TIÊU CHUẨN XÂY
DỰNG VIỆT NAM
TCXDVN 343
: 2005
THỬ
NGHIỆM CHỊU LỬA - CÁC BỘ PHẬN KẾT CẤU CỦA TOÀ NHÀ - PHẦN 3 - CHỈ DẪN VỀ PH´ƠNG
PHÁP THỬ VÀ ÁP DỤNG SỐ LIỆU THỬ NGHIỆM
Fire - resistance tests - Elements of building construction - Part 3 -
Commentary on test method and test data application
1. Phạm vi áp dụng
Thông tin được cung cấp trong tiêu chuẩn này để
giải trình bản chất và hướng dẫn sử dụng các phương pháp thử nghiệm chịu lửa và
áp dụng các số liệu thu được. Tiêu chuẩn này cũng xác định một số các lĩnh vực
để có thể áp dụng cho các nghiên cứu sau này có liên quan đến tính năng của tổ
hợp mẫu thử nghiệm và mối quan hệ của chúng với công trình xây dựng trong thực
tế; và cho các công nghệ liên quan đến dụng cụ đo và các kỹ thuật thử.
2. Tài liệu viện dẫn
- TCXDVN 342: 2005(ISO 834-1): Thử nghiệm
chịu lửa - Các bộ phận kết cấu của toà nhà - Phần 1: Yêu cầu chung
- ISO/TR 3956: 1975: Nguyên tắc thiết kế kỹ
thuật chống cháy cho kết cấu với yêu cầu đặc biệt về mối liên quan giữa tình
huống cháy thực tế và các điều kiện cấp nhiệt trong thử nghiệm chịu lửa tiêu
chuẩn.
- ISO/TR 10158: 1991: Nguyên tắc và phương
pháp tính toán cơ bản liên quan đến tính chịu lửa của các bộ phận kết cấu.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Kinh nghiệm thực tế chỉ ra rằng, cần thiết
phải tiến hành một số phép đơn giản hoá trong quy trình thử nghiệm chuẩn để dễ
sử dụng với các điều kiện khống chế trong bất cứ phòng thí nghiệm nào với mong
muốn đạt được những kết quả có thể tái tạo lại và lặp lại.
Một số những yếu tố dẫn đến một mức độ biến
động nào đó là nằm ngoài phạm vi của quy trình thử nghiệm, đặc biệt là sự khác
nhau về vật liệu và về cách chế tạo là rất lớn. Những yếu tố khác, đã được chỉ
ra trong tiêu chuẩn này, đều nằm trong khả năng nguời sử dụng có thể điều chỉnh
được. Nếu những yếu tố này được quan tâm đúng mức, thì khả năng tái tạo và lặp
lại trong quy trình thử nghiệm có thể cải thiện để đạt đến mức độ chấp nhận được.
3.1. Chế độ đốt nóng
Biểu đồ đường cong tiêu chuẩn nhiệt độ lò
nung được miêu tả trong điều 5.1.1 của TCXDVN 342: 2005 (ISO 834-1), về thực
chất không thay đổi so với biểu đồ đường cong nhiệt độ - thời gian để kiểm soát
môi trường thử nghiệm chịu lửa đã được sử dụng hơn 70 năm qua. Rõ ràng là đường
cong này có mối liên quan đến nhiệt độ quan sát được của các đám cháy trong
thực tế của các toà nhà chẳng hạn về thời gian nóng chảy quan sát được của vật
liệu tại các điểm nóng chảy đã biết.
Mục đích cơ bản của đường cong nhiệt độ chuẩn
này là để tạo ra môi trường thử nghiệm chuẩn tiêu biểu hợp lý cho điều kiện
tiếp xúc lửa dữ dội, mà ở đó có thể so sánh các tính năng kết cấu của các dạng nhà
đại diện. Tuy nhiên, điều quan trọng là điều kiện tiếp xúc lửa tiêu chuẩn không
nhất thiết phải tái hiện lại tình huống tiếp xúc lửa thực tế hay chỉ ra tình
trạng dự đoán trước của cấu kiện trong điều kiện thử nghiệm. Tuy nhiên, mức độ
tiến hành thử nghiệm với các bộ phận ngăn cách và kết cấu chịu lực của toà nhà
đều dựa trên một cơ sở chung. Cũng nên chú ý rằng tính chịu lửa liên quan đến
thời gian thử nghiệm chứ không liên quan đến thời gian cháy thực tế.
Trong tiêu chuẩn ISO/TR 3956 đã đề cập đến
các mối quan hệ giữa điều kiện cấp nhiệt trong điều kiện thời gian, nhiệt độ thường
xảy ra trong tình huống cháy thực, và với những điều kiện phổ biến trong các
thử nghiệm chịu lửa tiêu chuẩn. Một loạt đường cong hạ nhiệt cũng được đề cập
đến. Chú ý rằng đường cong nhiệt độ lò nung tiêu chuẩn cũng có thể được thể
hiện bằng hàm số mũ mà hàm số này hoàn toàn trùng khớp với đường cong thể hiện
hàm số T=345log10(480t+1) và có thể được xem xét tuỳ theo mục đích tính toán cụ
thể. Khi đó, hàm số đường cong sẽ là:
T= 1325(1- 0,325 e-0.2t
- 0,204 e-0,7t - 0,471 e-19t)
Trong đó:
T là nhiệt độ tăng, tính theo độ oC;
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Để thiết lập thông số độ lệch, d, được quy
định trong tiêu chuẩn TCXDVN 342: 2005 (ISO 834-1), điều 5.1.2, việc so sánh
các diện tích nằm giữa đường cong thể hiện nhiệt độ trung bình trong lò nung
trên thời gian và đường cong nhiệt độ tiêu chuẩn nói trên có thể thực hiện được
nhờ sử dụng thước đo diện tích trên biểu đồ số liệu hoặc thông qua tính toán
theo quy tắc của Simpson hoặc quy tắc hình thang.
Mặc dù chế độ cấp nhiệt được mô tả trong tiêu
chuẩn TCXDVN 342: 2005 (ISO 834-1), điều 5.1.1, là điều kiện tiếp xúc lửa được
quy định trong báo cáo kỹ thuật này, người ta cũng thừa nhận điều này không phù
hợp để đại diện cho những điều kiện tiếp xúc với lửa như là khi có mặt nhiên
liệu hydrocacbon. Môi trường tiếp xúc như vậy sẽ được xét một cách phù hợp hơn
bằng các tiêu chuẩn khác bao gồm cả thử nghiệm chịu lửa cho các công trình khác
không phải là nhà. Sau đây là một ví dụ cho chế độ cấp nhiệt mà gần đây được đề
xuất để thể hiện đám cháy bằng hydrocacbon:
T=1100( 1-0,325 e-0,1667t
- 0,204 e-1,417t - 0,471 e-15,833t)
trong đó:
T là mức tăng nhiệt độ, tính theo oC;
t là thời gian tại thời điểm đó xảy
ra sự tăng nhiệt độ, tính bằng giờ;
Hoặc viết dưới dạng tiện dụng:
T= 1100( 1-0,33 e-0,17t)
trong đó:
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
3.2. Lò nung
Bản thân các điều kiện cấp nhiệt mô tả trong tiêu
chuẩn TCXDVN 342: 2005 (ISO 834-1), điều 5.1.1, không đủ để bảo đảm rằng những
lò nung thử nghiệm với các thiết kế khác nhau, sẽ thể hiện các điều kiện tiếp
xúc lửa như nhau cho các mẫu thử và nhờ đó kết quả thử nghiệm nhận được là như
nhau giữa các lò nung đó.
Các cặp nhiệt ngẫu được sử dụng để khống chế
nhiệt độ lò nung là đang ở trạng thái cân bằng nhiệt động học so với môi trường
bị ảnh hưởng bởi điều kiện truyền nhiệt nhờ đối lưu và bức xạ tồn tại bên trong
lò nung. Nhiệt đối lưu truyền tới một vật thể tiếp xúc lửa sẽ phụ thuộc vào
hình dáng và kích cỡ của nó và nhìn chung với vật thể nhỏ hơn bầu của nhiệt
điện kế, thì nhiệt đối lưu này sẽ cao hơn so với vật thể lớn hơn chẳng hạn như
mẫu thử nghiệm. Vì vậy nhiệt đối lưu sẽ có xu hướng ảnh hưởng lớn tới nhiệt độ
của nhiệt kế, trong khi việc truyền nhiệt tới mẫu thử chủ yếu bị tác động bởi
bức xạ từ thành lò bị đốt nóng và từ ngọn lửa.
