BỘ
XÂY DỰNG
******
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
********
|
Số:
06/QĐ-BXD
|
Hà
Nội, ngày 03 tháng 01 năm 2008
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ
VIỆC BAN HÀNH HƯỚNG DẪN ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ NGUY HIỂM CỦA KẾT CẤU NHÀ CHUNG CƯ.
BỘ TRƯỞNG BỘ
XÂY DỰNG
Căn cứ Nghị định số 36/2003/NĐ-CP ngày 4/4/2003 của Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức Bộ Xây dựng;
Căn cứ Nghị định số 209/2004/NĐ-CP ngày 16/12/2004 của Chính phủ về quản lý
chất lượng công trình xây dựng;
Xét đề nghị của Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều
1.
Ban hành kèm theo quyết định này "Hướng dẫn đánh giá
mức độ nguy hiểm của kết cấu nhà chung cư”.
Điều 2. Quyết định này có hiệu
lực thi hành kể từ ngày ký.
Điều 3. Các Ông Chánh Văn phòng
Bộ, Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ và Thủ trưởng các đơn vị có liên quan chịu
trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
Nơi nhận:
Thứ trưởng
- Như điều 3
- Lưu VP, Vụ KHCN
|
KT.
BỘ TRƯỞNG
Nguyễn Văn Liên
|
HƯỚNG DẪN
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ NGUY HIỂM CỦA KẾT CẤU NHÀ CHUNG CƯ THEO
TCXDVN 373 - 2006
Hướng dẫn này áp dụng cho
công tác khảo sát và đánh giá mức độ nguy hiểm của kết cấu nhà chung cư. Kết quả
đánh giá phục vụ cho việc sửa chữa, cải tạo hoặc tháo dỡ công trình nhằm bảo đảm
an toàn trong sử dụng.
Khảo sát kỹ thuật được thực
hiện theo các bước: thu thập hồ sơ công trình, khảo sát kỹ thuật công trình (gồm
khảo sát sơ bộ và khảo sát chi tiết), lập báo cáo khảo sát.
2.1 Thu
thập hồ sơ công trình
Cần tiến hành thu thập và
nghiên cứu các tài liệu lưu trữ về công trình và các tài liệu liên quan, bao gồm:
- Các thông tin về khu vực
xây dựng;
- Tài liệu
khảo sát địa chất;
- Hồ sơ thiết kế và hồ sơ
hoàn công (kiến trúc, kết cấu);
- Tài liệu khảo sát hiện trạng
nhà đợt gần nhất (trong trường hợp công trình đã qua một hoặc nhiều lần sửa chữa,
cải tạo hoặc gia cố, thì cần thêm hồ sơ cải tạo, gia cố);
2.2 Khảo
sát kỹ thuật công trình
2.2.1 Khảo sát sơ bộ
Trong giai đoạn khảo sát sơ bộ
cần tiến hành các công việc sau:
- Xác định sơ
đồ kết cấu của nhà, các kết cấu chịu lực và vị trí của chúng, trong trường hợp
không có hoặc không đủ hồ sơ thiết kế, hồ sơ hoàn công, thì cần thực hiện việc
đo vẽ hiện trạng những kích thước cơ bản;
- Quan sát, chụp ảnh hiện trạng kết cấu mái, cửa
đi, cửa sổ, cầu thang, kết cấu chịu lực, mặt ngoài nhà;
- Nghiên cứu đặc điểm, hiện trạng các công trình
lân cận;
- Kết thúc giai đoạn khảo sát sơ bộ cần xác định
được những vùng hoặc vị trí cần khảo sát chi tiết.
2.2.2
Khảo sát chi tiết
Khảo sát chi tiết nhằm mục
đích chuẩn hoá lại sơ đồ kết cấu, kích thước cấu kiện, tình trạng của vật liệu
và kết cấu. Căn cứ vào tình trạng công trình, yêu cầu và mục đích của công tác
khảo sát, bằng những dụng cụ và máy móc thiết bị chuyên dụng, đơn vị thực hiện
công tác khảo sát có thể tiến hành một phần hoặc tất cả các nội dung khảo sát.
Nguyên tắc chung là: chuyên gia khảo sát phải là người am hiểu chuyên môn, nghiệp
vụ và có kinh nghiệm; trong bất cứ trường hợp nào thì số liệu khảo sát cũng phải
đại diện và đủ tin cậy để tính toán, đánh giá toàn bộ công trình.
a) Thu thập thông tin về
công trình lân cận
Mục đích là thu thập thông
tin của công trình lân cận để xem xét mức độ ảnh hưởng đến công trình đang khảo
sát. Các thông tin đó là:
- Qui mô,
đặc điểm công trình;
- Hiện trạng
kết cấu của công trình;
- Lịch sử xây dựng và khai
thác sử dụng;
- Những dấu hiệu thể hiện
bên ngoài (nứt, lún, nghiêng, v.v...).
b) Khảo sát nền móng
Ø Khảo
sát hiện trạng móng công trình
Thông thường là làm
lộ móng ở các vị trí đặc trưng (dưới các kết cấu chịu lực chủ yếu, tại các vị
trí có dấu hiệu hư hỏng nặng, v.v...), thông tin cần xác định là:
- Loại
móng, các kích thước chủ yếu, độ sâu đế móng;
- Vật liệu
làm móng (cường độ vật liệu, hiện trạng, v.v...);
- Tình trạng
cốt thép, các dấu hiệu hư hỏng như nứt, gãy, v.v...
Ø
Khảo sát bổ sung địa chất công trình (nếu cần)
Khi tiến hành khảo sát bổ
sung địa chất công trình, cần tiến hành:
- Khoan lấy mẫu đất để thí
nghiệm xác định các chỉ tiêu của đất;
- Có thể thí nghiệm xuyên
tĩnh CPT hoặc xuyên tiêu chuẩn SPT;
- Độ sâu khảo sát được xác
định phụ thuộc vào loại kết cấu móng hiện hữu, kích thước móng và tải trọng tác
dụng lên móng, lưu ý tới chiều dày của lớp đất yếu dưới công trình. Thông thường
phải khảo sát qua các lớp đất yếu (nếu đã có tài liệu khảo sát địa chất dùng
khi thiết kế thì chỉ tiến hành khảo sát bổ sung nếu thiếu số liệu hoặc có nghi
vấn).
