TIÊU CHUẨN VIỆT NAM
TCVN 6859-3: 2004
ISO 11268-3: 1999
CHẤT
LƯỢNG ĐẤT - ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC CHẤT Ô NHIỄM LÊN GIUN ĐẤT-
PHẦN 3: HƯỚNG DẪN XÁC ĐỊNH ẢNH
HƯỞNG TRONG ĐIỀU KIỆN THỰC ĐỊA
Soil quality - Effects of
pollutants on earthworms -
Part 3: Guidance on the
determination of effects in field situations
TCVN 6859-3: 2004 hoàn toàn tương đương ISO
11268-3: 1999.
TCVN 6859-3: 2004 do Ban Kỹ thuật Tiêu chuẩn
TCVN/TC 190 "Chất lượng đất" biên soạn, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo
lường Chất lượng đề nghị, Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
TIÊU CHUẨN
VIỆT NAM
TCVN 6859-3:
2004
CHẤT LƯỢNG ĐẤT - ẢNH HƯỞNG CỦA
CÁC CHẤT Ô NHIỄM LÊN GIUN ĐẤT -
PHẦN 3: HƯỚNG DẪN XÁC ĐỊNH ẢNH
HƯỞNG TRONG ĐIỀU KIỆN THỰC ĐỊA
Soil quality - Effects of
pollutants on earthworms -
Part 3: Guidance on the
determination of effects in field situations
1. Phạm vi áp dụng
Tiêu chuẩn này mô tả các kỹ thuật xác định ảnh
hưởng của các chất lên giun đất ngoài thực địa, và cung cấp cơ sở để xác định
ảnh hưởng của các hóa chất sử dụng hoặc kết hợp trong đất.
2. Tiêu chuẩn viện dẫn
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
TCVN 6642: 2000 (ISO l0694: 1995), Chất lượng
đất - Xác định hàm lượng cacbon hữu cơ và cacbon tổng số sau khi đốt khô (phân
tích nguyên tố).
TCVN 6651: 2000 (ISO 11274: 1998), Chất lượng
đất - Xác định đặc tính giữ nước - Phương pháp trong phòng thí nghiệm.
TCVN 6862: 2001 (ISO 11277: 1998), Chất lượng
đất - Xác định sự phân bố cấp hạt trong đất khoáng - Phương pháp rây và sa
lắng.
3. Đơn vị
Tỷ lệ sử dụng các chất thử được tính bằng
kilogam trên hecta (kg/ha) hoặc lit trên hecta (l/ha) của chất sử dụng. Khi
dùng chế phẩm thì tỷ lệ sử dụng được tính là lượng hoạt chất sử dụng.
4. Nguyên tắc
So sánh loài và số lượng giun đất thu được từ
các ô lấy mẫu đã được xử lý bằng chất thử nghiệm với cùng loài và số lượng giun
như vậy thu được từ ô đối chứng và ô chuẩn. Khoảng thời gian nghiên cứu phụ
thuộc vào đặc tính của chất thử, nhưng thông thường là một năm. Các ngày lấy
mẫu được chọn nằm trong thời kỳ hoạt động của giun đất.
Việc lấy mẫu cung cấp số lượng giun đất tương
đối và không cần thiết phải định ra một số tuyệt đối. Phép thử là một thiết kế
ngẫu nhiên hoàn toàn với bốn lần lặp lại. Sử dụng phương pháp phân tích thống
kê số lượng mỗi loài thu được từ mỗi lần lấy mẫu để xác định các ảnh hưởng của
việc xử lý.
Chú thích
- Phép thử này cũng có thể tạo ra các mẫu giun ở các ô đất đã xử lý dùng cho
phân tích ảnh hưởng dư lượng của chất thử nghiệm khi phù hợp.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
5.1. Khái quát
Vì cần phải lấy được số lượng lớn mẫu thử trong
khoảng thời gian ngắn nhất, các phương pháp cơ học như thu nhặt bằng tay, rửa
hoặc đãi bằng sàng nói chung là quá vất vả. Tuy nhiên các phương pháp cơ học
này cho phép lấy được mẫu khi giun không hoạt động do thời tiết.
Với mục đích của phép thử được mô tả ở đây, chủ
yếu sử dụng các phương pháp tách bằng formalđehyt (Raw 1959) và phương pháp
tách bằng điện hoặc phương pháp Oktett (Thielemann 1986, Cuendet et al.
