TIÊU CHUẨN VIỆT
NAM
TCVN 7668
: 2007
KIỂM
DỊCH THỰC VẬT – PHÂN TÍCH NGUY CƠ DỊCH HẠI ĐỐI VỚI DỊCH HẠI KIỂM DỊCH THỰC VẬT,
BAO GỒM PHÂN TÍCH NGUY CƠ VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ SINH VẬT SỐNG BIẾN ĐỔI GEN.
Pest risk analysis
for quarantine pests including analysis of environmental risks and living
modified organisms
Lời nói đầu
TCVN 7668:2007 được xây dựng dựa trên ISPM
No.11, FAO, Rome, 2004;
TCVN 7668:2007 do Tiểu ban kỹ thuật tiêu
chuẩn TCVN/TC/F7/SC1 Kiểm dịch thực vật biên soạn, Tổng cục Tiêu chuẩn
Đo lường Chất lượng đề nghị, Bộ Khoa học và Công nghệ công bố.
KIỂM DỊCH THỰC VẬT –
PHÂN TÍCH NGUY CƠ DỊCH HẠI ĐỐI VỚI DỊCH HẠI KIỂM DỊCH THỰC VẬT, BAO GỒM PHÂN
TÍCH NGUY CƠ VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ SINH VẬT SỐNG BIẾN ĐỔI GEN.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
1. Phạm vi áp dụng
Tiêu chuẩn này hướng dẫn việc phân tích nguy
cơ dịch hại (PRA) để xác định một loài dịch hại có phải là dịch hại kiểm dịch
thực vật (KDTV) hay không. Tiêu chuẩn này mô tả qui trình tổng hợp được sử dụng
để đánh giá nguy cơ cũng như lựa chọn các giải pháp quản lý nguy cơ.
Tiêu chuẩn này cũng bao gồm những chi tiết
liên quan đến phân tích nguy cơ dịch hại thực vật đối với môi trường và tính đa
dạng sinh học, kể cả những nguy cơ ảnh hưởng đến các loài thực vật hoang dại,
môi trường sống và hệ sinh thái trong vùng PRA. Một số bình luận giải thích về
phạm vi của Công ước quốc tế về Bảo vệ thực vật (IPPC) đối với nguy cơ về môi
trường được nêu trong Phụ lục A.
Hướng dẫn này cũng bao gồm hướng dẫn đánh giá
nguy cơ về KDTV tiềm tàng đối với thực vật và sản phẩm thực vật do các sinh vật
sống biến đổi gen (LMO) tạo ra. Hướng dẫn này không làm thay đổi phạm vi của
tiêu chuẩn mà làm rõ hơn các vấn đề có liên quan đến PRA đối với LMO. Những bình
luận giải thích về phạm vi của IPPC đối với phân tích nguy cơ dịch hại LMO được
nêu trong Phụ lục B.
2. Tài liệu viện dẫn
Các tài liệu viện dẫn sau là rất cần thiết
cho việc áp dụng tiêu chuẩn. Đối với các tài liệu viện dẫn ghi năm ban hành thì
áp dụng bản được nêu. Đối với các tài liệu viện dẫn không ghi năm ban hành thì
áp dụng phiên bản mới nhất, bao gồm cả các sửa đổi.
TCVN 3937:2007, Kiểm dịch thực vật – Thuật
ngữ và định nghĩa.
TCVN 6907:2001, Biện pháp Kiểm dịch thực vật
– Các nguyên tắc KDTV liên quan đến thương mại quốc tế.
TCVN 7515:2005, Kiểm dịch thực vật – Yêu cầu
để thiết lập các vùng không nhiễm dịch hại.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
TCVN 7669:2007, Yêu cầu đối với việc thiết
lập các khu vực và địa điểm sản xuất không nhiễm dịch hại.
ISPM No.3, Code of conduct for the import and
release of exotic biological control agents (Mã sản xuất cho việc nhập khẩu và
phóng thả đối với những tác nhân điều kiện sinh học ngoại lai), FAO, Rome,
1996.
ISPM No.7, Export certification system (Hệ
thống chứng nhận xuất khẩu), FAO, Rome, 1997.
ISPM No.12, Guidelines for phytosanitary certificates
(Hướng dẫn đối với Giấy chứng nhận KDTV), FAO, Rome, 2001.
Cartagena Protocol on Biosafety to the
Convention on Biological Diversity (Nghị định thư Cartagena về An toàn sinh học
theo Công ước về Đa dạng sinh học), 2000, CBD, Montreal.
International Plant Protection Convention
(Công ước quốc tế về Bảo vệ thực vật), FAO, Rome, 1997.
3. Thuật ngữ và định
nghĩa
Trong tiêu chuẩn này áp dụng các thuật ngữ và
định nghĩa theo TCVN 3937:2007.
4. Khái quát yêu cầu
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
- Giai đoạn 1 (khởi đầu): xác định loài dịch
hại và đường lan truyền liên quan đến KDTV dùng làm căn cứ xem xét khi PRA của
một vùng xác định.
- Giai đoạn 2 (đánh giá nguy cơ): bắt đầu
bằng việc phân cấp của từng loài dịch hại để xác định xem liệu chúng có thỏa
mãn với các yếu tố của một dịch hại KDTV hay không. Đánh giá nguy cơ được tiếp
tục với việc đánh giá khả năng xâm nhập, thiết lập quần thể, lan rộng và nguy
cơ gây thiệt hại kinh tế của các loài dịch hại (bao gồm cả hậu quả môi trường).
- Giai đoạn 3 (quản lý nguy cơ): đưa ra các
biện pháp quản lý nhằm giảm những nguy cơ được xác định ở giai đoạn 2. Đánh giá
hiệu quả, tính khả thi và tác động của các biện pháp này để lựa chọn các biện
pháp phù hợp.
5. Phân tích nguy cơ
dịch hại đối với dịch hại KDTV
5.1. Giai đoạn 1: Khởi đầu
Mục đích của giai đoạn này là xác định loài
dịch hại, đường lan truyền liên quan đến kiểm dịch và phải được xem khi phân
tích nguy cơ có liên quan đến vùng PRA xác định.
Một số LMO có mặt có thể gây ra những nguy cơ
về KDTV, vì vậy việc PRA đối với chúng là cần thiết. Tuy nhiên, một số LMO khác
không có nguy cơ về KDTV, vì vậy cũng không cần thiết phải áp dụng toàn bộ quá
trình PRA đối với chúng. Do đó, đối với LMO, giai đoạn khởi đầu là xác định
những LMO có những đặc điểm của một loài dịch hại nguy cơ và đánh giá chúng
theo tiêu chuẩn này.
LMO là những sinh vật bị biến đổi bằng kỹ thuật
công nghệ sinh học hiện đại để thể hiện một hoặc một số đặc điểm mới hoặc đặc
điểm bị thay đổi. Trong hầu hết các trường hợp, bố mẹ của LMO thường không bị
xem là dịch hại thực vật, nhưng việc đánh giá vẫn có thể cần được thực hiện để
xác định liệu sự thay đổi về di truyền (nghĩa là thay đổi về gen, chuỗi gen
liên quan đến các gen khác hoặc sản phẩm gen) có tạo ra một đặc điểm hoặc dấu
hiệu mới mà có thể có nguy cơ trở thành dịch hại thực vật hay không.
LMO có thể có nguy cơ trở thành dịch hại thực
vật gồm:
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
- sinh vật có sự kết hợp của vật liệu gen (ví
dụ chuyển gen của virus thực vật vào sinh vật) hoặc
- sinh vật có vật liệu gen được chuyển cho
các sinh vật khác.
5.1.1. Điểm khởi đầu
Quá trình PRA có thể xuất phát từ:
- việc phát hiện đường lan truyền có nguy cơ
dịch hại tiềm ẩn;
- việc phát hiện một loài dịch hại có thể cần
áp dụng các biện pháp KDTV;
- việc soát xét hoặc sửa đổi các chính sách
và ưu tiên về KDTV.
Điểm khởi đầu của PRA thường bắt đầu từ các
loài “dịch hại”. IPPC đã định nghĩa thuật ngữ dịch hại là “bất cứ loài, chủng
hoặc dạng sinh học của thực vật, động vật hoặc tác nhân gây bệnh, vi sinh vật
gây hại cho thực vật hoặc sản phẩm thực vật”. Đối với trường hợp dịch hại là
thực vật, thì điều quan trọng phải chú ý là loài thực vật đó phải thỏa mãn định
nghĩa này. Các loài dịch hại ảnh hưởng trực tiếp đến thực vật cũng thỏa mãn
định nghĩa này. Ngoài ra, các loài sinh vật ảnh hưởng gián tiếp đến thực vật
cũng phải thỏa mãn định nghĩa này (ví dụ: cỏ dại/ thực vật xâm lấn). Thực tế
là, có thể căn cứ vào những bằng chứng thu thập được tại nơi các sinh vật này
sinh sống để kết luận được chúng có nguy hiểm với thực vật hay không. Trong
trường hợp chúng có ảnh hưởng gián tiếp đến thực vật nhưng thiếu bằng chứng, có
thể sử dụng các thông tin thích hợp sẵn có để đánh giá nguy cơ gây hại của
chúng trong vùng PRA thông qua sử dụng một hệ thống minh bạch, được áp dụng
chặt chẽ và được chứng minh rõ ràng bằng tài liệu. Điều này là rất quan trọng
đối với các loài thực vật hoặc giống cây nhập khẩu để gieo trồng.
NPPO có thể yêu cầu đánh giá nguy cơ kiểm
dịch thực vật đối với các loại LMO bao gồm:
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
+ dùng để làm cây trồng nông nghiệp, làm thực
phẩm và chăn nuôi, cây cảnh hoặc cây rừng được quản lý;
+ làm sạch môi trường (ví dụ: các sinh vật
làm sạch các chất nhiễm bẩn);
+ sử dụng trong các ngành công nghiệp (ví dụ:
sản xuất enzym hoặc chất dẻo sinh học);
+ chữa bệnh (ví dụ: dược phẩm).
- các tác nhân phòng trừ sinh học được biến
đổi để nâng cao hiệu quả của nó.
- các loài dịch hại được làm thay đổi đặc
tính gây bệnh để phòng trừ sinh học (xem ISPM No.3)
- các sinh vật được biến đổi gen nhằm làm
tăng các đặc tính của chúng đối với phân sinh học hoặc các ảnh hưởng khác trong
đất, sử dụng trong điều trị sinh học hoặc trong công nghiệp
Để phân cấp một loài dịch hại thì cần một LMO
được xem là dịch hại khi nó gây hại hoặc có nguy cơ gây hại đối với thực vật
hoặc sản phẩm thực vật trong vùng PRA. Sự gây hại này có thể dưới hình thức ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới cây trồng. Quy trình xác định một LMO có
nguy cơ trở thành dịch hại được quy định tại Phụ lục C. Xác định nguy cơ trở
thành dịch hại của một LMO.
5.1.1.1. PRA xuất phát từ một đường lan
truyền
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
- bắt đầu trao đổi thương mại quốc tế đối với
loại hàng hóa trước đây chưa từng nhập khẩu vào trong nước (thông thường là một
loại thực vật hoặc sản phẩm thực vật, kể cả thực vật biến đổi gen) hoặc loại
hàng hóa có xuất xứ từ một khu vực hoặc quốc gia mới;
- các loài thực vật mới được nhập khẩu cho
mục đích chọn tạo giống và nghiên cứu khoa học.
- đường lan truyền khác với hàng hóa nhập
khẩu (phát tán tự nhiên, vật liệu bao gói, thư, rác thải, hành lý, vv….)
