Mức chất lượng thông thường,
phần trăm không phù
hợp
|
Mức chất lượng sau
sụt giảm, phần trăm không phù hợp
|
Phương án tối ưu
|
Giá bán trên một cá thể, a
(£)
|
Lợi nhuận
trung bình trên một cá thể
bán
ra,
a (£)
|
Cỡ mẫu
n
|
Số chấp nhận,
Ac
|
0,001 00
|
0,100
|
104
|
2
|
20,25
|
0,022
|
0,000 50
|
0,050
|
139
|
1
|
15,40
|
0,091
|
0,000 30
|
0,030
|
197
|
1
|
13,60
|
0,211
|
0,000 20
|
0,020
|
249
|
1
|
12,75
|
0,280
|
0,000 10
|
0,010
|
141
|
0
|
12,00
|
0,378
|
0,000 09
|
0,009
|
137
|
0
|
11,95
|
0,436
|
0,000 08
|
0,008
|
129
|
0
|
11,90
|
0,499
|
0,000 07
|
0,007
|
113
|
0
|
11,85
|
0,570
|
0,000 06
|
0,006
|
86
|
0
|
11,75
|
0,603
|
0,000 05
|
0,005
|
34
|
0
|
11,70
|
0,710
|
0,000 04
|
0,004
|
Chấp nhận mà không lấy
mẫu
|
11,60
|
0,804
|
0,000 03
|
0,003
|
Chấp nhận
mà không lấy mẫu
|
11,50
|
0,903
|
0,000 02
|
0,002
|
Chấp nhận mà không
lấy mẫu
|
11,35
|
0,952
|
0,000 01
|
0,001
|
Chấp nhận mà không lấy mẫu
|
11,20
|
1,001
|
Không ngạc nhiên khi thấy rằng những cải
tiến về mức chất lượng
cho phép giảm giá bán đồng thời làm tăng lợi nhuận trên một cá thể bán ra. Trước
tiên, cải tiến mức chất lượng đòi hỏi các cỡ mẫu lớn hơn để có thể tạo ra sự
phân biệt cần thiết giữa hai mức chất lượng. Khi mức chất lượng cải thiện, số
chấp nhận Ac tối ưu giảm và sẽ tới lúc khi cỡ mẫu được yêu cầu cũng bắt đầu giảm
cho đến khi, cuối cùng, nó trở nên lãng phí khi không lấy mẫu. Trạng thái
cuối cùng này được gọi là “kiểm tra gián tiếp” vì việc kiểm tra được chuyển một cách hiệu
quả từ nhà sản xuất sang người tiêu dùng; các cá thể không phù hợp hiếm đến mức
sẽ tiết kiệm hơn nếu không lấy mẫu và việc kiểm tra được chuyển cho
người tiêu dùng trên cơ sở không thường
xuyên rằng họ được yêu cầu bảo hành cho những trường hợp hãn hữu xảy ra. Vì vậy, 4.1a) bị
hiểu nhầm là, khi mức chất
lượng đạt đến mức đủ cao, việc lấy mẫu chấp nhận chỉ trở thành một
phí tổn không cần thiết chứ không phải yêu cầu cỡ mẫu lớn là lãng phí.
4.3. Kiểm tra chất lượng vào sản phẩm
Việc kiểm tra tạo khác biệt nhỏ cho chất lượng
đầu ra nếu chất lượng đầu vào ít nhiều không thay đổi trừ khi cỡ mẫu là một
phần lớn cỡ lô, khi đó quá trình kiểm tra
sẽ gây phí tổn lớn. Nói cách khác, đó không phải là một cách tiếp cận nhạy bén
đặc biệt để cải tiến mức chất lượng.
4.4. Thiết kế và kiểm soát
Việc thiết lập thiết kế ổn định và hệ
thống kiểm soát quá trình toàn diện có rất nhiều ưu điểm. Thiết kế ổn
định đặt ra ít yêu cầu nhất đối
với quá trình sản xuất và hệ thống kiểm
soát quá trình có xu hướng ngăn ngừa các
tham số quá trình trượt quá xa khỏi giá trị mục tiêu của chúng, vì vậy độ biến động quá trình
và lãng phí được
duy trì ở mức thấp và
chất lượng đầu ra ở mức cao. Hơn
nữa, thiết kế và hệ thống kiểm soát quá trình sản
xuất có thể được xem xét và cải tiến trên quan điểm kinh nghiệm nhằm đưa
ra cải tiến chất
lượng liên tục.
4.5. AQL
Chữ viết tắt AQL nghĩa là mức chất lượng
chấp nhận, mặc dù trên thực tế AQL đơn thuần là một chỉ số cho phương án lấy mẫu.
Các tiêu chuẩn cố gắng làm rõ điều này bằng cách giải thích rằng mức được chấp
nhận cho mục đích lấy mẫu chấp
nhận (hơn là theo nghĩa tuyệt đối). Thực vậy, mức chất lượng của
lô thường tốt hơn một nửa AQL để có khả năng được chấp nhận rất cao.
Vào cuối thế kỷ 20, nhiều công ty thừa
nhận rằng cách duy
nhất để tồn tại
trong thị trường toàn cầu là phấn đấu không ngừng cho mức chất lượng cải tiến.
Ý niệm là mức chất lượng bất kỳ ngoài khuyết tật “không” (xem 4.7) được chấp nhận
bắt đầu không được coi trọng. Để làm rõ tình huống này, ý nghĩa của chữ viết tắt AQL đã
thay được thay đổi trong các tiêu chuẩn thành giới hạn chất lượng chấp nhận, ý
nghĩa này mô tả chính xác hơn chức năng của nó. Thiệt hại không may là nhiều tổ chức
không còn muốn sử dụng các tiêu chuẩn xác định theo AQL nữa.
Lập luận răng AQL không khuyến khích
nhà sản xuất liên tục cải tiến chất lượng khi nó đã được cải tiến đến mức tốt
hơn AQL không phải là một lập luận chắc chắn; trong nhiều thỏa thuận trung hạn
và
dài
hạn giữa nhà cung cấp và khách hàng, việc giảm dần AQL có thể dễ dàng thống nhất
và ghi trong hợp đồng. Hơn nữa, nhà sản xuất mong muốn tiếp tục công việc đã cố gắng hướng
đến mức chất lượng tốt hơn nhằm duy trì hoặc cải thiện vị thế của mình trên thị
trường quốc gia hoặc toàn cầu.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Không nên hiểu là AQL cho phép nhà sản
xuất tạo ra khuyết tật. Hầu hết các tiêu chuẩn xác định theo AQL đều cảnh báo rõ rằng
việc ấn định AQL không hàm ý là nhà cung cấp có quyền cố ý cung cấp bất kỳ một cá thể
sản phẩm không phù hợp nào.
4.7. Triết lý khuyết tật bằng
“không”
Crosby [19] đưa ra ý tưởng là chất lượng
có thể cho không,
nghĩa là những nguồn lực bổ sung sử dụng để cải tiến chất lượng thường
được bù đắp lại nhiều hơn nhờ việc giảm làm lại hoặc thải loại hay mất tín nhiệm.
Không may là ý tưởng tương ứng
là nhà sản xuất nên phấn đấu cho một quá trình hoàn hảo không tạo ra những cá
thể không phù hợp thường bị hiểu sai để đặt điều kiện là phương án lấy mẫu chấp
nhận cần phải luôn có số chấp nhận bằng “không”, nghĩa là các phương án cần dẫn
đến không chấp nhận lô nếu một hoặc nhiều cá thể không phù hợp được tìm thấy
trong mẫu. Ví dụ 1 cho thấy điều này không phải là một
hệ quả tất yếu. Số chấp nhận bằng không được
xem là tối ưu chỉ trong một dải
mức chất lượng nhất định; ở mức chất lượng
kém hơn, số chấp nhận bằng 1 hoặc lớn hơn là tối ưu, trong khi ở các mức chất
lượng tốt hơn thì tốt nhất là không cần lấy mẫu.
4.8. Sử dụng lấy mẫu chấp
nhận
Đối với nhiều quá trình sản xuất thuần thục, mức chất lượng sẽ trở nên gần như
hoàn hảo tới mức không cần thiết lãng phí nguồn lực để thực thi các quy trình lấy
mẫu chấp nhận. Thiết kế sẽ được tinh lọc để không có khó khăn gì trong quá
trình sản xuất do khó đạt được hay duy trì bất kỳ tham số quá trình nào, và trong hệ thống kiểm soát quá trình sẽ thiết lập những bảo đảm bất cứ nơi nào
cần thiết.
Có thể thấy từ Bảng 1
là lấy mẫu chấp nhận
trở nên thừa ở mức chất lượng
nằm trong khoảng không phù hợp từ 0,000 1 đến 0,000 2. Một trong các biến trong
Ví dụ 1 là 1 % các lô sụt giảm xuống mức chất lượng kém hơn. Nếu phần trăm này có thể được
giảm đáng kể thì lấy mẫu chấp nhận sẽ trở nên thừa ở những mức chất
lượng trong các lô tốt có tỷ lệ không phù hợp thấp hơn 0,000 2. Vì vậy, thâm nhập
theo hai hướng lên độ biến động
bên trong và bên ngoài, “nguyên
nhân đặc biệt” của độ biến động trong quá
trình sản xuất, cùng với những xem xét lặp
lại về thiết kế
sản xuất, cuối cùng dẫn đến việc lấy mẫu chấp nhận trở nên không cần
thiết đối với nhiều sản phẩm.
Tuy nhiên, những giai đoạn đầu trong
khi quá trình và việc kiểm soát quá trình
đang được thanh lọc thì thế nào? Ví dụ 1 chứng minh rằng việc sử dụng lấy mẫu
chấp nhận phù hợp có thể đóng một phần
quan trọng trong việc tối ưu hóa lợi nhuận trong giai đoạn chuyển tiếp này.
Một số quá trình không đủ dài để trở thành thuần thục. Điều này đặc biệt đúng với
một số ngành công nghiệp quốc phòng. Không có nhiều dịp để liên tục xây
dựng vũ khí tấn công theo một quy định kỹ thuật cho trước một
khi sự phòng vệ hiệu quả đã được đưa ra và phổ biến rộng rãi. Vì vậy, các quy
định kỹ thuật được sửa đổi thường
xuyên có thể gây khó khăn
cho việc có được thiết kế ổn định hoặc kiểm soát quá trình hiệu quả. Đôi khi, vật liệu sử dụng trong sản xuất vũ khí mới
đến mức chúng có các tính chất và giới hạn không thể hiểu được hoàn toàn. Đôi
khi, trong việc lắp ráp các linh kiện âm thanh đơn lẻ thành các cá thể phức tạp
có thể cần sử dụng
lấy mẫu chấp nhận để duy trì chất lượng; sẽ là quá muộn khi các cá thể được sử
dụng trong khi tức giận. Đôi khi những gì có vẻ như ở mức không phù hợp rất cao lại có thể được chấp nhận.
Ví dụ, hệ thống
vũ khí chống tăng vác trên vai có khả
năng được chấp nhận cao hơn ngay cả khi nó chỉ có 50 % cơ hội phá hủy
xe tăng trị giá nhiều hơn gấp một ngàn lần, mặc dù điều này được hiểu là 50 %
không phù hợp. Lấy mẫu chấp nhận có thể được áp dụng định kỳ cho đạn dược
lưu kho trong nhiều năm, để kiểm tra xem chúng không bị xuống cấp đến mức
không chấp nhận được. Trong ngành công nghiệp máy tính, quá trình đạt thấp tới 50 % khi khắc chip máy tính mới nhất
và nhanh nhất có thể được coi là chấp nhận được. Lấy mẫu chấp nhận thậm
chí có thể được sử dụng
như một công cụ thông qua đó để kiểm tra
xác nhận các kết quả kiểm soát quá trình thống kê.
Tóm lại, lấy mẫu chấp nhận đóng một phần
xác đáng trong việc đảm bảo chất lượng của nhiều sản phẩm.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Phương án lấy mẫu chấp nhận là thiết lập
các quy tắc thông qua đó lô được kiểm tra và xác định khả năng chấp nhận.
Phương án quy định số lượng cá thể (đơn vị)
trong mẫu, được lấy ngẫu nhiên
từ lô để kiểm tra theo quy định kỹ thuật của sản phẩm. Sau đó, lô được tuyên bố là “được chấp
nhận” hoặc “không được chấp nhận” theo các kết quả kiểm tra so với các chuẩn mực của phương án lấy mẫu chấp nhận.
Khi một loạt nhiều lô được kiểm tra,
đôi khi, quy trình lấy mẫu có thể yêu cầu chuyển
đổi từ phương án lấy mẫu này sang phương án khác, tùy thuộc vào kết quả lấy mẫu
hiện tại và trước đó. Các quy trình lấy mẫu trong đó đòi hỏi việc chuyển đổi từ phương
án lấy mẫu này
sang phương án khác, và có thể là chuyển ngược lại, được gọi là chương trình lấy mẫu. Chương trình
lấy mẫu cũng có thể yêu cầu gián
đoạn việc kiểm tra nếu chất
lượng sản phẩm dường
như vẫn còn kém. Khi đó, khách hàng có thể chuyển sang nhà cung cấp khác, nếu có, hoặc
bắt đầu kiểm tra 100 %
cho đến khi nhà cung cấp có thể cải tiến quá trình
sản xuất đủ để tạo ra sản phẩm chấp nhận
được.
Trong trường hợp phép thử phá hủy,
khách hàng có thể ngừng chấp
nhận sản phẩm cho đến khi
nhà cung cấp chứng minh
thỏa đáng được rằng các vấn đề sản xuất làm nảy sinh chất lượng thấp
trước đó đã được khắc phục.
Tập hợp các phương án lấy mẫu và các
chương trình lấy mẫu liên quan tạo thành hệ thống lấy mẫu Hệ thống này thường
được xác định theo cách thức nhất định, ví dụ theo cỡ lô, mức kiểm tra và giới hạn chất
lượng chấp nhận [ví dụ TCVN
7790-1 (ISO 2859-1)].
Các tiêu chuẩn xem xét trong TCVN
9946-2 (ISO/TR 8550-2) và
TCVN 9946-3 (ISO/TR 8550-3) trình bày các
phương án lấy mẫu một lần, hai lần, nhiều lần hoặc liên tiếp. Các quy trình lấy mẫu lô cách quãng để kiểm tra định
tính được đề cập trong TCVN 7790-3 (ISO 2859-3). Sự so sánh giữa các phương
pháp lấy mẫu khác nhau và các nguyên tắc làm cơ sở
cho phương án lấy mẫu sẽ hỗ trợ cho việc đánh giá tính thích hợp cho một
ứng dụng cụ thể và cho phép đưa ra lựa chọn phù hợp.
6. Ưu điểm thực tế và
kinh tế của việc sử dụng phương án lấy mẫu tiêu chuẩn
Đối với những người tham gia vào việc
viết các quy định kỹ thuật thì việc được cung cấp các quy trình lấy mẫu hợp lý về mặt thống kê sẽ rất hữu
ích. Vì đối với các lô lớn hơn sẽ tiết kiệm hơn nên hầu hết các chương trình lấy mẫu trình bày trong các tiêu chuẩn được đề cập trong TCVN 9946-2
(ISO/TR 8550-2) và TCVN 9946-3 (ISO/TR 8550-3) đều liên hệ cỡ mẫu với cỡ lô. Ngoài việc
cung cấp việc kiểm soát cho
các phương pháp lựa chọn mẫu, các tiêu chuẩn này nên được tham khảo vì chúng quy định các yêu cầu
kiểm soát việc xử
lý những sự không phù hợp được phát hiện trong quá trình kiểm tra và xử lý những
lô được giao nộp lại sau khi không được chấp nhận ban đầu. Ngoài ra, hầu hết
các hệ thống lấy mẫu này có các nguyên tắc chuyển đổi lập sẵn (ví
dụ như từ kiểm tra “thường” sang kiểm tra “ngặt” hoặc “giảm”) để điều chỉnh
phương án lấy mẫu trong trường hợp có sự suy giảm hay cải thiện về chất lượng. Việc
sử dụng các tiêu chuẩn tham khảo cơ bản này có thể tiết kiệm phần lớn thời gian
thường bị lãng phí cho việc tranh luận chủ quan và giảm bớt các quyết định tùy tiện có
trong các chương trình lấy mẫu phi
tiêu chuẩn chỉ có giá trị hạn chế, đặc
biệt đối với thương mại quốc tế.