Ø
Quan trắc lún, nghiêng của công trình (nếu cần)
Quan trắc lún nhằm xác định
độ lún và tốc độ phát triển lún của công trình theo thời gian phụ thuộc vào yêu
cầu của công tác khảo sát và thực trạng của công trình để tiến hành quan trắc
lún, nghiêng trong một quãng thời gian hợp lý và thực hiện theo tiêu chuẩn đo
lún hiện hành.
c) Khảo sát kết cấu bên
trên
Ø
Khảo sát kết cấu khung bê tông cốt thép
Kiểm tra kết cấu khung với
các nội dung sau:
- Kích thước
hình học, độ thẳng đứng của cột, độ võng của dầm;
- Xác định các tính chất cơ
lý vật liệu khung;
- Quan trắc ghi nhận vết nứt,
độ sâu vết nứt, sự phát triển vết nứt theo thời gian;
- Kiểm tra chiều dày lớp bê
tông bảo vệ, mức độ ăn mòn cốt thép, đường kính và bố trí cốt thép trong khung.
Ø
Khảo sát kết cấu thép
- Kích thước
hình học, độ thẳng đứng của cột, độ võng của dầm, độ võng và độ nghiêng lệch của
vì kèo;
- Xác định
các tính chất cơ lý vật liệu thép;
- Ghi nhận
tình trạng vết nứt;
- Kiểm tra
mức độ ăn mòn thép;
- Xem xét
tình trạng các mối hàn, bu lông, đinh tán v.v... ở các nút liên kết. Cần chú ý
đến dạng liên kết của cột thép với dầm, các thanh giằng; tình trạng hư hỏng của
liên kết chân cột với móng; tình trạng võng, xoắn, bản mã của vì kèo .
Ø
Khảo sát kết cấu tường lắp ghép tấm lớn
- Xác định
kích thước hình học của tấm tường;
- Xác định
cường độ vật liệu tấm tường;
- Tình trạng mối nối (bê tông, cốt thép; liên kết mối
nối đứng và ngang);
- Tình trạng tấm tường (vết nứt, ăn mòn cốt thép...);
Ø
Khảo sát kết cấu tường gạch
Khảo sát tường nhằm mục đích
xác định:
- Tình trạng
kết cấu và vật liệu tường;
- Vết nứt, sự
sai lệch về kích thước hình học;
- Sự có mặt của
cốt thép hay các chi tiết liên kết bằng thép;
- Xác định
các tính chất cơ lý của tường, xác định cường độ khối xây, cường độ của gạch, vữa
xây, vữa trát, độ hút nước của gạch;
- Xác định bề
rộng, chiều dài và độ sâu vết nứt, lưu ý đến hướng và số lượng vết nứt.
Ø
Khảo sát kết cấu sàn
Tiến hành kiểm tra trực
quan tất cả các cấu kiện, kết cấu sàn bao gồm: gối tựa, nhịp sàn, dầm đỡ sàn.
Khi xem xét phải chú ý tới độ võng của sàn, trạng thái lớp bảo vệ trần, vết nứt
và đặc điểm của vết nứt: mật độ, hướng và sự thay đổi bề rộng vết nứt để có nhận
định về mức độ hư hỏng và quyết định các bước khảo sát tiếp theo như: xác định
độ sâu vết nứt, cường độ bê tông, loại cốt thép và phân bố cốt thép trong dầm
sàn.
Vẽ mặt bằng, mặt cắt sàn,
ghi các kết quả đo đạc và những hư hỏng hiện trạng của sàn.
Ø Khảo
sát kết cấu ban công, lôgia
Khi xem xét cần làm rõ liên kết ban công với
tường và sàn, tình trạng và biến dạng các bộ phận của ban công, lôgia.
Tuỳ thuộc vào sơ đồ tính toán của ban công,
cần xem xét:
- Nếu là sơ đồ công xôn:
tình trạng liên kết với tường;
- Nếu là sơ đồ công xôn có
thanh chống xiên: tình trạng của thanh chống xiên, liên kết của nó với công
xôn, liên kết công xôn với tường, trạng thái của công xôn tại giữa nhịp công
xôn, liên kết của thanh chống xiên với tường;
- Nếu là sơ đồ dầm trên hai
gối tựa: tình trạng dầm tại gối tựa và giữa nhịp.
Ø
Khảo sát kết cấu mái
Khi khảo sát các kết cấu
chịu lực mái cần tiến hành:
- Quan
sát, đo vẽ kết cấu và lập bản vẽ mặt bằng;
- Làm rõ
loại kết cấu chịu lực (vì kèo, panel,v.v...);
- Xác định
các lớp cấu tạo mái, lưu ý tới độ dốc và các lớp vật liệu mái, tình trạng đường
thoát nước (sênô, đường ống, các khe tiếp giáp);
- Đánh giá
biến dạng của các cấu kiện chịu lực mái.
Trường hợp mái có kết cấu
thép thì cần xác định mức độ ăn mòn và độ võng của cấu kiện, kết cấu.
Đối với mái bằng panel bê tông cốt thép cần chú ý tới vết nứt, sự hư hỏng
của lớp bê tông bảo vệ.
Ø Khảo
sát kết cấu cầu thang
Khảo sát cầu thang nhằm mục đích xác định:
- Loại vật liệu và đặc tính
của kết cấu cầu thang;
- Liên kết các cấu kiện cầu
thang;
- Tình trạng và độ bền các cấu
kiện cầu thang;
Đối với cầu thang bê tông cốt thép lắp
ghép, cần xác định:
- Tình trạng liên kết giữa
bản thang và tường;
- Tình trạng gối tựa của
chiếu nghỉ (tới) và các chi tiết liên kết bằng mối hàn;
- Sự phân bố vết nứt và những
hư hỏng trên bản thang.
Đối với cầu thang gạch tựa trên cốn (dầm cầu
thang) bằng thép cần xác định:
- Tình trạng
của liên kết các bản thang vào tường;
- Sự ăn
mòn của các liên kết bằng thép;
- Trạng thái thể xây tại những
vị trí liên kết dầm và bản thang.
Đối với cầu thang gỗ tựa trên cốn thép và
các dầm ngang bằng gỗ cần xác định:
- Tình trạng và độ bền của
liên kết các dầm chiếu nghỉ (tới) vào tường;
- Tình trạng liên kết xà
ngang với dầm;
- Tình trạng của gỗ làm xà
ngang, bậc, dầm.