Danh mục dịch hại liên quan đến đường lan
truyền (ví dụ: theo hàng hóa) có thể được cung cấp từ các nguồn chính thức, cơ
sở dữ liệu, tài liệu khoa học và tài liệu khác hoặc từ các chuyên gia. Danh mục
có ý kiến của các chuyên gia về phân bố dịch hại và loại dịch hại được xét ưu
tiên. Nếu xác định không có dịch hại KDTV tiềm tàng đi theo đường lan truyền,
thì quá trình PRA có thể dừng tại đây.
Cụm từ “biến đổi gen” được hiểu là những loài
được tạo ra bởi việc sử dụng công nghệ sinh học hiện đại.
5.1.1.2. PRA xuất phát từ một loài dịch hại
Yêu cầu đối với một PRA mới hoặc sửa đổi liên
quan tới một loài dịch hại cụ thể xuất phát từ những trường hợp sau:
- phát hiện có sự thiết lập quần thể hoặc
bùng phát của một loài dịch hại mới trong vùng PRA;
- phát hiện và ngăn chặn một loài dịch hại
mới trên hàng nhập khẩu;
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
- một loài dịch hại được du nhập vào một
vùng;
- một loài dịch hại được thông báo là nguy
hiểm ở những vùng khác với nơi xuất xứ;
- một loài dịch hại được tái phát hiện và
ngăn chặn;
- yêu cầu nhập khẩu một loài sinh vật;
- một sinh vật được xác định là véctơ truyền
các dịch hại khác;
- một sinh vật biến đổi gen được xác định có
nguy cơ trở thành dịch hại thực vật.
Cụm từ ”biến đổi gen” được hiểu là những loài
được tạo ra bởi việc sử dụng công nghệ sinh học hiện đại.
5.1.1.3. PRA xuất phát từ một chính sách được
soát xét hoặc sửa đổi
Yêu cầu PRA mới hoặc sửa đổi xuất phát từ các
chính sách có liên quan sẽ được áp dụng trong hầu hết các trường hợp sau:
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
- dự thảo của một quốc gia hoặc của tổ chức
quốc tế khác (RPPO, FAO) được soát xét;
- biện pháp xử lý mới hoặc hệ thống xử lý
không còn hiệu quả, quy trình hoặc thông tin mới dẫn đến việc sớm ra một quyết
định;
- xảy ra tranh chấp về các biện pháp KDTV;
- sự thay đổi tình trạng KDTV trong một quốc
gia, một quốc gia mới được thành lập hoặc sự thay đổi về ranh giới quốc gia.
5.1.2. Xác định vùng PRA
Vùng PRA phải được xác định một cách chính
xác có thể để xác định khu vực cần cung cấp thông tin.
5.1.3. Thông tin
Thu thập thông tin là một yếu tố cần thiết
của tất cả các giai đoạn của PRA. Ở giai đoạn khởi đầu, việc thu thập thông tin
là quan trọng để làm rõ các loài dịch hại, sự phân bố của chúng và mối liên hệ
đối với ký chủ, hàng hóa vv…. Khi có yêu cầu, sẽ thu thập thêm thông tin để
tiếp tục quá trình PRA.
Thông tin đối với PRA có thể được thu thập từ
nhiều nguồn khác nhau. Việc cung cấp các thông tin chính thức liên quan đến tình
trạng của dịch hại là một nghĩa vụ theo qui định của IPPC (Điều VIII. 1c) và
được các đầu mối liên lạc chính thức cung cấp (Điều VIII. 2).
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Đối với LMO, yêu cầu cung cấp đầy đủ các
thông tin dưới đây để phân tích nguy cơ có thể gồm:
- tên, vị trí phân loại và định loại của LMO
(bao gồm cả mã định loại), các biện pháp quản lý nguy cơ được áp dụng đối với
LMO ở nước xuất khẩu;
- vị trí phân loại, tên thông thường, điểm
thu thập mẫu và đặc điểm của sinh vật cho gen di truyền;
- mô tả axít nucleic hoặc những thay đổi được
đưa vào LMO (kể cả cấu trúc gen) và những đặc điểm về kiểu hình, kiểu gen của
LMO;
- mô tả chi tiết quá trình biến đổi;
- phương pháp phát hiện, giám định và nét đặc
trưng, tính nhạy cảm, sự tin cậy của LMO;
- dự định sử dụng, kể cả các chính sách ngăn
chặn;
- chất lượng hoặc số lượng LMO được nhập
khẩu.
Thông tin liên quan đến tình trạng dịch hại
là một nghĩa vụ theo quy định của IPPC (Điều VIII. 1c) và được cung cấp bởi các
đầu mối liên lạc chính thức (Điều VIII. 2). Một quốc gia có thể có nghĩa vụ
cung cấp các thông tin về LMO theo các thỏa thuận quốc tế khác như Nghị định
thư Cartagena về An toàn sinh học theo Công ước về Tính đa dạng sinh học (2000,
nghị định thư Cartagena). Nghị định thư Cartagena có một ngân hàng an toàn sinh
học trong đó có thể chứa nhiều thông tin có liên quan. Do thông tin về LMO
thường nhạy cảm về mặt thương mại, vì vậy các nghĩa vụ gửi, nhận và xử lý thông
tin phải được tuân thủ.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Việc kiểm tra ở cấp quốc gia hoặc quốc tế để
xác định liệu các đường lan truyền, dịch hại hoặc chính sách có phải trải qua
quá trình PRA hay không. Nếu đã có PRA thì phải kiểm tra khi tình trạng và
thông tin có thể đã được thay đổi. Cũng cần đánh giá việc sử dụng một phần hoặc
toàn bộ nội dung của PRA từ một đường lan truyền hoặc dịch hại tương tự trước
đây cho PRA mới.
5.1.4. Kết luận cho giai đoạn khởi đầu
Kết thúc giai đoạn 1, điểm khởi đầu, các loài
dịch hại, đường lan truyền có liên quan và vùng PRA sẽ được xác định. Thông tin
liên quan được thu thập và các loài dịch hại được xác định cần phải áp dụng
biện pháp KDTV riêng rẽ hoặc có liên quan đến đường lan truyền.
Đối với các LMO khi kết thúc giai đoạn 1,
NPPO có thể quyết định rằng LMO:
- là dịch hại tiềm tàng và cần tiếp tục đánh
giá ở giai đoạn 2 hoặc;
- không phải là dịch hại tiềm tàng và không
cần phải đánh giá theo tiêu chuẩn này (nhưng xem thêm đoạn dưới đây)
PRA theo IPPC chỉ liên quan đến đánh giá và
quản lý nguy cơ dịch hại thực vật. Do đó, đối với các sinh vật hoặc đường lan
truyền khác được NPPO đánh giá, thì LMO có thể có những nguy cơ khác không
thuộc phạm vi của IPPC. Đối với LMO, PRA có thể được tiếp tục thực hiện chỉ một
phần trong toàn bộ nội dung được yêu cầu. Ví dụ, các quốc gia có thể yêu cầu
đánh giá nguy cơ đối với sức khỏe của con người hoặc động vật hoặc môi trường
mà IPPC quy định. Khi NPPO phát hiện nguy cơ tiềm tàng nhưng không thuộc phạm
vi của KDTV thì có thể thông báo cho các cơ quan có liên quan được biết.
5.2. Giai đoạn 2: Đánh giá nguy cơ dịch hại
Quá trình đánh giá nguy cơ dịch hại có thể
thường được chia thành ba bước gắn chặt với nhau.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
- đánh giá khả năng du nhập và lan rộng;
- đánh giá nguy cơ gây thiệt hại về kinh tế
(bao gồm cả tác động đến môi trường).
Trong hầu hết các trường hợp, các bước này sẽ
được áp dụng liên tục trong PRA, nhưng không nhất thiết phải theo một trình tự
cụ thể. Đánh giá nguy cơ dịch hại cần một quá trình là chứng minh kỹ thuật
trong từng trường hợp cụ thể. Tiêu chuẩn này cho phép một PRA cụ thể sẽ được
xem xét dựa vào các nguyên tắc quy định trong TCVN 6907:2001 như tính cần
thiết, tác động tối thiểu, minh bạch, tương đương, phân tích nguy cơ, quản lý
nguy cơ và không phân biệt đối xử.
Đối với các LMO, từ đây cho đến các phần tiếp
theo của quá trình PRA, LMO được đánh giá như một dịch hại, vì vậy “LMO” được
đề cập đến như là một dịch hại KDTV tiềm tàng do những đặc điểm mới hoặc bị
thay đổi của chúng hoặc các thuộc tính xuất phát từ sự thay đổi gen. Đánh giá
nguy cơ cần được tiến hành trên cơ sở từng trường hợp. Các LMO có đặc điểm của
dịch hại mà không liên quan đến việc biến đổi gen phải được đánh giá theo các quy
trình thông thường.
5.2.1. Phân cấp dịch hại
Khi xuất phát, không thể biết rõ loài dịch
hại nào được xác định trong giai đoạn 1 cần được PRA. Quá trình phân cấp sẽ
kiểm tra từng loài dịch hại để xác định liệu chúng có thỏa mãn các định nghĩa
của dịch hại KDTV hay không.
Trong đánh giá đường lan truyền liên quan đến
một loại hàng hóa, một số PRA cá biệt có thể là cần thiết đối với các loại
dịch hại tiềm tàng liên quan đến đường lan truyền. Cơ hội để loại bỏ một hoặc
nhiều loài sau khi đã kiểm tra kỹ lưỡng là một đặc điểm có giá trị của quá
trình phân cấp.
Thuận lợi của việc phân cấp dịch hại là có
thể được thực hiện với một lượng thông tin nhỏ có liên quan, tuy nhiên cần có
đầy đủ thông tin cho việc phân cấp nêu trên.
5.2.1.1. Yếu tố phân cấp
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
- định loại dịch hại;
- sự có mặt hay không có mặt trong vùng PRA;
- tình trạng hiện hành;
- nguy cơ thiết lập quần thể và lan rộng
trong vùng PRA;
- nguy cơ gây thiệt hại kinh tế (bao gồm cả
hậu quả môi trường) trong vùng PRA.
5.2.1.1.1. Định loại dịch hại
Việc định loại dịch hại phải được thực hiện
rõ ràng để đảm bảo rằng việc đánh giá đang được thực hiện với một sinh vật cụ
thể và các thông tin về sinh học cũng như các thông tin khác sử dụng để đánh
giá là có liên quan đến sinh vật bị nghi ngờ. Nếu điều này là không thể bởi vì
tác nhân gây ra hậu quả của triệu chứng cụ thể chưa được xác định đầy đủ, do
vậy tác nhân này phải được chứng minh việc tạo ra các triệu chứng phù hợp và có
thể truyền nhiễm.
Đơn vị phân loại dịch hại thường đến loài.
Việc sử dụng mức độ phân loại cao hơn hoặc thấp hơn nên được sự hỗ trợ về mặt
khoa học một cách hợp lý. Trong trường hợp phân loại dưới loài, thì nên có các
bằng chứng để chứng minh rằng các yếu tố như sự khác nhau về tính độc, phổ ký
chủ hoặc véctơ là có đủ cơ sở để đánh giá tình trạng KDTV.
Trong trường hợp có véctơ truyền bệnh thì
véctơ cũng có thể được xem là một dịch hại có liên quan đến sinh vật gây hại
truyền véctơ và được yêu cầu cho sự biến đổi của dịch hại.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
5.2.1.1.2. Dịch hại có mặt hoặc không có mặt
trong vùng PRA
Dịch hại phải không có mặt ở tất cả hoặc một
phần của vùng PRA.