Trong lò nung có cả bức xạ từ khí đốt và bức
xạ từ bề mặt tới bề mặt. Bức xạ từ khí đốt phụ thuộc vào nhiệt độ và đặc tính
hấp thụ nhiệt của khí đốt trong lò và cũng phụ thuộc mạnh vào thành phần nhìn
thấy của ngọn lửa.
Bức xạ từ bề mặt tới bề mặt phụ thuộc vào
nhiệt độ của các thành lò nung, độ hấp thu và toả nhiệt cũng như phụ thuộc vào
kích thước và hình dạng của lò nung thử nghiệm. Nhiệt độ thành lò lại phụ thuộc
vào các đặc tính nhiệt của nó.
Sự truyền nhiệt đối lưu tới một vật thể phụ
thuộc vào độ chênh lệch cục bộ giữa nhiệt độ khí đốt và nhiệt độ bề mặt của vật
thể và vào tốc độ chuyển động của khí đốt.
Bức xạ từ khí đốt tương ứng với nhiệt độ của
nó, và bức xạ từ mẫu thử là tổng của bức xạ từ khí đốt và từ các thành của lò
nung. Bức xạ từ thành lò lúc đầu thì ít hơn, sau đó tăng lên khi thành lò nung trở
nên nóng hơn. Các nhiệt kế được quy định trong tiêu chuẩn này thì nhỏ và sẽ
điều chỉnh theo nhiệt độ của khí đốt. Mặt khác, mẫu thử thì lại nhạy cảm hơn
đối với các bức xạ.
Từ những điều đã được đề cập tới ở trên, rõ
ràng là giải pháp cơ bản cho việc đạt được kết quả ổn định giữa các lần tổ chức
thử nghiệm theo những yêu cầu trong tiêu chuẩn này, chỉ được thực hiện nếu mọi người
sử dụng thừa nhận tiêu chuẩn này và các thiết kế lý tưởng cho lò nung thử
nghiệm được quy định chính xác về kích cỡ, hình dạng, vật liệu, kĩ thuật xây
dựng và loại nhiên liệu được sử dụng.
Một phương pháp để giảm bớt những vấn đề như
đã nêu có thể áp dụng được đối với những dạng lò nung hiện thời là lót thành lò
nung bằng những vật liệu có quán tính nhiệt thấp dễ dàng biến đổi theo nhiệt độ
khí đốt lò nung, chẳng hạn như các loại vật liệu có các đặc tính như được quy
định trong tiêu chuẩn TCXDVN 342: 2005 (ISO 834-1), điều 4.2. Sự chênh lệch
giữa nhiệt độ khí đốt và thành lò sẽ được giảm bớt và lượng nhiệt tăng lên từ
buồng đốt đến mẫu thử nhờ bức xạ từ những thành lò và do đó sẽ cải thiện được
tính tương đồng giữa các kết quả thu được tại các lò nung có thiết kế khác
nhau.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Mặc dù, tiêu chuẩn TCXDVN 342: 2005 (ISO
834-1), điều khoản 4.5.1.1 quy định về thiết kế của nhiệt kế sử dụng để đo và
nhờ đó khống chế được môi trường lò nung thử nghiệm, việc thử nghiệm có thể được
tiến hành khi có thể sử dụng loại nhiệt kế nhạy cảm hơn với tác động kết hợp
giữa bức xạ và đối lưu, như là một phương pháp đo khác để giảm bớt được những
vấn đề gây ra do các đặc tính nhiệt khác nhau của các lò nung thử nghiệm.
Cuối cùng, một trong những công cụ hữu hiệu
nhất trong việc điều chỉnh cho những thiết kế lò nung hiện thời nhằm cải thiện
độ ổn định giữa các lò nung là việc định chuẩn thường xuyên. (xem 3.11).
3.3. Làm khô mẫu thử
3.3.1. Hiệu chỉnh hàm l´ợng ẩm phi tiêu chuẩn
trong vật liệu bê tông
Tại thời điểm thử nghiệm, tiêu chuẩn TCXDVN
342: 2005 (ISO 834-1) điều 6.4, cho phép mẫu thử biểu hiện hàm lượng ẩm ổn định
như trạng thái mong muốn trong điều kiện sử dụng bình thường.
Các cấu kiện toà nhà tiếp xúc với môi trường
nhiệt độ có xu hướng thay đổi theo chu kỳ nhiệt độ và/hoặc độ ẩm của khí quyển,
trừ khi các toà nhà được điều hoà không khí và sưởi ấm liên tục. Tính chất của
các vật liệu chế tạo cấu kiện và kích thước của cấu kiện sẽ quyết định mức độ
dao động của độ ẩm của cấu kiện, xung quanh điều kiện trung bình.
Việc liên hệ trạng thái mẫu thử với điều kiện
sử dụng bình thường có thể gây ra các thay đổi về hàm lượng ẩm của bộ phận kết
cấu mẫu thử, đặc biệt là các thành phần hút ẩm từ không khí có khả năng hút ẩm
cao như ximăng pooclăng, thạch cao và gỗ. Tuy nhiên, sau khi làm khô mẫu thử
theo như quy định trong tiêu chuẩn TCXDVN 342: 2005 (ISO 834-1) điều 6.4, trong
số những vật liệu xây dựng vô cơ thông thường thì chỉ những sản phẩm ximăng
pooclăng hydrat là có thể giữ được hàm lượng ẩm đủ để tác động một cách đáng kể
đến kết quả thử nghiệm chịu lửa.
Để so sánh, tốt nhất nên hiệu chỉnh sự chênh
lệch hàm lượng ẩm của các mẫu thử bằng cachs sử dụng hàm lượng ẩm được thiết
lập tại trạng thái cân bằng nhờ làm khô trong môi trường không khí xung quanh
có độ ẩm tương đối là 50% ở nhiệt độ là 20oC như là một điều kiện
tham khảo tiêu chuẩn.
Nếu tính chịu lửa liên quan đến tính cách ly
nhiệt của mẫu thử ở một hàm lượng ẩm nhất định đã biết thì tính chịu lửa tại
một vài hàm lượng ẩm khác có thể được tính toán theo phương trình sau:
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Trong đó:
Ф là hàm lượng ẩm, tình bằng g/m3
TФ là tính chịu lửa tại hàm lượng ẩm Ф,
tính bằng giờ;
Td là tính chịu lửa trong điều kiện được
sấy khô trong lò sấy, tính bằng giờ;
b là hệ số biến thiên về độ thẩm
thấu.
(Gạch, bêtông đặc và bêtông phun, giá trị b
có thể lấy là 5,5, đối với bêtông nhẹ lấy là 8,0 và bêtông tổ ong lấy là 10,0).
Có thể thay thế bằng cách tính toán có sử
dụng phương pháp được miêu tả trong các tài liệu tham khảo khác.
Nếu các kỹ thuật làm khô nhân tạo được áp
dụng để đạt được hàm lượng ẩm phù hợp với điều kiện tham chiếu tiêu chuẩn, thì
phòng thí nghiệm chịu trách nhiệm tiến hành thử nghiệm phải tránh các phương
pháp có thể làm thay đổi đáng kể các đặc tính của vật liệu cấu thành mẫu thử.
Xác định trạng thái ẩm của bê tông đã đông
cứng theo độ ẩm tương đối.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Đối với kết cấu gỗ, khi thích hợp có thể sử
dụng máy đo độ ẩm theo phương pháp điện trở như là một phương pháp đo độ ẩm tương
đối để xác định khi nào gỗ đạt hàm lượng ẩm cần thiết.