2.2.3 Lập báo cáo khảo
sát
Báo cáo khảo
sát cần thể hiện các nội dung sau:
- Danh mục
những tài liệu cần thiết làm căn cứ lập báo cáo;
- Lịch sử công trình;
- Mô tả công trình lân cận;
- Mô tả tình trạng tổng
quát của công trình theo các dấu hiệu bên ngoài;
- Mô tả kết cấu
nhà, các đặc trưng và tình trạng của nó;
- Các bản vẽ
kết cấu với đầy đủ chi tiết và kích thước đo được (bản vẽ hiện trạng);
- Xác định tải
trọng tác dụng và tính toán kiểm tra kết cấu chịu lực và nền móng;
- Các chỉ
tiêu cơ, lý, hóa được xác định của vật liệu, cấu kiện, kết cấu, đất nền qua thí
nghiệm, quan trắc;
- Các bản vẽ
mặt bằng và mặt cắt nhà; mặt bằng và mặt cắt các hố khoan, các bản vẽ thể hiện
quá trình khảo sát kết cấu;
- Báo cáo khảo
sát địa chất công trình và địa chất thủy văn của khu đất đó, đặc trưng của đất
nền (nếu cần);
- Điều kiện sử
dụng công trình;
- Phân tích
nguyên nhân gây nguy hiểm cho nhà nếu có;
- Ảnh chụp
toàn cảnh của nhà, những cấu kiện kết cấu bị hư hỏng và các bộ phận liên quan;
- Phân tích
và nhận xét ban đầu.
3.1
Nguyên tắc chung
Nhà nguy hiểm là nhà mà kết cấu
đã bị hư hỏng nghiêm trọng, hoặc có nhiều cấu kiện chịu lực đã thuộc loại cấu
kiện nguy hiểm. Nhà nguy hiểm bất kỳ lúc nào cũng có thể bị mất ổn định và mất
khả năng chịu lực và vì vậy không bảo đảm an toàn trong quá trình sử dụng.
Để đánh giá mức độ nguy hiểm
của kết cấu nhà, căn cứ vào đặc điểm cấu tạo và loại kết cấu chịu lực của nó,
trước hết phải đánh giá được các cấu kiện nguy hiểm, sau đó đánh giá mức độ
nguy hiểm của các bộ phận nhà (tổ hợp từ các cấu kiện) bao gồm: nền móng, kết cấu
chịu lực phần thân nhà và kết cấu bao che, cuối cùng đánh giá mức độ nguy hiểm
của cả nhà.
Khi phân tích tính nguy hiểm
của các cấu kiện, của các bộ phận nhà cần xét xem sự nguy hiểm của chúng là độc
lập hay là tương quan. Khi tính nguy hiểm của cấu kiện chỉ mang tính chất độc lập,
thì không tạo thành nguy hiểm cho cả hệ thống; khi nguy hiểm là tương quan (tức
là có liên quan với nhau), thì phải xem xét mức độ nguy hiểm của hệ kết cấu để
dự đoán phạm vi ảnh hưởng của chúng.
Khi phân tích toàn diện, dự
đoán tổng hợp, phải xem xét các yếu tố sau đây:
- Mức độ
hư hỏng của các cấu kiện;
- Vai trò
của những cấu kiện hư hỏng trong toàn nhà;
- Số lượng
và tỉ lệ của những cấu kiện hư hỏng so với toàn nhà;
- ảnh hưởng
của môi trường xung quanh;
- Yếu tố
con người và tình trạng nguy hiểm của kết cấu;
- Khả năng
có thể khôi phục sau khi kết cấu bị hỏng;
- Tổn thất
kinh tế do kết cấu bị hỏng gây ra.
3.2 Đánh giá mức độ nguy hiểm của cấu kiện
Cấu kiện nguy hiểm là những
cấu kiện mà khả năng chịu lực, vết nứt và biến dạng không đáp ứng được yêu cầu sử dụng bình thường (điều kiện sử dụng bình thường
là điều kiện sử dụng tuân theo các yêu cầu của tiêu chuẩn hoặc các quy định
trong thiết kế, thỏa mãn các yêu cầu về công nghệ cũng như sử dụng).
Phân chia kết cấu thành
các cấu kiện theo các quy định sau
đây (mỗi một phần kết cấu dưới đây được xem là 1 cấu kiện):
a) Móng, dầm móng:
Móng đơn dưới cột;
Móng băng: độ
dài 1 trục của 1 gian;
Móng bè: diện
tích của 1 gian;
Dầm móng:
chiều dài của dầm móng.
b) Tường:
chiều dài tính toán, 1 mặt của 1 gian; nhà tấm lớn: kích thước một tấm tường.
c) Cột: chiều
cao của cột.
d) Dầm, xà
gồ, dầm phụ: chiều dài của chúng;
e) Bản sàn toàn khối: diện tích một gian; đối với bản sàn đúc sẵn:
một tấm;
f) Vì kèo, giàn v.v....
3.2.1 Đánh
giá nền móng
Đánh giá mức độ nguy hiểm của nền móng gồm hai phần: nền và móng.
Khi kiểm tra nền và móng cần
chú trọng xem xét tình trạng vết nứt xiên dạng hình bậc thang, vết nứt ngang và
vết nứt thẳng đứng ở vị trí tiếp giáp giữa móng với tường gạch chịu lực, tình
trạng vết nứt ngang ở chỗ nối tiếp móng với chân cột khung, tình trạng chuyển vị
nghiêng của nhà, tình trạng trượt, ổn định của nền, biến dạng, rạn nứt của đất
nền.
a) Đất nền được đánh giá
là nguy hiểm khi có một trong những hiện tượng sau:
- Tốc độ
lún nền trong thời gian 2 tháng liên tục lớn hơn 2 mm/tháng và không có biểu hiện
dừng lún;
- Nền bị
lún không đều, độ lún vượt quá giới hạn cho phép theo tiêu chuẩn hiện hành, tường
bên trên có vết nứt (do lún) có bề rộng lớn hơn 10 mm, và độ nghiêng cục bộ của
nhà lớn hơn 1%;
- Nền
không ổn định dẫn đến trôi trượt, chuyển vị ngang lớn hơn 10 mm và ảnh hưởng rõ
rệt đến kết cấu phần thân, mặt khác vẫn có hiện tượng tiếp tục trôi trượt.
b) Móng được đánh giá là
nguy hiểm khi có một trong những hiện tượng sau:
- Khả năng
chịu lực của móng nhỏ hơn 85% hiệu ứng tác động vào móng;
- Móng bị mủn, mục, nứt, gẫy dẫn đến kết cấu bị
nghiêng lệch, chuyển vị, rạn nứt, xoắn rõ rệt;
- Móng có
hiện tượng trôi trượt, chuyển vị ngang trong thời gian 2 tháng liên tục lớn hơn
2 mm/tháng và không có biểu hiện chấm dứt.