1991). Các phương pháp tách này chỉ sử dụng được khi giun đất hoạt động. Để
tăng hiệu quả của các phương pháp này nên sử dụng kết hợp với phương pháp thu
nhặt bằng tay (Lee 1985).
Các mẫu cá thể được lấy theo dạng phân bố ngẫu
nhiên trên ô đất thử.
5.2. Phương pháp tách bằng formalđehyt
Dung dịch formalđehyt (0,2 %) được đưa vào đồng
đều với tỷ lệ từ 5 lit/0,25 m2 đến 10 lit/0,25 m2. Dung
dịch formalđehyt được đưa vào ô thử thành 2 đến 3 phần theo khả năng ngấm. Thời
gian để formalđehyt tác động tổng cộng là 30 phút. Tất cả giun nổi trên bề mặt
đất trong vùng lấy mẫu được thu nhặt lại và cho vào chất lỏng bảo quản (formol
5 % hoặc cồn 70 %) (xem 8.1). Sau thời gian tác động 30 phút, kiểm tra kỹ bề
mặt đất và lớp cỏ phủ bên trên để thu nhặt giun khó nhìn thấy (thường là những
con còn bé và loài giun nhỏ Aporrectodea rosea).
5.3. Phương pháp tách bằng mù tạc
Trước khi tách một ngày, trộn 60 g bột mù tạc
với 1 lit nước cất. Ngay trước khi sử dụng, cho thêm 9 lit nước cất vào dung
dịch nhũ tương này và sử dụng giống như cách sử dụng đối với dung dịch
formalđehyt. Cách tiến hành tiếp theo thực hiện giống như phương pháp tách bằng
formalđehyt đã mô tả ở 5.2.
5.4. Phương pháp tách bằng điện
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
6. Chuẩn bị thử
6. 1. Địa điểm thử
6.1.1. Lựa chọn và mô tả
Phép thử phải được tiến hành ở địa điểm tương
tự với địa điểm mà chất thử sẽ
được sử dụng một cách thông thường, hoặc ở nơi
có thể xả tràn hoặc tháo đi. Địa điểm thử phải ở nơi đất bằng và phải có cùng
loại cây trồng và đặc tính đất giống nhau trên toàn vùng.
Đất đồng cỏ và đất trồng cây ăn quả nói chung
thích hợp cho các nghiên cứu thực địa với giun hơn là đất trồng vì chúng cung
cấp quần thể giun đất cao hơn. Tuy nhiên, nếu cần có thông tin về ảnh hưởng của
đất ít cây thì các ô đất trồng có thể sử dụng nhưng miễn là phải có ít nhất 20
con giun trên một mét vuông và sự đa dạng về loài rõ ràng.
Một khu đất đồng cỏ thử nghiệm thích hợp cần
đạt mật độ giun ít nhất là 100 cá thể trên một mét vuông. Nếu mật độ quần thể
giun thấp hơn thì phải lấy nhiều mẫu thử hơn so với yêu cầu trong 6.1.3.
Các ô đất thực nghiệm phải cung cấp một quần
thể hỗn hợp các sinh vật sống
(Bouché 1977) đại diện chung cho loại môi
trường đã chọn. Ví dụ ở khu đất nông nghiệp, các loài quan trọng như Lumbricus
terrestris và Aporrectodea caliginosa phải có mật độ cao vừa đủ (ít nhất
10% quần thể) thì ô đất mới có thể được lấy làm đại diện. Cẩn thận để không
chọn các ô đất có các loài không điển hình chiếm ưu thế.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Khi chọn địa điểm thử tránh không chọn các loại
đất khắc nghiệt, như đất cát, đất sét và đất đầm lầy.
Mô tả địa điểm thử phải bao gồm các thông tin
hóa - lý và sinh học sau:
- phẫu diện đất;
- sự phân bố hạt (TCVN 6862: 2001 (ISO l1277:
1998));
- hàm lượng các bon hữu cơ (TCVN 6642: 2000
(ISO 10694: 1995));
- giá trị pH (TCVN 5979: 1995 (ISO 10390:
1994));
- sức chứa ẩm đồng ruộng (thang tầng A);
- mô tả về thực vật.
Xác định các đặc tính này phải sử dụng các phương
pháp tiêu chuẩn.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Phải nắm rõ lý lịch của địa điểm thử (như việc
sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, phân khoáng, bùn thải, v.v...).