3.4. Cung cấp nhiên liệu và phân phối nhiệt
Hiện tại, việc xác định lượng chất đốt không
nằm trong các số liệu được yêu cầu trong suốt quá trình tiến hành thử nghiệm
chịu lửa, mặc dù thông số này thường được các phòng thí nghiệm đo được và người
sử dụng tiêu chuẩn này được khuyến khích có được các thông số trên cho các bước
triển khai tiếp theo.
Các chỉ dẫn dưới đây có thể áp dụng để ghi
lại mức tiêu thụ chất đốt trong quy trình thử nghiệm.
Cứ 10 phút một lần (hoặc ít hơn 10 phút) phải
ghi lại lượng nhiên liệu tích luỹ cung cấp cho buồng đốt. Tổng lượng nhiên liệu
được cung cấp trong toàn bộ quá trình thử nghiệm cũng phải được xác định. Dùng
một lưu lượng kế ghi chỉ số liên tục sẽ thuận lợi hơn khi đọc chỉ số định kỳ
trên lưu lượng kế đo tức thời hoặc đo tổng lưu lượng. Phải lựa chọn hệ thống đo
và ghi để độ chính xác trong việc đọc chỉ số lưu lượng nằm trong khoảng ±5%.
Phải báo cáo về loại nhiên liệu, giá trị nhiệt lượng mức cao và lượng nhiên
liệu tích luỹ được điều chỉnh theo điều kiện tiêu chuẩn là 15oC và
100kPa theo từng khoảng thời gian.
Tại những nơi việc đo lượng chất đốt nạp vào được
thực hiện, các số đo chỉ ra rằng có sự phân phối nhiệt cho môi trường lò nung
thử nghiệm trong suốt các giai đoạn thử nghiệm sau cùng của tổ hợp bộ phận thử
nghiệm cấu thành từ các thành phần dễ cháy. Vấn đề này thường không được quan
tâm trong các quy chuẩn cấp quốc gia, các tiêu chuẩn chỉ quy định chức năng sử
dụng cho các kết cấu dễ cháy dựa trên cơ sở phân loại về chức năng sử dụng và
các giới hạn về chiều cao và diện tích của toà nhà có bậc chịu lửa được áp
dụng.
Cũng phải lưu ý rằng việc đo lượng nhiên liệu
có thể có sự chênh lệch đáng kể khi thử nghiệm các kết cấu thép làm nguội bằng nước
hoặc thanh có khối tích lớn.
3.5. Kỹ thuật đo áp lực
Khi lắp đặt hệ thống ống được sử dụng trong
các dụng cụ cảm biến áp lực, ống cảm biến và ống chuẩn phải luôn được coi là
một cặp và đường dẫn (nối với nhau) được lấy thăng bằng ở các vị trí đo theo
mọi hướng đối với dụng cụ đo. Trường hợp thiếu đường ống chuẩn, nhưng nó vẫn
phải được coi là tồn tại với đúng chức năng của nó (không khí trong một phòng
giữa hai vị trí đo nào đó, trong trường hợp này, tượng trưng cho ống chuẩn).
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Khi các ống chuẩn và ống cảm biến được uốn từ
một cao độ này đến một cao độ khác, thì các ống phải có nhiệt độ như nhau.
Chúng có thể nóng ở trên đỉnh và lạnh ở đáy nhưng nhiệt độ ở mỗi cao độ phải như
nhau.
Cần phải quan tâm đến vị trí ống cảm biến bên
trong lò nung, để tránh cho chúng phải chịu các ảnh hưởng về động lực học gây
ra do vận tốc và sự chảy rối của khí đốt .
3.6. Quy trình sau khi ngừng cấp nhiệt
Tiêu chuẩn TCXDVN 342: 2005 (ISO 834-1) không
quy định những yêu cầu để áp dụng hay tham khảo cho quy trình sau khi ngừng cấp
nhiệt. Tuy nhiên, thực tế ở một số nước, người ta đã duy trì tải trọng thử nghiệm
hoặc tải trọng thử nghiệm được nhân với hệ số trong khoảng thời gian thông thường
là 24 giờ sau thử nghiệm. Mục tiêu của quy trình này là để nhận được thông tin
chung có liên quan đến sức bền và độ cứng của kết cấu toà nhà thay bằng mẫu thử
sau thử nghiệm chịu lửa. Vì thông tin này khó liên hệ được với một tình huống
cháy (hoặc sau khi cháy), nên người ta đã kết luận là các yêu cầu về quy trình
sau khi ngừng cấp nhiệt nằm ngoài phạm vi của tiêu chuẩn này.
Một số nước đi theo hướng thực nghiệm đánh
giá bổ sung tính năng của các kết cấu ngăn cách bằng việc đưa chúng vào một số
dạng thử nghiệm va đập, ngay sau thử nghiệm chịu lửa. Việc này nhằm tái tạo lại
tác động của sự rơi vãi các mảnh vụn hoặc của vòi nước phun đến kết cấu ngăn
cháy, tại những nơi mà kết cấu ngăn cháy được đòi hỏi phải duy trì tính hiệu
quả trong suốt thời gian cháy hoặc sau thời gian chữa cháy Thử nghiệm va đập
này có thể áp dụng sau khi kết thúc hoàn toàn quá trình thử nghiệm chịu lửa
hoặc sau một phần (chẳng hạn, một nửa) của khoảng thời gian đã định và thường được
coi là một cách đo ổn định, ngoài các giả định bất kỳ được mô phỏng theo sự dập
tắt các đám cháy bằng vòi phun của các nhân viên chữa cháy.
Trong hầu hết các trường hợp, cả hai thực
nghiệm nói trên đều cản trở khả năng tiếp tục thử nghiệm chịu lửa vượt quá thời
hạn cháy yêu cầu. Với nhu cầu tăng lên về việc cung cấp số liệu cho phép ngoại
suy và cho những mục đích tính toán khác, việc tổ chức thử nghiệm phải được
khuyến khích để duy trì thời hạn thử nghiệm chịu lửa tới khi các tiêu chí về
giới hạn có thể vượt qua một cách an toàn.
3.7. Kích thước mẫu thử
Tiêu chuẩn TCXDVN 342: 2005 (ISO 834-1) đã
quy định một cách chung là các thử nghiệm chịu lửa phải được thực hiện với
những mẫu thử có kích thước đúng như thực tế. Tiêu chuẩn này cũng thừa nhận
điều này không thường xuyên thực hiện được vì có giới hạn về kích thước của các
thiết bị thử nghiệm. Trong những trường hợp mà không thể sử dụng mẫu thử có
kích thước thực, có thể chế tạo mô phỏng rút gọn kích thước theo các kích thước
nhỏ nhất được tiêu chuẩn hoá cho một mẫu thử đại diện cho một kích thước cần
thiết của một phòng cao 3m và có mặt cắt ngang là 3m x4m.
Việc sử dụng mẫu thử có kích thước thực được
khuyến khích áp dụng do xuất phát từ những khó khăn để đạt được tính năng chịu
lửa hàon toàn theo tỷ lệ mẫu thử của hầu hết cấu kiện chịu tải và một số bộ
phận ngăn cách.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Đối với các hệ thống chịu tải, cần phải nhấn
mạnh tầm quan trọng của việc duy trì được trạng thái chức năng không đổi khi
giảm kích thước của mẫu thử chịu lửa. Chẳng hạn, tỉ lệ giữa chiều dài các cạnh
không được thay đổi khi kích thước thật của sàn bị giảm đi. Nói cách khác, cần
thiết phải duy trì được trạng thái cân bằng giữa các dạng ứng suất khác nhau mà
mẫu thử đại diện với kích thước bị giảm bớt cũng như phải xác định các ứng suất
đại diện theo tỉ lệ nhỏ của toà nhà được xem xét.
3.8. Cấu tạo mẫu thử
Trong tiêu chuẩn TCXDVN 342: 2005 (ISO 834-1)
quy định những vật liệu được sử dụng trong kết cấu mẫu thử, phương pháp thi
công và lắp đặt phải đại diện cho việc sử dụng cấu kiện trong thực tế.