3.2.2. Đánh giá cấu kiện kết cấu xây
gạch
Đánh giá mức độ nguy hiểm
của kết cấu xây gạch bao gồm các nội dung: khả năng chịu lực, cấu tạo và liên kết,
vết nứt và biến dạng v.v...
Khi tính toán kiểm tra khả
năng chịu lực kết cấu xây gạch, cần xác định cường độ của viên xây và vữa để
suy ra cường độ khối xây, hoặc trực tiếp xác định cường độ khối xây gạch. Diện
tích tiết diện thực của khối xây gạch không bao gồm phần diện tích hao mòn do
các nguyên nhân khác nhau gây nên.
Khi kiểm tra kết cấu xây gạch
nên chú trọng xem xét tình trạng vết nứt xiên và thẳng đứng tại vị trí tiếp nối
cấu tạo và chỗ giao tiếp giữa tường dọc và tường ngang, tình trạng biến dạng và
vết nứt của tường chịu lực, tình trạng vết nứt và chuyển dịch tại chân vòm.
Kết cấu xây gạch được đánh
giá là nguy hiểm khi có một trong những biểu hiện sau:
- Khả năng
chịu lực của cấu kiện chịu nén nhỏ hơn 85% hiệu ứng tác động (nội lực) của nó;
- Tường, cột
chịu lực có vết nứt thẳng đứng theo phương chịu lực với bề rộng vết nứt lớn hơn
2 mm, độ dài khe vượt quá 1/2 chiều cao tầng nhà, hoặc có nhiều vết nứt thẳng đứng
mà độ dài quá 1/3 chiều cao tầng nhà;
- Tường, cột
chịu lực có bề mặt bị phong hoá, bong tróc, mủn vữa mà tiết diện bị giảm đi hơn
1/4;
- Tường hoặc
cột đỡ dầm hoặc vì kèo do chịu nén cục bộ xuất hiện nhiều vết nứt thẳng đứng,
hoặc bề rộng vết nứt vượt quá 1 mm;
- Trụ tường
do chịu nén lệch tâm xuất hiện vết nứt ngang, bề rộng vết nứt lớn hơn 0,5 mm;
- Tường, cột
bị nghiêng mà độ nghiêng lớn hơn 0,7%, hoặc chỗ nối giữa hai tường kề nhau có vết
nứt xuyên suốt qua;
- Tường, cột
không đủ độ cứng, có hiện tượng uốn cong và xuất hiện vết nứt ngang hoặc vết nứt
xiên;
- ở giữa
theo chiều dài lanh tô có vết nứt thẳng đứng, hoặc ở đầu lanh tô có vết nứt
xiên rõ rệt; phần tường đỡ lanh tô có vết nứt ngang hoặc bị võng xuống rõ rệt;
- Trong những
kết cấu chịu lực lớn và khối xây có các vết nứt thẳng đứng liên tục (trụ, mảng
tường, trụ nửa chìm trong tường);
- Có sự
phân lớp khối xây dọc theo phương thẳng đứng tạo thành các mảng tường làm việc
như là trụ;
- Các cấu
kiện chịu nén, nén uốn bị phình có chỗ lên tới 1/80 – 1/50 chiều cao kết cấu;
- Trong
các vòm gạch thấy rõ các vết nứt và biến dạng biểu hiện trạng thái nguy hiểm.
Các thanh thép neo bị rỉ hoàn toàn và mối nối bị tuột neo;
- Các vết
nứt trong khối xây có bề rộng trên 50 mm do nhà lún không đều. Có sự nghiêng rõ
rệt (độ nghiêng lên tới trên 1/50 chiều cao kết cấu);
Đánh giá cấu kiện kết cấu bê tông cốt
thép
Đánh giá mức độ nguy hiểm
của cấu kiện kết cấu bê tông bao gồm các nội dung: khả năng chịu lực, cấu tạo
và liên kết, vết nứt và biến dạng v.v...
Khi tính toán khả năng chịu
lực của cấu kiện, kết cấu bê tông cốt thép, phải kiểm tra cường độ bê tông, mức
độ carbonát hoá của bê tông, tính chất cơ học và mức độ ăn mòn cốt thép. Diện
tích tiết diện đo được của cấu kiện kết cấu bê tông cốt thép không bao gồm phần
diện tích bị hư hỏng do các nguyên nhân khác nhau gây ra.
Khi kiểm tra kết cấu bê
tông cốt thép cần chú trọng xem xét các vết nứt và tình trạng ăn mòn cốt thép
chịu lực của cột, dầm, sàn; vết nứt ngang ở phần chân và phần đỉnh cột; độ
nghiêng của vì kèo và ổn định của hệ thống giằng chống v.v...