Chú thích
- Khi thử với một hóa chất cụ thể, địa điểm thử phải không được tiếp xúc với
hóa chất tương tự trong ba năm cuối.
6.1.2. Duy trì hiện trường thử
Khu vực đất đồng cỏ phải được che phủ thường
xuyên (từ hai đến sáu lần một năm) để giữ cho lớp cỏ thấp. Việc che phủ phải
tiến hành trước khi sử dụng chất thử một đến hai tuần để chắc chắn rằng cỏ ở
trên bề mặt đóng vai trò như là nguồn thức ăn cho giun sẽ tiếp xúc với các chất
thử. Chỉ để lại trên hiện trường lần phủ cuối cùng trước khi sử dụng chất thử
miễn sao không tạo thành một thảm cỏ bện, dính liền. Trong trường hợp phủ lâu
hơn một năm, lớp phủ phải để lại trên đồng dùng làm nguồn thức ăn cho một số
loài giun đất.
Nếu phép thử tiến hành trên đất trồng, phải sử
dụng kỹ thuật canh tác thông thường. Tuy nhiên, đất này phải không xử lý trong
quá trình thử càng lâu càng tốt.
Không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật ở khu vực
thử, nhưng nếu không tránh được thì phải chọn hóa chất không có độc cho giun
đất. Sử dụng hóa chất tương tự cho các ô đối chứng. Với mục đích làm sáng tỏ
kết quả thử nghiệm, phải lưu ý rằng ngay cả khi hóa chất này không có ảnh hưởng
đến giun đất thì sự tương tác giữa dư lượng hóa chất không độc hại với chất thử
vẫn có thể xảy ra.
Trong trường hợp riêng, việc tưới ướt nhân tạo
hiện trường thử có thể có ích vì giun đất chỉ hoạt động và phát triển trên bề
mặt khi đất có một độ ẩm thích hợp. Việc tưới ướt sau khi sử dụng chất thử có
thể tăng sự tiếp xúc trực tiếp của giun với hóa chất thử. Việc tưới nói ở đây
phụ thuộc vào điều kiện của vùng thử và vì thế không thể khẳng định là lúc nào
cũng phải tới nước. Tưới một đến hai tuần trước khi lấy mẫu sẽ thuận tiện hoặc
thậm chí cần thiết cho việc lấy mẫu, vì điều này phụ thuộc vào hoạt động của
giun.
6.1.3. Thiết kế thực nghiệm
Phép thử phải được thiết kế theo ô ngẫu nhiên.
Từ số ngày lấy mẫu đã lập kế hoạch sẽ xác định diện tích bề mật của ô đất thử.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Các mẫu thử được lấy duy nhất từ khu vực trung
tâm của ô đất sao cho xung quanh khu vực lấy mẫu có một dải đất rộng từ 1 m đến
2 m cũng được xử lý (xem Hình 1).
Chỉ dẫn
1. Khu vực lấy mẫu
2. Dải Đất bao xung quanh
Hình 1. Sơ đồ của ô đất thử nghiệm
Các mẫu lấy cùng một ngày phải cách nhau ít
nhất 2 m, và các khu vực đã lấy mẫu không được dùng để lấy mẫu cho các ngày lấy
mẫu tiếp sau đó.
Số lượng yêu cầu mẫu thử ngẫu nhiên phụ thuộc
vào mật độ và sự phân bố quần thể giun trên toàn bộ vùng thử (Daniel &
Bieri 1988).
Với mỗi phương án thử khác nhau (đối chứng,
chất đối chiếu, chất thử), phải làm ít nhất bốn lần lặp lại, và mỗi lần lặp lại
lấy bốn mẫu thử ngẫu nhiên (nghĩa là có 16 mẫu thử riêng lẻ cho mỗi phương án
thử).
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Đối với đất đồng cỏ, thực vật ở khu vực lấy mẫu
phải được cắt cẩn thận trước khi lấy mẫu để có thể nhìn thấy và thu nhặt được
tất cả giun nổi trên bề mặt.
Phải cận thận để cửa hang của giun không bị bít
lại, và vì thế người thu nhặt giun phải tránh không dẫm lên khu vực lấy mẫu.