Trong trường hợp nhiều LMO thì nên quan tâm
đến LMO liên quan đến KDTV.
5.2.1.1.3. Tình trạng quản lý
Nếu một loài dịch hại có mặt trong vùng PRA
nhưng phân bố hẹp thì phải được quản lý chính thức hoặc sẽ được quản lý chính
thức trong tương lai gần.
Việc quản lý chính thức đối với dịch hại mà
đang tạo ra nguy cơ về môi trường có thể liên quan đến các cơ quan khác ngoài
NPPO. Tuy nhiên điều này đã được thông báo trong 5.7, phần bổ sung số 1 của
TCVN 3937:2007 về quản lý chính thức.
Trong trường hợp của những LMO, sự quản lý
chính thức sẽ có liên quan đến việc áp dụng các biện pháp KDTV la do bản chất
dịch hại của LMO. Điều này có thể phù hợp để xem xét các biện pháp quản lý chính
thức áp dụng với sinh vật bố mẹ, sinh vật cho gen hoặc các véctơ truyền gen.
5.2.1.1.4. Tiềm năng thiết lập quần thể và
lan rộng trong vùng PRA
Cần có bằng chứng để kết luận dịch hại có khả
năng thiết lập quần thể hoặc lan rộng trong vùng PRA. Vùng PRA có các điều kiện
khí hậu/thời tiết phù hợp cho việc thiết lập quần thể và lan rộng dịch hại và ở
những nơi có liên quan, các loài ký chủ (hoặc loài có quan hệ gần), ký chủ thay
thế và véctơ phải có mặt trong vùng PRA.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
- sự thay đổi các đặc điểm thích nghi do quá
trình biến đổi gen có thể làm tăng nguy cơ thiết lập quần thể và lan rộng;
- sự chuyển gen hoặc phát tán gen có thể dẫn
đến việc thiết lập quần thể và lan rộng dịch hại hoặc xuất hiện những loài dịch
hại mới;
- tính không bền của kiểu gen và kiểu hình có
thể dẫn đến việc thiết lập quần thể và lan rộng các sinh vật có các đặc điểm
dịch hại mới, ví dụ mất khả năng tái sinh gen để ngăn cản sự giao phối cùng
giống.
Hướng dẫn chi tiết hơn về việc đánh giá các
đặc điểm nêu trên, xem Phụ lục C.
5.2.1.1.5. Nguy cơ gây thiệt hại kinh tế
trong vùng PRA
Phải có dấu hiệu rõ ràng rằng dịch hại có khả
năng gây ra những tác động kinh tế không thể chấp nhận được (bao gồm cả tác
động về môi trường) trong vùng PRA.
Tác động kinh tế không thể chấp nhận được
được nêu trong phần bổ sung số 2 của TCVN 3739:2007
Trong trường hợp của LMO, sự tác động kinh tế
(kể cả tác động về môi trường) có liên quan đến bản chất dịch hại của LMO (tác
hại đối với thực vật và sản phẩm thực vật).
5.2.1.2. Kết luận phân cấp dịch hại
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
5.2.2. Đánh giá khả năng du nhập và lan rộng
Sự du nhập dịch hại bao gồm sự xâm phạm và
thiết lập quần thể. Để đánh giá khả năng du nhập của dịch hại đòi hỏi sự phân
tích từng đường lan truyền mà dịch hại có thể liên quan từ xuất xứ đến sự thiết
lập quần thể của nó trong vùng PRA. Trong PRA bắt đầu từ một đường lan truyền
cụ thể (thường là hàng hóa nhập khẩu), khả năng xâm nhập của dịch hại được đánh
giá đối với đường lan truyền nghi ngờ. Khả năng xâm nhập của dịch hại liên quan
đến đường lan truyền khác cũng cần được điều tra.
Đối với sự phân tích nguy cơ bắt đầu từ một
loài dịch hại cụ thể, không cụ thể đối với hàng hóa hoặc đường lan truyền, thì
phải xem xét mọi đường lan truyền có khả năng mang theo dịch hại đó.
Việc đánh giá khả năng lan rộng của dịch hại
dựa trên cơ sở xem xét các đặc điểm sinh học của các loài tương tự như đối với
khả năng xâm nhập và thiết lập quần thể.
Đối với một loài thực vật đang được xem là
dịch hại có những tác động gián tiếp, ở bất cứ nơi nào sự tham khảo được thực
hiện đối với ký chủ hoặc phổ ký chủ thì phải hiểu là đang đề cập đến nơi sinh
sống[1])
thích hợp (đó là nơi mà thực vật có thể được trồng) trong vùng PRA.
Nơi dự định sinh sống là nơi mà thực vật sẽ
được gieo trồng và nơi không dự định sinh sống là nơi mà thực vật sẽ không được
gieo trồng.
Trong trường hợp thực vật được nhập khẩu,
khái niệm xâm nhập, thiết lập quần thể và lan rộng sẽ được xem xét khác nhau.
Thực vật được nhập khẩu để gieo trồng sẽ được
đưa vào sau đó được duy trì tại một nơi dự định gieo trồng với số lượng và
trong thời gian không xác định. Do vậy, không cần thực hiện 5.2.2.1 về khả năng
xâm nhập. Nguy cơ có thể xuất hiện do thực vật có khả năng lan rộng từ nơi dự
định gieo trồng ra những nơi không được dự định gieo trồng trong vùng PRA và
sau đó chúng sẽ tự thiết lập quần thể với môi trường sống đó. Do vậy, 5.2.2.3
có thể được xem xét trước 5.2.2.2. Khu vực dự định và không dự định trồng thực
vật có thể ở gần nhau trong vùng PRA.
Thực vật nhập khẩu không dùng để gieo trồng
có thể sử dụng cho các mục đích khác (ví dụ: hạt làm thức ăn cho chim, cỏ khô
hoặc để chế biến). Nguy cơ xuất hiện bởi vì khả năng mà thực vật có thể được
rơi vãi hoặc thay đổi từ mục đích sử dụng tới nơi trồng không dự định và thiết
lập quần thể tại đây.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
5.2.2.1. Khả năng xâm nhập của một loài dịch
hại
Khả năng xâm nhập của một loài dịch hại phụ
thuộc vào đường lan truyền từ quốc gia xuất khẩu đến cửa khẩu nhập và tần suất
và số lượng dịch hại liên quan đến đường lan truyền đó. Càng nhiều đường lan
truyền, thì càng có nhiều khả năng cho dịch hại xâm nhập vào vùng PRA.
Trong trường hợp các sinh vật có ảnh hưởng
gián tiếp đến thực vật, thông qua tác động đến các sinh vật khác, thuật ngữ ký
chủ hoặc nơi sinh sống cũng phải được mở rộng đối với các loài sinh vật đó.
Đường lan truyền đã được chứng minh đối với dịch hại xâm nhập vào vùng mới phải
được lưu ý. Các đường lan truyền khác, có thể không có hiện nay, cũng nên được
đánh giá. Số liệu về việc ngăn chặn dịch hại sẽ cung cấp các bằng chứng về một
loài dịch hại liên quan đến một đường lan truyền và sự tồn tại của chúng trong
các phương tiện vận chuyển hoặc nơi bảo quản.
Trong trường hợp thực vật được nhập khẩu sẽ
không yêu cầu đánh giá khả năng xâm nhập của chúng, vì vậy không cần đánh giá
theo mục này. Tuy nhiên, mục này được áp dụng cho các dịch hại trên các loại
thực vật đó (ví dụ: hạt cỏ dại lẫn trong các loại hạt nhập khẩu).
Mục này cũng không liên quan đến các LMO nhập
khẩu chủ định để phóng thả ra môi trường.
5.2.2.1.1. Xác định đường lan truyền đối với
PRA bắt đầu từ một loài dịch hại
Nên xem xét tất cả các đường lan truyền. Có
thể xác định đường lan truyền chủ yếu thông qua phân bố địa lý và phổ ký chủ
của dịch hại. Các chuyến hàng thực vật và sản phẩm thực vật đang được vận
chuyển trong thương mại quốc tế và đường lan truyền chủ yếu cần quan tâm và sự
tồn tại của các hình thức buôn bán đó, trong một quy mô đáng kể, sẽ hình thành
nên các đường lan truyền có liên quan. Các đường lan truyền khác như các loại
hàng hóa, vật liệu bao gói, con người, hành lý, bưu phẩm, phương tiện vận
chuyển và sự trao đổi vật liệu nghiên cứu cần được xem xét khi phù hợp. Sự xâm
nhập tự nhiên của dịch hại cũng phải được đánh giá do sự lan rộng tự nhiên có
khả năng làm giảm hiệu quả của các biện pháp KDTV.
Đối với các LMO, nên xem xét tất cả các đường
du nhập có liên quan (có chủ định hay không có chủ định).
5.2.2.1.2. Khả năng của dịch hại theo đường
lan truyền tại nơi xuất xứ
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
- sự phổ biến của dịch hại tại vùng xuất xứ;
- sự xuất hiện một giai đoạn sống nào đó của
dịch hại trên hàng hóa, trong công ten nơ hoặc phương tiện vận chuyển;
- số lượng và tần suất di chuyển theo đường
lan truyền;
- mùa vụ;
- quản lý dịch hại, các tập quán về thương
mại và canh tác tại nơi xuất xứ (áp dụng đối với các sản phẩm bảo vệ thực vật,
quá trình xử lý, thu hái, tỉa, tuyển chọn).
5.2.2.1.3. Khả năng sống sót của dịch hại
trong vận chuyển hoặc bảo quản
Ví dụ về một số yếu tố được xem xét là:
- tốc độ, điều kiện vận chuyển và vòng đời
của dịch hại liên quan đến thời gian vận chuyển và bảo quản;
- khả năng dễ bị tổn thương đối với các giai
đoạn sống của dịch hại trong quá trình vận chuyển hoặc bảo quản;
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
- các quy trình thương mại (ví dụ: ướp lạnh)
đối với hàng hóa ở nước xuất xứ, nước nhập khẩu hoặc trong vận chuyển hoặc bảo
quản.
5.2.2.1.4. Khả năng sống sót của dịch hại sau
khi áp dụng quy trình quản lý
Các quy trình quản lý dịch hại (bao gồm các
quy trình KDTV) áp dụng đối với các chuyến hàng để ngăn chặn các loài dịch hại
khác từ nơi xuất xứ đến nơi sử dụng cuối cùng, phải được đánh giá hiệu quả đối
với những dịch hại nghi vấn. Cần đánh giá khả năng không phát hiện thấy dịch
hại trong khi kiểm tra hoặc chúng còn sống sau khi đã áp dụng các quy trình
KDTV.
5.2.2.1.5. Khả năng của dịch hại chuyển sang
một ký chủ thích hợp
Một số yếu tố được xem xét là:
- cơ chế phát tán, bao gồm cả các véctơ cho
phép di chuyển từ đường lan truyền sang một ký chủ thích hợp;
- khi hàng hóa nhập khẩu được gửi đến một số
hoặc nhiều nơi đến trong vùng PRA;
- khoảng cách gần giữa các điểm nhập khẩu,
quá cảnh, nơi đến đối với ký chủ thích hợp;
- thời gian nhập khẩu sẽ được thực hiện;
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
- nguy cơ từ sản phẩm phụ và chất thải.
Một số trường hợp sử dụng có nguy cơ cao hơn
trong du nhập dịch hại (ví dụ gieo trồng có nguy cơ cao hơn chế biến). Cũng cần
xem xét khả năng liên quan đến trồng trọt, chế biến hoặc bán hàng trong khu vực
phụ cận của ký chủ thích hợp
Đối với các LMO, phải xem xét khả năng phát
tán gen hoặc chuyển gen khi có dấu hiệu liên quan đến KDTV được truyền đi.
