TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 11/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/06/2022 VỀ LY HÔN
Hôm nay, ngày 20 tháng 6 năm 2022, Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng mở phiên Tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 34/2022/TLST - HNGĐ ngày 28 tháng 3 năm 2022 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Bà Lý H; Sinh năm: 1979 Địa chỉ: Thôn B, xã N, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt tại phiên tòa.
* Bị đơn: Ông Đặng X; Sinh năm: 1975.
Địa chỉ: Thôn B, xã N, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa của nguyên đơn bà Lý H trình bày thì:
Bà cho biết bà và ông Đặng X sau thời gian quen biết và tự nguyện đi đến hôn nhân, ông bà có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã L, huyện G, tỉnh Lạng Sơn vào năm 2002, vợ chồng ông hạnh phúc nhưng đến năm 2012 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn và ngày càng trở nên nghiêm trọng. Nguyên nhân là do ông X thường xuyên bạo lực về tinh thần, đánh đập và xúc phạm bà nên tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt đến mức không thể cứu vãn được nữa, đến nay thì không thể tiếp tục chung sống do đó bà H yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà và ông Đặng X được ly hôn.
Về con chung: ông bà có với nhau hai người con chung là cháu Đặng S sinh ngày 16.11.1999 và cháu Đặng V hình ngày 17.9.2002. Hiện nay các cháu đã đủ tuổi trưởng thành, có gia đình và công việc ổn định nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Hai bên tự thỏa thuận phân chia, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. Nếu sau này phát sinh tranh chấp thì sẽ yêu cầu giải quyết bằng vụ án khác.
Về nợ chung: Không có.
Ngoài ra, bà không yêu cầu hay trình bày gì thêm.
* Theo lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa của bị đơn ông Đặng X thì:
Về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung như bà Lý H trình bày là đúng. Ông X cho biết vào năm 1998 ông và bà H chung sống nhưng không đăng ký kết hôn, sau đó Ủy ban nhân dân xã T, huyện G, tỉnh Lạng Sơn có vận động vợ chồng ông bà đi đăng ký kết hôn nên ông bà đã đi đăng ký kết hôn vào ngày 14/10/2002. Đến năm 2004 thì ông bà đến xã N làm ăn, sinh sống cho đến nay. Trong thời gian chung sống thì vợ chồng ông vẫn chung sống hạnh phúc, không có gì mâu thuẫn nghiêm trọng nhưng từ năm 2018 thì bà H tự ý bỏ nhà đi không một lý do. Do đó, ông không chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lý H mà mong muốn vợ chồng quay về đoàn tụ xây dựng lại hạnh phúc gia đình.
Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay ông X nhận thấy không thể hàn gắn tình cảm với bà Hà được nữa nên ông chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lý H.
Về con chung hiện nay các cháu đã đủ tuổi trưởng thành, có công việc ổn định và tự lo cho bản thân nên ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Hai vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
Về nợ chung: Không có.
Ngoài ra, ông không trình bày gì thêm.
Vụ án đã được Tòa án tiến hành hòa giải nhưng không hòa giải được.
Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, nguyên đơn, bị đơn trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay đều đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về đường lối giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân, bà H và ông X có đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật, quá trình chung sống, hai bên có xảy ra mâu thuẫn, xét thấy tình cảm vợ chồng bà H và ông X không còn khả năng hàn gắn lại được, nên đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho ly hôn. Về con chung đã trưởng thành nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét đến Về tài sản chung: Hai bên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét đến.
Về nợ chung: Không có.
Về án phí: Áp dụng Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, buộc các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Sau khi nghiên cứu xem xét các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Bà Lý H và ông Đặng X có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T, huyện G, tỉnh Lạng Sơn vào ngày 14/10/2002. Cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nên bà H yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông X, hiện nay ông X, bà H đang sinh sống tại thôn B, xã Đạ N, huyện Đ. Do đó, căn cứ vào các Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử xác định đây là vụ kiện “Ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lý H và ông Đặng X đã tự nguyện đi đến hôn nhân và có đăng ký kết hôn nên xác định hôn nhân của bà Lý H và ông Đặng X là hợp pháp. Tuy nhiên, quá trình chung sống bà H, ông X thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông X thường xuyên đánh đập, dùng bạo lực với bà H, làm cho bà nhiều lúc thấy hoảng loạn và không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa. Nay bà H thấy rằng bà và ông X không còn tình cảm với nhau nữa, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông X. Còn ông X thì cho rằng năm 2018 bà H vô cớ bỏ nhà đi chứ ông vẫn còn tình cảm với bà H, ông không đồng ý với yêu cầu ly hôn của bà H. Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay ông H nhận thấy không thể hàn gắn tình cảm với bà H được nữa nên ông chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lý H.
Theo xác minh tại địa phương thì giữa hai vợ chồng ông bà cũng phát sinh mâu thuẫn nghiêm trọng và có lần còn nhờ chính quyền địa phương can thiệp. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H là phù hợp.
[3] Về con chung: ông bà có với nhau hai người con chung là cháu Đặng S sinh ngày 16.11.1999 và cháu Đặng V hình ngày 17.9.2002. Xét thấy, hiện nay hai con chung của ông X và bà H đã đủ tuổi trưởng thành, có gia đình riêng và công việc ổn định. Nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.
[4] Về tài sản chung: Hai bên tự thỏa thuận phân chia, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nếu sau này phát sinh tranh chấp sẽ khởi kiện bằng một vụ án dân sự khác.
[5] Về án phí: Áp dụng Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;
Buộc bà Lý Thị Hà phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm của vụ án.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 28; khoản 1, Điều 35; 39 và Điều 147, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14,ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;
1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa bà Lý H và ông Đặng X.
2. Về án phí: Buộc nguyên đơn bà Lý H phải nộp số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí bà Hđã nộp theo biên lai thu tiền số 0006146 ngày 28 tháng 3 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng, bà H đã nộp đủ.
Các đương sự được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử theo trình tự phúc thẩm.
Bản án về ly hôn số 11/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 11/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đạ Huoai - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về