6.2. Kiểm tra tính hiệu quả của phương pháp
tách
Hiệu quả của phương pháp tách đã chọn phải được
kiểm tra ngay từ đầu giai đoạn lấy mẫu. Sau khi lấy mẫu, đào đất ở bên dưới khu
vực lấy mẫu đến độ sâu từ 30 cm đến 50 cm (phụ thuộc vào sự phân bố giun trong
các tầng đất khác nhau) và để lên trên một tấm nhựa hoặc cho vào trong hộp. Sau
đó làm vỡ đất cẩn thận bằng tay và tìm giun. Giai đoạn tạm nghỉ hoặc không hoạt
động của giun phải được ghi lại. Phương pháp tách lựa chọn phải thu được ít
nhất là 60 % lượng giun đất thu nhặt theo cách mô tả ở trên. Phải tiến hành đào
ít nhất ở ba vùng mẫu thử trước khi lấy mẫu chính thức.
Khi lấy mẫu tiến hành trong nhiều ngày, các
kiểm tra tính hiệu quả trên các mẫu thử ngẫu nhiên phải được thực hiện theo các
khoảng thời gian thích hợp để tránh những thay đổi của thời tiết hoặc đất bị
khô.
7. Cách tiến hành
7.1. Sử dụng chất thử
Phải mô tả đầy đủ về chất thử và chất đối chiếu
trong báo cáo thử nghiệm và các tính chất lý hóa nếu nó giúp ích cho việc làm
sáng tỏ các kết quả thử nghiệm.
Khi các hóa chất được dự tính dùng cho đất (ví
dụ các hóa chất nông nghiệp), tỷ lệ sử dụng, công thức và cách sử dụng phải do
nhà cung cấp quy định và phải tuân theo. Trong trường hợp như vậy, thiết bị sử
dụng trong thử nghiệm phải giống các thiết bị sử dụng trong thực tế (ví dụ khi
thử với thuốc bảo vệ thực vật, phải sử dụng thiết bị bơm nông nghiệp thích hợp
đã được thiết kế để phân chia các thể tích đều nhau theo cùng một cách). Tất cả
các thiết bị phải được điều chỉnh trước khi sử dụng để phân chia hóa chất ở tốc
độ bằng tốc độ cực đại dùng được trong thực tế.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Trong quá trình nghiên cứu nếu có ảnh hưởng của
sự cố tràn hoặc ngấm hóa chất thì việc ứng dụng phải thực hiện càng gần với
hoàn cảnh thực tế càng tốt, nhưng việc lấy mẫu vẫn theo quy định (ví dụ việc
phân bố chẵn các ô đất). Ở các nước ôn đới, giun đất hoạt động nhiều nhất vào
mùa xuân và mùa thu, vì vậy nên bắt đầu tiến hành thử nghiệm vào mùa xuân.
Khi thử với thuốc diệt cỏ, thì tất cả thực vật
ở ô đất bị chết. Vì điều này có ảnh hưởng đến quần thể giun đất ở địa điểm thử
cho nên các thử nghiệm này tốt nhất nên tiến hành ở các vùng đất có ít cây. Đất
đồng cỏ vừa mới cày để gieo hạt sau đó cũng có thể sử dụng.
7.2. Ngày lấy mẫu
Sau khi sử dụng chất thử, tiến hành ít nhất ba
lần lấy mẫu và phải ở trong thời kỳ hoạt động của giun:
Lần lấy mẫu đầu tiên: khoảng 1 tháng sau khi sử
dụng chất thử;
Lần lấy mẫu thứ hai: khoảng 4 đến 6 tháng sau
khi sử dụng chất thử;
Lần lấy mẫu thứ ba: khoảng 12 tháng sau khi sử
dụng chất thử.
Khoảng thời gian thử phụ thuộc vào tính chất
của hóa chất thử. Nếu cần thiết lấy thêm mẫu thì phải tiến hành ở khoảng thời
gian nửa năm một trong thời kỳ hoạt động của giun đất.
7.3. Chất đối chiếu
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Hoạt chất Benomyl và Carbendazim độc với giun
là phù hợp với mục đích này (Niklab & Kennel 1978, Edwards & Brown
1982, Heimbach 1990). Tỷ lệ sử dụng các hoạt chất từ 2 kg đến 4 kg trên hecta
được coi là phù hợp để thu được các ảnh hưởng mong muốn (giảm mật độ từ 40% đến
80 %). Do các ảnh hưởng này có thể phụ thuộc vào chế phẩm lựa chọn nên cần tiến
hành các phép thử sơ bộ hoặc sử dụng nhiều tỷ lệ sử dụng khác nhau.