5.2.2.2. Khả năng thiết lập quần thể
Để đánh giá khả năng thiết lập quần thể của
một loài dịch hại, cần có được các thông tin đáng tin cậy về đặc điểm sinh học
của dịch hại tại nơi chúng xuất hiện (vòng đời, phổ ký chủ, dịch lễ học, khả
năng sống vv…). Sau đó so sánh tình trạng của vùng PRA với vùng mà dịch hại
xuất hiện và sử dụng ý kiến của các chuyên gia để đánh giá khả năng thiết lập
quần thể. Có thể xem xét hồ sơ về dịch hại tương tự.
Các ví dụ về yếu tố được xem xét là:
- sự có mặt, số lượng và phân bố của các ký
chủ trong vùng PRA;
- môi trường phù hợp trong vùng PRA;
- khả năng thích nghi của dịch hại;
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
- phương thức tồn tại của dịch hại;
- tập quán canh tác và các biện pháp quản lý.
Khi xem xét khả năng thiết lập quần thể phải
chú ý rằng một loài dịch hại tạm thời (xem TCVN 7517:2005) có thể sẽ không
thiết lập được quần thể trong vùng PRA (ví dụ do điều kiện khí hậu không phù
hợp) nhưng có thể vẫn gây ra những thiệt hại kinh tế (xem Điều VII.3, IPPC).
Trong trường hợp thực vật được nhập khẩu, sự
đánh giá khả năng thiết lập quần thể dịch hại quan tâm đến những khu vực không
được gieo trồng.
Đối với các LMO thì cũng cần xem xét khả năng
tồn tại của chúng mà không có sự can thiệp của con người.
Hơn nữa, tại những nơi mà dòng gen là mối
quan tâm trong vùng PRA thì phải xem xét khả năng biểu lộ và thiết lập một đặc
điểm liên quan đến KDTV.
Những hồ sơ trước đây liên quan đến các LMO
hoặc các sinh vật khác tương tự cũng có thể được xem xét.
5.2.2.2.1. Sự có mặt những ký chủ thích hợp,
ký chủ phụ và các véctơ trong vùng PRA
Các yếu tố được xem xét là:
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
- có mặt các ký chủ và ký chủ phụ trong một
khoảng không gian đủ rộng để cho phép dịch hại hoàn thành vòng đời của chúng
hay không;
- có mặt hay không các loài thực vật khác mà
có thể được chứng minh sẽ là ký chủ thích hợp trong trường hợp không có các ký
chủ thông thường;
- có mặt hay không một véctơ lan rộng dịch hại
trong vùng PRA hoặc chúng có khả năng được du nhập;
- có mặt hay không các loài véctơ khác trong
vùng PRA.
Các loài trên thường phân loại đến “loài”.
Việc phân loại ở mức độ cao hơn hoặc thấp hơn phải được chứng minh bằng cơ sở
khoa học hợp lý.
5.2.2.2.2. Sự phù hợp về môi trường
Cần xác định các yếu tố môi trường (ví dụ sự
phù hợp về khí hậu, đất đai, dịch hại, sự cạnh tranh ký chủ) cho sự phát triển
của dịch hại, ký chủ, và véctơ của chúng cũng như khả năng tồn tại của chúng
trong thời kỳ khí hậu không thuận lợi và việc hoàn thành vòng đời. Chú ý rằng
môi trường có thể có tác động khác nhau đến dịch hại, ký chủ và véctơ của
chúng. Những yêu cầu trên được ghi nhận trong việc xác định liệu sự tương tác
giữa các loài sinh vật này với nhau tại vùng xuất xứ được duy trì trong vùng
PRA hay không để tạo điều kiện có lợi hay bất lợi đến dịch hại. Khả năng thiết
lập quần thể dịch hại trong môi trường cách ly ví dụ như nhà kính cũng cần được
xem xét.
Các hệ thống khí hậu chuẩn có thể được sử
dụng để so sánh với các số liệu khí hậu ở vùng phân bố của dịch hại được biết
đến trong vùng PRA.
5.2.2.2.3. Tập quán canh tác và biện pháp
quản lý
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Các biện pháp canh tác cụ thể, các hoạt động
quản lý hoặc kiểm soát cũng có thể áp dụng đối với thực vật và các LMO.
Các chương trình quản lý dịch hại hoặc thiên
địch đã có mặt trong vùng PRA mà làm giảm khả năng thiết lập quần thể của chúng
có thể được xem xét. Đối với những dịch hại mà các biện pháp quản lý chúng
không có hiệu quả sẽ có nguy cơ cao hơn đối với những dịch hại dễ dàng bị xử
lý. Các phương pháp diệt trừ thích hợp cũng cần được xem xét đến khả năng sẵn
có (hoặc thiếu).
5.2.2.2.4. Những đặc điểm khác của dịch hại
ảnh hưởng đến khả năng thiết lập quần thể
Những đặc điểm này bao gồm:
- Phương thức sinh sản và sống sót của
dịch hại: những đặc điểm cho phép dịch hại sinh sản có ảnh hưởng trong môi
trường mới, ví dụ: sinh sản đơn tính, thời gian vòng đời, số lứa trong một năm,
giai đoạn ngừng phát dục vv….. phải được xác định.
- Khả năng thích ứng về di truyền: cần
xem xét một loài dịch hại có hay không nhiều dạng sinh học khác nhau có thể
thiết lập quần thể được trong hoàn cảnh có các dịch hại tương tự ờ vùng PRA, ví
dụ như chủng của loài ký chủ hoặc các chủng có khả năng thiết lập quần thể
trong một phạm vi rộng hoặc thiết lập quần thể với các ký chủ mới. Một số kiểu
gen (và kiểu hình) có thể chống chịu được với những thay đổi bất thường của môi
trường để thiết lập quần thể trong một phạm vi rộng, để chống lại thuốc BVTV và
để vượt qua sự chống chịu của cây ký chủ.
- Mật độ tối thiểu để thiết lập quần thể:
phải xác định ngưỡng mật độ tối thiểu để thiết lập được quần thể dịch hại, nếu
có thể
Phải xem xét tính không ổn định về kiểu gen
và kiểu hình nếu có bằng chứng đối với các LMO.
Cũng có thể xem xét các hoạt động sản xuất và
quản lý được đề xuất liên quan đến LMO tại nước nhập khẩu một cách phù hợp.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Một loài dịch hại có nguy cơ lan rộng cao
cũng có thể dễ dàng thiết lập quần thể, do đó khả năng khoanh vùng và/hoặc diệt
trừ chúng là khó khăn. Để đánh giá khả năng lan rộng của dịch hại, cần có được
những thông tin đáng tin cậy từ vùng mà dịch hại vừa xuất hiện. Sau đó tình
trạng của vùng PRA có thể được so sánh với vùng mà dịch hại vừa xuất hiện và ý
kiến của các chuyên gia được sử dụng để đánh giá khả năng lan rộng. Hồ sơ trước
đây liên quan đến những dịch hại đang so sánh có thể được xem xét.
Các yếu tố để xem xét là:
- sự phù hợp của môi trường tự nhiên và môi
trường được quản lý đối với sự lan rộng tự nhiên của dịch hại;
- sự có mặt của các rào cản tự nhiên;
- nguy cơ vận chuyển của các loại hàng hóa và
phương tiện chuyên chở;
- mục đích sử dụng hàng hóa;
- véctơ tiềm tàng của dịch hại trong vùng
PRA;
- các loài thiên địch tiềm tàng của dịch hại
trong vùng PRA;
Trong trường hợp thực vật nhập khẩu, việc
đánh giá vấn đề lan rộng từ những nơi dự định trồng hoặc mục đích sử dụng sang
nơi trồng không dự định trồng mà ở đó dịch hại có thể thiết lập quần thể. Sau
đó sự lan rộng tiếp theo có thể sang những vùng khác.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Dịch hại có thể gây ra những tác hại nguy
hiểm đối với thực vật ngay sau khi chúng thiết lập được quần thể và chúng chỉ
có thể lan rộng sau một thời gian nhất định. Khi đánh giá khả năng lan rộng của
dịch hại cần dựa trên cơ sở các bằng chứng về tập tính của dịch hại.
5.2.2.4. Kết luận về khả năng du nhập và lan
rộng của dịch hại
Về tổng thể, khả năng du nhập của dịch hại
cần được thể hiện bằng những từ ngữ phù hợp nhất cho cơ sở dữ liệu, cho các
phương pháp được sử dụng để phân tích và những người quan tâm. Thông tin này có
thể là số lượng hoặc chất lượng, từ kết quả này trong mọi trường hợp là sự kết
hợp của cả thông tin số lượng và chất lượng. Khả năng du nhập có thể được thể
hiện bằng sự so sánh với những kết quả thu được đối với các loài dịch hại khác
từ các vùng PRA.
5.2.2.4.1. Kết luận về vùng có nguy cơ
Phần của vùng PRA có những yếu tố sinh thái
thích hợp cho việc thiết lập quần thể dịch hại sẽ được xác định để chỉ rõ vùng
có nguy cơ. Vùng này có nguy cơ có thể là toàn bộ hay một phần của vùng PRA.
5.2.3. Đánh giá nguy cơ gây thiệt hại kinh tế
Những yêu cầu nêu trong bước này chỉ ra những
thông tin có liên quan đến dịch hại và ký chủ thực vật tiềm tàng cần được thu
thập cũng như đề xuất các mức độ phân tích kinh tế có thể tiến hành thông qua
việc sử dụng các thông tin đó để đánh giá mọi ảnh hưởng của dịch hại nghĩa là
nguy cơ gây thiệt hại kinh tế. Trong điều kiện cho phép các dữ liệu định lượng
có thể quy ra thành tiền cần được thu thập, kể cả những dữ liệu định tính. Tham
khảo ý kiến của các nhà kinh tế có thể hữu ích cho việc đánh giá.
Trong nhiều trường hợp, việc phân tích chi
tiết thiệt hại kinh tế là không cần thiết nếu có đủ các bằng chứng hoặc nhất
trí rằng sự du nhập của dịch hại sẽ gây ra những thiệt hại kinh tế không thể
chấp nhận được (kể cả hậu quả môi trường). Trong những trường hợp đó, đánh giá
nguy cơ sẽ chủ yếu tập trung vào khả năng du nhập và lan rộng. Tuy nhiên, cần
phải kiểm tra một cách chi tiết hơn đối với những yếu tố kinh tế khi mức độ gây
thiệt hại còn nghi ngờ hoặc khi mức độ gây thiệt hại kinh tế yêu cầu phải đánh
giá độ mạnh mẽ của các biện pháp sử dụng trong quản lý nguy cơ hoặc trong đánh
giá hiệu quả kinh tế của các kết luận hoặc biện pháp quản lý.
Trong trường hợp của các LMO, tác động kinh
tế ( kể cả tác động về môi trường) có liên quan đến bản chất dịch hại (tác hại
đến thực vật và sản phẩm thực vật) của LMO.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
- Nguy cơ gây thiệt hại kinh tế có thể xuất
phát từ những ảnh hưởng bất lợi của các sinh vật nằm ngoài dự kiến gây hại đối
với thực vật hoặc sản phẩm thực vật;
- Các thiệt hại kinh tế do thuộc tính của
dịch hại gây ra.
Hướng dẫn chi tiết việc đánh giá những đặc
điểm này, xem Phụ lục C.