Điều này có nghĩa là các yếu tố đặc trưng như
mối nối của mẫu thử nghiệm các dự phòng về độ giãn nở, về vị trí hoặc những đặc
điểm lắp đặt phải đưa vào mẫu thử theo một cách thức đại diện.
Cần lưu ý rằng, chỉ trừ khi có trường hợp đặc
biệt nào khác, có thể chế tạo các mẫu thử theo một tiêu chuẩn cao hơn những gì
có thể xảy ra trong thực tế. Mặt khác, sự quan tâm đến tính nhất quán trong việc
chế tạo mẫu thử cũng quan trọng, để không dẫn đến các kết quả ngoại lai do những
khuyết tật trong kết cấu này.
Do đó việc mô tả chi tiết và chính xác về mẫu
thử và điều kiện của nó trong thời gian thử nghiệm là cực kỳ cần thiết để bổ
sung thêm các số liệu thử nghiệm, và khi cần thiết phải nêu bật các đặc điểm
này để giải thích cho những điều bất bình thường xảy ra trong các kết quả thử
nghiệm.
3.9. Sự chất tải
Tải trọng đặt lên một mẫu thử trong quá trình
thử nghiệm chịu lửa có tác động đáng kể đến tính năng của nó. Đây cũng là một
điều cần xem xét quan trọng cho việc tiếp tục ứng dụng các số liệu thử nghiệm
này cùng với mối quan hệ của nó với các số liệu của các thử nghiệm khác hoặc
các thử nghiệm tương tự.
TCXDVN 342: 2005 (ISO 834-1), điều 5.4 có qui
định các cơ sở khác nhau để lựa chọn tải trọng.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Cơ sở thứ hai là mối liên quan giữa tải trọng
thử cần thiết với các đặc tính của các vật liệu cấu thành mẫu thử. Các giá trị
này thông thường có thể do nhà sản xuất vật liệu cung cấp hoặc thu được bằng
cách tham khảo tài liệu liên quan đến các đặc tính tiêu chuẩn của các vật liệu được
đề cập (thường đưa ra trong một phạm vi). Trong phần lớn các trường hợp, những
kết quả này là các giá trị thiên về an toàn cho tải trọng thử. Từ đó giá trị thực
tế thường cao hơn các giá trị đặc trưng và các cấu kiện này không chịu các ứng
suất giới hạn dự tính trong các phương pháp thiết kế. Mặc khác, thông lệ này có
liên quan chặt chẽ đến các phương pháp thiết kế điển hình và các thông lệ tương
ứng về qui cách của các vật liệu dùng trong kết cấu công trình. Lợi ích của các
kết quả thu nhận được từ các thử nghiệm này có thể được nâng cao nếu xác định được
các đặc tính thực của vật liệu hoặc đo được các ứng suất thực trong các thành
phần kết cấu của mẫu thử trong suốt qúa trình thử nghiệm cháy.
Cơ sở thứ ba khác với các điều nêu trên ở chỗ
tải trọng nhận được liên quan đến một ứng dụng cụ thể và có giới hạn. Tải trọng
thử nghiệm luôn luôn thấp hơn so với tải trọng thường áp dụng và khi các cấu
kiện đã được lựa chọn trên cơ sở có tính đến việc bắt buộc duy trì tải trọng
thiết kế thông thường theo qui định trong các qui phạm kết cấu được thừa nhận,
thì phải có giới hạn an toàn và tính chịu lửa lớn hơn khi được so sánh với tính
năng của các mẫu thử khi chịu tải trọng được xem xét theo hai cơ sở nói trên.
Ngoài ra, lợi ích của các kết quả thử nghiệm có thể được cải thiện nếu có được
các số liệu liên hệ các đặc tính vật lý thực tế của các vật liệu chế tạo cấu
kiện với các mức ứng suất nhận được trong các cấu kiện này khi chịu tải trọng
đã qui định.
Ngoài các cơ sở tương ứng để phát triển tải
trọng được chất tải trong khi thử nghiệm, cần lưu ý rằng các quy phạm về kết
cấu, được áp dụng trong thiết kế toà nhà, tự chúng có thể qui định cho một số
thành phần thiết kế khác nhau mà không phải lúc nào cũng phù hợp với sự đánh
giá như nhau ở các nước khác nhau. Có sự thay đổi đáng kể khi phân tích tính
đặc thù của tải trọng gió, tuyết và động đất.
Điều quan trọng phải lưu ý là bất cứ phương
pháp nào được sử dụng để phát triển tải trọng trong khi thử nghiệm chịu lửa,
đều phải liên quan đến tải trọng giới hạn của cấu kiện thử nghiệm trước khi cấp
nhiệt, và điều quan trọng là trong báo cáo phải nêu rõ cơ sở phát triển của tải
trọng và bất kỳ thông tin nào có liên quan chẳng hạn như các đặc tính của vật
liệu và các mức ứng suất ảnh hưởng đến ý nghĩa và ứng dụng của các kết quả thử
nghiệm.
Theo các nội dung đã nêu ở trên, tại các điểm
có tải trọng tập trung, có thể tạo ra một mô phỏng chính xác theo các điều kiện
của ứng suất như đã thử nghiệm với dầm và cột. Cần phải chú ý nhiều hơn đến
việc mô phỏng tác dụng của tải trọng đồng đều cho sàn và tường. Số lượng tối đa
của các điểm chịu tải cần được áp dụng, đồng thời hệ thống chất tải cần thích
nghi với độ võng dự kiến trong khi thử và duy trì được phân bố tải trọng cần
thiết.
3.10. Điều kiện cố định và điều kiện biên
3.10.1. Lời giới thiệu
Trong tiêu chuẩn TCXDVN 342: 2005 (ISO 834-1),
điều 5.5 có qui định một số lựa chọn để áp dụng cho ngàm, chống giãn nở nhiệt
hoặc xoay cho các hệ thống chịu tải. Điều khoản này phản ánh lập luận vốn có của
phương pháp thử nghiệm mô tả trong TCXDVN 342: 2005 (ISO 834-1) về thử nghiệm
mẫu thử được tuân thủ một cách nghiêm ngặt sao cho càng sát với việc sử dụng
trong thực tế càng tốt.
Đối với những yêu cầu có liên quan đến thiết
bị cố định mẫu thử theo các điều kiện xảy ra khi xây dựng toà nhà trong thực
tế, cần phải áp dụng nguyên lý sau đây:
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Trong khi thực hiện đánh giá kỹ thuật để xác
định khả năng chịu lực của các bộ phận kết cấu toà nhà, cần lưu ý rằng khả năng
này có thể là do độ cứng theo chiều ngang của các gối tựa cho các tổ hợp sàn,
mái và các dầm trung gian cấu thành một phần của tổ hợp, hoặc trọng lượng của
các kết cấu đỡ. Đồng thời phải có đủ các liên kết để chuyển các lực phát sinh
từ giãn nở nhiệt và/hoặc xoay vào các gối tựa hoặc các kết cấu đỡ. Độ cứng của
các tấm hoặc các kết cấu liền kề cũng cần được xem xét, đánh giá khả năng chống
giãn nở nhiệt. Tính liên tục xuất hiện ở các dầm liên tục, chẳng hạn đặt liên
tục lên hơn hai gối tựa, cũng có khả năng gây ra xoay của các kết cấu .
Từ các kết quả thử nghiệm, người ta biết rõ rằng
các thay đổi về điều kiện cố định có thể ảnh hưởng đáng kể đến thời hạn chịu
lửa của một cấu kiện hoặc một tổ hợp. Trong hầu hết các trường hợp, việc áp
dụng thiết bị cố định trong khi thử nghiệm cháy là có lợi cho tính năng của mẫu
thử. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, điều kiện cố định dọc trục vượt quá
mức cho phép có thể làm tăng nhanh tính không ổn định, hoặc nứt vỡ, xảy ra
trong kết cấu bê tông. Trong những trường hợp khác, đối với tấm bê tông cốt
thép siêu tĩnh một phía tiếp xúc với lửa, mô men cố định có thể gây ra các biến
dạng nứt nghiêm trọng ở các khu vực không có cốt thép hoặc cốt thép yếu, dẫn
đến kết cấu bị nứt gãy.