Việc lấy mẫu có rủi ro và, hoàn toàn tự
nhiên, tất cả các bên
liên quan đều cố gắng giảm thiểu phần của
mình. Theo lý
thuyết, những rủi ro này là hàm số của phương án lấy mẫu và mức chất lượng được
thỏa thuận, không liên quan đến ngành công nghiệp hay sản phẩm. Trên thực tế,
những rủi ro này được giảm thiểu bằng cách kiểm soát quá trình sản xuất và cải tiến mức chất lượng.
Không thể loại trừ những rủi ro này
nhưng chúng có thể được tính
toán chính xác và đánh giá một cách kinh tế nhờ sử dụng các kỹ thuật thống kê
hiện đại. Kết quả là tất cả các bên đều có lợi khi các chuẩn mực chấp nhận
bền vững về mặt thống kê được quy định trong các quy định kỹ thuật của sản phẩm/quá
trình và, bất cứ khi nào có thể, các tiêu chuẩn tham
khảo cơ bản áp dụng chung về lấy mẫu, ví dụ như bộ tiêu chuẩn TCVN 7790 (ISO 2859)
và TCVN 8243 (ISO 3951) được sử dụng.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Việc xây dựng các tiêu chuẩn lấy mẫu
chấp nhận chung là một
vấn đề khó khăn
hơn. Có những ưu điểm không thể phủ nhận khi có tương đối ít các chương trình tiêu chuẩn, vì điều này dẫn
đến sự
đồng
nhất cao hơn trong hành động và đơn giản hóa các thủ tục quản lý trong phạm vi
tổ chức và quốc gia. Tuy nhiên, để ngành công nghiệp toàn cầu chấp nhận sử dụng
các tiêu chuẩn này thì các tiêu chuẩn lấy mẫu
phải khả thi và đủ tính hoạt để
có thể tính đến nhiều
tình huống khác nhau gặp phải trong thực tế. Các quy trình xác định theo AQL đề cập trong bộ tiêu chuẩn TCVN 7790 (ISO
2859) và TCVN 8243 (ISO 3951) cũng như trong các tiêu chuẩn quốc tế tương ứng đã phục vụ tốt
cho công nghiệp trong quá khứ và đang tiếp tục được xây dựng để đáp ứng nhu
cầu hiện tại và tương lai.
Động cơ cho lấy mẫu chấp nhận chủ yếu là về
kinh tế: việc kiểm tra mẫu lấy từ lô là chi phí (thường nhỏ) phải trả để đạt được
chất lượng mong muốn trong lô được chấp nhận. Chất lượng này đạt được thông qua
hai áp lực:
1) áp lực thống kê đơn thuần của xác suất
chấp nhận khác nhau các lô có chất lượng tốt và kém;
2) khi loạt các lô được mua, áp
lực thương mại của những lô thường xuyên không được chấp nhận và
chuyển sang kiểm tra ngặt hoặc gián đoạn việc kiểm tra khi chất lượng kém.
Vấn đề khó khăn đi kèm với kiểm tra lấy
mẫu chấp nhận liên quan đến việc xác định không rõ ràng các chuẩn mực sử dụng để đánh giá các
cá thể riêng lẻ dạng đơn chiếc được cung cấp hàng loạt, chuẩn mực chấp nhận lô,
mức chất lượng mong
đợi từ quá trình sản xuất, sự phân biệt
mà phương án lấy mẫu tạo ra
và các quy tắc cần tuân thủ khi lô không được chấp nhận. Tuy nhiên, trên hết là cần
thiết kế chương trình lấy mẫu sao cho có
thể dễ dàng viện
dẫn trong hợp đồng mua hàng. Phương án lấy
mẫu trong các bộ tiêu chuẩn liên quan đề cập trong TCVN 9946-2 (ISO/TR 8550-2)
và TCVN 9946-3 (ISO/TR 8550-3) cho phép thực hiện hiệu quả việc này.
Các bên cần thống nhất về:
a) quy định kỹ thuật mà cá thể sản phẩm dạng
đơn chiếc cần tuân thủ; điều này là cần thiết vì, trong tất cả những quan hệ
giao dịch giữa các bên, phải có sự thỏa thuận về những gì cấu thành một cá thể
phù hợp và những gì tạo nên cá thể không phù hợp;
b) việc chấp nhận sản phẩm được
xác định thông qua chấp nhận các cá thể đơn lẻ hay chung bằng việc chấp nhận lô cá thể
kiểm tra (chấp nhận cá thể
đơn lẻ loại bỏ việc
lấy mẫu).
Khi việc chấp nhận dựa trên cơ sở lô, thỏa thuận giữa nhà cung cấp và bên tiếp
nhận cần bao gồm:
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
- chuẩn mực chấp nhận lô,
- chuẩn mực không chấp nhận lô, và
- hệ thống, chương
trình hoặc phương án lấy mẫu chấp nhận được sử dụng.
Yếu tố đề cập sau cần dựa trên hệ số rủi
ro được cả nhà sản xuất và khách hàng chấp nhận.
Với sự thống nhất về hệ thống, chương
trình hoặc phương án lấy mẫu chấp nhận
để sử dụng, nhà cung cấp biết, đối với các mức chất lượng khác nhau, xác suất
cung cấp các lô sẽ được chấp nhận.
Tương tự như vậy, khách hàng thông hiểu
về sự bảo đảm của hệ thống, chương trình hoặc phương án lấy mẫu đối với việc
chấp nhận sản phẩm chất lượng kém.
Các tiêu chuẩn hiện tại đưa ra các
phương án lấy mẫu một lần, hai lần, nhiều lần, liên tiếp và lấy mẫu lô cách
quãng. Việc so sánh giữa các phương pháp lấy mẫu khác nhau và các nguyên tắc
làm cơ sở cho phương án đó sẽ hỗ trợ việc
đánh giá tính thích hợp của chúng đối với ứng dụng cụ thể và cho phép đưa ra lựa
chọn phù hợp.
7. Định tính và định
lượng
Các tiêu chuẩn lấy mẫu chấp nhận thường
mô tả quy trình
kiểm tra định tính hoặc kiểm tra định lượng; quyết định quan trọng cần đưa ra là sử
dụng loại nào.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Phương pháp định tính có ưu điểm là ổn định hơn
theo nghĩa nó không phụ thuộc vào giả định về dạng phân bố và sử dụng đơn giản
hơn. Cỡ mẫu lớn hơn
và kéo theo chi phí tăng cùng với việc sử dụng các phương pháp lấy mẫu định
tính có thể là chính đáng vì những lý do này. Ngoài ra, chương trình định tính
có thể dễ hiểu và dễ
chấp nhận hơn đối với người kiểm tra. Để tránh giả định về tính chuẩn và không
có khả năng tham dự hoặc khó khăn trong việc kiểm tra điều này với “loạt ngắn”
hoặc lô có tính chất “riêng biệt”, lấy mẫu định tính được khuyến nghị thậm chí
đến mức độ chuyển đổi các phép đo thành định tính.
Khi các đặc trưng chất lượng đã biết
là có phân bố chuẩn, ít nhất ở mức gần đúng tốt, thì lấy mẫu định lượng có một ưu điểm
cơ bản khi việc kiểm tra tốn kém, ví dụ khi thử nghiệm là phá hủy. Thông thường,
phép chuyển đổi toán học
đơn giản, như lấy loga hoặc căn bậc hai, sẽ chuyển đổi tập hợp phép đo từ phân
bố không chuẩn thành chuẩn, hoặc gần chuẩn.
Bảng 2 đưa ra so sánh về cỡ mẫu cho kiểm
tra định tính và định
lượng đối với loạt cỡ lô nhất định
khi sử dụng các phương án lấy mẫu một lần ở bậc kiểm tra II (xem 8.6.1) trong kiểm tra
thường. Những ưu điểm tương tự cũng có khi so sánh giữa kiểm tra định lượng và định tính trong lấy mẫu hai lần và lấy mẫu
liên tiếp.
Bảng 2 - So
sánh cỡ mẫu trong kiểm
tra định tính và định
lượng
Cỡ lô
Cỡ mẫu một
lần trong kiểm tra thường
Kiểm tra định
tính
TCVN
7790-1 (ISO 2859-1)
Kiểm tra định
lượng TCVN
8243-1 (ISO 3951-1)
Độ lệch chuẩn
quá trình chưa biết
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
16 đến 25
5
4
3
91 đến 150
20
13
8
281 đến 500
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
25
12
1 201 đến 3
200
125
50
18
35 001 đến
150 000
500
125
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
8. Các xem xét khác ảnh
hưởng đến việc lựa chọn
8.1. Loạt sản xuất dài và
ngắn
Hầu hết các tiêu chuẩn lấy mẫu chấp nhận
đều dự kiến sử dụng chủ yếu cho loạt các lô liên tục có độ dài đủ để cho phép
áp dụng quy tắc chuyển đổi. Điều này
có nghĩa là loạt sản xuất “dài”.
TCVN 7790-2 (ISO 2859-2) là một ngoại
lệ, trong đó đề cập đến các phương án chất lượng giới hạn (LQ) có thể sử dụng
khi không thể áp dụng các
nguyên tắc chuyển đổi của TCVN 7790-1 (ISO 2859- 1). Các phương án này chủ yếu
để sử dụng với các lô đơn hoặc lô có “tính
chất riêng biệt”.
Điều này có thể được hiểu là bao trùm loạt các lô kiểm tra “ngắn” - hoặc loạt sản
xuất “ngắn”.
TCVN 7790-5 (ISO 2859-5) và TCVN
8243-1 (ISO 3951-1) đưa ra các phương án liên tiếp phù hợp với các tiêu chuẩn
khác trong các loạt tương ứng và vì vậy trong nhiều trường hợp có thể áp dụng
tương tự cho loạt dài hoặc ngắn.
Để loạt sản xuất đủ điều kiện là
“dài”, một tiêu chí rõ ràng là các nguyên tắc chuyển đổi có khả năng áp dụng được
nếu “chất lượng không thỏa đáng”. Cũng rõ ràng là riêng tiêu chí này làm phát sinh một
loạt các vấn đề phụ (như được đưa ra trong dấu ngoặc kép) phụ thuộc vào yêu cầu
và hoàn cảnh chiếm ưu
thế trong từng trường hợp xem xét. Không thể quy định một cách đơn giản và chính
xác những gì cấu thành một
loạt ngắn (số lượng lô) trong ngữ cảnh kiểm tra lấy mẫu.
Trong loạt sản xuất dài, có tính liên
tục và ổn định, vì vậy việc sản xuất thiết lập trung bình quá trình ổn định dài
hạn. Tuy nhiên, chất lượng của các lô
riêng lẻ biến động quanh trung bình quá trình này. Mặt khác, tại thời điểm bắt
đầu sản xuất, sau khi dừng
hoặc thay đổi đáng kể trong sản xuất
hoặc đối với loạt sản xuất ngắn, chất lượng
lô có thể khác biệt đôi chút và biến động hơn, thậm chí là rõ rệt. Yếu tố thực
tế cần xem xét việc có bằng chứng là trung bình quá trình ổn định đã được
thiết lập và có còn tồn tại hay không.
8.2. Sự không phù hợp và cá
thể không phù hợp
8.2.1. Sự không phù hợp
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Bất kỳ sự không phù hợp với đặc trưng,
kích thước, thuộc tính hay yêu cầu tính năng quy định của sản phẩm đều thể hiện sự
không phù hợp. Cá thể không phù hợp có thể có một hoặc nhiều sự không phù hợp.
Ví dụ, bút bi không viết được là một sự
không phù hợp; chiếc bút đó là không phù hợp. Tuy nhiên, cùng chiếc bút đó có
thể không phù hợp theo nhiều cách khác, ví dụ như màu sắc, kích thước, ...
Chiếc bút có nhiều sự không phù hợp vẫn được tính là một cá thể không phù hợp.
Tính chất “không phù hợp” không nhất
thiết có nghĩa là đơn vị sản phẩm đó không thể sử dụng cho mục đích
dự kiến. Ví dụ, viên gạch có một trong các kích thước nằm ngoài khoảng dung sai
quy định, mặc dù không phù hợp nhưng vẫn có thể sử dụng để xây dựng.
Sự khác biệt giữa sự không phù hợp và cá
thể không phù hợp sẽ không quan trọng nếu cá thể chỉ có một sự không phù hợp
nhưng sẽ trở nên thiết yếu
khi có nhiều sự không phù hợp.
Chất lượng của một lượng sản phẩm nhất
định có thể được biểu thị theo “phần trăm không phù hợp” hoặc theo “số không
phù hợp trên một trăm cá thể”, nhưng điều này chỉ có thể hoán đổi khi các cá
thể chỉ có thể
có một sự không phù hợp.
Trong lấy mẫu định tính, phương án
lấy mẫu sẵn có cho cả phần trăm
không phù hợp và số không phù hợp trên một trăm cá thể.
8.2.1.2. Ví dụ 2
Khi đếm lỗ kim trong lá kim loại, điều
quan tâm có thể là số lượng lỗ kim trên một mét vuông, ở đây ta có thể đếm tất
cả các lỗ kim trong mỗi mét vuông (cá thể) được kiểm tra và sau đó thể hiện chất
lượng theo số lỗ pin trên 100 m2.
8.2.1.3. Ví dụ 3
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Phần trăm không phù hợp của lô được
cho bởi công thức:
Phần trăm
không phù hợp
=
số cá thể
không phù hợp
x 100
tổng số cá
thể
=
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
=
4;
nghĩa là lô có 4 % không phù hợp.
Số lượng không phù hợp trên một trăm
cá thể trong lô được cho bởi công thức
Số không
phù hợp trên 100 cá thể
=
số sự không
phù hợp
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
tổng số cá
thể
=
=
5,2;
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
8.2.1.4. Bình luận về Ví dụ 2
và 3
Do đó, trong lấy mẫu định tính, việc sử
dụng phần trăm không phù hợp hay số không phù hợp trên một trăm cá thể là một vấn
đề cần xem xét riêng trong từng trường hợp cụ thể. Điều quan trọng là việc
này cần phải được xem xét, quy định và thỏa thuận trước, chứ không để đến khi mẫu
đã được kiểm tra rồi mới xem xét.
Trong lấy mẫu định lượng, các phương
án lấy mẫu chỉ sẵn có cho phần trăm không phù hợp, vì thế không cần
đưa ra lựa chọn. Tuy nhiên, các đặc trưng chất lượng khác nhau có thể thuộc về
những loại khác nhau (xem 8.2.3), trong trường hợp như vậy, chúng được xử lý
riêng rẽ.
8.2.1.5. Các yếu tố cần được
tính đến
Các yếu tố cần tính đến khi quyết định
sử dụng phần trăm không
phù hợp hay số không phù hợp trên một trăm cá thể trong lấy mẫu định tính được nêu
dưới đây.
a) Trong kiểm tra phần trăm không
phù hợp, giả định rằng, nếu cá thể
có một hoặc nhiều sự không phù hợp thì cá thể đó là không phù hợp và không được
chấp nhận.
Cũng giả định trước là những cách thức
khác nhau để xác định cá thể không phù hợp là có giới hạn và đã biết, ví dụ, chỉ có 5
cách trong đó từng cá thể cụ thể là không phù
hợp [xem thêm điểm b)].
b) Trong kiểm tra sự không phù hợp, mọi sự
không phù hợp tìm thấy đều được tính. Nếu tìm được ba sự không phù hợp trong một
cá thể thì tính là ba và được cho cùng trọng số như ba cá thể, mỗi cá thể có một sự không
phù hợp.
Trường hợp đặc biệt phát sinh khi sự
không phù hợp có thể xuất hiện trong một cá thể nhiều lần không biết được và gần
như không giới hạn, ví dụ khuyết tật hay lỗ kim bề mặt có thể xuất hiện nhiều
lần và không biết được là bao nhiêu lần chúng không xuất hiện, vì vậy
phần trăm không phù hợp đối với đặc điểm này là vô nghĩa. Trong những trường hợp
như vậy, cần sử dụng số không phù hợp trên một trăm cá thể (xem Ví dụ 2).