Cấu kiện kết cấu bê tông cốt
thép được đánh giá là nguy hiểm khi có một trong những hiện tượng sau:
- Khả năng
chịu lực của cấu kiện nhỏ hơn 85% hiệu ứng tác động (nội lực) của nó;
- Dầm, sàn
bị võng quá L0 /150 (L0 là nhịp tính toán của
dầm hoặc sàn), bề rộng vết nứt ở vùng chịu kéo lớn hơn 1 mm;
- Trong
vùng chịu kéo ở phần giữa nhịp của dầm đơn giản, dầm liên tục xuất hiện vết nứt
thẳng đứng chạy dài lên trên đến 2/3 chiều cao của dầm, bề rộng vết nứt lớn hơn
0,5 mm, hoặc ở gần gối tựa xuất hiện vết nứt xiên do lực cắt, bề rộng vết nứt lớn
hơn 0,4 mm;
- ở vị trí
cốt thép chịu lực của dầm, sàn xuất hiện vết nứt nằm ngang và vết nứt xiên, bề
rộng vết nứt lớn hơn 1 mm, ở bản sàn xuất hiện vết nứt trong vùng chịu kéo lớn
hơn 0,4 mm;
- Trong đầm,
sàn có cốt thép bị ăn mòn xuất hiện vết nứt dọc theo chiều cốt thép chịu lực có
bề rộng vết nứt lớn hơn 1 mm, hoặc cấu kiện bê tông bị hư hỏng nghiêm trọng, hoặc
lớp bảo vệ bê tông bị bong tróc làm lộ cốt thép chịu lực;
- Xung
quanh mặt bản sàn đổ tại chỗ xuất hiện vết nứt hoặc đáy bản sàn có vết nứt đan
xiên;
- Dầm, sàn
ứng lực trước có vết nứt thẳng đứng chạy dài suốt tiết diện; hoặc bê tông của
đoạn ở phần đầu bị nén vỡ làm lộ cốt thép chịu lực và chiều dài đoạn cốt thép bị
lộ ra lớn hơn 100 lần đường kính cốt thép chịu lực;
- Cột chịu
lực có vết nứt thẳng đứng, lớp bê tông bảo vệ bị bong tróc, cốt thép chịu lực lộ
ra do bị ăn mòn, hoặc một bên có vết nứt ngang với bề rộng lớn hơn 1 mm, một
bên bê tông bị nén vỡ, cốt thép chịu lực lộ ra do bị ăn mòn;
- Phần giữa
tường có vết nứt đan xiên, bề rộng lớn hơn 0,4 mm;
- Cột, tường
bị nghiêng, chuyển vị ngang và độ nghiêng vượt quá 1% độ cao, chuyển vị ngang
vượt quá h/500 (h là chiều cao tính toán của cột hoặc tường);
- Bê tông
cột, tường bị mủn, bị carbonát hoá, phồng rộp, diện tích hư hỏng lớn hơn 1/3
toàn mặt cắt, cốt thép chịu lực lộ ra, bị ăn mòn nghiêm trọng;
- Cột, tường
biến dạng theo phương ngang lớn hơn h/250 ((h là chiều cao tính
toán của cột hoặc tường), hoặc lớn hơn 30 mm;
- Độ võng
của vì kèo lớn hơn /200 (L0
là nhịp tính toán của vì kèo), thanh cánh hạ có vết nứt đứt ngang, bề rộng vết
nứt lớn hơn 1 mm;
- Hệ thống
giằng chống của vì kèo mất hiệu lực dẫn đến nghiêng lệch vì kèo, độ nghiêng lớn
hơn 2% chiều cao của vì kèo;
- Lớp bê
tông bảo vệ của cấu kiện chịu nén uốn bị bong rộp, nhiều chỗ cốt thép chịu lực
bị ăn mòn lộ ra ngoài;
- Chiều
dài đoạn gối của dầm-sàn nhỏ hơn 70% giá trị quy định;
- Cốt thép
chịu nén bị bung, có vết nứt dọc cốt thép trong vùng chịu nén;
- Cốt thép
ngang (cốt thép đai, cốt thép xiên) trong vùng có vết nứt xiên bị đứt hoặc chuyển
dịch;
- Tuột neo
khỏi các chi tiết liên kết, biến dạng các chi tiết nối, mối nối bị tuột;
- Vết nứt
dọc theo cốt thép có bề rộng đến 3mm. Hiện rõ vết ăn mòn cốt thép do cốt thép bị
ăn mòn bởi các vết nứt, chiều dày lớp ăn mòn đến 3 mm;
- Bong
tróc lớp bê tông bảo vệ do cốt thép bị ăn mòn (khi hư hỏng vẫn tiếp tục phát
triển);
- Cốt thép
trong cấu kiện chịu kéo bị đứt;
- Vùng bê
tông chịu nén bị phá hoại kết hợp với cốt thép chịu lực bị cong phình;
- Bề rộng
vết nứt lớn hơn 0,5 mm, đặc biệt là các vết nứt cắt chéo vùng neo của cốt thép ứng
lực trước, vết nứt do ứng suất kéo chính gây ra, vết nứt xiên ở vùng gối tựa;
3.2.3. Đánh giá cấu kiện kết cấu thép
Đánh giá mức độ nguy hiểm
của cấu kiện kết cấu thép bao gồm các nội dung: khả năng chịu lực, cấu tạo và
liên kết, vết nứt và biến dạng v.v...
Khi tính toán khả năng chịu
lực (đặc biệt là ổn định) của cấu kiện kết cấu thép thì phải kiểm tra tính chất
cơ lý, mức độ ăn mòn của vật liệu. Diện tích tiết diện đo được của cấu kiện kết
cấu thép không bao gồm phần diện tích bị hư hỏng do các nguyên nhân khác nhau
gây ra.
Khi kiểm tra các cấu kiện
kết cấu thép cần chú trọng xem xét tình trạng gỉ của chúng, tình trạng của các
mối hàn, bu lông, đinh tán v.v... ở các nút liên kết; cần chú ý đến dạng liên kết
của cột thép với dầm, các thanh giằng, tình trạng hư hỏng của liên kết chân cột
với móng, tình trạng võng, xoắn, bản mã của vì kèo bị gãy và tình trạng độ
võng, độ nghiêng lệch của vì kèo.
Cấu kiện kết cấu thép được
đánh giá là nguy hiểm khi có một trong những hiện tượng sau:
- Khả năng
chịu lực của cấu kiện nhỏ hơn 90% hiệu ứng tác động (nội lực) của nó;
- Cấu kiện
hoặc chi tiết liên kết có vết nứt hoặc miệng khuyết góc nhọn mối hàn, bu lông
hoặc đinh tán có những hư hỏng nghiêm trọng như bị kéo dãn, biến dạng, trượt, lỏng
lẻo, bị cắt v.v...;
- Dạng
liên kết không hợp lý, cấu tạo sai nghiêm trọng;
- Ở cấu kiện
chịu kéo do bị gỉ, tiết diện giảm hơn 10% tiết diện ban đầu;
- Độ võng
của cấu kiện dầm, sàn v.v... lớn hơn /250 ( là
nhịp tính toán của dầm hoặc sàn);
- Đỉnh cột
thép bị chuyển dịch trong mặt phẳng lớn hơn h/150, ngoài mặt phẳng lớn
hơn h/500 (h là chiều cao tính toán của cột), hoặc lớn hơn 40 mm;
- Độ võng
của vì kèo lớn hơn /250 ( là
nhịp tính toán của vì kèo) hoặc lớn hơn 40 mm;
- Hệ thống
giằng vì kèo bị dão gây mất ổn định, làm cho vì kèo bị nghiêng quá h/150
(h là chiều cao tính toán của vì kèo).