Theo kinh nghiệm về thử nghiệm chịu lửa cho
các kết cấu bị cố định có thể biết trước một số các tác động bất thường nêu trên.
Cũng có thể liên hệ theo cách thông thường từ điều kiện của các mẫu thử bị cố
định với điều kiện của toà nhà được xây dựng thực tế. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều
việc phải làm và khi không thể liên hệ các điều kiện biên cần thiết của một mẫu
thử với các điều kiện biên mà kết cấu đó sẽ phải thử nghiệm trong công trình
xây dựng thực tế, thì thực nghiệm thường được tiến hành là trong điều kiện có
rất ít hoặc không có sức chịu giãn nở hoặc xoay.
3.10.2. Cấu kiện chịu uốn (dầm, sàn, mái)
Các mẫu thử bao gồm các cấu kiện chịu uốn
hoặc phải tiếp xúc với lửa trong khi tựa trên các gối có con lăn hoặc được thử
nghiệm trong một khung cố định. Trong trường hợp thiết bị cố định giãn nở
nhiệt, dọc trục hoặc xoay có thể được áp dụng theo nhiều cách. Trong thiết bị
ít phức tạp nhất này, mẫu thử được lắp trong một khung cố định có kích thước
sao cho phản ứng được với lực đẩy dọc trục của các cấu kiện trong mẫu thử mà
không bị uốn nhiều. Trong một số trường hợp, lực đẩy dọc trục này đã được đo
theo kích cỡ của khung cố định. Trong những trường hợp khác, mức điều chỉnh được
thực hiện bằng các khe co giãn giữa đầu của cấu kiện và khung cố định. Việc bố
trí như vậy cũng tạo ra sức chống xoay do tiếp xúc và do đó hầu như cố định được
đầu của cấu kiện theo hết độ cao tiết diện của cấu kiện và độ cao tiết diện của
khung cố định. Đối với các bố trí chi tiết, việc cố định và đo mức độ cố định được
thực hiện bằng các kích thủy lực bố trí theo dọc trục và vuông góc với (các)
cấu kiện.
Trong những trường hợp đó, khi xảy ra sự hạn
chế giãn nở nhiệt, sự cấp nhiệt trong khi thử chịu lửa sinh ra một lực nén dọc
trục ở các cấu kiện liên quan. Trong hầu hết các trường hợp, lực này xuất hiện
ở một vị trí trong mặt cắt ngang của cấu kiện mà tại đó mức mô men uốn tương
ứng có xu hướng chống lại tác dụng của mô men uốn do tải trọng được đặt do đó
sẽ làm tăng sức chịu tải và tính chịu lửa, trừ khi có khả năng bị quá tải gây
nứt vỡ hoặc sự mất ổn định vượt quá ảnh hưởng có lợi này. Trong hầu hết các trường
hợp, nếu một cấu kiện uốn được thử nghiệm dưới điều kiện không bị cố định thì
việc sử dụng mẫu này sẽ đại diện cho cấu kiện trong công trình mà sự hạn chế về
giãn nở khi cháy sẽ thiên về an toàn
3.10.3. Cấu kiện hướng trục (cột, tường chịu
tải )
Các thử nghiệm cháy cho cột và tường chịu tải
được tiến hành trong phòng thí nghiệm mô phỏng lý tưởng hóa các ứng suất trong
đám cháy thực. Ví dụ, trong thử nghiệm chưa thể tái tạo các mômen ở đầu có thể
xảy ra trong đám cháy thực tế. Tác dụng của thiết bị cố định, trong thực tế phụ
thuộc vào tính chất, vị trí của ngọn lửa, trong khoang ngăn cháy. Trong trường
hợp điều kiện cấp nhiệt đồng đều ổn định xảy ra trong khoang ngăn cháy thì tác
dụng của thiết bị cố định chống giãn nở có thể giảm đi đáng kể.
Khả năng chịu tải và tải trọng thử liên quan của
các cột và các tường chịu lực phụ thuộc nhiều vào các điều kiện chống đỡ. Trong
các cấu kiện thanh thuộc loại này, giả thiết là có khớp nối, thậm chí các lực
nhỏ phát sinh do ma sát ở các gối tựa cũng có thể làm tăng đáng kể sức chịu tải.
Trong thử nghiệm cháy, việc lắp thiết bị cố định một cách không cố ý vào đầu
mẫu thử có thể làm tăng sức chịu thử nghiệm lên đáng kể. Theo kinh nghiệm đã
được thực hiện ở một số phòng thí nghiệm thì rất khó tạo các điểm phản lực
(hoặc chất tải) hướng trục, đồng tâm với cột, kể cả việc sử dụng các gối tựa
hình cầu, và đây là một kiến nghị thực hiện để đưa vào độ lệch tâm nhỏ đã biết.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
3.10.4. T´ờng và vách ngăn không chịu lực
Theo lôgíc tất cả các tường và các vách ngăn
không chịu lực đều phải được thử nghiệm là không chịu ngoại lực. Tuy nhiên,
trong thực tế, các cấu kiện này phải chịu tải trọng chuyển từ các cấu kiện khác
của tòa nhà hoặc chịu phản lực do sự giãn nở của chính các cấu kiện khi tiếp
xúc với lửa. Do đó cần phải tiến hành các thử nghiệm trên các cấu kiện này
trong một khung kín đủ cứng để tương tác được với các lực giãn nở phát sinh từ
mẫu thử trong thử nghiệm có ít hoặc không có biến dạng.
3.10.5. Đo lường trong phòng thí nghiệm
Vì hiện nay thiếu các thông tin về các tác
dụng của thiết bị cố định giãn nở nhiệt hoặc cố định xoay, các phòng thí nghiệm
nên cố gắng xác định độ lớn và chiều của các lực cố định, khi thử nghiệm các
mẫu thử bị cố định dưới bất kỳ hình thức nào.
3.11. Kiểm chuẩn
Việc kiểm chuẩn là phương pháp bảo đảm rằng
các mẫu thử đồng nhất được thử nghiệm tuân theo tiêu chuẩn này, trong các lò
nung khác nhau hoặc trong cùng một lò nung nhưng vào những thời điểm khác nhau,
sẽ cho các kết quả có thể so sánh được. Nếu đáp ứng được mục tiêu này, thời
gian mà mẫu thử đã xác định đạt được tính năng yêu cầu bao gồm cả sức chịu tải
và cách nhiệt, sẽ không khác nhau đáng kể.
Đặc điểm chủ yếu của việc kiểm chuẩn trong
thử nghiệm chịu lửa liên quan đến các phương pháp và việc trang bị dụng cụ đo
kiểm để khống chế và đo nhiệt độ, áp lực và không khí trong lò nung. Mục tiêu
của thực nghiệm kiểm chuẩn lò nung là xác lập các điều kiện cấp nhiệt đồng đều
trên khắp bề mặt tiếp xúc nhiệt của mẫu thử và đạt được mức tiếp xúc chịu nhiệt
qui định. Mục đích của một thử nghiệm như vậy cũng còn để bảo đảm có được
gradient áp lực tĩnh tuyến tính trên mặt tiếp xúc nhiệt của mẫu thử theo phương
thẳng đứng, và có được áp lực tĩnh đồng đều trên khắp mặt tiếp xúc nhiệt của
các mẫu thử nằm ngang.
Một phương pháp kiểm chuẩn chú trọng vào các
điều kiện nhiệt độ và áp lực trong lò nung được mô tả trong tài liệu tham khảo
có liên quan.
Khả năng chịu tải của một mẫu thử cũng có thể
chịu tác động của các yếu tố như: gối đỡ mẫu thử; các điều kiện biên và cố
định, việc đặt tải trọng thiết kế; và việc đo độ lớn tải trọng, đo độ biến dạng
và đo độ võng bằng các thiết bị đã được so sánh với các tiêu chuẩn tham chiếu.