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
c) Hai tính chất sẽ phụ thuộc nếu nảy
sinh số không phù hợp trong một cá thể, một phần hay toàn bộ, do một nguyên
nhân phổ biến nào đó,
hoặc nếu một tính chất ảnh hưởng đến tính
chất kia. Do đó, hiểu biết chi tiết về quá trình
sản xuất là cần thiết để xác định các
tính chất có độc lập hay không, về mặt thống kê, nếu hai đặc trưng, ví dụ độ
dài và đường kính, độc lập có nghĩa là nếu tất cả các đơn vị sản xuất được lấy
và phân thành hai nhóm theo tiêu chí độ dài là không phù hợp hay không thì khi
đó phần trăm không phù hợp đối với đường kính nhất thiết phải giống nhau trong
mỗi nhóm; hoặc, ngược lại, nếu chúng được phân thành hai nhóm theo tiêu chí đường
kính là không phù hợp hoặc không, thì khi đó phần trăm không phù hợp đối với độ
dài nhất thiết
phải giống nhau trong cả hai nhóm. Có chứng tỏ bằng toán học là hai
quy trình này tương đương nhau.
Nếu hai sự không phù hợp không độc lập
thì chúng được gọi là có liên quan hoặc phụ thuộc, cần thống nhất rằng sự xuất hiện của cả
hai sự không phù hợp trong một cá thể chỉ được tính là một sự không phù hợp,
không phải là hai. Đôi khi, mối tương quan giữa hai sự không phù hợp có liên
quan là rất ít. Trong những điều kiện này, chúng có thể được coi là độc lập. Kiểm
tra phần trăm không phù hợp có thể tránh được khó khăn này.
d) Nếu phần trăm sự không phù hợp trong
lô nhỏ hơn 2,5 % thì phân bố xác suất của cá thể không phù hợp và số không phù
hợp hầu như giống nhau. Trong phạm vi từ 2,5 % đến 10 %, một số khác biệt bộc lộ,
phương án số không phù hợp trên một trăm cá thể trở nên ngặt hơn
so với phương án phần trăm không phù hợp tương đương.
e) Tại trạm kiểm tra và ở những nơi được
chấp nhận, có thể thực hành đơn giản hơn và tốt hơn nếu sử dụng một phương pháp
hơn là thường xuyên thay đổi từ phương pháp này sang phương pháp khác, ví dụ cá
thể không phù hợp hơn là số không phù hợp trên một trăm cá thể.
f) Từ quan điểm duy trì hồ sơ sẽ hữu ích
cho việc cải tiến chất lượng, số không phù hợp trên một trăm cá thể có thể được
ưu tiên vì sau đó hồ sơ
sẽ tự động lưu giữ thông tin về tất cả sự không phù hợp, trong khi một số sự
không phù hợp có thể không được
lưu hồ sơ nếu sử dụng cách tiếp cận phần trăm không phù hợp.
8.2.2. Thuật ngữ
Nội dung đề cập trong phần còn tại của
tiêu chuẩn này là về kiểm tra cá thể không phù hợp. Khi thích hợp có thể đọc đối
với kiểm tra sự không phù hợp, bằng cách thay “cá thể không phù hợp” bằng “sự
không phù hợp” và thay “phần trăm không phù hợp” bằng “số không phù hợp trên một
trăm cá thể”.
8.2.3. Phân loại sự không
phù hợp
Thảo luận cho đến nay giả định rằng, nếu
vật phẩm có thể phân loại là không phù hợp theo nhiều hơn một cách thì những sự
không phù hợp khác nhau có thể có đều quan trọng như nhau. Khi đó, có thể kết luận bằng
cách đếm số cá thể không phù hợp. Ví dụ, giả định rằng có ba hướng cần kiểm tra
và, trong mẫu, ba vật phẩm chỉ không phù hợp theo hướng đầu tiên, ba vật phẩm chỉ theo hướng
thứ hai,
một
vật phẩm chỉ theo hướng thứ ba và một vật phẩm theo cả hướng thứ nhất và hướng
thứ hai. Điều này đưa ra tổng số tám cá thể không phù hợp, đó là số để so sánh
với số chấp nhận và bác bỏ.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Vì nhiều mục đích, phân thành hai nhóm là đủ,
đó là sự không phù hợp nặng loại A, được quan tâm nhiều nhất, và sự không phù hợp
loại B, được quan tâm ít hơn. Đôi khi, trong hai loại này, cần phân loại hoặc loại
con thêm nữa. Loại quan trọng nhất trong tất cả có những sự không phù hợp nghiêm trọng, có ảnh hưởng bất lợi cho việc sử dụng hoặc, ở mức độ cao,
làm cho vật phẩm nguy hiểm hoặc tiềm ẩn nguy hiểm.
Sự không phù hợp nghiêm trọng là trường
hợp đặc biệt và được thảo luận chi tiết hơn ở 8.2.4. Hiện tại, thảo luận được
giới hạn ở những loại nặng
và loại nhẹ. Những loại này đề cập đến sự quan trọng tương đối của sự không phù
hợp khác nhau trong sản phẩm bất kỳ cho trước và vì bản thân sản
phẩm có tầm quan trọng
khác nhau, các loại này không tương ứng với bất kỳ mức chất lượng tuyệt đối
nào. Điều này kéo theo việc không có một AQL nào thường đi cùng với một loại cụ
thể nào.
Việc phân loại sự không phù hợp cần được
thực hiện đúng đắn. Rõ ràng là cần chú ý để không “phân loại thấp hơn” (ví dụ, phân loại
đặc trưng là sự không phù hợp loại B trong khi nên là loại A), vì điều này sẽ dẫn
đến sự cho phép nhiều sự không phù hợp thuộc loại này hơn trong phương án lấy mẫu
đối với đặc trưng liên quan so với thực sự cần thiết. Tuy nhiên, việc không “phân
loại cao hơn” cũng rất quan trọng.
Khi chọn hệ thống phân loại sự không
phù hợp, cần phân bổ AQL khác
nhau cho mỗi loại để đảm bảo rằng sự không phù hợp loại A, quan trọng hơn, sẽ
được kiểm soát chặt hơn so với sự không phù hợp loại B.
Trong lấy mẫu định tính, nếu vật
phẩm có hai hoặc nhiều sự không phù hợp và những sự không phù hợp thuộc các loại
khác nhau thì sẽ được tính
là cá thể không phù hợp thuộc loại nghiêm trọng hơn. Tuy nhiên, nếu việc kiểm
tra là về sự không phù hợp hơn là về cá thể không phù hợp thì mỗi sự không
phù hợp trong mẫu được tính theo loại phù hợp của
nó.
Tại một thời điểm bất kỳ, những loại
khác nhau có thể ở mức độ kiểm
tra khắc nghiệt khác nhau, ví dụ, loại A có thể ở kiểm tra thường
trong khi loại B ở kiểm tra ngặt.
Lô được kết luận là chấp nhận được
khi và chỉ khi các chuẩn mực chấp nhận cho tất cả các loại được đáp ứng.
8.2.4. Sự không phù hợp
nghiêm trọng
8.2.4.1. Khái quát
Theo định nghĩa, sự không phù hợp
nghiêm trọng thể hiện nguy hiểm và/hoặc ảnh hưởng
bất lợi cho việc
sử dụng hoặc an toàn. Những sự không phù hợp này tạo nên một loại đặc biệt.
Không thể chọn bất kỳ
giá trị phần trăm không phù hợp nào cho sự không phù hợp này, dù nhỏ, và nói rằng, “... phần trăm
không phù hợp nghiêm trọng này là có thể chấp nhận được”.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Nếu cho rằng quy trình này không đảm bảo cho bất kỳ sự
không phù hợp nghiêm trọng cụ thể nào thì cần xem xét nghiêm túc để phân loại lại thành sự
không phù hợp nặng. Sự không phù hợp nghiêm trọng phải thực sự là quan trọng;
khi đó, không một nỗ lực nào là quá lớn.
Trường hợp cách kiểm tra duy nhất có
thể tiến hành đối với sự không phù hợp nghiêm trọng là kiểm tra phá hủy thì việc
tìm cách ngăn ngừa
chúng không bao giờ nảy sinh thậm
chí còn quan trọng hơn. Trong trường hợp này, ta không thể có mẫu là 100 % lô
và cần quyết định cỡ mẫu cần lấy. Việc này có thể thực hiện cho lấy mẫu định
tính bằng cách sử dụng công thức đơn giản liên hệ:
a) số sự không phù hợp/cá thể không phù hợp,
nếu có, ta mong muốn hầu như chắc chắn tìm được ít nhất một sự không phù hợp/cá thể
không phù hợp trong mẫu;
b) cỡ lô;
c) cỡ mẫu;
d) rủi ro ta chuẩn bị đón nhận nếu không
tìm thấy sự không phù hợp/cá thể không phù hợp.
Cỡ mẫu, n, thu được bằng
cách sử dụng công thức sau đây, sau đó
làm tròn đến số nguyên gần nhất1):
trong đó
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
b là xác suất quy định
không tìm được ít nhất một sự không phù hợp
nghiêm trọng;
d là số tối đa
các cá thể không phù hợp nghiêm trọng 'cho phép' trong lô.
CHÚ THÍCH: Nếu p là tỷ lệ
không phù hợp lớn nhất quy định
cho lô thì d =
Np được làm tròn xuống số nguyên gần nhất2).
Lô được chấp nhận nếu không tìm thấy sự
không phù hợp nghiêm trọng nào trong mẫu.
8.2.4.2. Ví dụ 4
Giả định rằng có một lô gồm 3 454 cá
thể. Quy định xác suất, b, là 0,001 và phần trăm tối đa là 0,2 % cá thể
không phù hợp nghiêm trọng.
Khi đó, p = 0,2/100
= 0,002 và Np = 3 454 x 0,002 = 6,908, được làm tròn xuống thành d = 6.
CHÚ THÍCH: Giá trị ở đây được làm
tròn xuống vì việc làm
tròn lên có thể dẫn
đến d = 7, nghĩa
là phần trăm không phù hợp 100 x 7/3 454 = 0,2027, sẽ vượt quá quy định 0,2 %.
Vì thế, (N - d/2)(1 - b1/(d+1)) = (3 454 -
3)(1 - 0,0011/7) = 3 451 x 0,627 24 = 2
164,61, được làm tròn lên thành n = 2 165.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
- cỡ mẫu n = 2 165;
- số chấp nhận Ac = 0 cá thể không phù hợp;
- số loại bỏ Re = 1 cá thể không phù hợp.
CHÚ THÍCH: Cỡ mẫu rất lớn
là do yêu cầu độ tin cậy
cao với tỷ lệ cá thể
không phù hợp nghiêm trọng thấp.
Để tìm cỡ lô, N,
cần có được số cá thể quy định, L, sau khi phá hủy mẫu gồm n cá
thể thử, giả định không tìm thấy cá thể không phù hợp nào, khi đó với giá trị
xác suất b cho trước và
số cá thể không phù hợp trong lô, cỡ lô là:
N = (L - d/2) / - b1/(d+1)) + d/2
làm tròn lên thành một số nguyên.
8.2.4.3. Ví dụ 5
Nếu yêu cầu 1 500 cá thể sau khi thử nghiệm mẫu,
sử dụng b = 0,001 và d
= 6 như trong Ví dụ 4, khi đó
L là 1 500 và
cỡ lô là (1 500 - 6/2)/0,0011/7 + 6/2 = 1497/0,372 76 + 3 = 4 018,99, được làm
tròn lên thành N = 4 019.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
8.2.4.4. Bình luận
Nếu tính toán ban đầu dẫn đến một cỡ mẫu
hoặc cỡ lô không khả thi thì rủi ro (xác suất) và/hoặc só sự không phù hợp/cá thể
không phù hợp có thể có trong lô cần được đánh giá lại và thiết lập chuẩn mực mới.
Xét một phương án lấy mẫu khác đối với
sự không phù hợp nghiêm trọng, trong đó đặc trưng được xem là quan trọng là đặc
trưng có thể đo được trên mẫu và có giới hạn an toàn chứ không phải là một thuộc
tính đơn thuần. Vì vậy, nếu tải
kéo đứt nhỏ nhất cho phép đối với một thành phần nào đó là 2 000 kg
thì có thể thay
giới hạn 2 000 kg tương ứng sự không phù hợp nghiêm trọng bằng giới hạn 2 500
kg tương ứng sự không phù hợp nặng. Vậy các giới hạn cần được thiết lập đến đâu
và phương án lấy mẫu nào là được phép, tùy thuộc vào hiểu biết trước đây về mức
độ biến động quan sát được về độ bền của thành phần được xét. Khi cách tiếp cận
này khả thi, nó có thể đưa ra kết quả thỏa mãn cho tất cả các vấn
đề liên quan hơn nhiều so với kiểm tra 100 %. Trong trường hợp này, có khả
năng sử dụng lấy mẫu định lượng [TCVN 8243 (ISO 3951)], sẽ cho phép thử quá ứng
suất và cung cấp thông tin về trung bình và độ biến động của đặc trưng.
8.3. Đường đặc trưng hiệu
quả (OC)
83.1. Khái quát
Đường đặc trưng hiệu quả là đường cong
thể hiện bất kỳ
phương án lấy mẫu cụ thể nào có thể
làm được biểu thị theo các lô được chấp nhận và không được chấp nhận; nghĩa là,
đây là một dạng “đường cong hiệu quả”. Đường OC đề cập tới một phương án lấy mẫu
cụ thể. Mỗi phương
án có thể có đường cong riêng.
8.3.2. Đường OC dùng cho lấy mẫu định tính
Trong lấy mẫu chấp nhận định tính, có
hai “loại” đường OC, gọi là Loại
A và Loại B. Lấy trường hợp tổng quát đầu tiên là một loạt sản xuất dài có chất
lượng trung bình quá trình ổn định (100p % không phù hợp, trong đó
p nằm trong dải từ
0 đến 1), chất lượng của các lô được lấy từ loạt đó sẽ thay đổi quanh trung
bình quá trình
này theo phân bố nhị thức. Đối với từng độ biến động về chất lượng lô, trục
tương ứng của đường OC sẽ đưa ra tỷ lệ trung bình của các lô (có chất
lượng cụ thể) được chấp
nhận bởi phương án lấy
mẫu làm cơ sở cho đường OC. Đường OC trong trường
hợp này được gọi là thuộc Loại B và mô tả cách người sử dụng có thể nhìn nhận đặc
trưng hiệu quả của phương án lấy mẫu về mặt cung cấp sản phẩm ổn định từ một
nguồn cho trước.
Trong trường hợp các lô tách biệt hoặc
riêng rẽ, đường OC thực tế là một
loạt các điểm khác biệt ở mức chất lượng
0, 1/N, 2/ N, ... hơn là
một đường cong. Do tính chất tách biệt của lô, có thể không hợp lý khi giải
thích các trục của đường OC là tỷ lệ trung bình loạt dài của
lô được chấp nhận. Tuy nhiên, việc giải thích như vậy là có thể nếu ta hình dung một quá
trình tưởng tượng sản xuất một loạt lô giống nhau, nghĩa là các
lô đều có cùng cỡ và chất lượng (100/p % không phù hợp). Khi đó, trục của đường
OC lại là tỷ lệ
của những lô giống nhau sẽ được chấp nhận bằng phương án lấy mẫu cho trước. Tuy
nhiên, trong trường hợp này ta không lấy mẫu từ quá trình có độ biến động ngẫu
nhiên về chất lượng mà từ một số hữu hạn các cá thể tạo thành một lô. Các trục
của đường OC chỉ ra các xác
suất chấp nhận (hơn là tỷ lệ trung bình của lô được chấp nhận) được cho bởi
phân bố siêu hình học và phụ thuộc vào cỡ lô. Đường OC này được gọi là thuộc loại A và mô
tả cách người sử dụng có thể nhìn nhận đặc trưng hiệu quả trong trường hợp các
lô tách biệt hoặc riêng rẽ.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
TCVN 7790-1 (ISO 2859-1) trình bày đường đặc trưng hiệu quả của phương
án kiểm tra lấy mẫu phần trăm không phù hợp
và số không phù hợp trên một trăm cá thể. Các đường đặc trưng hiệu quả (OC) này
cho thấy phần trăm trung bình các lô được chấp nhận như một trục được vẽ theo phần
trăm không phù hợp hoặc số không phù hợp trên một trăm cá thể trong chất lượng
quá trình là tọa độ. Đối với phần trăm
không phù hợp, chúng được tính dựa trên phân bố nhị thức khi cỡ mẫu đơn bằng
hoặc nhỏ hơn 80. Đối với số không phù hợp trên 100 cá thể, phân bố Poisson là
phù hợp và được sử dụng khi tính toán đường OC cho các phương án lấy mẫu này.