3.3
Tiêu chí và phương pháp đánh giá mức độ nguy hiểm của các bộ phận và của toàn
nhà
Tiêu chí đánh giá
Đánh giá mức độ nguy hiểm
của các bộ phận nhà (nền móng, kết cấu chịu lực phần thân, kết cấu bao che ) được
qui định theo 4 cấp: a, b, c, d:
- Cấp a:
Không có cấu kiện nguy hiểm;
- Cấp b:
Có cấu kiện nguy hiểm;
- Cấp c:
Nguy hiểm cục bộ;
- Cấp d: Tổng
thể nguy hiểm.
Đánh giá mức độ nguy hiểm
của toàn nhà được qui định theo 4 cấp: A, B, C, D:
- Cấp A:
Khả năng chịu lực của kết cấu có thể thoả mãn yêu cầu sử dụng bình thường, chưa
có nguy hiểm, kết cấu nhà an toàn.
- Cấp B:
Khả năng chịu lực kết cấu cơ bản đáp ứng yêu cầu sử dụng bình thường, cá biệt
có cấu kiện ở trạng thái nguy hiểm, nhưng không ảnh hưởng đến kết cấu chịu lực,
công trình đáp ứng được yêu cầu sử dụng bình thường.
- Cấp C:
Khả năng chịu lực của một bộ phận kết cấu không thể đáp ứng được yêu cầu sử dụng
bình thường, xuất hiện tình trạng nguy hiểm cục bộ.
- Cấp D:
Khả năng chịu lực của kết cấu chịu lực đã không thể đáp ứng được yêu cầu sử dụng
bình thường, nhà xuất hiện tình trạng nguy hiểm tổng thể.
Xác định mức độ nguy hiểm của các bộ phận nhà và
của toàn nhà
Căn cứ vào sự phân cấp
đánh giá nói trên để xác định mức độ nguy hiểm của các bộ phận và của cả nhà,
tiến hành như sau:
Xác định tỉ số phần trăm của
cấu kiện nguy hiểm trong nền móng theo công thức:
rfdm = (nd
/ n)×100% (1)
Trong đó:
rfdm – tỉ số
phần trăm cấu kiện nguy hiểm trong nền móng;
nd –
số cấu kiện nguy hiểm;
n –
tổng số cấu kiện.
Tỉ số phần trăm cấu kiện nguy hiểm trong kết
cấu chịu lực được tính theo công thức:
rsdm = [2,4ndc
+ 2,4ndw + 1,9(ndmb + ndrt)
+ 1,4ndsb + nds] /
/ [ 2,4nc +
2,4nw + 1,9(nmb + nrt) +
1,4nsb + ns]×100%
(2)
Trong đó:
rsdm – tỉ số
phần trăm cấu kiện nguy hiểm trong kết cấu chịu lực;
ndc –
số cột nguy hiểm;
ndw – số đoạn tường
nguy hiểm;
ndmb – số dầm chính
nguy hiểm;
ndrt – số vì kèo
nguy hiểm;
ndsb – số dầm phụ
nguy hiểm;
nds – số bản nguy
hiểm;
nc – số cột;
nw – số đoạn tường;
nmb –
số dầm chính;
nrt –
số vì kèo;
nsb –
số dầm phụ;
ns –
số bản.
Tỉ số phần trăm cấu kiện nguy hiểm trong kết
cấu bao che được tính theo công thức:
resdm = (nd/n)×100% (3)
Trong đó:
resdm – tỉ số
phần trăm cấu kiện nguy hiểm trong kết cấu bao che;
nd –
số cấu kiện nguy hiểm;
n –
tổng số cấu kiện.
Hàm phụ thuộc của các bộ phận nhà cấp a được
tính theo công thức sau:
ma = 1 (r = 0%) (4)
Trong đó:
ma –
hàm phụ thuộc của các bộ phận nhà cấp a;
r – tỉ số phần trăm cấu kiện
nguy hiểm.
Hàm phụ thuộc của
các bộ phận nhà cấp b được tính theo công thức sau:
(5)
Trong đó:
– hàm phụ
thuộc của các bộ phận nhà cấp b;
– tỉ số
phần trăm cấu kiện nguy hiểm.
Hàm phụ thuộc của các bộ phận nhà cấp c được
tính theo công thức sau:
(6)
Trong đó:
– hàm phụ
thuộc của các bộ phận nhà cấp c;
– tỉ số
phần trăm cấu kiện nguy hiểm.
Hàm phụ thuộc của các bộ phận nhà cấp d được
tính như sau:
(7)
Trong đó:
– hàm phụ
thuộc của các bộ phận nhà cấp d;
– tỉ số
phần trăm cấu kiện nguy hiểm.
Hàm phụ thuộc của nhà
cấp A phải được tính theo công thức sau:
mA = max[min(0,3; maf); min (0,6; mas); min (0,1; maes)] (8)
Trong đó:
– hàm phụ
thuộc của nhà cấp A;
– hàm phụ
thuộc của nền móng cấp a;
– hàm phụ
thuộc của kết cấu chịu lực phần thân cấp a;
–
hàm phụ thuộc của kết cấu bao che cấp a.
Hàm phụ thuộc của nhà cấp
B được tính theo công thức sau:
mB = max[min(0,3; mbf); min (0,6; mbs); min (0,1; mbes)] (9)
Trong đó:
– hàm phụ
thuộc của nhà cấp B;
– hàm phụ
thuộc của nền móng cấp b;
– hàm phụ
thuộc của kết cấu chịu lực phần thân cấp b;
– hàm phụ
thuộc của kết cấu bao che cấp b.
Hàm phụ thuộc của
nhà cấp C được tính theo công thức sau:
mC = max[min(0,3; mcf); min (0,6; mcs); min (0,1; mces)] (10)
Trong đó:
– hàm phụ
thuộc của nhà cấp C;
– hàm phụ
thuộc của nền móng cấp c;
– hàm phụ
thuộc của kết cấu chịu lực phần thân cấp c;
– hàm phụ
thuộc của kết cấu bao che cấp c.