5.2.3.1. Những ảnh hưởng của dịch hại
Để đánh giá nguy cơ gây thiệt hại kinh tế của
dịch hại cần thu thập được các thông tin từ vùng xuất xứ của dịch hại hoặc vùng
mà dịch hại được du nhập. Những thông tin này cần được so sánh với tình trạng
của vùng PRA. Các thông tin trước đây liên quan đến các dịch hại đang so sánh
rất có ích cho việc đánh giá. Những ảnh hưởng được xem xét có thể là trực tiếp
hoặc gián tiếp.
Phương pháp cơ bản để đánh giá nguy cơ gây
hại về kinh tế của dịch hại trong phần này cũng được áp dụng đối với:
- những dịch hại đang ảnh hưởng đến thực vật
chưa thuộc diện canh tác/quản lý;
- cỏ dại và/hoặc thực vật xâm lấn;
- dịch hại ảnh hưởng đến thực vật thông qua
tác động đến các sinh vật khác;
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Trường hợp thực vật nhập khẩu để làm giống,
có thể đánh giá những hậu quả lâu dài trong khu vực trồng trọt. Việc trồng trọt
có thể gây ra những ảnh hưởng lâu dài hơn là để sử dụng hoặc có tác động xấu
đến vùng sản xuất.
Những ảnh hưởng và hậu quả sẽ được xem xét
xuất phát từ những ảnh hưởng đến thực vật. Tuy nhiên, những ảnh hưởng này đến
thực vật có thể ít có ý nghĩa hơn những ảnh hưởng và/ hoặc hậu quả đến các sinh
vật hoặc các hệ thống khác. Ví dụ: một loài cỏ dại thứ yếu có thể là có ý nghĩa
đối với con người hoặc một loại bệnh thực vật thứ yếu có thể sản sinh ra độc tố
nguy hiểm đối với vật nuôi. Tuy nhiên, quy định đối với từng loài thực vật trên
cơ sở những ảnh hưởng của chúng đối với các sinh vật hoặc các hệ thống khác (ví
dụ đối với sức khỏe của con người hoặc động vật) không thuộc phạm vi của tiêu
chuẩn này. Nếu quá trình PRA phát hiện ra bằng chứng về mối nguy hiểm tiềm ẩn
đối với các sinh vật hoặc các hệ thống khác khi cần có sự trao đổi với các cơ
quan có thẩm quyền để giải quyết.
5.2.3.1.1. Ảnh hưởng trực tiếp của dịch hại
Để xác định và mô tả những ảnh hưởng trực
tiếp của dịch hại đối với từng ký chủ nguy cơ trong vùng PRA hoặc đối với các
ký chủ cụ thể khác, có thể xem xét các ví dụ dưới đây:
- cây ký chủ hoặc thực vật có nguy cơ trở
thành ký chủ (ở ngoài đồng, trong khu trồng trọt được bảo vệ, hoặc trong tự
nhiên);
- chủng loại cây, số lượng và tần suất bị
hại;
- sự mất sản lượng và phẩm chất;
- các yếu tố sinh học (ví dụ: khả năng tồn
tại và tính độc của dịch hại) ảnh hưởng đến sự gây hại và mất mát;
- các yếu tố phi sinh học (ví dụ: khí hậu)
ảnh hưởng đến sự gây hại và mất mát;
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
- tốc độ sinh sản;
- các biện pháp quản lý (kể cả các biện pháp
hiện hành), hiệu lực và chi phí của chúng;
- ảnh hưởng đến tập quán sản xuất;
- ảnh hưởng đến môi trường.
Đối với mỗi ký chủ có nguy cơ, cần sử dụng
những tiêu chí trên để đánh giá cho toàn vùng canh tác và vùng có nguy cơ bị
gây hại.
Trong trường hợp phân tích nguy cơ về môi
trường, ví dụ về những hậu quả trực tiếp của dịch hại đối với thực vật và/ hoặc
đối với môi trường có thể được xem xét như:
- sự giảm các loài thực vật chủ yếu;
- sự giảm các loài thực vật là những thành
phần chủ yếu của hệ sinh thái (đề cập đến sự phong phú hoặc quy mô) và các loài
thực vật bản địa (kể cả những ảnh hưởng dưới loài ở những nơi có bằng chứng về
những ảnh hưởng đáng kể đó);
- sự giảm, thay đổi hoặc loại bỏ đáng kể các
loài thực vật khác;
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
5.2.3.1.2. Ảnh hưởng gián tiếp của dịch hại
Để xác định và mô tả những ảnh hưởng gián
tiếp của dịch hại trong vùng PRA hoặc những ảnh hưởng đó đối với các ký chủ cụ
thể, có thể xem xét các ví dụ dưới đây:
- những ảnh hưởng đến thị trường trong nước
và xuất khẩu, bao gồm cả những ảnh hưởng đến việc tham gia vào các thị trường
xuất khẩu. Cần đánh giá những hậu quả tiềm tàng có thể xảy ra đối với việc tham
gia vào thị trường khi mà dịch hại thiết lập quần thể. Điều này có thể dẫn đến
phía các đối tác thương mại tăng cường các biện pháp KDTV;
- làm thay đổi chi phí sản xuất hoặc các yếu
tố đầu vào, kể cả chi phí quản lý;
- làm thay đổi nhu cầu tiêu dùng trong hoặc
ngoài nước đối với một sản phẩm do chất lượng thay đổi;
- ảnh hưởng bất lợi đến môi trường và những
ảnh hưởng khác của biện pháp quản lý;
- tính khả thi và chi phí cho việc khoanh
vùng hoặc diệt trừ;
- khả năng trở thành véctơ truyền bệnh đối
với các loài dịch hại khác;
- nguồn lực cần thiết để nghiên cứu bổ sung
và tư vấn;
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Trong trường hợp phân tích nguy cơ về môi
trường, ví dụ về những ảnh hưởng gián tiếp của dịch hại đối với thực vật hoặc
hậu quả của chúng đối với môi trường có thể được xem xét bao gồm:
- ảnh hưởng đáng kể đến quần xã thực vật;
- ảnh hưởng đáng kể đến các vùng được bảo vệ
hoặc nhạy cảm về môi trường;
- thay đổi đáng kể về tiến trình sinh thái và
cấu trúc, sự ổn định hoặc tiến hành của hệ sinh thái (bao gồm cả những ảnh
hưởng lâu dài đến các loài thực vật, sự xói mòn, sự thay đổi về nước ngầm, nguy
cơ cháy tăng lên, vòng tuần hoàn nitơ vv…);
- ảnh hưởng đến cuộc sống của con người (ví
dụ: chất lượng nước, giải trí, du lịch, chăn nuôi động vật, săn bắn, câu cá);
- chi phí để bảo vệ môi trường.
Những ảnh hưởng đến sức khỏe của con người và
động vật (ví dụ: gây ngộ độc, gây dị ứng), hệ thống nước ngầm, du lịch vv….,
khi phù hợp, cũng có thể được xem xét bởi các tổ chức hoặc cơ quan khác.
5.2.3.2. Phân tích những thiệt hại kinh tế
5.2.3.2.1. Những yếu tố về địa điểm và thời
gian
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Những trường hợp khác có thể được quan tâm
như liệu dịch hại xuất hiện tại một, một vài hay nhiều nơi trong vùng PRA và
biểu hiện của những thiệt hại tiềm tàng về kinh tế sẽ phụ thuộc vào tốc độ và
phương thức lan rộng của dịch hại trong vùng PRA. Tốc độ lan rộng có thể được
dự báo là nhanh hay chậm; trong một số trường hợp, có thể dự đoán rằng sự lan
rộng được ngăn chặn. Phân tích phù hợp có thể được sử dụng để đánh giá thiệt
hại tiềm tàng về kinh tế trong một khoảng thời gian khi mà dịch hại đang lan
rộng trong vùng PRA. Hơn nữa, nhiều yếu tố hoặc những ảnh hưởng nêu trên có thể
được thay đổi theo thời gian với ảnh hưởng tất yếu của các thiệt hại tiềm tàng
về kinh tế. Cần tham khảo ý kiến đánh giá của các chuyên gia.
5.2.3.2.2. Phân tích các hậu quả về thương
mại
Như đã được xác định ở trên, hầu hết những
ảnh hưởng trực tiếp của dịch hại và một số ảnh hưởng gián tiếp đối với thương
mại hoặc gây hậu quả đối với một thị trường xác định. Những ảnh hưởng này có
thể là khẳng định hoặc phủ định, cần được đánh giá và xác định số lượng. Có thể
xem xét những vấn đề sau:
- ảnh hưởng của dịch hại đối với lợi nhuận
của người sản xuất do thay đổi chi phí sản xuất, sản lượng hoặc giá cả;
- ảnh hưởng của dịch hại đến số lượng hoặc
giá cả của hàng hóa mà người tiêu dùng trong và ngoài nước phải chịu. Những ảnh
hưởng này cũng bao gồm sự thay đổi về chất lượng sản phẩm và/hoặc hạn chế về
thương mại liên quan đến khía cạnh kiểm dịch do sự du nhập của dịch hại.
5.2.3.2.3. Kỹ thuật phân tích
Có một số kỹ thuật phân tích có thể được sử
dụng trong việc tham khảo ý kiến của các chuyên gia kinh tế để thực hiện những
phân tích chi tiết hơn về nguy cơ gây thiệt hại kinh tế của dịch hại KDTV.
Những phân tích này sẽ được kết hợp với tất cả những ảnh hưởng đã được xác
định. Những kỹ thuật này có thể bao gồm:
- ngân sách cục bộ: sẽ là đủ, nếu
những ảnh hưởng về kinh tế do dịch hại gây ra đối với lợi nhuận của người sản
xuất bị hạn chế chung hoặc thứ yếu;
- cân bằng cục bộ: điều này được đề
xuất theo 5.2.3.2.2, nếu có sự thay đổi đáng kể lợi nhuận của người sản xuất,
hoặc nếu có sự thay đổi đáng kể nhu cầu của người tiêu dùng. Phân tích trạng
thái cân bằng một phần là cần thiết để đánh giá được sự thay đổi bộ phận hoặc
sự thay đổi hệ thống do tác động của dịch hại đến người sản xuất hoặc người
tiêu dùng;
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Việc sử dụng kỹ thuật phân tích thường bị hạn
chế do thiếu dữ liệu, dữ liệu không đảm bảo độ tin cậy và có một số ảnh hưởng
chỉ có thể đánh giá được bằng phương pháp định tính.
5.2.3.2.4. Hậu quả phi thương mại và môi
trường.
Một số ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của
sự du nhập một loài dịch hại được xác định theo 5.2.3.1.1 và 5.2.3.1.2 mang bản
chất kinh tế hoặc có ảnh hưởng đến một số giá trị, nhưng không có thị trường mà
dễ dàng được xác định. Do đó, ảnh hưởng có thể qui đổi thành tiền hay không của
sản phẩm hoặc các thị trường dịch vụ. Một số ví dụ bao gồm các ảnh hưởng đến
môi trường riêng biệt (ví dụ như phân tích hệ sinh thái, đa dạng sinh học, giá
trị hấp dẫn) và những ảnh hưởng xã hội (ví dụ: nhân công, du lịch) do sự du
nhập của dịch hại. Những tác động này có thể xấp xỉ với phương pháp đánh giá
phi thị trường phù hợp. Những vấn đề chi tiết về môi trường được đưa ra ở dưới
đây.
Nếu việc đánh giá thông tin định lượng của
những hậu quả như vậy không khả thi, những thông tin định tính của những hậu
quả đó có thể được cung cấp nhưng cần có sự giải thích đã sử dụng các thông tin
này như thế nào trong việc đưa ra quyết định.