8. Đánh giá phép thử
8.1. Phân loại các loài giun đất
Phân loại các loài giun căn cứ vào các tài liệu
thích hợp (Graff 1953, Sim & Gerard 1985), và sử dụng các danh pháp của Easton (1983).
Giun đất sau khi thu nhặt được cố định trong
dung dịch formađehyt 5 % và lưu giữ cho đến khi đưa ra phân loại. Cồn 70 % cũng
có thể được sử dụng làm dung dịch cố định và bảo quản. Tuy nhiên, cồn có bất
lợi là tẩy trắng giun nên gây khó khăn cho việc phân loại giun. Việc phân loại
giun đất sống có thể tiến hành ngay ngoài thực địa nhưng đòi hỏi người phân
loại phải có kỹ năng phân loại các loài.
Tính riêng số lượng giun trưởng thành và còn
non của một loài. Đối với những con giun non khó phân biệt, thì việc phân loại
chúng sẽ dựa vào sự khác biệt giữa Tanylobes và Epilobes.
Chú thích - Để thuận lợi cho việc phân biệt giun đất non thì sự khác biệt giữa
Epilobous (môi sau) và Tanylobous (môi
trước) là rất cần thiết và quan trọng.
Phần quanh miệng ở đốt đầu tiên mà bao quanh miệng, lưng mang một thùy hướng
về phía trước gọi là môi. Khi giun không hoạt động, nó đóng vai trò như là một
cái nắp và bịt kín xoang miệng hoặc khoang má, nhưng khi khác nó đóng vai trò
như là cơ quan xúc giác và thụ quan cảm giác hóa học. Ở Lumbricus spp.,
môi có thêm chức năng dùng để lấy cỏ và lá cây vào trong hang. Môi có thể tiếp
tục về phía sau với phần quanh miệng (Zygolobous), có một đường phân
cách đơn giản (Prolobous), có một mấu lồi ngắn dạng lưỡi về phía sau (Epilobous)
hay có mấu lồi dạng lưỡi kéo dài về phía sau đến gian đốt đầu tiên và phân
chia phần quanh miệng ở phía lưng (Tanylobous).
8.2. Cân
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
9. Tính toán và biểu thị
kết quả
Xác định số giun trưởng thành và giun còn non
và khối lượng của chúng đối với mỗi loài giun thu được trong mỗi lần lấy mẫu.
Sử dụng phương pháp thống kê thích hợp để so sánh mẫu đã xử lý và đối chứng.
Phép thử thống kê và suy luận phụ thuộc vào việc các giá trị lặp lại có được
phân bố chuẩn và có đồng nhất theo sự biến thiên của chúng không.
Để kiểm tra sự phân bố chuẩn và sự biến thiên
đồng nhất, sử dụng tương ứng các phương pháp của Kolmogoroff-Smirnov và của Bartlett. Với các số liệu phân bố chuẩn và đồng nhất, các phép thử t bội có thể
thực hiện được như phép thử của Dunnett hoặc của William (a =
0,05, một phía). Mặt khác, phép thử U bội có thể tiến hành, như phép thử U Bonferroni
phù hợp với Holm (1979). Nếu chỉ có một cách xử lý được tiến hành và điều kiện
tiên quyết (sự phân bố chuẩn, sự đồng nhất) của quy trình thử thông số được đáp
ứng, sử dụng quy trình thử t Student, hoặc không thì quy trình của phép
thử U Mann-Whitney.
Chú thích - Phải lưu ý rằng khi sử dụng các phương pháp tách dựa theo
tính hoạt động của giun thì có thể một vài loài xuất hiện quá nhiều hoặc quá ít
so với mức đại diện. Ví dụ khi sử dụng phương pháp tách bằng điện thì các giun
đất trưởng thành của loài Lumbricus terrestris nằm sâu ở dưới đất sẽ
không xuất hiện (Cuendet et al. 1991). Tương tự với loài giun nội sinh
nhỏ hơn ở trong đất, có thể bị chết khi sử dụng phương pháp tách bằng formol
và do đó ở dưới mức đại diện (Raw 1959).