Phân bố Poisson dựa trên giả định rằng sự không
phù hợp xuất hiện độc lập với kỳ vọng không đổi. Giả định này đúng trong nhiều
trường hợp. Mọi sai lệch cơ bản khỏi giả định này đều dẫn đến phân bố có phương
sai lớn hơn so với phương sai
của phân bố Poisson. Trong trường hợp này, sự bảo vệ của người tiêu dùng cao
hơn một chút so với được chỉ ra bởi đường đặc trưng hiệu quả.
Trong ISO 2859-2, các bảng cho Quy trình A (nghĩa là đối với lô riêng biệt) được dựa
trên lấy mẫu ngẫu nhiên từ số hữu hạn các lô cho cả rủi ro của
khách hàng và rủi ro của nhà sản xuất. Tuy nhiên,
đối với Quy trình B, các bảng được dựa trên lấy mẫu ngẫu nhiên từ số hữu hạn
các lô đối với rủi ro của người
tiêu dùng ở LQ, nhưng dựa
trên lấy mẫu ngẫu nhiên từ quá trình đối với rủi ro của nhà sản xuất và đường OC. Đường đặc trưng hiệu quả
chỉ thị giảm xác
suất chấp nhận trong đó nó được chỉ thị là lớn hơn 0,90 và chỉ thị tăng xác
suất chấp nhận trong đó chỉ ra là nhỏ hơn 0,90.
8.3.3. Đường OC dùng cho lấy
mẫu định lượng
Các tiêu chuẩn dùng cho lấy mẫu định
lượng dựa trên giả định là các
đặc trưng chất lượng có phân bố chuẩn hoặc có phân bố có thể chuyển đổi thành chuẩn.
Giả định này sẽ không thể xác nhận được đối với các lô riêng biệt hoặc loạt ngắn.
Bên cạnh đó, các phép đo đặc trưng trên lô có cỡ hữu hạn không thể được coi là
có phân bố chuẩn thực sự. Mặt khác, rất có khả năng quá trình sản xuất tại thời điểm lô được tạo ra có thể đã tạo ra các
cá thể có đặc trưng chất lượng phân bố chuẩn hoặc có thể chuyển đổi thành chuẩn.
Vì những lý do này, chỉ áp dụng được
đường OC loại B cho lấy mẫu định lượng.
Đối với lấy mẫu định lượng, đường đặc
trưng hiệu quả phù hợp với những đường dùng cho phương án lấy mẫu định tính đối
với cỡ lô và mức chất
lượng tương tự. Trong khi đường OC Loại B dùng cho lấy mẫu định lượng có phân bố nhị
thức, thì những đường cong dùng cho lấy mẫu định lượng bao hàm:
a) phân bố t không trung tâm đối với
những trường hợp chưa biết độ lệch chuẩn của quá trình;
b) phân bố chuẩn trong những trường hợp
đã biết độ lệch chuẩn của quá trình.
Quyết định về khả năng chấp nhận được dựa trên đánh giá về
phần trăm không phù hợp
xác định từ trung bình và độ lệch chuẩn của
phép đo các đặc trưng thu được trên tất cả các cá thể trong mẫu.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
8.4. Rủi ro của việc lấy mẫu
8.4.1. Rủi ro khi lấy mẫu: rủi
ro của nhà sản xuất và rủi ro của người tiêu dùng
Vì các mẫu chỉ là một phần
nhỏ của toàn bộ
lô hoặc hàng ký gửi kiểm tra nên việc lấy mẫu có những rủi ro cho cả nhà sản xuất
lẫn người tiêu dùng. Đôi khi, một lô “tốt” có thể không được chấp nhận vì mẫu
kiểm tra, mặc dù chọn ngẫu nhiên, không phản ánh chất lượng thực của lô. Rủi ro xảy ra
điều này được gọi là “rủi ro của nhà sản xuất” (PR). Ngược lại, một lô “chất lượng
kém” có thể đạt khi kiểm tra vì dữ liệu sẵn có trong mẫu giới hạn. Việc này được gọi là “rủi
ro của người tiêu dùng” (CR).
Rủi ro đi kèm việc lấy mẫu có thể được
tính toán và
đánh giá được nêu rõ trong 8.3. Bằng cách sử dụng đường đặc trưng hiệu quả của
nó, đối với mỗi phương án lấy mẫu có thể đọc được tỷ lệ các lô sẽ
được chấp nhận với chất lượng đầu vào (hoặc quá trình)
nhất định, nghĩa là xác suất chấp nhận đối với mức chất lượng quy định.
Nhà sản xuất có thể đòi hỏi xác suất chấp nhận cao nếu
chất lượng là tốt, trong khi
khách hàng có thể mong muốn xác suất chấp nhận thấp nếu chất lượng kém.
Thông thường, xác suất này được thiết lập tương ứng ở mức 0,95 và
0,10. Điều này tạo ra PR không được chấp nhận là 0,05 hoặc 5 % và CR chấp nhận
chất lượng thấp
là 0,10 hay 10 %. Một thực tiễn ngày càng phổ biến là tạo ra PR và CR đều bằng 5 %. Đối với
phần trăm PR và CR xác định trước, chất lượng tương ứng rủi ro của nhà sản xuất
(PRQ) và chất lượng tương ứng rủi ro của
người tiêu dùng (CRQ) có thể thấy từ đường OC (xem Hình 1). Ngược
lại, đối với đường OC cho trước, AQL và mức chất lượng giới hạn (LQL) tương ứng
xác định PR và CR (xem Hình 2). Một
cách khác, phương án lấy mẫu và đường OC của nó có thể được thiết kế riêng cho “khớp”
với điểm rủi ro của nhà sản xuất chọn trước
(AQL, 1,0 - PR)3) và điểm rủi ro của người tiêu dùng (LQL, CR).
Việc xem xét đường OC dùng cho phương
án lấy mẫu một lần xác định theo AQL trong kiểm tra thường, ví dụ lấy mẫu định
tính như quy định trong TCVN 7790-1 (ISO 2859-1) sẽ cho
thấy là ở AQL được ấn
định, xác suất chấp nhận thay đổi từ xấp xỉ 0,87 đến 0,99 (nghĩa là PR biến thiên từ 13
% đến 1 %). Đây là một đặc điểm của các phương án lấy mẫu AQL này và, do đó, của
phương án bất kỳ được thiết kế để có các đặc trưng “phù hợp” với của các
phương án lấy mẫu một lần xác định theo AQL này. Không nên sử dụng thuật ngữ “AQL” mà không viện dẫn đến
một tiêu chuẩn nào trong bộ tiêu chuẩn TCVN 7790 (ISO 2859) hoặc TCVN 8243 (ISO
3951), hoặc tiêu chuẩn tương đương. Đồ thị OC và các bảng trong các tiêu chuẩn
này cũng cho thấy ảnh hưởng của việc chuyển
sang kiểm tra ngặt: PR tăng với cùng một AQL trong khi CR giảm với cùng một LQ.
Khi vận hành hệ thống lấy mẫu, các quy
tắc chuyển đổi là yếu tố
quan trọng khi xem xét rủi ro do lấy mẫu. Ví dụ, đường OC trong TCVN 7790-1 (ISO 2859-1)
cho thấy nên kỳ vọng những gì trong kiểm tra thường. Chúng cho thấy rằng đối với
tất cả các phương
án lấy mẫu quy định trong tiêu chuẩn đó,
phần trăm các lô có khả năng được chấp nhận nếu chất lượng quá trình ở mức gấp hai
lần AQL là nhỏ hơn 80 %.
Ngay lập tức, tỷ lệ chấp nhận như vậy sẽ dẫn đến việc chuyển sang kiểm tra ngặt. Tỷ
lệ chấp nhận ở AQL trong kiểm tra ngặt sẽ chỉ ở mức 80 % và ở hai lần AQL
sẽ giảm xuống xấp xỉ 50 % và còn
thấp hơn nhiều
trong nhiều trường hợp. Những tỷ lệ chấp nhận thấp này trong kiểm tra ngặt cần
được nhanh chóng điều tra về nguyên nhân của chất lượng kém. Cuối
cùng quy tắc ngừng kiểm tra lấy mẫu làm cho việc điều tra này trở thành bắt buộc.
Hành động sửa chữa được thực hiện sẽ dẫn đến việc trở lại mức chất
lượng trước đó hoặc thường dẫn đến chất lượng được cải thiện.
CẢNH BÁO: Mặc dù đường OC là một khái
niệm rất hữu ích, không chỉ trong phân tích rủi ro, nhưng trong thực tế rất hiếm có
các lô theo loạt, nếu có thì các quá trình giống
nhau và vận hành hiếm khi ngẫu nhiên một cách chặt chẽ. Trong khi các đường
cong cho thấy nên kỳ vọng gì trong các điều kiện quy định, chúng không thể mô tả chính xác những
gì xảy ra trong khoảng thời gian khi các điều kiện thay đổi liên tục. Vì vậy,
ta phải thận trọng với việc đưa ra những khẳng định giáo điều.
8.4.2. Phương pháp giảm thiểu
rủi ro
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Nếu trong trường hợp cụ thể, nhà sản
xuất hoặc khách hàng cho rằng rủi ro mà mình nhận được là quá cao thì nên kiểm tra việc
AQL và bậc kiểm tra đã được
lựa chọn tốt.
Nhà sản
xuất sẽ quan tâm đến việc giảm thiểu rủi ro khi chất lượng tốt hơn AQL - họ không được
quyền làm bất kỳ việc giảm thiểu rủi ro nào khác. Khách hàng sẽ đặc biệt quan
tâm đến rủi ro khi chất lượng kém hơn AQL vì nếu chất lượng tốt hơn AQL thì họ sẽ có được
chất lượng yêu cầu.
Các phương
pháp giảm thiểu rủi ro cho cả hai bên được
đề cập trong TCVN 9946-2 (ISO/TR 8550-2) đối với lấy mẫu định tính và trong
TCVN 9946-3 (ISO/TR 8550-3) đối với lấy mẫu định lượng. Tóm lại, khi có thể,
chúng được dùng để:
a) cải thiện chất lượng sản xuất;
b) tăng cỡ lô;
c) trong trường hợp lấy mẫu định tính, khi số chấp
nhận bằng “không”, làm tăng số chấp nhận lên 1 trong khi vẫn giữ nguyên AQL.
CHÚ DẪN
X chất lượng quá trình (giảm)
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
1 điểm rủi ro của nhà sản
xuất (PRP)
2 điểm rủi ro của
người tiêu dùng (CRP)
3 rủi ro của nhà sản xuất (PR)
4 xác suất chấp nhận cao
5 xác suất chấp nhận thấp
6 rủi ro của người tiêu dùng (CR)
7 chất lượng ứng với rủi ro của nhà sản xuất (PRQ)
8 chất lượng ứng với rủi ro của người tiêu dùng
(CRQ)
Hình 1 - Đường
đặc trưng hiệu quả xác định bởi rủi ro của nhà sản xuất (PR) và rủi
ro của
người
tiêu dùng (CR)
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
CHÚ DẪN
X chất lượng quá trình (giảm)
Y xác suất chấp nhận
1 điểm rủi ro của
nhà sản xuất (PRP)
2 điểm rủi ro của người tiêu dùng (CRP)
3 rủi ro của nhà sản xuất (PR)
4 xác suất chấp nhận cao
5 xác suất chấp nhận thấp
6 rủi ro của
người tiêu dùng (CR)
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
8 mức chất lượng giới hạn (LQ)
Hình 2 - Đường
đặc trưng hiệu quả xác định bởi giới hạn chất lượng chấp
nhận (AQL) và chất lượng giới hạn (LQ)
8.5. Lựa chọn giá trị AQL,
PRQ, LQ và CRQ
8.5.1. AQL và PRQ
8.5.1.1. Ý nghĩa của AQL và PRQ
Đối với mục đích của tiêu chuẩn này,
AQL và PRQ có thể được coi là đồng nghĩa. Chúng đều là chỉ số mức chất
lượng có thể chấp nhận cho mục đích kiểm tra lấy mẫu, điểm khác biệt là PRQ đi
kèm với PR nhỏ quy định trong khi AQL chỉ mức chất lượng ứng với PR
(không quy định) sẽ là nhỏ.
8.5.1.2. Thiết lập AQL
Khi thiết lập AQL, cần nhớ là AQL cung
cấp chỉ thị về chất
lượng được yêu cầu trong sản xuất. Nhà cung cấp được yêu cầu tạo ra các lô có
chất lượng trung bình tốt hơn
AQL. Một mặt, chất lượng này phải đạt được một cách hợp lý, mặt khác trên quan điểm của khách
hàng, đó cũng phải là chất lượng chấp
nhận được. Thông thường, điều này có nghĩa là sự thỏa hiệp giữa chất lượng mà
khách hàng
mong
muốn và chất lượng họ có thể chi trả, đối với yêu cầu càng chặt chẽ thì sản xuất càng khó có thể đáp ứng,
và việc kiểm tra có thể tốn kém hơn để có thể đảm bảo rằng yêu cầu được
đáp ứng.
Xem xét chính phải là
yêu cầu của khách hàng nhưng cần chắc chắn
rằng khách hàng thực tế và không đòi hỏi chất lượng tốt hơn mức cần thiết, cần tính đến việc
cá thể quan tâm sẽ được sử dụng
như thế nào cũng như những hệ quả của sai lỗi. Nếu cá thể được cung cấp với số
lượng lớn và sai lỗi đơn thuần là sai lỗi lắp ráp để cá thể không phù hợp có thể
bị bỏ đi và cá thể khác được sử dụng để thay thế thì một AQL
tương đối chung có thể chấp nhận được. Nếu một mặt, sai lỗi dẫn đến hỏng chức
năng của một bộ phận thiết bị đắt tiền và
quan trọng tại một thời điểm và vị trí mà không thể thay thế cá thể không phù hợp
thì sẽ cần đến một AQL chặt hơn.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Cần nhớ là ngay cả khi các linh kiện
được lấy mẫu theo một AQL đơn lẻ thì chúng cũng xuất phát từ một hoặc các nguồn
có trung bình quá trình nhỏ hơn để làm
tăng xác suất chấp nhận lô.
Nếu các linh kiện phù hợp hoặc không
phù hợp một cách độc lập thì nó tuân theo quy luật nhân xác suất mà tỷ lệ phù hợp
tổng thể là:
từ đó suy ra tỷ lệ không phù hợp tổng thể là
trong đó
k là số linh kiện trong
cụm lắp ráp;
X là phần trăm không phù hợp của cụm lắp
ráp;
x là phần trăm không phù hợp của từng
linh kiện.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
CHÚ THÍCH 1: Tuy nhiên, giá trị của X
không tính đến sự không phù hợp có thể nảy sinh thông qua quá trình lắp ráp lỗi.
CHÚ THÍCH 2: AQL là giới hạn
của trung bình quá trình thỏa mãn. Kỳ vọng là chất lượng của
nhà cung cấp sẽ tốt hơn
AQL.
Các công thức trên áp dụng khi các
linh kiện, cho mọi dự kiến và mục đích, giống nhau. Tổng quát hơn, nếu phần trăm không phù hợp của k linh kiện
tương ứng là x1, x2, …, xk, thì, nếu linh
kiện phù hợp
hoặc
không phù hợp một cách độc lập, dẫn đến:
Ở đây, sẽ có những yêu cầu khác nhau đối với
những linh kiện khác nhau, đóng góp vào yêu cầu tổng thể X. Trong việc chia X thành các mức chất lượng x1, x2, …, xk, nhà thiết kế
sản phẩm cần
luôn tham
khảo
ý kiến tư vấn, nếu có thể.
Trong những trường hợp này, nhà sản xuất
có thể mong muốn chọn AQL phù hợp cho từng linh kiện, sau đó tính mức chất lượng
nào có thể kỳ vọng trong toàn thiết bị, trong khi người tiêu dùng mong muốn quy định
AQL cho toàn bộ thiết bị và sau đó tính ra chất lượng yêu cầu đối với các linh
kiện. Nói chung, cách thứ hai trong hai cách tiếp cận này có thể hợp lý hơn ở
chỗ hiệu năng của toàn thiết bị mới là vấn đề nhưng cũng là cách tiếp cận tốn kém hơn vì
nó thường dẫn đến AQL nhỏ hơn. Tuy
nhiên, phải chấp nhận là chất lượng tốt trong một vật phẩm phức tạp rõ ràng đắt
hơn so với chất lượng tốt ngang
bằng trong một vật phẩm đơn giản.
