ hội, cho tôi thời gian để khắc phục những khuyết điểm trên để vợ chồng làm lại từ đầu, tôi sẻ cố gắng chí thú làm ăn, nếu vợ chồng không sống chung với gia đình tôi được, thì vợ chồng sẻ lên Sài Gòn sống tự lập, miển sao vợ thông cảm và tha thứ cho tôi. Hôm nay vợ tôi yêu cầu ly hôn, tôi không đồng ý ly hôn tôi yêu cầu hàn gắn lại vì tôi vẫn còn tình cảm với vợ tôi.

2. Về con chung:

Chị M và anh T trình bày: Trong thời gian sống chung chúng tôi không có con.

3. Về tài sản chung:

Chị M và anh T trình bày: Chúng tôi có tài sản chung nhưng không yêu cầu giải quyết.

4. Về nợ chung:

Chị M và anh T trình bày: chúng tôi không nợ ai và cũng không ai nợ lại chúng tôi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1]. Về tố tụng:

Xét yêu cầu của chị Huỳnh Thị Mỹ M yêu cầu ly hôn với anh Lê Phước T, địa chỉ tại ấp W, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp căn cứ vào các Điều 28, 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tam Nông.

Về xét xử vắng mặt: Các đương sự có mặt tại phiên tòa nên Tòa án tiến hành xét xử là phù hợp với Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân:

Quan hệ vợ chồng giữa chị Huỳnh Thị Mỹ M và anh Lê Phước T là hoàn toàn tự nguyện, trước khi kết hôn, anh chị đã có thời gian tìm hiểu nhau, anh chị tự nguyện kết hôn với nhau và có đăng ký kết hôn theo luật định. Sau khi cưới anh chị sống chung với gia đình chồng, thời gian đầu anh chị sống hạnh phúc, thời gian sau thường xuyên có mâu thuẩn với nhau và mâu thuẩn ngày càng trầm trọng hơn. Nguyên nhân do anh T thường xuyên uống rượu, mỗi khi uống rượu về anh luôn gây chuyện với người thân gia đình, với chị M, có lần anh dọa sẻ giết chết chị M, chị M cũng thông cảm và cũng cho anh cơ hội sửa sai như: Chị nhiều lần khuyên nhưng anh T không nghe từ đó tính tình không còn phù hợp nửa, luôn bất đồng quan điểm nên lúc nào cũng có mâu thuẩn xảy ra nên hai người đã sống ly thân từ đầu năm 2022 đến nay. Hôm nay chị M yêu cầu ly hôn với anh T do tình cảm không còn, cuộc sống vợ chồng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.

Tại phiên tòa hôm nay, anh T không đồng ý ly hôn, anh cho rằng anh vẫn còn tình cảm với chị M, anh tha thiết yêu cầu được hàn gắn lại để vợ chồng làm lại từ đầu, những khuyết điểm của anh mà chị M trình bày anh đều thừa nhận và hứa sẻ khắc phục sửa chữa. Xét lời trình bày của anh T không có căn cứ chấp nhận. Vì: nếu thật sự anh còn tình cảm với chị M, anh phải luôn lắng nghe những góp ý, khuyên can của chị M, anh là chổ dựa vững chắc để chị M nương tựa cho suốt cuộc đời của chị. Nếu anh thật sự còn tình cảm, anh có thiện chí muốn hàn gắn lại tình cảm vợ chồng, muốn cùng chị M làm lại từ đầu thì lẻ ra trong thời gian sống ly thân anh phải đến gặp trực tiếp chị M để nhận khuyết điểm mà anh đã gây ra, anh phải nhờ Ba Mẹ hai bên hòa giải cho hai người, nhưng anh không làm được, anh chỉ điện thoại và còn có những lời nói khó nghe đối với chị M, chính anh đã làm mất đi hạnh phúc gia đình. Thời gian ly thân của anh chị cũng khá lâu nhưng anh chị không tự hàn gắn lại với nhau được. Từ những căn cứ trên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị M đối với anh T là phù hợp.

[3]. Về con chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]. Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về án phí: Chị Huỳnh Thị Mỹ M phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 53, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điểm a, khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử :

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Huỳnh Thị Mỹ M đối với anh Lê Phước T.

Cho chị Huỳnh Thị Mỹ M ly hôn với anh Lê Phước T.

3. Về án phí :

Chị Huỳnh Thị Mỹ M phải nộp án phí ly hôn là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0003628, quyển số 0073 ngày 18/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Nông.

Báo cho nguyên đơn, bị đơn biết, có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án hôm nay.

Trường hợp bản án được Thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 31/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:31/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Nông - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về