Không có qui định nào về phương pháp kiểm chuẩn trực tiếp đánh giá các đặc điểm
nói trên và độ tin cậy phải tuân theo sự nhất quán về các qui định kỹ thuật của
các thông số trong phương pháp thử nghiệm và phải đạt được các điều kiện về áp
lực và nhiệt độ dựa trên phương pháp được mô tả trong tài liệu tham khảo có
liên quan.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
4.1. Mục tiêu
Mục đích của việc xác định tính chịu lửa, như
quy định trong TCXDVN 342: 2005 (ISO834-1) là nhằm đánh giá tình trạng của một
bộ phận trong toà nhà trong điều kiện tiêu chuẩn về đốt nóng và áp lực. Phương
pháp thử nghiệm được mô tả trong tiêu chuẩn này, nhằm đánh giá định lượng của
một kết cấu xây dựng trong điều kiện nhiệt độ cao bằng cách thiết lập các tiêu
chí về tính năng. Các tiêu chí này được dùng để đảm bảo, dưới các điều kiện thử
nghiệm, một bộ phận mẫu thử tiếp tục thể hiện chức năng thiết kế như là một cấu
kiện đỡ hoặc một cấu kiện ngăn cách, hoặc cả hai. Các tiêu chí này dựa trên khả
năng chịu tải và sự lan truyền của đám cháy. Lửa có thể được truyền từ khoang
này sang khoang khác theo hai cách, hoặc mất đi tính toàn vẹn hoặc thông qua sự
lan truyền mạnh mẽ của sức nóng, làm cho nhiệt độ bề mặt không tiếp xúc cháy
cao hơn mức cho phép.
Biểu đồ đường cong nhiệt độ - thời gian được
quy định trong tiêu chuẩn này chỉ đại diện cho một số điều kiện tiếp xúc lửa có
thể xảy ra trong giai đoạn phát triển đám cháy và phương pháp này không định lượng
tình trạng của một kết cấu trong tình huống cháy thực tế trong một khoảng thời
gian xác định (xem điều 3.1.).
4.2. Khả năng chịu tải
Tiêu chí này được dùng để xác định khả năng
một cấu kiện chịu tải để đỡ tải trọngthử nghiệm trong suốt quá trình thử chịu
lửa mà không bị phá huỷ. Muốn đo khả năng chịu tải mà không cần phải duy trì
thử nghiệm đến khi kết cấu bị phá huỷ thì giới hạn của độ biến dạng và độ võng
tối đa cho sàn, dầm và trần phải được xác định trước. Việc đưa ra giới hạn cho tường
là không thể được vì theo kinh nghiệm, độ biến dạng ghi nhận được ngay trước
khi bị phá huỷ của các dạng tường có độ lớn khác nhau.
4.3. Tính toàn vẹn
Tiêu chí này có thể áp dụng cho các kết cấu
ngăn cách và đưa ra phép đo khả năng khống chế sự lan truyền của ngọn lửa và
khí nóng từ mặt tiếp xúc lửa sang mặt không tiếp xúc lửa của mẫu thử tuỳ thuộc
thời gian đã trôi qua trước khi có sự bùng cháy của tấm đệm bằng sợi bông ở bất
cứ nơi nào có vết nứt hoặc khe hở. Khả năng bùng cháy của tấm đệm sẽ phụ thuộc
vào kích thước của khe hở, áp lực bên trong lò nung tại vị trí khe hở, nhiệt độ
và hàm lượng oxy.
Sự bùng cháy trên mặt tiếp xúc lửa của kết
cấu có thể gây ra nguy hiểm không cho phép và do vậy, ở nơi có thể dẫn tới sự
bùng cháy của tấm đệm cũng có nghĩa là nơi đó không đáp ứng được tiêu chí về
tính toàn vẹn.
4.4. Tính cách ly
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Khi kết cấu ngăn cách được thử nghiệm là
không được cách nhiệt hoặc vượt quá giới hạn nhiệt độ quy định, sự bức xạ nhiệt
từ mặt không tiếp xúc với lửa có thể đủ để làm tấm đệm sợi bông bùng cháy.
Các mức quy định được đưa ra để đảm bảo, khi
nhiệt độ ở dưới mức quy định, bất cứ vật liệu dễ cháy nào khi tiếp cận với mặt không
tiếp xúc lửa sẽ không đủu để bùng cháy tại các mẫu thử nghiệm, trang bị dụng cụ
được cung cấp phù hợp với TCXDVN 342: 2005 (ISO834-1), điều 4.5.1.2, giới hạn
sự tăng nhiệt độ tối đa gồm chỉ dẫn các diện tích tiềm năng trên kết cấu có thể
tạo ra đường truyền nhiệt trực tiếp và tạo ra điểm nóng trên mặt không tiếp xúc
với lửa, khi các mẫu thử được cung cấp theo yêu cầu trong TCXDVN 342: 2005
(ISO834-1), điều 4.5.1.2.
Đã có một số đề xuất là các giá trị giới hạn
về sự tăng nhiệt độ có phần thiên về an toàn, vì các giá trị này dựa trên cơ sở
giả thiết là nhiệt độ mặt không tiếp xúc với lửa tiếp tục tăng nhiệt độ sau khi
lửa đã bị chuyển khỏi hệ thống thử nghiệm. Các thí nghiệm được tiến hành bằng
cách sử dụng các hộp chứa đầy mẩu len hoặc gỗ vụn được đặt ép vào bề mặt không
tiếp xúc với lửa của các bức tường gạch tiếp xúc lửa theo đúng với thử nghiệm
chịu lửa tiêu chuẩn. Không có bất cứ bằng chứng bùng cháy của gỗ hoặc bông tại
nhiệt độ dưới 204oC (hoặc nhiệt độ tăng là 163oC) trong
khoảng thời gian tiếp xúc lửa từ 1,5 đến 12 giờ. Dấu hiệu bùng cháy được quan sát
thấy khi nhiệt độ nằm trong khoảng 204oC đến 232oC và
bằng chứng bùng cháy cuối cùng xuất hiện khi nhiệt độ đạt tới 232oC đến
260oC.
4.5. Các đặc tính khác
Khi áp dụng các phương pháp thử nghiệm quy
định trong tiêu chuẩn này cho các vật liệu tạo thành mẫu thử có thể xuất hiện
một số các đặc tính khác không mong muốn trong quá trình tiến hành thử nghiệm,
chẳng hạn như hiện tượng tạo khói. Các hiện tượng này không được đề cập trong
tiêu chí này mà được đánh giá chính xác hơn bằng các phương pháp thử nghiệm
riêng.
5. Phân loại
Các toà nhà được quy định điển hình trong
giới hạn về chiều cao, diện tích, kiểu sử dụng và sự ngăn cách bằng sự phân
chia chủ yếu theo yêu cầu và các bộ phận đỡ, phải đưa ra các thời hạn tối thiểu
cho phép về tính chịu lửa thông qua các kết quả thử nghiệm chịu lửa tiêu chuẩn được
áp dụng cho các kết cấu mẫu đại diện cho các bộ phận của các công trình xây
dựng đó.
Tiêu chuẩn này cung cấp một hệ thống biểu
hiện tính năng của các kết cấu xây dựng đã thử nghiệm chịu lửa, có liên quan
đến các đặc tính đã được xem xét khi xác định tính năng, ví dụ, độ ổn định về kết
cấu, tính toàn vẹn và tính cách ly. Tính năng được biểu hiện bằng các đơn vị
thời gian, thích hợp với thời gian mà các tiêu chí được chấp nhận có thể áp
dụng cho các đặc tính phù hợp nói trên.