Tiêu chuẩn này áp dụng đối với những nguy cơ
về môi trường cần phải phân loại rõ ràng những giá trị về môi trường và việc
đánh giá chúng như thế nào. Có thể sử dụng các phương pháp khác nhau để đánh
giá môi trường, nhưng nên có sự tư vấn của các chuyên gia kinh tế để lựa chọn
được phương pháp tốt nhất. Các phương pháp có thể bao gồm việc xem xét các giá
trị “sử dụng” hay giá trị “không sử dụng”. “Giá trị” sử dụng được tính bằng
việc sử dụng một yếu tố về môi trường như tiếp cận nguồn nước sạch hoặc câu cá
ở hồ và cũng có thể là không phục vụ mục đích tiêu dùng ví dụ như sử dụng rừng cho
các hoạt động nghỉ ngơi. Giá trị “không sử dụng” có thể được chia thành.
- “giá trị tùy chọn” (giá trị để sử dụng cho
sau này);
- “giá trị tồn tại” (được hiểu là đang tồn
tại một yếu tố của môi trường);
- “giá trị duy trì cho tương lai” (được hiểu
là có một yếu tố của môi trường sẵn có cho các thế hệ sau).
Bất cứ yếu tố nào của môi trường đang được
đánh giá các giá trị sử dụng hay giá trị không sử dụng thì đều sử dụng các
phương pháp đánh giá hiện hành như tiếp cận thị trường cơ bản, thị trường thay
thế, thị trường ảo và việc chuyển đổi lợi ích. Mỗi phương pháp có những thuận
lợi, khó khăn và có những tình huống ở những nơi cụ thể.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Tác động kinh tế được nêu trong phần bổ sung
số 2 của TCVN 3937:2007.
5.2.3.3. Kết luận về việc đánh giá những
thiệt hại kinh tế
Trong điều kiện có thể, kết quả của việc đánh
giá thiệt hại kinh tế được mô tả ở các bước này sẽ là giá trị bằng tiền. Thiệt
hại kinh tế cũng có thể được thể hiện bằng việc đánh giá định lượng hoặc định
tính nhưng không qui thành tiền. Các nguồn thông tin, các giả thiết và phương
pháp phân tích phải được xác định một cách cụ thể và rõ ràng.
5.2.3.3.1. Vùng có nguy cơ
Phần của vùng PRA có mặt dịch hại mà chúng sẽ
gây ra những tổn thất nghiêm trọng về kinh tế cần được xác định một cách thích
hợp. Điều này là cần thiết để xác định vùng có nguy cơ.
5.2.4. Mức độ khó xác định
Việc đánh giá khả năng du nhập và gây thiệt
hại kinh tế của một loài dịch hại liên quan đến nhiều yếu tố khó xác định. Đặc
biệt là, những đánh giá này được suy ra từ tình huống nơi dịch hại xuất hiện
đến những tình huống giả thiết trong vùng PRA. Điều quan trọng là chứng minh
những vùng và mức độ không chắc chắn trong việc đánh giá và chỉ ra những nơi
cần phải có ý kiến của các chuyên gia. Điều này là cần thiết để minh bạch hóa
và cũng có thể là có ích cho việc xác định và ưu tiên việc cần nghiên cứu.
Cần chú ý rằng việc đánh giá những khả năng
và hậu quả về nguy cơ đối với môi trường của các loài dịch hại trên thực vật
không được canh tác và quản lý thường ít được quan tâm hơn so với những loài
dịch hại trên thực vật đã được canh tác hoặc được quản lý bởi do thiếu các
thông tin hoàn chỉnh liên quan đến hệ sinh thái và các thông tin về sự thay đổi
liên quan đến dịch hại, ký chủ hoặc nơi sinh sống.
5.2.5. Kết luận giai đoạn đánh giá nguy cơ
dịch hại
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
5.3. Giai đoạn 3: Quản lý nguy cơ dịch hại
Kết luận của việc đánh giá nguy cơ dịch hại
được sử dụng để xem có cần quản lý nguy cơ và tăng cường các biện pháp quản lý
mạnh hay không. Nguy cơ bằng không là không hợp lý, do đó nguyên tắc hướng dẫn
để quản lý nguy cơ nhằm đạt được các mức độ an toàn đề ra mà có thể được chứng
minh và khả thi trong những giới hạn lựa chọn và nguồn lực sẵn có. Quản lý nguy
cơ dịch hại (khả năng phân tích) là quá trình xác định các phương thức để chống
lại nguy cơ, đánh giá hiệu lực của các hoạt động đó và xác định những lựa chọn
phù hợp nhất. Những vấn đề không rõ ràng được lưu ý trong việc đánh giá thiệt
hại kinh tế và khả năng du nhập cũng cần được xem xét kể cả việc lựa chọn một
giải pháp để quản lý dịch hại.
Khi xem xét việc quản lý các nguy cơ về môi
trường, phải chú ý rằng các biện pháp KDTV được áp dụng đối với những vấn đề
khó xác định và nó được xây dựng tương xứng với các nguy cơ. Các giải pháp quản
lý nguy cơ cần được đưa ra và có tính đến mức độ khó xác định trong quá trình
đánh giá thiệt hại kinh tế, khả năng du nhập và chứng minh kỹ thuật tương ứng
của các giải pháp đo. Về góc độ này, việc quản lý các nguy cơ đối với môi
trường gây ra bởi dịch hại thực vật không khác với quản lý các nguy cơ của dịch
hại thực vật khác.
5.3.1. Mức độ nguy cơ
Nguyên tắc “nguy cơ được quản lý” (TCVN
6907:2001) nêu rằng: “Do có một số nguy cơ du nhập dịch hại KDTV luôn tồn tại,
nên các nước sẽ thỏa thuận với nhau một chính sách quản lý nguy cơ khi xây dựng
các biện pháp KDTV”. Khi thực hiện nguyên tắc này, các nước sẽ quyết định mức
độ nguy cơ có thể chấp nhận đối với nước mình. Mức độ nguy cơ có thể chập nhận
được trình bày trong một số khía cạnh dưới đây:
- tham chiếu những yêu cầu KDTV hiện hành;
- lập bảng về những tổn thất kinh tế;
- mức chịu đựng nguy cơ;
- so sánh với mức độ nguy cơ được các quốc
gia khác đã được chấp nhận.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
5.3.2. Yêu cầu thông tin kỹ thuật
Các quyết định trong quá trình quản lý nguy
cơ dịch hại dựa trên cơ sở thông tin thu thập được trong các giai đoạn trước
của PRA. Những thông tin này sẽ bao gồm:
- lý do tiến hành PRA;
- đánh giá khả năng du nhập vào vùng PRA;
- đánh giá thiệt hại tiềm tàng về kinh tế có
trong vùng PRA;
5.3.3. Khả năng chấp nhận nguy cơ dịch hại
Nguy cơ được xác định bằng kết quả đánh giá
khả năng du nhập và tác động kinh tế của dịch hại. Nếu nguy cơ được phát hiện
là không thể chấp nhận được thì bước đầu tiên của quản lý nguy cơ là xác định
các biện pháp KDTV có khả năng làm giảm nguy cơ hoặc ở mức thấp mà có thể chấp
nhận được. Các biện pháp không cần phải chứng minh nếu nguy cơ đã được chấp
nhận hoặc phải chấp nhận do không thể quản lý được (ví dụ: có thể trường hợp
lan rộng tự nhiên). Các quốc gia có thể quyết định việc giám sát ở mức độ thấp
hoặc việc kiểm tra được duy trì để bảo đảm rằng những thay đổi trong tương lai
của nguy cơ dịch hại được xác định.
5.3.4. Xác định và lựa chọn các giải pháp phù
hợp để quản lý nguy cơ.
Các biện pháp phù hợp phải được chọn trên cơ
sở hiệu quả làm giảm khả năng du nhập của dịch hại. Việc lựa chọn cần dựa trên
cơ sở những xem xét dưới đây, đó là một số giải pháp nằm trong TCVN 6907:2001.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
- Nguyên tắc “tác động tối thiểu”: Các
biện pháp không được gây cản trở đến thương mại hơn mức cần thiết. Các biện
pháp phải được áp dụng đối với vùng tối thiểu cần thiết để bảo vệ có hiệu quả
vùng có nguy cơ.
- Đánh giá lại những yêu cầu trước đây:
Nếu các biện pháp hiện hành đang có hiệu quả thì không cần phải bổ sung thêm
các biện pháp khác.
- Nguyên tắc “tương đương”: Nếu các
biện pháp KDTV khác nhau nhưng được xác định là có hiệu quả như nhau thì có thể
áp dụng một trong những biện pháp đó.
- Nguyên tắc “không phân biệt đối xử”:
Nếu dịch hại đang xem xét được thiết lập quần thể trong vùng PRA nhưng có phân
bố hẹp và được quản lý chính thức thì các biện pháp KDTV liên quan đến nhập
khẩu phải không được áp dụng chặt chẽ trong vùng PRA. Tương tự như vậy, các
biện pháp KDTV không được phân biệt đối xử giữa các quốc gia xuất khẩu có tình
trạng KDTV như nhau.
Nguyên tắc không phân biệt đối xử và quản lý
chính thức cũng được áp dụng đối với:
- dịch hại ảnh hưởng đến thực vật không được
canh tác hoặc quản lý;
- cỏ dại và/hoặc thực vật xâm lấn;
- dịch hại ảnh hưởng đến thực vật thông qua
tác động đến các sinh vật khác.
Nếu những loài trên thiết lập quần thể trong
vùng PRA và được kiểm soát chính thức thì các biện pháp KDTV nhập khẩu không
được áp dụng chặt chẽ hơn các biện pháp quản lý chính thức.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Các biện pháp được liệt kê dưới đây là các ví
dụ thường được áp dụng chủ yếu cho hàng hóa; Các biện pháp được áp dụng với
đường lan truyền, thường là các chuyến hàng của một loại ký chủ, có xuất xứ cụ
thể. Các biện pháp phải chính xác đối với từng loại hàng hóa (các ký chủ, các
bộ phận của thực vật) và theo vùng xuất xứ và không sử dụng như những rào cản
đối với thương mại bằng việc hạn chế nhập khẩu hàng hóa nơi mà chưa được xác
định. Nếu cần thiết có thể kết hợp hai hay nhiều biện pháp để làm giảm nguy cơ
xuống mức độ chấp nhận được. Có thể phân loại rõ ràng các biện pháp sẵn có đối
với đường lan truyền dịch hại từ nước xuất xứ. Các biện pháp bao gồm:
- áp dụng đối với chuyến hàng;
- áp dụng để ngăn chặn hoặc làm giảm mức độ
nhiễm ban đầu trên cây trồng;
- bảo đảm vùng hoặc địa điểm sản xuất không
nhiễm dịch hại;
- liên quan đến việc cấm các loại hàng hóa.
Những giải pháp khác có thể được áp dụng
trong vùng PRA (ví dụ: hạn chế sử dụng một loại hàng hóa), các biện pháp quản
lý, du nhập các tác nhân phòng trừ sinh học, khoanh vùng và diệt trừ. Những
giải pháp này cũng cần được đánh giá và áp dụng một cách cụ thể nếu dịch hại đã
có mặt nhưng phân bố hẹp trong vùng PRA.