Câu hỏi mức chất lượng nào
có thể kỳ vọng một cách hợp lý, ở mức giá khách hàng chuẩn bị chi trả và với những
phương pháp sản xuất đã đề ra, thường được trả lời bằng việc kiểm tra mức chất lượng nào
đã được sản xuất ra và được chấp nhận trong quá khứ. Trường hợp vật phẩm mới,
nghĩa là chưa được sản xuất trước đó;
thường sẽ có những vật phẩm tương tự khác có thể thu thập thông tin
liên quan. Các tính toán về trung bình quá trình trong quá khứ có thể đặc biệt hữu
ích. Không nên lấy ý tưởng nhìn vào chất lượng
thu được trong quá khứ này với nghĩa là mức chất lượng trong quá khứ luôn đủ tốt.
Chi phí sản xuất một cá thể không phù hợp thường gần như bằng với cá thể phù hợp, vì
thế việc giảm phần trăm không phù hợp thường dẫn đến giảm chi phí sản xuất.
Mặc dù mọi người thường tin rằng chất
lượng tốt sẽ tốn kém hơn, nhưng điều ngược lại thường đúng. Kiểm soát quá trình
hiệu quả có thể mang lại chất lượng cực tốt, thậm chí đến mức phần triệu. Chất
lượng đạt được theo cách này thường ít tốn kém hơn chất lượng kém hơn do không
có kiểm soát quá trình. Lý do chính của
điều này là không gần như không có loại bỏ, làm lại hoặc vật liệu trả về.
Việc cố gắng đạt được chất lượng tuyệt
hảo bằng kiểm tra và phân loại còn tốn kém hơn nhiều và không mang lại hiệu quả
cao do tính không hiệu
quả của việc kiểm tra. Vì vậy, các cố gắng nhằm đạt được chất lượng
ở AQL nhỏ, hoặc phần
triệu, trở nên cần thiết
kèm theo với việc xem xét quy trình kiểm
soát quá trình và thiết kế của sản phẩm,
hơn là cố gắng đạt được những kết quả như vật bằng việc kiểm tra.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Việc đơn thuần thiết lập AQL không
mang lại cho khách hàng sự đảm bảo rằng lô có chất lượng kém hơn sẽ không được
chấp nhận. Trước tiên, AQL đề cập đến trung bình. Một số lô có thể kém
hơn
AQL
trong khi trung bình lại tốt
hơn AQL. Thứ hai, nếu chất lượng trung bình được đưa ra kém hơn một chút so với AQL thì một số lô có
thể sẽ được chấp nhận trước khi được yêu cầu chuyển sang kiểm tra ngặt, và thậm chí sau khi chuyển đổi,
vẫn có khả năng một số được chấp nhận. Tuy nhiên, nói chung, có thể kỳ vọng là khách
hàng sẽ nhận được sản phẩm có trung bình tốt hơn AQL, vì chương trình
lấy mẫu sẵn có động cơ kinh tế mà nhà sản xuất không đủ khả năng để có nhiều hơn
một tỷ lệ nhỏ các lô không
được chấp nhận. Vì thế, nhà sản xuất sẽ thực hiện
các bước để cải thiện chất lượng sản xuất
nếu tỷ lệ này bị vượt
quá.
Từ quan điểm của khách hàng có thể cho
rằng điều này
không thỏa mãn vì nó dựa trên
những gì có thể
xảy ra hơn là dựa vào những gì chắc chắn xảy ra. Tuy nhiên, trên thực tế, hầu hết
các nhà sản xuất đều thực hiện biện pháp để thấy rằng trung bình
quá trình của mình không vượt quá AQL nếu
chỉ vì việc thường
xuyên không chấp nhận lô làm cho khó khăn. Trong trường hợp bất kỳ, sự bảo vệ của
khách hàng phụ thuộc vào đầu phía dưới của đường OC cũng như đầu phía trên
có liên quan đến AQL, và đầu phía dưới này có thể được điều chỉnh bằng cách
xem xét giá trị LQ của
phương án lấy mẫu bất kỳ được gợi ý.
Nếu quyết định là cách tiếp tiếp cận
này không đủ cho một sản phẩm cụ thể và cần có sự
bảo vệ khách
hàng tích cực hơn thì điều này
luôn đạt được bằng cách quy định AQL nhỏ hơn, với lưu ý là điều này có thể làm
tăng chi phí của sản phẩm. Tuy nhiên, thông thường, cách tiếp cận thích hợp nhằm
cải tiến chất lượng và ít sự không phù hợp sẽ dẫn đến chi phí thấp hơn. Ngay cả
nếu có thêm chi phí thì nó sẽ thường đáng giá về mặt duy trì hay mở rộng nền tảng
khách hàng.
8.5.1.4. AQL làm chỉ số
Không nhất thiết AQL là lựa chọn chính
từ đó rút ra những giá trị khác. Khi tình huống đòi hỏi, thường có thể nhập
bằng lấy mẫu “theo
cách không chính thống”, chọn phương án bằng một số chuẩn mực khác và sau đó tìm AQL quy định để có kết quả mong muốn. Trong trường
hợp này, AQL là một chỉ số thuận lợi
để cho phép sử dụng các bảng chuẩn, và điều này cho phép nhà sản xuất quyết định
chất lượng tại đó phải sản xuất để có được hầu hết các lô được chấp nhận.
Nếu sử dụng phương pháp ''không chính
thống” như vậy, thì lựa chọn chính có thể là điểm thấp trên đường
cong, trong đó điều này được cho là
đặc biệt quan trọng, hoặc một số tiêu chí kinh tế. Tiêu chí kinh
tế đơn giản nhất có thể đã được gợi ý là đưa ra ước lượng thời điểm hòa vốn, nghĩa là
chất lượng lô sao cho, nếu lô được chấp nhận, chi phí của hỏng hóc do cá thể
không phù hợp được chấp nhận ngang bằng với chi phí không chấp nhận lô.
8.5.1.5. Chất lượng ứng với điểm
hòa vốn
Nếu chất lượng ứng với điểm
hòa vốn này, hoặc không phân biệt, có thể ước lượng, thì có thể
chọn phương án lấy mẫu sao cho, ở chất lượng này, 50 % các lô có thể
được chấp nhận. Điều này không chỉ vì 50 % khả năng chấp nhận ở chất lượng
này là đặc biệt mong muốn. Theo định nghĩa, nếu chất lượng cụ thể này được
cung cấp thì phương án kiểm tra
nào để thực hiện
không phải là mối quan tâm lớn. Đúng hơn là vì phương án như vậy đảm bảo
nhiều hơn 50 % khả năng được chấp nhận với chất lượng tốt hơn so với chất lượng
ứng với điểm hòa vốn, và
lớn hơn 50 % khả năng không được chấp nhận với chất lượng kém hơn chất lượng ứng
với điểm hòa vốn.
8.5.1.6. Thỏa hiệp giữa AQL và
dung sai
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Ví dụ, sử dụng TCVN 7790-1 (ISO
2859-1) và bậc kiểm tra vừa phải,
AQL bằng 0,1 % hàm
ý là cỡ lô phải trên
10 000, trong khi đối với AQL bằng 10 %, cỡ lô có thể nằm trong khoảng từ 30 trở xuống. Việc
giảm dung sai đặt ra một áp lực không thực lên hoạt động kiểm tra vì kiểm tra sẽ đòi hỏi ghi lại khi các kích thước
không phù hợp thực tế phù hợp với dung sai kích thước quy định. Tệ hơn là tình trạng
trong đó lô đã được kết luận là “không được chấp nhận” và đã được kiểm tra khi,
trên thực tế, hầu
hết sản phẩm đều nằm trong quy định kỹ thuật. Trong những tình huống này, có thể dẫn đến, tuy
là sai, việc đánh giá lại các phép đo mẫu vi phạm dựa trên dung sai
quy định kỹ thuật của sản phẩm. Việc sử dụng
các giới hạn “dung sai” nén hay thu hẹp
này để đo sự phù hợp là phù hợp hơn
cho thực tiễn kiểm soát quá trình hoặc chấp nhận nội bộ. Chúng không thích hợp cho
các quy định kỹ thuật.
8.5.1.7. Nhu cầu thực tiễn
Ví dụ này chỉ ra nhu cầu
thiết lập các quy định kỹ thuật và mức chất lượng thực tế cho mục đích lấy mẫu,
đưa trở về việc phân loại
sự không phù hợp và câu hỏi về độ sai lệch khỏi sự phù hợp nghiêm trọng đến
đâu. Các quy định kỹ thuật cần phải thực tế và mức chất lượng cần chắc chắn và
phản ánh đúng phân loại sự không phù hợp cũng như tầm quan trọng tương đối của
nó.
Những cơ sở
phổ biến nhất dùng cho việc thiết lập AQL như sau:
a) Dữ liệu trong quá khứ: Dữ liệu quá
khứ được sử dụng để ước lượng trung
bình quá trình. Khi đó AQL được thiết lập
tại, hoặc gần với, ước lượng thu được.
b) Đánh giá theo kinh nghiệm: AQL được thiết
lập về mức độ thỏa mãn
đã biết đối với cá thể tương tự.
c) Đánh giá kỹ thuật: AQL dựa trên
ước lượng “kỹ thuật” về yêu cầu chất lượng đối với chức năng, hiệu năng, tuổi thọ, khả
năng đổi lẫn, v.v...
d) Theo thực nghiệm: AQL được thiết
lập theo dự kiến và sau đó được điều chỉnh theo hiệu năng và kinh nghiệm.
e) Tổng chi phí tối thiểu: AQL dựa trên
phân tích “chi phí cho chất lượng” so với “chi phí khi không có chất lượng”.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Các cơ sở
này có thể được sử dụng riêng rẽ hoặc kết hợp.
8.5.1.8. AQL ưu tiên
Cuối cùng, tính đến tất cả
các yếu tố này, ta mong muốn chọn một trong các giá trị AQL cho trong bảng
để sử dụng nếu có thể, vì nếu không áp
dụng được các bảng thì phương án hoặc
chương trình lấy mẫu đặc biệt có thể được thiết kế. Các giá trị AQL ưu tiên gần
như tạo thành cấp số nhân với công bội khoảng 1,6 vì vậy hiếm khi không tìm được giá trị
nào phù hợp.
8.5.2. LQ và CRQ
Tương tự với AQL và PRQ, LQ và CRQ có
thể được coi là các chỉ số tương
đương có giá trị quy định, cho mục đích lấy mẫu, thể hiện mức chất lượng “có thể
bị phản đối”, mức này chỉ có khả năng
được chấp nhận nhỏ.
Quá trình
thiết lập các mức chất lượng này tương tự như đối với AQL, ngoại trừ trường hợp này ta xét mức có thế chấp nhận mà,
nếu tồn tại, có thể gây các vấn đề vận hành, gia tăng chi phí, v.v... Các mức này sẽ đi
kèm với mức được chọn ứng với rủi
ro của người tiêu dùng và cần được quyết định phù hợp.
8.6. Bậc kiểm tra (IL) -
Quan hệ cỡ mẫu/cỡ lô
8.6.1. Bậc kiểm tra
Bậc kiểm tra là một chỉ số về lượng
kiểm tra tương đối
sử dụng trong chương trình lấy mẫu và
liên hệ cỡ mẫu với cỡ lô, từ đó
liên hệ tới sự phân biệt giữa chất lượng “tốt” và “kém”. Ví dụ, TCVN 7790-1
(ISO 2859-1) đưa ra bẩy bậc kiểm tra, trong khi TCVN 8243-1 (ISO 3951-1) đưa ra
năm bậc.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
CHÚ THÍCH 1: TCVN 7790-5 (ISO 2859-5)
và ISO 3951-5 đưa ra các phương áp lấy mẫu liên tiếp tương ứng với
tiêu chuẩn lấy mẫu chấp nhận TCVN 7790-1
(ISO 2859-1) và TCVN 8243-1 (ISO 3951-1), trong đó áp dụng các bậc kiểm tra. Mặt khác, TCVN 9601:2013 (ISO
8422:2006) [xem TCVN 9946-2 (ISO/TR 8550-2)] và ISO 8423:2008
[xem TCVN 9946-3 (ISO/TR 8550-3)] đưa ra phương án lấy mẫu liên tiếp xác định
theo PRP và CRP trong đó, vì vậy, bậc kiểm tra không áp dụng.
CHÚ THÍCH 2: Luôn có khả năng xử lý
các trường hợp đặc biệt
bằng cách ấn định chữ mã cố định bất kể cỡ lô, ví dụ nếu
yêu cầu đường OC xác định. Mặc dù thiết kế “phương án đặc biệt” cho một trường hợp cụ thể nằm ngoài phạm
vi của tiêu chuẩn này nhưng có thể tránh sự nhờ cậy này trong phần lớn
các trường hợp.
CHÚ THÍCH 3: Có khả năng bậc
kiểm tra “thấp”
như S-1, có thể được sử dụng vì các lý do kinh tế hoặc vì phép thử là
phá hủy. Trong những trường hợp này, có thể phải chịu sự phân biệt. Tuy nhiên, nếu hồ sơ
được duy trì cho loạt các lô liên tục thì mẫu cộng dồn có thể cho thấy rằng CR được chấp
nhận hơn.
CHÚ THÍCH 4: Quy trình A trong ISO
2859-2 không xác định phương án lấy mẫu theo bậc kiểm tra vì quy trình này để dùng cho lô riêng biệt trong đó cả
nhà sản xuất và người tiêu dùng đều quan tâm đến LQ.
Nếu không tìm được đường OC
nào đáp ứng các giá trị AQL và LQ yêu cầu thì cần thiết xét xem yêu cầu đó có phải là thiết
yếu hay không. Nếu CRQ (hoặc LQ) không được giảm nhẹ thì cách duy nhất là thắt
chặt LQ, với hệ quả làm tăng rủi ro của
nhà sản xuất.
Với chữ mã cỡ mẫu đã được
thiết lập, nếu thấy rằng không một
bậc kiểm tra nào chứa chữ mã đó dùng cho cỡ lô dự kiến thì sẽ cần xem xét và sửa
đổi yêu cầu hoặc, nếu không thực hiện được thì quy định chữ mã cỡ mẫu không cần
bậc kiểm tra. Nếu phương án đề cập sau dẫn
đến cỡ mẫu vượt quá cỡ lô thì cần thực hiện
kiểm tra 100 %.
8.6.2. Bình luận về quan hệ
cỡ mẫu/cỡ lô
Không có mối quan hệ toán học đơn giản nào giữa cỡ mẫu và cỡ
lô. Lý do hầu hết các chương trình lấy mẫu liên hệ cỡ mẫu với cỡ
lô là nguyên tắc chấp nhận rằng cần thu được nhiều bằng chứng hơn để xác định
khả năng chấp nhận những
lô lớn hơn. Với điều kiện cỡ mẫu nhỏ hơn so với cỡ lô, vì mục đích thực tiễn,
có thể bỏ qua cỡ lô khi xây dựng
đường OC cho phương án lấy mẫu. Việc chọn phương án lấy
mẫu và cỡ mẫu phụ thuộc vào tính thuần nhất của
lô. Các mẫu lớn hơn cần thiết khi không có tính thuần nhất. Phương án theo AQL
đòi hỏi các lô thuần nhất. Phương án theo LQ đòi hỏi các mẫu lớn
hơn. Đối với chương trình kiểm tra xác định theo AQL, các lô cần được
hình thành trong những điều kiện tương tự về cơ bản và không nên “pha trộn”. Mặc
dù đối với lô nhỏ, ảnh hưởng của cỡ lô lớn hơn nhưng cỡ mẫu tuyệt
đối quan trọng hơn tỷ lệ mẫu trong lô.
Trên quan điểm kiểm tra lấy mẫu, có lợi
thế đối với lô lớn, với điều kiện duy trì tính thuần nhất, vì khi đó có thể và
tiết kiệm để lấy mẫu lớn
trong khi vẫn duy trì tỷ lệ lô - mẫu lớn, nhờ
đó có được sự phân biệt tốt hơn. Ngoài ra, đối với hiệu lực nhất định, cỡ mẫu sẽ không
tăng nhanh như cỡ lô và sẽ không tăng chút nào
sau một cỡ lô nhất định.
Tuy nhiên, có một số lý do cho việc giới hạn cỡ lô:
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
b) tốc độ sản xuất hay cung ứng có thể
quá chậm để có thể hình thành các lô lớn;
c) việc lưu kho và xử lý có thể ngăn ngừa
hình thành các lô lớn;
d) khả năng lấy mẫu ngẫu nhiên khó khăn với
lô lớn;
e) hệ quả kinh tế của việc không chấp nhận lô lớn về mặt loại bỏ, làm lại và
kiểm tra thêm có thể lớn.