Trong thực tế, quy chuẩn và quy định ở các nước
sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để quy định về yêu cầu chịu lửa. Một số nước
yêu cầu tuyệt đối là công trình phải được xem xét đã đáp ứng tất cả các tiêu
chí tính năng về khoảng thời gian cần thiết. Tiêu chuẩn của một số nước khác và
trong các hoàn cảnh khác thì chỉ cần có một hoặc hai đặc thù tính năng được yêu
cầu để đáp ứng cho toàn bộ hoặc một phần thời hạn thử nghiệm chịu lửa. Do vậy,
các quy chuẩn và quy định thường mong muốn đưa ra các đánh giá chất lượng một
cách phù hợp và rõ ràng, khi các quy định trên được chấp nhận.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Cũng cần phải chú ý là ở một số nước phân biệt
cách phân loại theo kết cấu dễ cháy và kết cấu không cháy. Thực tế ở một vài nước
đã đưa các chữ được mã hoá hoặc các dạng phân loại theo ký hiệu khác để biểu
thị cho bộ phận cấu kiện có liên quan đến bậc chịu lửa của công trình
6. Khả năng lặp lại
và tái tạo lại
Trong khi tiêu chuẩn này được soát xét nhằm
tăng khả năng lặp lại và tái tạo lại, cho đến nay chưa có bất cứ một chĐơng
trình thử nghiệm tổng hợp trước đó khai thác số liệu để lấy các số liệu thống kê
về khả năng lặp lại và tái tạo lại các thử nghiệm chịu lửa nêu trên. Khi việc
thử nghiệm lặp lại với các mẫu thử giống nhau là không yêu cầu và không theo
thói quen, nên các số liệu thống kê có sự biến động rất ít. Tuy nhiên vẫn tồn
tại một số nguồn số liệu được thu thập khác nhau.
Khả năng lặp lại và tái tạo lại thường được
thể hiện theo độ lệch tiêu chuẩn hoặc hệ số biến thiên (tỉ lệ giữa độ lệch
chuẩn và giá trị trung bình tổng thể được thể hiện bằng tỉ lệ phần trăm); nó
cũng có thể được thể hiện sự chênh lệch tới hạn hoặc độ chính xác tương đối
(chênh lệch tới hạn trong đó hai giá trị trung bình có thể đạt tới 95% thời
gian.
Hiện nay chưa có sự Đức tính đúng cho một hệ
số chênh lệch về khả năng tái tạo lại, nhưng các kinh nghiệm chỉ ra rằng, khả
năng lặp lại giữa các phòng thí nghiệm có thể gấp hai hoặc ba lần khả năng tái
tạo lại trong phòng thí nghiệm.
Khả năng lặp lại và tái tạo lại có thể được
cải thiện nhờ nghiên cứu các yếu tố sau đây:
6.1. Khả năng lặp lại
Khả năng lặp lại là một số đo về khả năng
thay đổi theo thời hạn chịu lửa liên quan đến các thử nghiệm tái tạo lại với
cùng một tổ hợp danh nghĩa trong một phòng thí nghiệm độc lập. Khả năng biến
đổi theo thời gian chịu lửa đo được có thể do các nhân tố ngẫu nhiên hoặc nhân
tố mang tính hệ thống, và có thể có liên quan đến:
a) Tổ hợp mẫu thử;
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
c) Thiết bị điều khiển;
d) Người điều khiển (việc kiểm tra hoặc giám
sát);
e) Các tác động của môi trường.
Các yếu tố ngẫu nhiên bao gồm khả năng thay
đổi về vật liệu và tay nghề; độ lớn tải trọng và phân bố tải trọng (ví dụ, mức
độ ngàm, tính ổn định tại đầu mút, độ lệch tâm của tải trọng); sự biến đổi của
thiết bị cảm biến và các dụng cụ đo; các ảnh hưởng đến người điều khiển, các
thay đổi về môi trường (nhiệt độ, độ ẩm , v.v...).
Các yếu tố có tính hệ thống bao gồm các khía
cạnh như các yếu tố được đưa ra ở trên, ví dụ, người điều hành các tổ hợp thiết
bị, nhân viên, tổ hợp mẫu khác nhau; các thay đổi có tính hệ thống (tăng hoặc
giảm) của nhiệt độ và áp lực lò nung; các chuyển dịch trong hiệu chỉnh cỡ thiết
bị cảm biến và các dụng cụ.
Trong một vài trường hợp, một yếu tố tới hạn
nguy hiểm có thể gồm cả hai khía cạnh ngẫu nhiên và hệ thống. Chẳng hạn, độ lớn
(và tính biến thiên) của áp lực lò nung có thể phát hiện sự phá hoại sớm của
một trần treo cấu thành phần của một tổ hợp trần - sàn. Điều này có thể xảy ra
một cách ngẫu nhiên tại mức áp lực (được khống chế) và có tính hệ thống tại một
mức áp lực cao hơn một chút.
6.2. Khả năng tái tạo lại
Khả năng tái tạo là khả năng đo sự biến đổi
trong thời hạn chịu lửa kết hợp với các thử nghiệm trên cùng một tổ hợp danh
nghĩa trong các phòng thí nghiệm khác nhau. Các yếu tố ngẫu nhiên và mang tính
hệ thống được nêu ra ở trên cũng có thể áp dụng cho thay đổi giữa các phòng thí
nghiệm. Các yếu tố có tính hệ thống đặc trưng có thể làm tăng sự thay đổi bao
gồm:
- Chênh lệch giữa các lò nung (ví dụ, kích thước
của các mẫu thử, dạng nhiên liệu đốt, số lượng, hình dạng và hướng lò);
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
- Các điều kiện biên (ví dụ, ngàm, sự làm mát
quanh lò);
- Trang bị các dụng cụ điều khiển và ghi nhận
(ví dụ tự động/thủ công; nhiệt độ; áp lực);
- Diễn giải các điều kiện và tiêu chí thử
nghiệm.
7. Phép nội suy và
phép ngoại suy
a) Phép nội suy
Là việc xác định tác động tới sự thay đổi
trên một bộ phận kết cấu mà trước đó đã qua hàng loạt các thử nghiệm chịu lửa
và đã được chấp nhận theo phân loại chịu lửa nằm trong phạm vi được thiết lập
nhờ thử nghiệm. Phép nội suy cần có các quan hệ toán học hoặc theo thực nghiệm,
được phát triển trên cơ sở lấy giá trị nhỏ nhất của các kết quả qua hai lần thử
nghiệm. Các yếu tố có thể được xem xét là: các biến đổi về kích thước, vật liệu
hoặc thiết kế nằm trong phạm vi các sai lệch đã được kiểm tra nhờ thử nghiệm.
b) Phép ngoại suy
Phép ngoại suy về tác động đến sự biến đổi
trên một bộ phận kết cấu đã qua thử nghiệm chịu lửa và chấp nhận phân loại chịu
lửa với mục đích có thêm một phân loại được mở rộng vượt quá phạm vi được xác
định nhờ thử nghiệm. Phép ngoại suy đòi hỏi một mô hình cháy được phát triển
trên cơ sở của một hoặc nhiêù thử nghiệm và các số liệu tương ứng khác của tính
năng cháy. Các yếu tố có thể được xem xét là: các thay đổi về kích thước, vật
liệu hoặc thiết kế, thông thường nằm ngoài phạm vi các thay đổi được kiểm
tchứng nhờ các thử nghiệm. Độ tin cậy của phép ngoại suy tuỳ thuộc vào tính xác
thực của mô hình cháy được sử dụng và điều này cần được quy định khi quy trình được
thực hiện.
Một số các yếu tố khác có ảnh hưởng đến khả
năng tạo lập các phép nội suy và ngoại suy. Khi biết trước được các số liệu
ngoài yêu cầu, thì tất cả các thông số liên quan phải được điều chỉnh và nếu
cần các phép đo bổ sung cũng được tiến hành để tạo thuận lợi cho công việc này.
Có ba thông số chủ yếu cần được xem xét cho mục đích trên:
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
b) Những thay đổi về vật liệu: cĐờng độ, mật
độ, tính cách nhiệt, độ ẩm;
c) Những thay đổi về tải trọng và thiết kế -
tải trọng, các điều kiện biên, các phương thức ghép nối và ổn định.
Sự phù hợp của các thông số trên tuỳ thuộc
vào kiểu mẫu thử và các thay đổi được xem xét . Chỉ có thể dẫn ra một số các
yếu tố có liên quan trong một vài trường hợp điển hình. Để làm được điều này,
các mẫu thử có thể được phân chia thành các giới hạn chịu tải và ngăn cách.
Trong trường hợp trước chủ yếu là bảo đảm rằng sự biến thể có thể đỡ có hiệu
quả các tải trọng và trường hợp sau vẫn duy trì được tính cách ly và tính toàn
vẹn . Trong một số trường hợp, cả hai khái niệm đều được áp dụng.