5.3.4.1. Các giải pháp cho chuyến hàng.
Các biện pháp có thể được kết hợp như sau:
- kiểm tra hoặc thử nghiệm về sự không nhiễm
dịch hại hoặc để xác định sự chống chịu của dịch hại; cỡ mẫu phải đủ để có thể
phát hiện được dịch hại;
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
- hệ thống kiểm tra trước và sau nhập khẩu:
đây là hệ thống có thể được xem xét là mô hình kiểm tra hoặc giám định tại nơi
có trang thiết bị phù hợp và nguồn lực sẵn có và có thể chỉ là giải pháp đối
với những dịch hại không bị phát hiện lại cửa khẩu nhập;
- những điều kiện chuẩn bị cụ thể cho một
chuyến hàng (ví dụ: các hoạt động thủ công để ngăn chặn sự nhiễm dịch hoặc tái
nhiễm của dịch hại);
- Việc xử lý cụ thể đối với các chuyến hàng:
việc xử lý được áp dụng sau khi thu hoạch. Các biện pháp xử lý có thể bằng hóa
chất, nhiệt độ, chiếu xạ hoặc các phương pháp vật lý khác;
- hạn chế việc sử dụng, phân phối và thời
điểm nhập khẩu hàng hóa.
Các biện pháp cũng có thể được áp dụng để hạn
chế các chuyến hàng có nguy cơ trở thành dịch hại.
Khái niệm chuyến hàng có nguy cơ trở thành
dịch hại có thể được áp dụng đối với các loài thực vật nhập khẩu được xem là
dịch hại. Những chuyến hàng này có thể chỉ cho phép đối với những loài hoặc dạng
có nguy cơ thấp.
Đối với các LMO, cũng giống như các sinh vật
khác, có thể thu thập các thông tin về các biện pháp quản lý nguy cơ áp dụng
cho LMO ở nước xuất khẩu (xem 5.1.3). Những biện pháp này phải được đánh giá để
xác định liệu chúng có phù hợp với điều kiện của vùng PRA hay không và nếu phù
hợp, thì dự định sử dụng các biện pháp đó như thế nào.
Đối với các LMO, các biện pháp cũng có thể
bao gồm các qui trình cung cấp thông tin về tính nguyên vẹn KDTV của chuyến
hàng (ví dụ: các hệ thống kiểm tra phát hiện, hệ thống tài liệu, hệ thống bảo
quản các đặc điểm nhận dạng).
5.3.4.2. Giải pháp ngăn chặn hoặc làm giảm sự
nhiễm dịch của dịch hại trên cây trồng
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
- xử lý cây trồng, đồng ruộng hoặc khu vực
sản xuất;
- hạn chế các chuyến hàng được hình thành từ
các loài thực vật có tính kháng hoặc ít mẫn cảm;
- gieo trồng thực vật trong điều kiện được
bảo vệ (ví dụ: nhà kính, khu cách ly);
- thu hoạch thực vật vào độ tuổi nhất định
hoặc một thời điểm cụ thể trong năm;
- sản xuất theo hệ thống được công nhận. Hệ
thống sản xuất cây trồng được quản lý chính thức thường có liên quan đến một số
thế hệ được kiểm soát chặt chẽ và bắt đầu thực hiện với những thực vật có sức
khỏe tốt. Về mặt lý thuyết các thực vật được thu từ một số thế hệ nhất định.
Các biện pháp có thể được áp dụng để làm giảm
khả năng của các LMO (hoặc vật liệu gen từ LMO) mà nó có thể có các nguy cơ
KDTV đối với các cây trồng khác. Các biện pháp gồm có:
- hệ thống quản lý (ví dụ: vùng đệm);
- quản lý các đặc điểm đặc trưng;
- điều chỉnh khả năng sinh sản (ví dụ: gây
bất dục đực);
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
5.3.4.3. Giải pháp bảo đảm vùng, khu vực, địa
điểm sản xuất hoặc đồng ruộng không nhiễm dịch hại
Có thể gồm các biện pháp sau:
- vùng không nhiễm dịch hại: những yêu cầu
đối với tình trạng của vùng không nhiễm dịch hại được mô tả trong TCVN
7515:2005.
- khu vực hoặc địa điểm sản xuất không nhiễm
dịch hại: các yêu cầu được mô tả trong TCVN 7669:2007.
Việc kiểm tra đồng ruộng để khẳng định không
nhiễm dịch hại.
5.3.4.4. Giải pháp đối với các đường lan
truyền khác
Đối với nhiều đường lan truyền, cũng có thể
áp dụng hoặc sửa đổi các biện pháp nói trên với thực vật và sản phẩm thực vật
để phát hiện ra dịch hại trên chuyến hàng hoặc để ngăn chặn sự xâm nhiễm của
chúng lên các chuyến hàng. Đối với một số đường lan truyền nhất định, phải xem
xét những yếu tố sau:
- Sự lan rộng tự nhiên của dịch hại kể cả
bằng cách bay, nhờ gió, thông qua các véctơ như côn trùng hoặc chim và di
chuyển tự nhiên. Nếu dịch hại xâm nhập vào vùng PRA thông qua đường lan truyền
tự nhiên hoặc có thể nhiễm dịch trong tương lai gần, thì các biện pháp KDTV có
thể ít có hiệu quả. Có thể xem xét các biện pháp kiểm soát được áp dụng ở nơi
xuất xứ. Tương tự, có thể xem xét việc khoanh vùng hoặc diệt trừ được hỗ trợ
bởi quá trình giám sát và ngăn chặn dịch hại trong vùng PRA sau khi dịch hại
xâm nhập.
- Các biện pháp đối với khách du lịch và hành
lý của họ có thể là kiểm tra, hướng dẫn, phạt vi phạm hoặc khuyến khích. Trong
một số trường hợp có thể áp dụng các biện pháp xử lý.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
5.3.4.5. Các giải pháp tại nước nhập khẩu.
Cũng có thể sử dụng một số biện pháp nhất định
tại nước nhập khẩu các phương pháp này có thể là giám sát chặt chẽ để phát hiện
sớm sự xâm nhập của dịch hại, các chương trình bao vây tiêu diệt để loại bỏ tất
cả ổ dịch hoặc khoanh vùng để hạn chế sự lan rộng.
Đối với thực vật nhập khẩu từ những nơi mà
nguy cơ dịch hại không rõ ràng thì có thể quyết định không áp dụng các biện
pháp KDTV tại địa điểm nhập khẩu, mà chỉ áp dụng việc giám sát dịch hại hoặc
các thủ tục khác sau khi nhập khẩu (ví dụ theo các qui định của NPPO).
Nguy cơ tiềm tàng từ các LMO có hại phụ thuộc
vào mục đích sử dụng chúng. Đối với các sinh vật khác, một số mục đích sử dụng
lại góp phần quản lý tốt các nguy cơ dịch hại (ví dụ: sử dụng ở những địa điểm
an toàn cao).
Cũng như các dịch hại khác, các LMO có thể áp
dụng các biện pháp khẩn cấp đối với các nguy cơ về KDTV. Các biện pháp khẩn cấp
phải tuân theo Điều VII. 6 của IPPC (1997).
5.3.4.6. Cấm nhập khẩu hàng hóa
Nếu không có các biện pháp thích hợp để làm
giảm nguy cơ xuống mức có thể chấp nhận được thì giải pháp cuối cùng có thể là
cấm nhập khẩu loại hàng hóa có liên quan đến nguy cơ. Điều này phải được xem là
phương pháp cuối cùng và cần xem xét một cách kỹ lưỡng hiệu lực đặt ra, đặc
biệt trong trường hợp ở những nơi nhập khẩu bất hợp pháp thường xảy ra.
5.3.5. Giấy chứng nhận KDTV và các biện pháp
khác
Quản lý nguy cơ bao gồm việc xem xét các quy
trình phù hợp. Quy trình quan trọng nhất là việc chứng nhận xuất khẩu (xem ISPM
No.7). Việc cấp giấy chứng nhận KDTV (xem ISPM No.12) bảo đảm rằng chuyến hàng
“được xem là không có dịch hại KDTV và tuân thủ các yêu cầu KDTV hiện hành của
nước nhập khẩu”. Điều đó cũng khẳng định rằng các giải pháp quản lý nguy cơ cụ
thể sẽ tiếp tục được thực hiện. Có thể yêu cầu khai báo bổ sung để chỉ ra một
biện pháp cụ thể đã được thực hiện. Các biện pháp khác có thể được sử dụng theo
các hiệp định song phương hoặc đa phương.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
5.3.6. Kết luận về việc quản lý nguy cơ dịch
hại
Kết quả của quy trình quản lý nguy cơ dịch
hại có thể không có biện pháp nào được xác định là phù hợp hoặc việc lựa chọn
được một hay nhiều biện pháp quản lý làm giảm các nguy cơ dịch hại đến mức có
thể chấp nhận được. Các giải pháp quản lý dựa trên các quy định hay yêu cầu về
KDTV.
Việc áp dụng và duy trì các quy định này là
một nghĩa vụ của các bên tham gia IPPC.
Các biện pháp KDTV được áp dụng có liên quan
đến nguy cơ về môi trường, khi phù hợp, sẽ được thông báo cho các cơ quan có thẩm
quyền liên quan chịu trách nhiệm về việc xây dựng chính sách đa dạng sinh học,
chiến lược và kế hoạch hành động quốc gia.
Cần chú ý rằng việc trao đổi thông tin về các
nguy cơ liên quan đến môi trường là đặc biệt quan trọng để tăng cường sự hiểu
biết.
5.3.6.1. Theo dõi và soát xét các biện pháp
KDTV
Nguyên tắc “sửa đổi” là: “Khi các điều kiện
thay đổi và khi xuất hiện các nhân tố mới, thì các biện pháp KDTV phải nhanh
chóng thay đổi theo, bao gồm các biện pháp như cấm, hạn chế nhập khẩu hoặc
những yêu cầu cần thiết khác hoặc loại bỏ các biện pháp không cần thiết” (TCVN
6907:2001).
Do đó, không cần cố định việc áp dụng các
biện pháp KDTV cụ thể. Sau khi áp dụng, nên đánh giá hiệu quả của các biện
pháp. Điều này thường đạt được thông qua việc kiểm tra hàng hóa tại nơi nhập
khẩu, thông báo về ngăn chặn hoặc xâm nhập của dịch hại vào vùng PRA. Phải định
kỳ soát xét và bổ sung các thông tin cho PRA để bảo đảm có thông tin mới nhất
trước khi ra các quyết định.
5.4. Tài liệu PRA
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
IPPC và nguyên tắc “minh bạch” (TCVN 6907 :
2001) yêu cầu các quốc gia, nên có sẵn cơ sở hợp lý cho những yêu cầu về KDTV
khi có yêu cầu. Toàn bộ quá trình từ khi bắt đầu cho đến quản lý nguy cơ dịch
hại phải được chứng minh bằng tài liệu đầy đủ vì thế khi soát xét lại hoặc
tranh chấp xảy ra, các nguồn thông tin và các lý do được sử dụng một cách hợp
lý để đạt được quyết định quản lý có thể được thể hiện một cách rõ ràng.
Những phần chính của tài liệu là:
- mục đích PRA;
- Dịch hại, danh mục dịch hại, đường lan
truyền, vùng PRA, vùng có nguy cơ;
- nguồn thông tin;
- danh mục dịch hại đã được phân cấp;
- các kết luận đánh giá nguy cơ dịch hại;
• khả năng;
• hậu quả;
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
• đưa ra các giải pháp;
- giải pháp được lựa chọn.