Hàm phụ thuộc của nhà cấp D được tính theo công thức
sau:
mD = max[min(0,3; mdf); min (0,6; mds); min (0,1; mdes)] (11)
Trong đó:
– hàm phụ
thuộc của nhà cấp D;
– hàm phụ
thuộc của nền móng cấp d;
– hàm phụ
thuộc của kết cấu chịu lực phần thân cấp d;
– hàm phụ
thuộc của kết cấu bao che cấp d.
Căn cứ vào các trị số của hàm phụ thuộc, cấp
nguy hiểm được đánh giá như sau:
a) Khi = 1, thì nhà nguy
hiểm cấp D (toàn bộ nhà nguy hiểm);
b) Khi = 1, thì nhà nguy
hiểm cấp D (toàn bộ nhà nguy hiểm);
c) Khi max(mA , mB , mC , mD) = mA , thì
kết quả đánh giá tổng hợp là cấp A (nhà không nguy hiểm);
d) Khi max(mA , mB , mC , mD) = mB , thì
kết quả đánh giá tổng hợp là cấp B (nhà có cấu kiện nguy hiểm);
e) Khi max(mA , mB , mC , mD) = mC , thì kết
quả đánh giá tổng hợp là cấp C (nhà có bộ phận nguy hiểm);
f) Khi max(mA , mB , mC , mD) = mD , thì kết quả đánh
giá tổng hợp là cấp D (toàn bộ nhà nguy hiểm).
Kết luận và kiến nghị
Tổng hợp kết
quả khảo sát, kết quả đánh giá phân loại mức độ nguy hiểm của nhà để:
- Kết luận về
mức độ nguy hiểm của bộ phận nhà (a, b, c, d) và của toàn nhà (A, B, C, D);
- Kiến nghị
về biện pháp cần áp dụng: chống đỡ, sửa chữa cấu kiện hoặc bộ phận nhà, tháo
dỡ.
Các ví dụ tính toán xác định mức độ
nguy hiểm của nhà
Ví dụ 1. Xác định mức độ nguy hiểm của nhà khung bê tông cốt thép,
tường xây gạch.
Trên cơ sở số liệu khảo sát dưới đây, xác
định mức độ nguy hiểm của nhà khung bê tông cốt thép có tường xây gạch.
Tổng số móng: 34 Số móng nguy hiểm: 12
Tổng số cột:
180 Số cột nguy hiểm: 36
Tổng số dầm
chính: 60 Số dầm chính nguy hiểm: 12
Tổng số dầm
phụ: 80 Số dầm phụ nguy hiểm: 16
Tổng số đoạn
tường: 80 Số đoạn tường nguy hiểm: 16
Tổng số bản sàn: 50 Số bản sàn nguy hiểm: 10
Tổng số kết
cấu bao che: 80 Số kết cấu bao che nguy hiểm: 20
Xác định tỉ
số phần trăm nguy hiểm trong móng theo công thức:
rfdm = (nd / n)×100% = (12/34)×100% = 35%
Tỷ số phần trăm cấu kiện nguy hiểm trong kết cấu chịu
lực theo công thức:
rsdm = [2,4ndc + 2,4ndw + 1,9(ndmb
+ ndrt) + 1,4ndsb + nds]
/
/
[ 2,4nc + 2,4nw + 1,9(nmb
+ nrt) + 1,4nsb + ns] × 100%
rsdm = (2,4×36+2,4×16+1,9(12+0)
+1,4×16+10)/ /(2,4×180+2,4×80+1,9(60+0)+1,4×80+50) ×
100% = 20%
Tỷ số phần trăm cấu kiện nguy hiểm trong kết cấu bao che theo công
thức:
resdm = (nd /n)
× 100%
resdm = (20/80) × 100% = 25%
Xác định hàm
phụ thuộc ma
của các bộ phận nhà theo cấp a:
ma = 1 (r = 0%)
Cấp a: maf = 0; mas = 0; maes = 0.
Xác định hàm phụ thuộc mb của các bộ phận nhà theo cấp b:
Cấp b: mbf = 0; mbs =
(30-20)/25 = 0,4; mbes =
(30-25)/25 = 0,2
Xác định hàm phụ thuộc của các bộ phận nhà theo cấp c:
Cấp c: mcf
= (100-35)/70 = 0,93; mcs
= (20-5)/25 = 0,6; mces
= (25-5)/25 = 0,8
Xác
định hàm phụ thuộc của các bộ phận nhà theo cấp d:
Cấp d: mdf =
(35-30)/70 = 0,07; mds = 0; mdes = 0.
Hàm phụ thuộc của nhà theo các cấp A, B, C, D được xác
định như sau:
Xác định hàm phụ thuộc của nhà theo cấp A:
mA = max[min(0,3; 0); min(0,6;
0); min(0,1; 0)] = max(0; 0; 0) = 0
Xác định hàm phụ thuộc của nhà theo cấp B:
mB = max[min(0,3; 0); min(0,6;
0,4); min(0,1; 0,2)] = max(0; 0,4; 0,1) = 0,4
Xác định hàm phụ thuộc của nhà theo cấp C:
mC = max[min(0,3; 0,93); min(0,6;
0,6); min(0,1; 0,8)] = max(0,3; 0,6; 0,1) =
= 0,6
Xác định hàm phụ thuộc của nhà theo cấp D:
mD = max[min(0,3; 0,07); min(0,6;
0); min(0,1; 0)] = max(0,07; 0; 0) = 0,07
Đánh giá mức độ nguy hiểm của toàn nhà:
max(mA
, mB
, mC
, mD)
= max(0; 0,4; 0,6; 0,07) = 0,6 = mC
Kết luận: Nhà nguy hiểm cấp C (có bộ
phận nguy hiểm).
Ví dụ 2.