8.7. Kiểm tra thanh lọc
đối với lấy mẫu từng lô - AOQL
Khi tất cả các cá thể
trong lô có cùng một xác suất trở thành không phù hợp, phương án lấy mẫu chấp
nhận lô không ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng các lô được kiểm tra ngoại trừ việc thay thế các cá thể không phù hợp tìm thấy trong
mẫu. Nếu 3 % sản phẩm không phù hợp trước khi giao nộp để kiểm tra lấy mẫu, thì khoảng 3 % sẽ
không phù hợp sau khi kiểm tra lấy mẫu. Những ảnh
hưởng chính của phương án lấy mẫu lên chất lượng sản phẩm là gián tiếp
và xuất phát từ những ảnh hưởng của lô
không được chấp nhận lên việc sản xuất tiếp theo, ví dụ như thái độ của người vận
hành và các bước được lãnh đạo thực hiện để cải tiến quá trình.
Kiểm tra thanh lọc đối với lấy mẫu
theo lô là sự kết hợp giữa kiểm tra lấy mẫu và kiểm tra 100 % (hoặc “sàng Iọc”) với mong
muốn kiểm soát trực
tiếp chất lượng sản
phẩm đạt
thông qua kiểm tra. Tất cả các lô được kiểm tra lấy mẫu trừ các lô không được chấp nhận
trong kiểm tra lấy mẫu có thể được kiểm tra 100 %. Bất kỳ cá thể không phù hợp
nào tìm thấy đều được
loại ra và có thể được thay bằng cá thể phù hợp. Chất lượng đầu ra trung bình (AOQ) là kết quả của kiểm
tra thanh lọc này sẽ tốt hơn chất lượng đầu vào. Cần nhấn mạnh
là AOQ là trung bình của nhiều lò và không gắn với lô riêng lẻ nào.
Khi chất lượng đầu vào hoàn hảo, sẽ không cần
thanh lọc và chất lượng đầu ra sẽ hoàn hảo. Khi chất lượng đầu vào rất kém, việc
kiểm tra sẽ áp dụng cho tất cả các lô và vì vậy chất lượng đầu ra theo lý thuyết
vẫn hoàn hảo, mặc dù với
chi phí kiểm tra lớn. Khi mức chất lượng đầu vào, tính theo phần trăm không phù
hợp, tăng từ 0 % lên 100 %, AOQ tăng từ “không”, đạt giới hạn trên và sau đó lại
giảm về “không”. Giới hạn chất lượng đầu ra trung bình (AOQL) là giới hạn trên
này của AOQ.
Trong khi kiểm tra thanh lọc rõ ràng đặt
ra áp lực nhất định lên nhà cung cấp để cải tiến chất lượng (giả định nhà cung
cấp tiến hành việc kiểm tra), nhưng yêu cầu đánh giá ảnh hưởng phần nào vẫn là lý tưởng. Việc tính toán AOQ
giả định phân loại hoàn hảo 100 %, trong một số trường hợp, việc thay thế sản
phẩm không phù hợp bằng sản phẩm tốt (mới
hoặc làm lại). Vì sự hoàn hảo không có khả năng xảy ra trong thực tế nên kết quả của
quá trình kiểm tra và tính toán cần
được xem xét cẩn trọng, vì kết
quả tính toán có thể hơi lạc quan.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Một vấn đề khác gắn với loại
hình kiểm tra
này là áp lực và chi phí đặt lên
bộ phận kiểm tra. Bất cứ khi nào lô được kết luận là không được chấp nhận, khối
lượng công việc có thể gia tăng đáng kể và vì thế nhu cầu về nguồn nhân lực, thiết bị “chuẩn”
và khả năng thông qua khó có thể duy trì. Điều này có thể ảnh hưởng bất lợi đến hiệu quả kiểm tra 100 % và rất có khả năng ảnh hưởng đến chất lượng kiểm tra “ban đầu”.
Tình huống này có thể tạo ra sự thúc giục cắt góc có ý thức hay tiềm thức, với
hậu quả
suy
giảm về chất lượng. Tuy nhiên, AOQL có thể là một khái niệm hữu ích khi đánh
giá ảnh hưởng của kiểm tra thanh lọc lên chất lượng đầu ra cũng như khuyến
khích tạo ra chất lượng tốt ngay từ đầu.
Không phải tất cả các hệ thống
xác định theo AOQL đều chịu những bất lợi này. ISO 18414 là hệ thống lấy mẫu chấp
nhận xác định theo AOQL dùng cho kiểm tra định tính. Hệ thống này chỉ đòi hỏi
kiểm tra 100 % lô không được
chấp nhận khi đó là lô đầu
tiên trong loạt hoặc khi lô trước đó không được chấp nhận. Do đó, bằng cách chỉ
giao nộp lô lớn khi lô trước đó đã được chấp nhận, có thể tránh được việc kiểm tra 100 %
lô lớn.
AOQL cũng có thể được dùng làm cơ sở cho việc so sánh và lựa chọn phương án lấy mẫu
cho một ứng dụng. Trường hợp hệ số AOQL không được cho trong tiêu chuẩn, khi kiểm
tra 100 % và việc thay thế cá thể không phù hợp bằng cá thể phù hợp là bắt buộc
đối với tất cả các lô không
được chấp nhận, AOQL có thể được tính từ giá trị AOQ bằng cách sử dụng phép
tính gần đúng:
AOQ = Pa(p) x 100p,
trong đó
p là tỷ lệ không phù hợp
Pa(p) là xác suất chấp nhận ở
mức chất lượng p.
Từ công thức này, có thể thu được AOQ,
và sau đó là AOQL, theo phần trăm không phù hợp. Trên thực tế, phép gần đúng này có thể là
chỉ số tốt hơn
tính toán chi tiết khi việc
thanh lọc không được áp dụng một cách hiệu quả.
9. So sánh các phương
pháp kiểm tra lấy mẫu
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Đường OC cung cấp cơ sở tốt cho việc so sánh trực tiếp giữa các
phương án lấy mẫu vì mỗi phương án có một đường OC riêng. Một cách khác, so
sánh nào đó có thể được thực hiện bằng cách sử dụng hệ số rút ra từ đường OC,
ví dụ AOQL (xem 8.7), tỷ lệ phân biệt
(xem 9.2) hoặc cỡ mẫu trung
bình (xem 9.3.2).
9.2. Tỷ lệ phân biệt
(DR)
Phương án kiểm tra lấy mẫu hoàn hảo có thể phân biệt tuyệt đối tại phần
trăm không phù hợp bằng giới hạn chất lượng chấp nhận. Đường OC sẽ là đường thẳng
đứng tại AQL. Đối với chất lượng có phần trăm không phù hợp thấp hơn AQL, sẽ là
vùng chấp nhận toàn bộ, còn đối với chất lượng có phần trăm không phù hợp tốt
hơn AQL sẽ là vùng không chấp nhận toàn bộ. Hình 3 thể hiện đường OC
lý tưởng. Lý tưởng này không
thể đạt được nếu kiểm tra ít hơn 100 % hoàn hảo.
Khi đưa vào áp dụng phương pháp kiểm
tra lấy mẫu, không còn
khả năng phân biệt tuyệt đối giữa chất lượng “chấp nhận được” và “không chấp nhận
được”. Hậu quả của việc
không kiểm tra từng cá thể được phản ánh qua độ dốc của đường OC, cụ thể là giá
trị tuyệt đối của độ dốc của phần đường cong nằm giữa PRP và
CRP, được gọi là tỷ lệ phân biệt (DR). Độ dốc này càng thẳng đứng thì sự phân
biệt của phương án càng lớn. Do đó, sự so sánh của độ dốc ở phần này của
đường OC cho phép so sánh trực tiếp hiệu lực của các phương án lấy mẫu về khả
năng phân biệt.
Khi các đường OC nằm ở các trang
khác nhau của tài liệu, hoặc theo thang đo khác nhau, sẽ không dễ dàng so sánh
trực tiếp chúng và khi đó có thể sử dụng phương án thay thế số học dưới đây.
Phương pháp này sử dụng độ dốc của đường thẳng nối PRP và CRP. Đường thẳng này
là xấp xỉ thỏa mãn phần
đó của đường OC.
CHÚ DẪN
x phần trăm không phù hợp của quá trình
Y phần trăm các lô dự kiến được chấp nhận
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Hệ số (CRQ)/(PRQ) tạo cho độ dốc này
như một chỉ số bằng số về tỷ
lệ phân biệt,
số này càng lớn thì phương án lấy mẫu càng ít khả năng phân biệt. Chỉ số này có thể sử dụng
cho việc lựa chọn phương án cũng như so sánh hoặc cho mục đích bất kỳ khác dựa
trên đường OC.
Tuy nhiên, các phương án lấy mẫu có
cùng tỷ lệ phân biệt không nhất thiết tương đương
nhau. Ví dụ, sử dụng đường OC dùng cho
phương án với AQL 1 % và chữ mã K có tỷ lệ phân biệt tương tự với đường cong
dùng cho phương án với AQL 4 $ và chữ mã M, nhưng điểm CR và PR khá khác biệt. Trong ứng dụng
phổ biến nhất của phương pháp này, các đường cong có điểm PR và mức chất lượng tương tự
được so sánh về mức độ
phân biệt của chúng theo chất lượng kém,
nghĩa là độ biến động trong rủi ro của người tiêu dùng.
9.3. So sánh lấy mẫu một lần,
hai lần, nhiều lần và liên tiếp
9.3.1. Các phương án tương
đương
9.3.1.1. Đặc trưng cần tính đến
Đối với hầu hết các phương án lấy mẫu
một lần, có thể tìm phương án lấy
mẫu hai lần, nhiều lần hoặc liên tiếp có đường đặc trưng hiệu quả gần với của
phương án lấy mẫu một lần.
Trong những trường hợp như vậy, không có lý do gì để chọn giữa lấy mẫu
một lần, hai lần, nhiều lần hay liên tiếp vì sự khác biệt giữa các đường đặc trưng hiệu
quả. Đối với mọi tình huống có
thể có, cũng không có lý do gì để ưu tiên phương án này hơn phương án khác. Đôi khi việc
cân đối giữa ưu và nhược điểm thiên về ủng
hộ quy trình lấy mẫu này hoặc đôi khi là
quy trình khác. Các đặc trưng cần được
tính đến được nêu dưới đây.
a) Tính phức tạp. Lấy mẫu một lần là
phương án dễ mô tả và thực thi
nhất. Lấy mẫu hai lần đòi hỏi quản lý nhiều hơn để bố trí cho việc cung
cấp mẫu lần hai khi cần. Lấy mẫu nhiều lần và liên tiếp rõ ràng là còn phức tạp
hơn. Đôi khi, sự hấp dẫn của tính
đơn giản là xem xét chính khi lựa chọn phương án lấy mẫu. Mặt khác, sẽ có những
trường hợp biên khi có tâm lý là sẽ có khả năng lấy được mẫu thứ hai dẫn đến
thiên về phương án lấy
mẫu hai lần.
b) Độ biến động về lượng
kiểm tra lấy mẫu. Trong lấy mẫu một lần, cỡ mẫu được cố định và lượng nỗ lực
kiểm tra cần đạt đến quyết định được biết trước. Đối với các loại lấy mẫu khác,
số cá thể thử thay đổi
theo kết quả thu được từ các mẫu trước
đó. Có thể tính trung bình lượng kiểm tra lấy mẫu và trung bình chi phí kiểm
tra cho một chất lượng đầu vào cho trước bất kỳ. Giá trị này thay đổi theo chất lượng, đạt
thấp nhất đối với cả chất lượng rất
tốt và rất kém. Ngoài độ không đảm bảo kèm theo chất lượng đầu
vào chưa biết, ngay cả khi chất lượng
đầu vào đã biết, còn có độ không
đảm bảo do độ biến động về lượng kiểm tra lấy mẫu trong trung bình này. Độ
không đảm bảo này có
thể dẫn đến vấn đề sắp xếp đủ nguồn lực sẵn có cho việc kiểm tra yêu cầu. Nếu không
có đủ nguồn lực, kết quả sẽ bị chậm trễ.
Trong trường hợp ngược lại, sẽ có việc sử dụng không hiệu quả các nguồn lực.
Trong một số tình huống, tải
kiểm tra biến động sẽ thường được coi là chi phí nhỏ trả cho việc
giảm đáng kể tổng chi phí kiểm tra trung bình.
c) Khó khăn trong việc lấy mẫu cá thể. Đôi khi dễ
dàng lấy mẫu thứ hai
và lấy hai mẫu không khó khăn hơn so với với lấy một mẫu có cỡ kết hợp. Tuy
nhiên, ở thời điểm
khác, nảy sinh tình huống
trong đó việc lấy cá thể mẫu
là một phần lớn của
công việc kiểm tra và ở đây, có sự
xáo trộn lô để lấy một mẫu,
sẽ khó khả thi khi xáo trộn lại lô để lấy một mẫu khác. Trong trường hợp này, lấy
mẫu một lần thường là phương án tốt nhất. Tất nhiên có khả năng thay thế bằng lấy mẫu có cỡ lớn
nhất cần thiết và sau đó kiểm tra theo phương án hai lần, nhiều lần hoặc liên
tiếp đã chọn. Việc này có thể ít tiết kiệm chi phí hơn so với phương án một lần do vấn
đề về trả lại lô các cá thể không kiểm tra.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
e) Sự không phù hợp phức hợp. Sản phẩm
càng phức tạp về số lượng không phù hợp và số loại không phù hợp có thể có thì
lấy mẫu hai lần hoặc nhiều lần càng trở nên phức tạp. Việc sử dụng hiệu quả lao động
và thiết bị kiểm tra sẽ
khó khăn nếu mẫu thứ nhất cần phải được kiểm tra tất cả các đặc tính, mẫu thứ
hai chỉ kiểm tra một
số đặc tính và mẫu thứ
ba có thể chỉ kiểm tra một số trong số các đặc tính đó. Nói chung, có thể nói rằng
kiểm tra phức tạp thiên về phương án lấy mẫu đơn giản, trong khi kiểm tra đơn
giản hơn có thể
xứng với phương án lấy mẫu phức tạp hơn.
Đường đặc trưng hiệu quả (đối với
phương án lấy mẫu một lần có cỡ mẫu 200, số chấp nhận 3 và số bác bỏ
4) và phương án lấy mẫu hai lần và nhiều lần tương ứng được thể hiện trên
Hình 4. Mức độ phù hợp không được chính xác nhưng đủ tốt cho hầu hết các mục
đích thực tiễn. Phương án lấy mẫu liên tiếp cũng phù hợp với đường OC của
phương án lấy mẫu một lần nhưng không
được thể hiện để tránh làm rối. Các đường đặc trưng hiệu quả của phương án lấy
mẫu liên tiếp và một lần hầu như không thể phân biệt được với nhau.
9.3.1.2. Ví dụ 6
Thịt hộp được thử về sự duy trì chất lượng bằng
cách lưu giữ một số hộp trong 3 tuần ở điều kiện khí quyển nhất định.
Để thu được đường OC mong muốn, lựa chọn có thể
nằm giữa phương án lấy mẫu một lần với mẫu gồm 80 hộp, phương án lấy mẫu hai lần
với mỗi mẫu gồm 50 hộp và phương án lấy mẫu nhiều lần năm giai đoạn với mỗi mẫu
gồm 20 hộp. Nếu sử dụng lấy mẫu một lần thì 3 tuần sau khi bắt đầu thử nghiệm sẽ
có kết quả; nếu lấy mẫu hai lần, kết quả có thể có trong 3 tuần nhưng thay vào
đó có thể cần 6
tuần; nếu lấy mẫu nhiều lần, có thể cần đến gần 5 tháng.
Trong những trường hợp như vậy, lấy mẫu
một lần có thể sẽ
được lựa chọn.
9.3.1.2. Ví dụ 7
Một kiểm tra phá hủy cần được thực hiện.
Tất cả các vật phẩm
trong lô có sẵn ở trạm thử
nghiệm và thiết bị thử mỗi lần chỉ có thể lấy một vật phẩm. Do
chi phí chính của việc thử là phá hủy vật phẩm nên mong muốn hủy càng ít càng tốt
phù hợp với đường OC mong muốn.