PHỤ
LỤC A
BÌNH
LUẬN VỀ PHẠM VI CỦA IPPC LIÊN QUAN ĐẾN NHỮNG NGUY CƠ VỀ MÔI TRƯỜNG
Phạm vi của dịch hại theo IPPC được sử dụng
đối với dịch hại có ảnh hưởng trực tiếp đến cây trồng. Nội dung được bổ
sung vào định nghĩa dịch hại thực vật theo IPPC là cỏ dại và những loài khác có
ảnh hưởng gián tiếp đến thực vật và Công ước cũng được áp dụng để bảo vệ các
loài thực vật hoang dại. Phạm vi của IPPC cũng được mở rộng đối với các sinh
vật được xem là dịch hại bởi vì chúng:
- Ảnh hưởng trực tiếp đến các thực vật không
thuộc diện canh tác/quản lý.
Sự du nhập của những loài dịch hại này có thể
ít gây hậu quả thương mại, do đó chúng ít có khả năng được đánh giá, điều chỉnh
và/ hoặc được kiểm soát chính thức. Một ví dụ cho loại dịch hại này là bệnh cây
du của Đức (Ophiostoma novo-ulmi).
- Ảnh hưởng gián tiếp đến thực vật:
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
- Ảnh hưởng gián tiếp đến thực vật thông qua
ảnh hưởng đến các sinh vật khác:
Một số dịch hại có thể ảnh hưởng trước hết
lên các sinh vật khác nhưng đó lại là nguyên nhân gây hại cho thực vật hoặc sức
khỏe của thực vật trong môi trường sống hoặc hệ sinh thái, ví dụ: sự ký sinh
của sinh vật có ích như các tác nhân phòng trừ sinh học.
Để bảo vệ môi trường và tính đa dạng sinh học
mà không tạo ra các rào cản thương mại, các nguy cơ về môi trường và những nguy
cơ về tính đa dạng sinh học nên được phân tích trong quá trình PRA.
PHỤ
LỤC B
BÌNH
LUẬN VỀ PHẠM VI CỦA IPPC LIÊN QUAN ĐẾN PRA ĐỐI VỚI LMO
Các nguy cơ về KDTV có thể liên quan đến LMO
thuộc phạm vi của IPPC và phải sử dụng phương pháp PRA để đưa ra các quyết định
quản lý nguy cơ đó.
Khi phân tích các LMO nên xem xét các vấn đề
dưới đây:
- Một số LMO có thể có nguy cơ về KDTV, vì
vậy cần phải áp dụng quá trình PRA. Tuy nhiên, một số LMO khác sẽ không thể
hiện nguy cơ KDTV ngoài những nguy cơ mà các sinh vật bình thường tạo ra, do đó
cũng không cần thiết phải áp dụng toàn bộ quá trình PRA. Ví dụ những sửa đổi để
làm thay đổi các đặc điểm sinh lý của thực vật (như thời gian chín, tuổi thọ
của sản phẩm) có thể không thể hiện bất cứ nguy cơ nào về KDTV. Nguy cơ dịch
hại của LMO có thể phụ thuộc vào sự kết hợp của nhiều yếu tố, kể cả các đặc
điểm của sinh vật cho và nhận, sự thay đổi gen và một hay nhiều tình trạng mới.
Do đó, nội dung bổ sung (xem Phụ lục C) sẽ hướng dẫn để xác định LMO là dịch
hại tiềm tàng.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
- Nguy cơ KDTV của các LMO có thể do những
đặc điểm nào đó được đưa vào sinh vật, như đặc điểm làm tăng nguy cơ thiết lập
quần thể và lan rộng của chúng hoặc do chuỗi gen được đưa vào mà không làm thay
đổi các đặc điểm dịch hại của sinh vật, nhưng các gen đó hoạt động một cách độc
lập đối với sinh vật đó hoặc gây ra những tác động không mong muốn.
- Trong trường hợp các nguy cơ KDTV liên quan
đến phát tán gen, thì LMO được xem dưới góc độ KDTV như là các véctơ hoặc đường
lan truyền xâm nhập cấu trúc gen hơn là một dịch hại. Do đó, khái niệm ”dịch
hại” phải được hiểu bao gồm cả nguy cơ của LMO hoạt động như một véctơ hoặc
đường lan truyền xâm nhập của gen tạo ra nguy cơ KDTV tiềm tàng.
- Quy trình phân tích nguy cơ của IPPC nhìn
chung đề cập đến các đặc điểm về kiểu hình nhiều hơn là kiểu gen. Tuy nhiên,
các đặc điểm về kiểu gen có thể cần được xem xét khi đánh giá các nguy cơ về
kiểu hình của LMO.
- Các nguy cơ KDTV tiềm tàng liên quan đến
các LMO cũng có thể liên quan đến các sinh vật thông thường khác. Sẽ là hữu ích
khi xem xét các nguy cơ liên quan đến LMO trong tình huống những nguy cơ được
tạo ra bởi những sinh vật bố mẹ hoặc sinh vật nhận không bị biến đổi hoặc các
sinh vật tương tự trong vùng PRA.
PHỤ
LỤC C
XÁC
ĐỊNH KHẢ NĂNG LMO TRỞ THÀNH DỊCH HẠI
Phụ lục này chỉ liên quan đến LMO ở những nơi
có nguy cơ KDTV tiềm tàng từ LMO liên quan đến một số đặc điểm hoặc thuộc tính
do sự biến đổi gen. Những nguy cơ KDTV khác liên quan đến sinh vật phải được
đánh giá theo các phần thích hợp khác của tiêu chuẩn này hoặc các ISPM khác.
Các yêu cầu về thông tin nêu tại 5.1.3. có
thể là cần thiết để xác định nguy cơ LMO trở thành một dịch hại.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Những nguy cơ KDTV tiềm tàng của các LMO, có
thể bao gồm:
a. Sự thay đổi các đặc điểm thiết lập quần
thể có thể làm tăng khả năng du nhập hoặc lan rộng của LMO, ví dụ như:
- sức chịu đựng trong những điều kiện môi
trường bất lợi (ví dụ: hạn hán, lạnh, mặn, vv….);
- đặc điểm sinh sản;
- khả năng phát tán của dịch hại;
- tốc độ tăng trưởng hoặc sức sống;
- phổ ký chủ;
- khả năng chống chịu của dịch hại;
- tính kháng hoặc tính chịu thuốc BVTV (kể cả
thuốc trừ cỏ);
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
- sự chuyển đổi gen chống chịu hoặc kháng
thuốc vào những loài phù hợp;
- có nguy cơ vượt qua được sự sinh sản hiện
tại và những cản trở của sự tái tổ hợp sẵn có trong những nguy cơ dịch hại;
- có khả năng lai tạp với các sinh vật hoặc
mầm bệnh hiện có để tạo ra nguồn bệnh hoặc nguồn bệnh được gia tăng.
c. Ảnh hưởng bất lợi đối với các sinh vật
phụ, bao gồm:
- sự thay đổi phổ ký chủ của LMO, kể cả trong
trường hợp LMO là tác nhân phòng trừ sinh học hoặc các sinh vật có ích khác;
- sự ảnh hưởng đến các sinh vật khác như các tác
nhân phòng trừ sinh học, sinh vật có ích hoặc các sinh vật và vi sinh vật trong
đất, vi khuẩn cố định đạm do đó dẫn đến tác động về KDTV (ảnh hưởng gián tiếp);
- khả năng mang theo các dịch hại khác;
- ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp bất lợi
của các thuốc trừ dịch hại thảo mộc đến các sinh vật có ích cho thực vật;
d. Tính không ổn định về kiểu hình và kiểu
gen, ví dụ:
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
e. Các ảnh hưởng có hại khác, ví dụ:
- các nguy cơ về KDTV được gây ra bởi những
dấu hiệu mới của sinh vật mà thông thường chúng không có nguy cơ KDTV;
- khả năng được nâng cao hoặc mới đối với sự
tái tổ hợp virus và các yếu tố tương tác và bổ trợ liên quan đến sự có mặt của
các chuỗi virus;
- nguy cơ KDTV tiềm tàng do có thêm các chuỗi
axit amin (ví dụ gen đánh dấu, gen khởi động, gen kết thúc vv……)
Nguy cơ KDTV tiềm tàng nêu trên cũng có thể
liên quan đến các sinh vật thông thường. Quy trình phân tích nguy cơ của IPPC
nói chung là liên quan đến các đặc điểm kiểu hình nhiều hơn là các đặc điểm
kiểu gen. Tuy nhiên, khi đánh giá nguy cơ KDTV cũng cần phải xem xét các đặc
điểm về kiểu gen.
Nếu không chỉ ra được những dấu hiệu mới do
thay đổi về di truyền có nguy cơ KDTV thì quá trình đánh giá LMO có thể dừng
lại.
Có thể xem xét các nguy cơ tiềm tàng mà
nguyên nhân tạo ra bởi các sinh vật bố mẹ hoặc sinh vật nhận gen không bị biến
đổi hoặc các sinh vật tương tự trong vùng PRA.
Trong trường hợp các nguy cơ về KDTV liên
quan đến sự phân bố gen, thì LMO được xem là véctơ hoặc đường lan rộng tiềm
tàng cho sự hình thành gen hơn là một dịch hại. Vì vậy, thuật ngữ “dịch hại”
phải được hiểu bao gồm cả nguy cơ trở thành véctơ hoặc đường lan rộng gen của
các LMO mà có khả năng gây ra nguy cơ về KDTV tiềm tàng.
Các yếu tố có thể cần để đưa ra một LMO vào
giai đoạn 2 của quá trình PRA bao gồm:
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
- xem xét sự tin cậy của thông tin nếu sự
biến đổi không giống nhau;
- thiếu dữ liệu vê tập tính của LMO trong môi
trường tương tự với vùng PRA;
- các kinh nghiệm thực tế, nghiên cứu thực
nghiệm hoặc dữ liệu phòng thử nghiệm chỉ ra rằng LMO có thể có nguy cơ về KDTV
(xem điểm a và e của mục này);
- ở những nơi mà LMO thể hiện những đặc điểm
của dịch hại theo tiêu chuẩn này;
- các điều kiện hiện tại trong một quốc gia
(hoặc vùng PRA) mà có thể làm cho LMO trở thành dịch hại;
- nơi có các PRA đối với các sinh vật tương
tự (kể cả LMO) hoặc các phân tích nguy cơ được tiến hành với các mục đích khác
mà đã chỉ ra một nguy cơ về dịch hại;
- kinh nghiệm của các quốc gia khác.
Các yếu tố để có thể kết luận rằng một LMO
không phải là dịch hại tiềm tàng và/ hoặc không yêu cầu phải tiếp tục đánh giá
theo tiêu chuẩn này, bao gồm:
- nơi mà sự thay đổi về di truyền là giống
nhau hoặc sinh vật đó trước đây đã được NPPO đánh giá (hoặc đã được các chuyên
gia hoặc tổ chức khác công nhận) và kết luận là không có nguy cơ về KDTV;
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
- bằng chứng của các nghiên cứu thực nghiệm
cho thấy LMO không có khả năng trở thành dịch hại theo mục đích được đề ra.
- kinh nghiệm của các quốc gia khác.
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Agreement on the Application of Sanitary
and Phytosanitary Measures, 1994. World Trade Organization, Geneva.
[2] Convention on Biological Diversity 1992.
CBD, Montreal.
[3] Glossary of Biotechnology for Food and
Agriculture, 2002. Research and technology paper 9, FAO, Rome (Thuật ngữ sinh
học đối với thực phẩm và nông nghiệp. Trang 9 Nghiên cứu và Công nghệ, FAO,
Rome, 2002).
[4] TCVN 6908:2001, Biện pháp KDTV – Phần 1:
Những quy định về nhập khẩu – Hướng dẫn phân tích nguy cơ dịch hại.
[5] TCVN 7516:2005, Hướng dẫn giám sát dịch
hại.