Theo số liệu khảo sát của nhà ở lắp ghép tấm lớn dưới đây, xác định mức độ nguy
hiểm của nhà.
n – tổng số móng n
= 46;
nd – số móng nguy hiểm: nd
= 15;
nw – tổng số tấm tường: nw
= 800;
ndw – số tấm tường nguy hiểm:
ndw = 560;
n – tổng số cấu kiện bao che: n
= 300;
nd – số cấu kiện bao che nguy
hiểm: nd = 125;
Xác định tỷ số phần trăm cấu kiện nguy hiểm trong móng:
rfdm = (nd / n)×100% = (15/46)×100% = 33%
Xác định tỷ số phần trăm cấu kiện nguy hiểm trong kết cấu chịu lực:
rsdm = [2,4ndc + 2,4ndw + 1,9(ndmb
+ ndrt) + 1,4ndsb + nds]
/
/ [ 2,4nc + 2,4nw + 1,9(nmb
+ nrt) + 1,4nsb + ns]×100% =
= (2,4×0+2,4×560+1,9× (0+0) +1,4×0+0)/
/
(2,4×0+2,4×800+1,9×(0+0)+1,4×0+0)×100%
= 70%
Xác định tỷ
số phần trăm cấu kiện nguy hiểm trong kết cấu bao che:
resdm = (nd /n)×100% = (125/300)×100% = 42%
Xác định hàm phụ thuộc ma của các bộ phận nhà theo cấp a:
ma = 1 (r = 0%)
rfdm = 33% maf = 0;
rsdm = 70% mas = 0;
resdm = 42% maes = 0.
Xác định hàm
phụ thuộc mb
của các bộ phận nhà theo cấp b:
mbf = 0 (r = 33%); mbs= 0 (r = 70%); mbes = 0 (r = 42%).
Xác định hàm
phụ thuộc của
các bộ phận nhà theo cấp c:
mcf =
(100-33)/70 = 0,96 (r
= 33%);
mcs = (100-70)/70 =
0,43 (r
= 70%);
mces = (100-42)/70 =
0,83 (r
= 42%).
Xác định hàm
phụ thuộc của
các bộ phận nhà theo cấp d.
mdf =
(33-30)/70 = 0,04 (r =
33%);
mds =
(70-30)/70 = 0,57 (r =
70%);
mdes = (42-30)/70 =
0,17 (r =
42%).
Xác định hàm
phụ thuộc của
nhà theo cấp A:
mA = max[min(0,3; maf); min (0,6; mas); min (0,1; maes)]
= max[min(0,3; 0); min (0,6; 0); min (0,1; 0)]
= max(0; 0; 0) = 0
Xác định hàm phụ thuộc của nhà theo cấp B:
mB = max[min(0,3; mbf); min (0,6; mbs); min (0,1; mbes)]
= max[min(0,3; 0); min
(0,6; 0); min (0,1; 0)]
= max(0; 0; 0) = 0
Xác định hàm phụ thuộc của nhà theo cấp C;
mC = max[min(0,3; mcf); min (0,6; mcs); min (0,1; mces)]
= max[min(0,3; 0,96);
min (0,6; 0,43); min (0,1; 0,83)]
= max(0,3; 0,43; 0,1) =
0,43
Xác định hàm phụ thuộc của nhà theo cấp D:
mD = max[min(0,3; mdf); min (0,6; mds); min (0,1; mdes)]
= max[min(0,3; 0,04);
min (0,6; 0,57); min (0,1; 0,17)]
= max(0,04; 0,57; 0,1)
= 0,57
Đánh giá cấp nguy hiểm của nhà:
max(mA , mB , mC , mD) = max(0; 0; 0,43;
0,57) = 0,57 =mD
Kết luận: Nhà
nguy hiểm cấp D (nguy hiểm tổng thể).
Ví dụ 3.
Xác định mức độ nguy hiểm của nhà xây gạch với các số liệu sau đây:
n – tổng số móng n
= 46;
nd – số móng nguy hiểm: nd
= 12;
nw – tổng số tấm tường: nw
= 132;
ndw – số tấm tường nguy hiểm:
ndw = 28;
nc – tổng số cột: nc
= 48
ndc – số cột nguy hiểm: ndc
= 8
ns – tổng số bản sàn: ns
= 48
nds – số bản sàn nguy hiểm: nds
= 5
Xác định tỷ số phần trăm cấu kiện nguy hiểm trong móng:
rfdm = (nd / n)×100% = (12/46)×100% = 26%
Xác định tỷ số phần trăm cấu kiện nguy hiểm trong kết cấu chịu lực:
rsdm = [2,4ndc + 2,4ndw + 1,9(ndmb
+ ndrt) + 1,4ndsb + nds]
/
/ [ 2,4nc + 2,4nw + 1,9(nmb
+ nrt) + 1,4nsb + ns]×100% =
= (2,4×8+2,4×28+1,9×(0+0) +1,4×0+5)/
/
(2,4×48+2,4×132+1,9×(0+0)+1,4×0+48)×100%
= 19%
Xác định hàm
phụ thuộc ma
của các bộ phận nhà theo cấp a:
ma = 1 (r = 0%)
rfdm = 26% maf = 0;
rsdm = 19% mas = 0.
Xác định hàm phụ thuộc mb của các bộ phận nhà theo cấp b:
mbf = (30 – 26) / 25 = 0,16 (r = 26%);
mbs = (30 – 19) / 25 = 0,44 (r = 19%).
Xác định hàm phụ thuộc của các bộ phận nhà theo cấp c:
mcf = (26 - 5) / 25 = 0,84 (r = 26%);
mcs = (19 - 5) / 25 = 0,56 (r = 19%).
Xác định hàm phụ thuộc của các bộ phận nhà theo cấp d:
mdf = 0 (r
= 26%);
mds = 0 (r
= 19%).
Xác định hàm
phụ thuộc của
nhà theo cấp A:
mA = max[min(0,3; maf); min (0,6; mas)]
= max[min(0,3; 0); min (0,6; 0)]
= max(0; 0) = 0
Xác định hàm phụ thuộc của nhà theo cấp B:
mB = max[min(0,3; mbf); min (0,6; mbs)]
= max[min(0,3; 0,16);
min (0,6; 0,44)]
= max(0,16; 0,44) =
0,44
Xác định hàm phụ thuộc của nhà theo cấp C:
mC = max[min(0,3; mcf); min (0,6; mcs)]
= max[min(0,3; 0,84);
min (0,6; 0,56)]
= max(0,3; 0,56) = 0,56
Xác định hàm phụ thuộc của nhà theo cấp D:
mD = max[min(0,3; mdf); min (0,6; mds)]
= max[min(0,3; 0); min
(0,6; 0)]
= max(0; 0) = 0
Đánh giá cấp nguy hiểm của nhà:
max(mA
, mB
, mC
, mD)
= max(0; 0,44; 0,56; 0) = 0,56 =mC
Kết luận: Nhà nguy hiểm cấp C (có bộ phận nguy hiểm).