Các thành phần chịu tải chính đối với các nguyên
tắc đơn giản có khả năng áp dụng là các hệ thống thép cách nhiệt, kết cấu
bêtông bảo vệ cho cốt thép và kết cấu gỗ có tốc độ cháy thành than là một hệ số
tới hạn. Trong trường hợp cho các cấu kiện thép, có ảnh hưởng do khác nhau về
kích thước, tải trọng và ý tưởng thiết kế sẽ dẫn đến một đích tới hạn mới cho
vật liệu cách li. Đối với các cấu kiện bêtông, một phương pháp tương tự có thể dùng
cho các hệ thống đơn giản khi hoặc thép trong bêtông cần phải ngăn không cho
đạt tới trạng thái tới hạn, hoặc với các lắp ráp phức tạp hơn, sự phân phối lại
các ứng suất và biến dạng cũng phải được tính đến. Hầu hết các kết cấu gỗ có
thể được phân tích dựa trên cơ sở cân nhắc cĐờng độ ban đầu của mặt cắt chưa bị
cháy. Một số các tài liệu công bố,cung cấp hướng dẫn cho một vài hệ thống kết
cấu điển hình bằng các loại vật liệu nói trên.
Các phép nội suy và ngoại suy có thể được
phân chia thành 4 nhóm, trong đó mỗi nhóm có độ phức tạp tăng lên. Các nguyên
tắc chính xác và các giới hạn áp dụng sẽ cần phải được sự nhất trí của các cơ
quan cấp quốc gia, sử dụng các quy trình sau:
a) Các nguyên tắc thiết kế định lượng dựa
trên các thử nghiệm chịu lửa và các khái niệm chung. Các nguyên tắc đó chỉ
dùngcho các chuyên gia trong lĩnh vực này.
b) Các nguyên tắc thiết kế định lượng (hoặc các
nguyên tắc kinh nghiệm) được dựa trên các thử nghiệm chịu lửa trong đó quy định
một giá trị nào đó về chịu lửa của các vật liệu, sản phẩm tránh được các kết
quả không thực tế.
c) Kỹ thuật quy nạp: Việc kiểm tra một số
thông số trong một chuỗi hệ thống các thử nghiệm và sự xác định mối quan hệ thu
được một cách thích hợp nhất từ việc sử dụng kỹ thuật quy nạp.
d) Mô hình vật lý: Sự phát triển của một mô
hình vật lý liên kết tính chịu lửa với các đặc tính vật liệu, hoặc là từ các
nguyên tắc đầu tiên, hoặc bằng việc dùng các số liệu thử nghiệm. Sau khi mô
hình được hợp lý hoá, tính chịu lửa có thể được xác định theo số liệu đầu vào
của các đặc tính thích hợp.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Tham khảo thêm trong tiêu chuẩn ISO/TR 10158
8. Mối quan hệ giữa
tính chịu lửa và đám cháy công trình
Khi xem xét đến mối quan hệ này, điều cần
thiết là phải hiểu rằng, việc xác định tính chịu lửa được thực hiện theo một
quy trình thử nghiệm hoàn chỉnh. Khi so sánh với các đám cháy công trình, cần tập
trung sự chú ý vào đường cong nhiệt độ - thời gian và mối quan hệ của nó với
nhiệt độ và mức tăng nhiệt độ có thể đạt được trong các đám cháy như thật trong
các tình huống cháy khác nhau.
Thử nghiệm được dùng để đánh giá chất lượng
kết toà nhà, nhờ vậy đề xuất được mức cần thiết về an toàn cháy. Điều này đạt được
nhờ áp dụng kết quả thử nghiệm chịu lửa thông qua một số quy chuẩn hoặc văn bản
pháp quy, trong đó xác định tính năng cần thiết trong tình huống đã cho. Sự
thoả đáng của một phương pháp được giám sát qua thông tin phản hồi nhờ thực
nghiệm, mà nhìn chung là tránh được những mức độ phá hoại không thể chấp nhận.
Kết quả thử nghiệm được đưa ra nhằm phân loại
chịu lửa hoặc mức chịu lửa được thể hiện bằng khoảng thời gian thoả mãn các
tiêu chuẩn hiện hành.
Khoảng thời gian này đại diện cho sự phân
loại tương đối về tính năng và không thể liên hệ trực tiếp với tình huống cháy
của một toà nhà nào đó. Điều quan trọng phải ghi nhận được sự chuyển đổi từ
cách biểu thị về thời gian sang biểu thị bằng tính năng kỹ thuật của công trình
khi xảy ra cháy, được thiết lập thông qua các quy chuẩn xây dựng.
Tính năng thực tế đạt được trong quá trình
thử nghiệm chịu lửa có quan hệ mật thiết tới các điều kiện thử, tới phạm vi mô
phỏng công trình trong thử nghiệm và tới các tiêu chí được áp dụng để phát hiện
phá hoại khi thử. Một thay đổi nhỏ trong các điều kiện thử về phá hoại, đặc
biệt là khi có liên quan đến tính toàn vẹn và tính cách nhiệt, cũng có thể ảnh hưởng
đáng kể đến kết quả đánh giá.
Đặc biệt, thời gian được ghi nhận trong thử
nghiệm chịu lửa, đối với tiêu chí này, không phải chịu mối quan hệ trực tiếp
với thời gian phá hoại, trong đám cháy thực tế. Điều này đã được ghi nhận như một
nguyên tắc ngay từ lúc bắt đầu thử nghiệm .
Việc kiểm tra tính năng thông quan tiến hành
thử nghiệm chịu lửa đã có từ hàng trăm năm nay. Các thử nghiệm ban đầu đã tạo
ngọn lửa bằng khí đốt, dầu, gỗ, thậm chí kết hợp các loại nhiên liệu nói trên.
Sự khác nhau lớn về điều kiện thử gây ra khó khăn cho việc so sánh và đánh giá
các kết quả thu được.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Hệ thống phân loại được đưa ra, trong đó các
bộ phận đặt trong một khoảng thời gian dài hơn trong lò nung thử nghiệm nhằm đưa
ra các tiêu chuẩn lựa chọn được thừa nhận là có thể có tính năng tốt hơn khi
xảy ra cháy công trình trong thực tế. Ingberg, là người đầu tiên sử dụng khái
niệm diện tích bằng nhau, cố gắng và biểu diễn thử nghiệm tiêu chuẩn trong các
tình huống cháy thực tế, thu được mối quan hệ tương đương giữa tải trọng cháy
mô phỏng cần thiết và thời hạn chịu lửa.
Nhiều cố gắng gần đây đã và đang được thực
hiện để củng cố mối liên hệ giữa phương pháp thử và các đám cháy công trình
thực tế. Các cố gắng này đã được mở rộng đưa vào các yếu tố như thông gió, kích
thước khoang cháy, tải trọng cháy và các đặc tính nhiệt của khoang cháy. Mục
đích của các cố gắng này là có thể định lượng được mức độ khắc nghiệt có thể xảy
ra khi cháy, nhờ vậy thông qua các mối quan hệ được rút ra từ kinh nghiệm thực
tế, có thể quy định một thời hạn chịu lửa đạt được trong thử nghiệm mà vẫn đảm bảo
an toàn. Nhiều phần trong công việc này đã được Odeen rà soát lại.
Thử nghiệm chịu lửa được coi như một cách đo
kết quả tương đối giữa các bộ phận trong công trình với các tình huống cháy,
trong đó cố gắng đạt được giá trị xấp xỉ cho cả đám cháy thật và mô hình cháy
tự nhiên.
Các cố gắng để thử nghiệm có tính thực tiễn
hơn cần phải được nhìn nhận một cách thận trọng. Bất cứ sự đo lường nào làm
thay đổi đáng kể việc phân loại chịu lửa hiện hành đều phải được làm sáng tỏ
bằng thực nghiệm trong đó sử dụng kết quả thử, và chỉ được thực hiện nếu các
thay đổi về mức độ an toàn được thừa nhận là cần thiết và thích hợp.