Vì mỗi lần thử được một vật phẩm trong mẫu nên
việc sử dụng lấy mẫu liên tiếp hơn là lấy mẫu một lần có thể sẽ tiết kiệm thời
gian cũng như giảm cỡ mẫu trung
bình. Điều này rất đáng được cân nhắc.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Để so sánh giữa lấy mẫu một lần, hai lần, nhiều
lần và liên tiếp, có thể hữu ích khi xem xét cỡ mẫu trung bình cần thiết trong
một loạt lấy mẫu dài ở các mức chất
lượng sản phẩm trung bình khác nhau. Đường cỡ mẫu trung bình chỉ thị hiệu suất tương đối của
các hệ thống lấy mẫu khác nhau. Những
đường như vậy chỉ ra trung bình số lượng cá thể cần kiểm tra trước khi đạt đến
quyết định chấp nhận hay loại bỏ
ở một phạm vi
mức chất lượng sản
phẩm.
Hình 5 thể hiện
cỡ mẫu trung
bình cho một bộ các phương án lấy mẫu một lần, hai lần, nhiều lần và liên tiếp
tương ứng nêu trong Bảng 3 và mô tả trên Hình 4.
Bảng 3 - Các
phương án lấy mẫu định tính tương ứng đối với chữ mã L,
AQL 0,65 %
Loại phương
án lấy mẫu
Cỡ mẫu
Số chấp nhận/loại
bỏ
Ac
Re
Một lần
Cỡ mẫu n = 200
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
4
Hai lần
Cỡ mẫu thứ nhất n = 125
1
3
Cỡ mẫu kết hợp thứ nhất và thứ hai n
= 250
4
5
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Mẫu thứ nhất n
= 50
# a
3
Cỡ mẫu cộng dồn n
= 100
0
3
Cỡ mẫu cộng dồn n = 150
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
4
Cỡ mẫu cộng dồn n = 200
2
5
Cỡ mẫu cộng dồn n = 250
4
5
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
hA = 1,383, hR = 1,582, g
= 0,0161, nt = 315 [xem
TCVN 7790-5 (ISO 2859-5)].
a Không được
phép chấp nhận ở cỡ mẫu
này.
Trung bình, số cá thể cần kiểm tra trước
khi đi đến quyết định là lớn nhất khi sử dụng lấy mẫu một lần. Cỡ mẫu giảm nhiều
nhất khi sử dụng lấy mẫu
hai lần, nhiều lần hoặc liên tiếp xảy ra khi lô có chất lượng rất tốt hoặc rất
kém.
Đối với chất lượng tốt hoặc kém, tiết
kiệm trung bình trong kiểm
tra có thể lớn nhưng số lượng cá thể thực tế được kiểm tra đối với một lô cụ thể
khi sử dụng phương án lấy mẫu hai lần, nhiều lần hoặc liên tiếp có thể vượt quá số
lượng cần cho phương án một lần tương ứng. Điều này có nhiều khả năng xảy ra
khi chất lượng ở giá trị trung gian, ví dụ bằng hai hoặc ba lần AQL.
Vì những lý do này, lấy mẫu một lần có
thể được ưa dùng trong một số trường hợp, ví dụ, khi khoảng thời gian thử kéo
dài và tất cả các cá thể
có thể được thử đồng thời. Mặt
khác, khi chỉ có thể tiến hành thử
mỗi lần một cá thể hoặc phép thứ phá hủy thì lấy mẫu hai lần, nhiều lần hoặc
liên tiếp có thể có lợi thế đáng kể (xem Ví dụ 4 và 5 ở 8.2.4).
Đối với phương án hai lần và nhiều lần,
có một giới hạn trên cho số lượng cá thể cần kiểm tra. Đối với phương án liên
tiếp, không có giới hạn như vậy trừ khi áp dụng nguyên tắc cắt để hạn chế số
lượng cá thể kiểm tra. TCVN 7790-5 (ISO
2859-5) và ISO 3951-5 đưa ra cho việc cắt cỡ mẫu ở khoảng 1,5 lần cỡ mẫu một lần
tương ứng.
CHÚ THÍCH: Đường OC của phương án liên tiếp hầu như
không thể phân biệt với
đường OC của phương án một lần.
CHÚ DẪN
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Y phần trăm các lô dự kiến được chấp nhận, Pa
1 một lần và liên tiếp
2 hai lần
3 nhiều lần
Hình 4 - So
sánh các đường đặc trưng hiệu quả đối với phương án lấy
mẫu một lần, hai lần, nhiều lần và liên tiếp
CHÚ DẪN
X chất lượng sản phẩm giao nộp
tính theo phần trăm không phù hợp, 100p
Y số mẫu trung bình
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
2 hai lần
3 nhiều lần
4 liên tiếp
Hình 5 - So
sánh cỡ mẫu trung bình đối với phương án lấy mẫu một lần,
hai lần, nhiều lần và liên tiếp
Lấy mẫu hai lần, nhiều lần
và liên tiếp tạo cơ hội tiết kiệm đáng kể về cỡ mẫu nhưng chúng đòi hỏi nhiều sự kiểm
soát quản lý hơn. Khi có sẵn thiết bị sử dụng bán tự động, lấy mẫu liên tiếp tự
động cho phép tăng hiệu suất và tính kinh tế, đặc biệt khi thực hiện phép thử
phá hủy.
Một yếu tố cản trở việc ứng dụng
rộng hơn các phương
án lấy mẫu hai lần,
nhiều lần và liên tiếp là mối lo ngại rằng cỡ mẫu một lần có thể bị vượt quá.
Xác suất xảy ra việc này có thể không cao như nghi ngờ. Hình 6 thể hiện xác suất
là hàm của mức chất lượng đầu vào đối với
các phương án chấp nhận trong Bảng 3. Có thể thấy rằng, đặc biệt đối với các mức
chất lượng trung gian, có một sự giảm đáng kể đối với xác suất bị vượt quá cỡ mẫu cho lấy
mẫu một lần khi chuyển từ lấy mẫu hai lần sang nhiều lần sang liên tiếp.
CHÚ DẪN
X phần trăm không phù hợp
của quá trình
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
1 hai lần
2 nhiều lần
3 liên tiếp
Hình 6 - So
sánh xác suất bị vượt quá cỡ
mẫu trong lấy mẫu một lần đối với phương
án lấy
mẫu
hai lần, nhiều lần và liên tiếp
10. Các phương pháp
khác đôi khi được chấp nhận trong thực tế
10.1. Kiểm tra 100%
Nhiều nhà máy hiện đại kết hợp các
phương pháp tự động kiểm tra chất lượng sản phẩm trên mỗi cá thể được sản xuất. Những
thực hành tương tự được chấp nhận để loại bỏ
cá thể không phù hợp khỏi lô chấp nhận bằng cách lấy mẫu. Tuy
nhiên, có thể cần sự theo dõi độc lập nhất định để đảm bảo đề phòng những
trục trặc của hệ thống kiểm tra dẫn đến việc tiếp tục sản xuất và “chấp nhận” sản phẩm không phù hợp. Trong một số trường hợp, việc kiểm soát quá trình thực tế,
hoặc thành phần khác của hệ thống chất lượng, có thể cung cấp việc theo dõi
này.
10.2. Mẫu đột xuất
Thực hành lấy mẫu đột xuất, một kỹ thuật
lấy mẫu không theo kế hoạch cố định, thường không được tán thành vì nó không đưa ra
sự kiểm soát thống
kê và do đó không thể tin cậy, không kinh tế và không hiệu quả đối với mục đích
chấp nhận và kiểm soát. Tuy nhiên, kiểu lấy mẫu này đôi khi được sử dụng trong hệ thống
“hồi tiếp về phía trước” trong đó cá thể không phù hợp không gây bất tiện thực sự ở công đoạn tiếp
theo. Vì những lý do
này, thực hành này thường giới hạn ở các hoạt động “nội bộ”.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Mẫu đột xuất không có các đặc trưng thống kê của
mẫu ngẫu nhiên và phương án lấy mẫu có chuẩn mực chấp nhận đích thực. Chỉ nên sử
dụng lấy mẫu đột xuất khi
a) nhà sản xuất và cá thể có lịch sử tốt,
hoặc
b) các điều kiện đảm bảo người nhận không
thể đóng góp vào việc kiểm soát hoặc sửa chữa quá trình
của nhà cung cấp và sự không phù hợp có tính chất dễ nhận biết và cá thể không
phù hợp được thay thế trong cụm lắp ráp hoặc thử nghiệm tiếp theo.
Lấy mẫu đột xuất không thích hợp đối với
cá thể đắt tiền mà sự bảo hành của nó không cứu văn
được chấp nhận lô.
Mẫu đột xuất được phát hiện có bất kỳ cá thể không phù hợp
nào là tín hiệu để chuyển sang sử dụng phương án lấy mẫu từ tiêu chuẩn lấy mẫu
chấp nhận phù hợp, và tuân thủ quá trình
quyết định thông thường mà mẫu như vậy chỉ ra.
10.3. Lô sản xuất một lần
Tình huống bất thường xảy ra khi một lô sản xuất đặc biệt, đơn nhất hoặc “một
lần” không được chấp nhận bởi phương án lấy mẫu. Việc giao nộp lại của chính lô
đó sau khi kiểm tra và/hoặc sửa chữa có nhiều cá thể không phù hợp hơn mong đợi, hoặc giao nộp
lô thay thế, có khả năng dẫn đến kết quả chấp nhận cuối cùng cho rủi ro lấy mẫu cộng dồn.
Các phương án lấy mẫu được thiết
kế để giảm xác suất chấp nhận lô có số lượng không phù hợp vượt quá, cho dù lô
đó được giao nộp một lần hoặc giao nộp lại nhiều lần. Quy trình này thay đổi quan hệ giữa
cỡ mẫu và số chấp nhận cho mỗi lần giao nộp lại liên tục lô bị bác bỏ và giới hạn
số lần giao nộp lại cho phép. Nói chung, vấn đề chính với các phương án lấy mẫu
như vậy là cần một lượng lấy mẫu và kiểm tra
lớn.
10.4. Lấy mẫu đánh giá
Trong trường hợp nhà cung cấp có hệ thống
chất lượng hoạt động, ví dụ như bộ tiêu chuẩn TCVN ISO 9000 (ISO 9000), thì có thể
sử dụng các kỹ thuật lấy mẫu trong quá trình
xem xét hoặc đánh giá việc sản xuất hoặc hệ thống chất lượng. [Xem TCVN 7790-4
(ISO 2859-4)]. Ở đây người
đánh giá kiểm tra xem hồ
sơ hoặc tình trạng của thiết bị, nguyên vật
liệu trong quá trình hoặc nguyên vật liệu lưu kho có được nhận biết thích hợp
và ở mức chất lượng chấp nhận hay
không. Việc này có thể xem là lấy mẫu lô tách biệt từ một quá trình liên tục, phương án được chọn cho rủi ro
của nhà sản xuất thấp ở mức mong muốn
(ví dụ 1 % sai số) với tỷ lệ phân biệt
bất kỳ, rủi ro của người tiêu dùng và mức chất lượng là cần thiết. Các nguồn lực sẵn có và nỗ lực
đòi hỏi cũng cần được xem
xét và chúng có thể ảnh hưởng đến các cân
nhắc khác.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Ứng dụng lấy mẫu này không được thực hiện như
một xác nhận độc lập về chất lượng.
11. Sự liên quan của
điều kiện thị trường và sản xuất
11.1. Khái quát
Công việc lựa chọn hệ thống, chương trình hay phương án lấy mẫu phù hợp chịu
ảnh hưởng của điều kiện thị trường và sản
xuất. Ngoài ra, khía cạnh kinh tế của hệ
thống lấy mẫu (như minh họa ở 4.2), các nguồn lực của tổ chức kiểm tra và các
khía cạnh khác cần được xem xét. Vì vậy, lựa chọn quá trình trở nên phức tạp
và hiếm khi có một phương pháp lấy mẫu chấp nhận phù hợp với mọi tình huống, dù
các tình huống khác
nhau có thể dường như tương tự nhau.
Trong TCVN 9946-2 (ISO/TR 8550-2) và
TCVN 9946-3 (ISO/TR 8550-3), các bảng và hình vẽ được cung cấp cho lấy mẫu định
tính và lấy mẫu định lượng tương ứng, để minh họa quá trình lựa chọn hệ thống, chương trình hoặc phương án lấy mẫu. Các bảng
đưa ra hệ thống, chương trình hoặc phương án lấy mẫu “đề xuất” để phù hợp với
tình huống kiểm
tra, điều kiện sản xuất và điều kiện thị
trường cho trước.
Các bảng này cần được xem xét và lựa
chọn càng nhiều “phương án đề xuất” phù hợp với tình huống càng tốt. Sau đó,
các đề xuất này cần được xem xét thông qua hình vẽ để cuối cùng
người sử dụng có thể đạt đến một hệ thống, chương
trình hoặc phương án khả thi và kinh tế nhất cho tình huống đó.
11.2. Điều kiện thị trường
Nhiều điều kiện phải được xem xét để lựa
chọn hệ thống, chương trình hoặc phương án lấy mẫu phù hợp nhất. Đặc biệt là các điều kiện
tồn tại trong thị trường công nghiệp ở đó sản phẩm được chuyển giao từ
nhà sản xuất/nhà cung cấp tới khách hàng/người sử dụng, ví dụ như các điều kiện
trong đó:
a) khách hàng có thể tác động người bán để cải thiện chất
lượng (phần trăm phù hợp);
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
c) chấp nhận số lượng nhỏ cá thể không
phù hợp có thể gây tổn thất lớn hoặc
thể hiện nguy cơ
nghiêm trọng;
d) đóng cửa nhà máy và tổn thất kinh tế
khi lô không được chấp nhận, từ đó ảnh hưởng
việc cung ứng cho khách hàng (nguồn đơn);
e) sản phẩm được cung cấp bởi người bán
có lịch sử rất tốt.
Mặt khác, các điều kiện trái ngược sau
đây có thể tồn tại:
f) người mua không tác động đến chất lượng
của sản phẩm được sản xuất;
g) trách nhiệm của người bán chấm dứt khi
đơn vị hoặc lô được
chấp nhận;
h) đơn vị không phù hợp có ảnh hưởng nhỏ về kinh tế hoặc ảnh hưởng khác và/hoặc chúng dễ dàng được nhận biết và loại
bỏ trong quá trình lắp ráp;
i) sẵn có nhiều nguồn sản phẩm tương đương
khác;
j) không có lịch sử về chất lượng hoặc
lịch sử chất lượng kém.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Ngoài các điều kiện thị trường, có các
điều kiện sản xuất ảnh hưởng đến tình huống lấy
mẫu chấp nhận. Bao gồm:
a) lô là một trong loạt dài các lô liên tục;
b) có lịch sử chất lượng sản xuất tốt, nhất
quán;
c) việc lựa chọn mẫu ngẫu
nhiên đơn giản: tất cả các cá thể dễ
dàng và sẵn có như nhau để lựa chọn;
d) việc thử nghiệm cá thể hoặc một số thử
nghiệm nhiều đặc trưng của một cá thể rất nhanh chóng;
e) việc kiểm tra cá thể rất tốn kém;
f) việc kiểm tra cá thể là phá hủy;
g) cần biết về hình dạng, vị trí và mức độ
phân tán phân bố của đặc trưng;
h) phân bố của đặc trưng cần thử đã biết
là phân bố chuẩn (hoặc có thể chuyển đổi thành chuẩn);
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Cũng có thể có những điều kiện trái
ngược với các điều kiện nêu ở trên:
j) lô là tách biệt hoặc lấy từ một
loạt sản xuất ngắn;
k) chất lượng sản xuất rất biến động và/hoặc kém;
l) lấy mẫu ngẫu nhiên khó khăn hoặc tốn kém;
m) việc thử nghiệm cá thể tốn nhiều thời
gian;
n) việc kiểm tra cá thể không tốn kém;
o) việc kiểm tra cá thể không phá hủy;
p) hình dạng và độ phân tán phân bố của
đặc trưng không quan trọng;
q) phân bố của đặc trưng chưa biết hoặc
biết là không phải phân bố chuẩn.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
12. Lựa chọn cuối -
Chủ nghĩa hiện thực
Lựa chọn cuối cần dựa trên các yêu cầu
của tình huống cũng như nguồn lực của tổ chức kiểm tra.
Khi lựa chọn hệ thống, chương trình
hay phương án lấy mẫu, việc
thỏa hiệp gần như không thể tránh khỏi để đạt được tính thực tiễn, sử dụng
tiết kiệm các nguồn lực và rủi ro có thể chấp nhận được. Do đó, quá trình lựa
chọn có thể trở nên lặp đi lặp
lại. Kinh nghiệm trước đó có thể hỗ trợ nhiều cho việc quyết định cái gì là thuận lợi
nhất của phương án “đề xuất” được gợi ý.