10. Báo cáo thử nghiệm
Báo cáo thử nghiệm phải bao gồm các thông tin
sau:
a) viện dẫn tiêu chuẩn này;
b) kết quả, mô tả như trong điều 9;
c) mô tả cụ thể về chất thử và thông tin về
tính chất hóa học, lý học để giúp hiểu rõ kết quả thử;
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
e) điều kiện thời tiết trong quá trình thử;
f) mô tả cụ thể về thiết kế phép thử và kiểm
soát địa điểm thử (kích thước của các ô đất thử, số mẫu lặp lại, số mẫu thử);
g) phương pháp tách sử dụng để lấy mẫu;
h) toàn bộ số lượng và khối lượng tổng cộng
của giun thu được trong tất cả các ngày lấy mẫu;
i) bảng ghi chép phần trăm thay đổi trên một ô
thử, xử lý và ngày thử so sánh với đối chứng;
j) toàn bộ số lượng và khối lượng của mỗi loài
trong tất cả các ngày lấy mẫu;
k) bảng ghi chép số lượng và khối lượng trên
mỗi mẫu và ngày lấy mẫu của mỗi loài;
l) đồ thị biểu diễn sự thay đổi về số lượng và
khối lượng cho mỗi loài riêng biệt trong quá trình thử;
m) kết quả thu được bằng các chất đối chiếu
riêng;
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[l] BOUCHE, M.: Stratégies
lombriciennes. Ecological Bulletin, 25, 1977, pp. 122-132.
[2] CUENDET, G., BIERI, M. &
VETTER, F.: Elektrische Regenwurmextrakti- onsmethode. Schriftenreihe Umwelt,
154, 1991, Bundesamt fur Umwelt, Wald und Landschaft, Bern.
[3] DANIEL, O., BIERI, M.: Stichprobenplan fur
die Regenwurmart Lumbricus terrestri L. Bullentin Bodenkundliche
Gesellschaft der Schweiz, 12, 1988, pp. 196-198.
[4] DUNNETT, C.W.: A multiple comparison
procedure for comparing several treatments with a control. Amer. Statist.
Ass.J., 50, 1955, pp. 1096-1121.
[5] DUNNETT, C.W.: New tables for multiple
comparisons with a control. Biometrics, 20, 1964, pp. 482-491.
[6] EASTON, E.G.: A guide to the valid names of
Lumbricidae (Oligochaeta). In: Satchell, J.E. (ed): Earthworm Ecology.
Chapman & Hall, London, 1983, pp. 475-478.
[7] Ecotoxicology of earthworms, Results and
recommendations of an international workshop held in Sheffield, UK, 10th to 12th April 1991, pubhshed by Greig- Smith et al., 1992.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
[9] EDWARDS, C.A. & BOHLEN, S.M.: Use of
gtassland plots to study the effect ofpesticides on earthworm. Pedobiologia,
24, 1982, pp. 145-150.
[10] FINNEY, D.J.: Statistical Method in
Biological Assay. Charles Griffin & Company Ltd, London, 1978.
[11] GRAFF, O.: Die Kegenwurmer Deutschlands.
Verlag Schaper, Hannover, 1953.
[12] GREIG-SMITH, P.W., BECKER, H., EDWARDS,
P.J. & HEIMBACH, F.: Ecotoxicology of earthworms. Intercept, Anaover, 1992.
[13] HEIMBAEH, F.: Beeinflussung der
Regenwurmfauna einer Graslandnache durch Schneckenkorn Mesurol. Pflanzenschutz-
Nachrichten Bayer, 43, 1990, pp 140-150.
[14] HOLM, S.: A simple sequentially rejective
multiple test procedure. Scand. J. Statist., 6, 1979, pp. 65-70.
[15] LEE, K.E.: Earthworms - Their ecology and
relationship with soils and land use. Academic Press, New York, 1985.
[16] NIKLAS, J. & KENNEL, W.:
Lumbricidenpopulationen in Obstanlagen der Bundesrepublik Deutschland und ihre
Beeinflussung durch Fungizide auf Basis von Kupferverbindungen und
Benzimidazolderivaten. Zeitschrift fur Pflanzenkrankheiten und
Pflanzenschutz, 85, 1978, pp. 705-713.
[17] RAW, F.: Estimating earthworm populations
by using formahn. Nature, 184, 1959, pp. 1661-1662.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
[19] THIELEMANN, U.: Elektrischer Regenwurmfang
mit der Oktett-Methode. Pedobiologia, 29, 1986, pp. 297-303.
[20] WILLIAMS, D.A.: A test for differences
between treatment means when several dose levels are compared with a zero dose
control. Biometrics, 27. 1971, pp 103-117.
[21] WILLIAMS, D.A.: The comparison of several
dos levels with a zero dose control Biometrics, 28, 1972, pp. 519-531.