Nếu phương án lấy mẫu đề xuất ở nỗ lực
đầu tiên là không khả thi vì lý do bất kỳ,
ví dụ nếu cỡ mẫu quá lớn, thì trước tiên phải kiểm tra để thấy rằng việc lựa chọn
được thực hiện đúng đắn.
Nếu phương án vẫn không khả thi thì tất
cả các bên liên quan cần xem xét “mức chất lượng” và “rủi ro lấy mẫu” để đạt được
sự hiểu biết và thống nhất về các tham số xét lại sẽ dẫn đến việc lựa
chọn hệ thống và phương án lấy mẫu chấp nhận được.
PHỤ
LỤC A
(tham khảo)
Ví
dụ về mô hình đơn giản để tối đa hóa lợi nhuận trong kiểm tra phá hủy định tính
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Cá thể nhất định được sản xuất theo lô
cỡ N cá thể, với chi phí sản xuất một đơn vị là c. Các lô được phân loại
bởi nhà sản xuất thành chấp nhận được hoặc dưới chuẩn. Giá bán mỗi cá thể là a đối với các lô được
phân loại là chấp nhận được và s đối với các lô được phân loại dưới
chuẩn. Thông thường, s nhỏ hơn rất
nhiều so với chi phí sản xuất đơn vị c. Mỗi cá thể không phù hợp được
bán trong lô phân loại là chấp nhận được dẫn đến chi phí phía dưới d
cho nhà sản xuất, ví dụ như chi
phí bảo hành hoặc tổn
thất thiện chí. Chi phí tương ứng trong các lô dưới chuẩn được bán là bằng “không”.
Chất lượng lô là tỷ lệ, p, cá
thể không phù hợp trong lô đó. Dữ liệu lịch sử chỉ ra rằng p ở giá trị thấp
p0 đối với tỷ lệ
cao f0 của các lô
nhưng nó không giải thích được và dường như trôi ngẫu nhiên về giá trị cao hơn p1 đối với phần
còn lại
f1 = 1 - f0 của các lô.
Thử nghiệm các cá thể để xác định xem chúng có tuân thủ các yêu cầu hay không
là thử phá hủy, với chi phí thêm t cho mỗi cá thể được thử.
Nhà sản xuất có lựa chọn chỉ dựa vào bằng
chứng trong lịch sử và phân loại tất cả các lô thành chấp nhận được hoặc kết hợp giữa bằng
chứng lịch sử với một số dữ liệu mẫu từ mỗi lô để xác định khả năng chấp
nhận của các lô riêng lẻ. Mục tiêu của
nhà sản xuất là tối đa hóa lợi nhuận trên mỗi cá thể được bán.
A.2. Phương pháp
giải quyết
Trước tiên cần xác định các điều kiện
theo đó hành động tốt nhất là lấy mẫu. Nếu các điều kiện này được đáp ứng, thì sẽ xác định
phương án lấy mẫu tối ưu và lợi nhuận trung bình thu được trên mỗi cá thể bán
ra. Cuối cùng, lợi nhuận này được so sánh với lợi nhuận trung bình từ việc
không lấy mẫu để xác định chính sách tốt nhất. Để đơn giản, lấy mẫu định tính một lần được
xem xét, nghĩa là phương án với cỡ mẫu n và số chấp nhận Ac, sao cho việc
xác định phương án tối ưu rút gọn thành tìm giá trị tối ưu của n và Ac.
A.3. Lợi nhuận
trung bình trên mỗi cá thể bán ra là hàm của các tham số của phương án lấy mẫu
Lợi nhuận trung bình từ việc đánh giá
lô là chấp nhận được dựa trên mẫu cỡ n khi p = p0 là:
P(n) = (N - n)a – N · c - n - · t -(N - n)d · p0 (A.1)
Lợi nhuận trung bình từ việc đánh giá
lô là chấp nhận được dựa trên mẫu cỡ n khi p = p1, là:
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Lợi nhuận trung bình từ việc đánh giá
lô là dưới chuẩn, không xét đến p, là:
R(n) = (N - n)s - N · c - n · t (A.3)
Xác suất đạt phép thử chấp nhận định
tính được ký hiệu là b0(n,Ac) khi p
= p0 và b1(n,Ac) khi p
= p1 chú ý rằng việc chấp
nhận lô mà không lấy mẫu có nghĩa là cả b0(0,0) và b1(0,0) đều bằng
1. Tổng lợi nhuận trung bình trên một lô là:
T(n,Ac) = f0 · b0(n,Ac)
· P(n) + f1 · b1(n,Ac)
· Q(n)
+ {f0 · [1 - b0(n,Ac) + f1 · [1- b1(n,Ac)] } R(n) (A.4)
Thay các công thức (A.1), (A.2) và
(A.3) vào công thức (A.4), sắp xếp lại và chia toàn bộ cho (N -n), tìm được lợi
nhuận trung bình trên một cá thể bán ra là:
U(n,Ac) = s - c + f0 · b0(n,AC)
· (a - s - d · p0)
+ f1 · b1(n,AC)
· (a - s - d · p1) - n(c + t) / (N -
n) (A.5)
A.4. Giải pháp
khi a - s ³ dp1
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
U(0,0) = s - c + f0 · (a
- s - d · p0) + f1 (a - s - d · p1)
= a - c - d · (f0
· p0 + f1 · p1).
Điều này đạt được bằng cách đánh giá tất
cả các lô là chấp nhận được mà không lấy bất kỳ mẫu nào.
Tuy nhiên, nếu U(0,0) không
dương thì tốt nhất là không thực hiện hoạt động.
A.5. Giải pháp
khi
a
- s £ dp0
Nếu a - s - dp0 £ 0, kéo theo a - s
- dp1 < 0 vì thế
U(n,Ac) < s
- c < 0 đối với mọi n và Ac, trong trường hợp này thì tốt nhất là không thực
hiện hoạt động.
A.6 Giải pháp khi dp0 <
a - s < dp1
Ở phạm vi trung gian giữa hai thái cực A.4 và
A.5, a
- s dp1 < 0 nhưng a - s - dp0 > 0, nghĩa
là:
(a - s) / (p1 < d < (a - s) / p0. (A.6)
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
U(n,Ac) = (s -
c) + g0 · b0(n,Ac)
- g1 · b1(n,Ac) - n(c
+ t) / (N - n) (A.7)
Đối với cỡ mẫu cho trước
n, chỉ số hạng thứ
hai và thứ ba ở về phải của
công thức (A.7) bị ảnh hưởng bởi việc
thay đổi số chấp nhận. Đối với n cố định, việc giảm số chấp nhận từ k
xuống k
- 1 chỉ có lợi
thế nếu và chỉ nếu:
công thức này khi sắp xếp lại trở thành:
trong đó “In” ký hiệu cho logarit
nêpe. Kéo theo đối với cỡ mẫu n cho trước, số chấp nhận tối ưu là:
(A.8)
trong đó [x] thể hiện phần
nguyên của x. Do đó,
phương án tối ưu cho tất cả các cỡ mẫu có thể tìm được bằng cách tìm
giá trị lớn nhất của công thức (A.7) là
(A.9)
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Điều đáng theo dõi từ Công thức (A.8)
là số chấp nhận tối ưu sẽ bằng “không” bất cứ khi nào
Ln(g0 / g1)
- n · ln{(1 - p1) / (1 - p0)}
< ln(p1 / p0) - ln[(1 - p1)
/ (1 - p0)], (A.10)
nghĩa là bất cứ khi nào
(A.11)
Đây thường là trường hợp khi p0 rất nhỏ.
A.8. Ví dụ
Giả sử rằng chi phí sản xuất đơn
vị là c = £10,00, giá bán đơn vị cho lô dưới chuẩn là s = £0,50, chi
phí bổ sung cho phép thử phá hủy cá thể là t = £1,00, chi phí tiếp sau của
đơn vị không phù hợp trong lô được chấp nhận là d = £10 000, cỡ lô là N = 10 000 và xác suất lô ở mức chất lượng p0 là f0 = 0,99. Bảng A.1 thể hiện
chính sách kiểm tra tối ưu thay đổi và lợi nhuận trung bình trên một
cá thể bán ra tăng khi mức chất lượng được cải thiện, mặc dù giá bán đơn vị
trong lô được chấp nhận giảm đi.
Bảng A.1 -
Phương án lấy mẫu tối ưu đối với ví dụ ở A.8
Mức chất lượng thông thường,
p0
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Phương án lấy
mẫu một lần định tính tối ưu
Giá bán một
cá thể, a
(£)
Lợi nhuận
trung bình trên một cá thể bán ra
(£)
n
Ac
0,001 00
0,100
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
2
20,25
0,022
0,000 50
0,050
139
1
15,40
0,091
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
0,030
197
1
13,60
0,211
0,000 20
0,020
249
1
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
0,280
0,000 10
0,010
141
0
12,00
0,378
0,000 09
0,009
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
0
11,95
0,436
0,000 08
0,008
129
0
11,90
0,499
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
0,007
113
0
11,85
0,570
0,000 06
0,006
86
0
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
0,603
0,000 05
0,005
34
0
11,70
0,710
0,000 04
0,004
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
11,60
0,804
0,000 03
0,003
Chấp nhận, không lấy
mẫu
11,50
0,903
0,000 02
0,002
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
11,35
0,952
0,000 01
0,001
Chấp nhận, không lấy
mẫu
11,20
1,001
THƯ MỤC TÀI
LIỆU THAM KHẢO
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
[2] TCVN 9946-3 (ISO/TR 8550-3), Hướng dẫn
lựa chọn và sử dụng hệ thống lấy mẫu chấp nhận để kiểm tra cá thể
dạng đơn chiếc trong lô - Phần 3: Lấy mẫu định lượng
[3] TCVN 7790-1:2007 (ISO 2859-1:1999), Quy trình lấy mẫu
để kiểm tra định
tính - Phần 1: Chương trình lấy mẫu được
xác định theo giới hạn chất lượng chấp nhận (AQL) để kiểm tra từng lô
[4] ISO 2859-2, Sampling procedures for
inspection by attributes - Part 2: Sampling plans indexed by limiting quality (LQ)
for isolated lot inspection (Qui trình lấy mẫu để kiểm tra định tính - Phần
2: Phương án lấy mẫu xác định theo giới hạn chất lượng (LQ) để kiểm tra lô tách biệt)
[5] TCVN 7790-3:2008 (ISO 2859-3:2005), Quy trình lấy mẫu
để kiểm tra định
tính - Phần 3: Quy trình lấy mẫu lô cách quãng
[6] TCVN 7790-4:2008 (ISO 2859-4:2002), Quy trình lấy mẫu
để kiểm tra định
tính - Phần 4: Quy trình đánh giá mức chất lượng
công bố
[7] TCVN 7790-5:2008 (ISO 2859-5:2005), Quy trình lấy mẫu
để kiểm tra định
tính - Phần 5: Hệ thống phương án lấy mẫu liên tiếp xác định theo giới hạn chất
lượng chấp nhận (AQL) để kiểm tra từng lô
[8] ISO 14560:2004, Acceptance sampling
procedures by attributes - Specified quality levels in
nonconforming items
per million
(Quy trình lấy mẫu chấp nhận định
tính - Mức chất lượng quy định
về cá thể không phù hợp
trên một triệu)
[9] ISO 18414:2006, Acceptance sampling
procedures by attributes - Accept-zero sampling system based on credit
principle for controlling outgoing quality (Quy trình lấy mẫu chấp nhận
định tính - Hệ thống lấy mẫu chấp nhận “không” dựa trên nguyên tắc tin cậy
đối với kiểm soát chất lượng đầu
ra)
[10] TCVN 8243-1:2009 (ISO 3951-1:2005),
Quy trình lấy mẫu để kiểm tra định lượng - Phần 1: Quy định đối với phương án lấy
mẫu một lần xác định theo giới hạn chất lượng chấp nhận (AQL) để kiểm tra từng
lô đối với một
đặc trưng chất lượng và một AQL
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
[12] ISO 3951-4, Sampling procedures for
inspection by variables - Part 4: Procedures
for assessment of declared quality levels (Quy trình lấy mẫu để kiểm tra định lượng
- Phần 4: Quy
trình đánh giá mức chất lượng công bố)
[13] ISO 3951-5, Sampling procedures for
inspection by variables - Part 5: Sequential sampling plans indexed by
acceptance quality limit (AQL) for inspection by variables (Quy trình lấy mẫu để kiểm tra định lượng
- Phần 5: Phương án lấy mẫu xác định theo
giới hạn chất lượng chấp nhận (AQL) để kiểm tra định lượng)
[14] TCVN 9603:2013 (ISO 5479:1997), Giải
thích dữ liệu thống kê - Kiểm nghiệm sai lệch so với phân bố chuẩn
[15] ISO 8423, Sequential sampling plans
for inspection by variables for percent nonconforming (known standard
deviation)
[Phương án lấy mẫu liên tiếp để kiểm tra định lượng phần trăm không phù hợp (biết độ lệch
chuẩn)]
[16] TCVN ISO 9000 (ISO 9000), Tiêu chuẩn
quản lý chất lượng và đảm bảo chất lượng
- Hướng dẫn lựa chọn và sử dụng
[17] TCVN ISO 9004 (ISO 9004), Hệ thống quản lý chất lượng - Hướng dẫn cải tiến
[18] BAILLIE, D.H. Is acceptance
sampling still needed? Invited paper to the 1992 International Conference
on Quality Control, Manila, Philippines, organized by the Asia Pacific Quality
Organization and the International Academy for Quality (Lấy mẫu chấp nhận có còn
cần thiết?)
[19] CROSBY, P.B. Quality is Free: The
Art of Making Quality Certain. McGraw-Hill, 1979 (Chất lượng là cho không:
Nghệ thuật tạo ra chất lượng đích thực)
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Lời nói đầu
Lời giới thiệu
1. Phạm vi áp dụng
2. Tài liệu viện dẫn
3. Thuật ngữ và định nghĩa
4. Lạm dụng và sử dụng lấy mẫu chấp nhận
4.1. Lạm dụng lấy mẫu chấp nhận
4.2. Ví dụ 1
4.3. Kiểm tra chất lượng vào sản phẩm
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
4.5. AQL
4.6. Cấp phép để tạo ra khuyết
tật?
4.7. Triết lý khuyết tật bằng “không”
4.8. Sử dụng lấy mẫu chấp
nhận
5. Phương án, chương trình và hệ thống lấy mẫu chấp nhận
6. Ưu điểm thực tế và kinh tế của việc sử
dụng phương án lấy mẫu tiêu chuẩn
7. Định tính và định lượng
8. Các xem xét khác ảnh hưởng đến việc lựa chọn
8.1. Loạt sản
xuất dài và ngắn
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
8.3. Đường đặc trưng hiệu quả (OC)
8.4. Rủi ro của
việc lấy mẫu
8.5. Lựa chọn giá trị AQL, PRQ, LQ và CRQ
8.6. Bậc kiểm tra (IL) - Quan hệ cỡ mẫu/cỡ lô
8.7. Kiểm tra thanh lọc đối với lấy mẫu từng
lô - AOQL
9. So sánh các phương pháp kiểm tra lấy mẫu
9.1. Sử dụng đường OC cho việc so
sánh các phương án lấy mẫu
9.2. Tỷ lệ phân biệt (DR)
9.3. So sánh lấy mẫu một lần, hai lần, nhiều
lần và liên tiếp
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
10.1. Kiểm tra 100%
10.2. Mẫu đột xuất
10.3. Lô sản xuất một lần
10.4. Lấy mẫu đánh giá
11. Sự liên quan của điều kiện thị trường
và sản xuất
11.1. Khái quát
11.2. Điều kiện thị trường
11.3. Điều kiện sản xuất
12. Lựa chọn cuối - Chủ nghĩa hiện thực
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Thư mục tài liệu tham khảo
1) Phép gần đúng này đủ chính
xác cho hầu hết các mục đích thực tế trong lấy mẫu chấp nhận. Trong những trường
hợp hiếm gặp, nó sẽ cho kết quả lớn hơn cần thiết một đơn vị.
2) Chỉ
những giá trị phần trăm không phù hợp nhỏ mới được coi là chấp nhận được
vì sự không phù hợp là nghiêm trọng.
3) Trình
bày theo cách khác là (AQL, 100 % - PR[%]).