THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
316/QĐ-TTg
|
Hà
Nội, ngày 01 tháng 03 năm 2011
|
QUYẾT ĐỊNH
PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN “XÂY DỰNG VÀ RÀ SOÁT CÁC CHẾ ĐỘ
CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁC HOẠT ĐỘNG VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT VÀ VĂN NGHỆ SỸ; CHẾ ĐỘ TÀI
TRỢ, ĐẶT HÀNG ĐỐI VỚI CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT; CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH
SÁNG TÁC TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT” THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ
23-NQ/TW NGÀY 16 THÁNG 6 NĂM 2008 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ TIẾP TỤC XÂY DỰNG VÀ PHÁT
TRIỂN VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT TRONG THỜI KỲ MỚI
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức
Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Nghị định số 185/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 12 năm 2007 của Chính phủ quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch;
Căn cứ Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm 2008 của Bộ Chính trị về tiếp
tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt Đề án “Xây dựng và rà soát các chế độ chính sách đối với các
hoạt động văn học, nghệ thuật và văn nghệ sỹ; chế độ tài trợ, đặt hàng đối với
các tác phẩm văn học, nghệ thuật; chính sách khuyến khích sáng tác trong các hoạt
động văn học, nghệ thuật” với những nội dung sau đây:
1.
Mục tiêu:
a)
Tạo mọi điều kiện thuận lợi để đội ngũ văn nghệ sĩ sáng tạo ra nhiều tác phẩm
có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật; phát hiện và khẳng định những giá trị
mới làm phong phú và đa dạng đời sống văn hóa, văn nghệ; góp phần xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
b)
Từng bước hoàn thiện khung pháp lý đối với việc tài trợ, đặt hàng và khuyến
khích sáng tác trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật.
c)
Xây dựng chính sách đãi ngộ phù hợp, bình đẳng đối với văn nghệ sĩ trong các cơ
sở công lập và ngoài công lập, bảo đảm cho văn nghệ sĩ tạo ra các tác phẩm văn
học nghệ thuật có chất lượng; thực hiện chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa của Đảng
và Nhà nước.
d)
Có chính sách đào tạo, bồi dưỡng và đãi ngộ đặc biệt với nhân tài của đất nước
trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật.
đ)
Tôn trọng, phát huy dân chủ, tự do tư tưởng trong hoạt động sáng tạo văn học
nghệ thuật, nghiên cứu, sưu tầm để tạo ra các sản phẩm văn học, công trình nghệ
thuật, gắn liền với phát huy trách nhiệm công dân của trí thức, văn nghệ sĩ.
e)
Củng cố, đẩy mạnh hoạt động của các Hội văn học, nghệ thuật ở Trung ương và địa
phương nhằm nâng cao khả năng tập hợp, phát huy tiềm năng sáng tạo và phát triển
đội ngũ văn nghệ sĩ của Hội.
2.
Giải pháp:
Tiếp
tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các chính sách liên quan trực tiếp hoặc gián
tiếp đến tài trợ, đặt hàng sáng tác các tác phẩm văn học, nghệ thuật, cụ thể
như sau:
a)
Tổ chức hợp lý các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật.
b)
Tăng cường công tác quản lý kinh phí đầu tư, tài trợ, đặt hàng.
c)
Sử dụng hiệu quả nguồn ngân sách nhà nước, đẩy mạnh việc xã hội hóa để khuyến
khích sáng tác, hỗ trợ và quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật.
d)
Đổi mới công tác đào tạo, đặc biệt là tài năng trẻ.
đ)
Tổ chức các cuộc thi sáng tác, hội thảo khoa học, biểu diễn, trưng bày các tác
phẩm văn học, nghệ thuật, trao giải thưởng hàng năm cho các tác phẩm văn học,
nghệ thuật có chất lượng cao; quảng bá hợp tác quốc tế, giao lưu và hội nhập với
văn học, nghệ thuật thế giới.
e)
Nâng cao hiệu quả, vai trò của các Hội văn học, nghệ thuật trong việc tạo điều
kiện, khuyến khích sáng tác, đẩy mạnh lý luận phê bình, quảng bá các tác phẩm của
nghệ sĩ ở trong và ngoài nước.
Điều 2. Kinh phí thực hiện Đề án từ nguồn ngân sách nhà nước, huy động các nguồn
lực xã hội, sự tham gia, đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong nước,
quốc tế và các nguồn vốn tài trợ hợp pháp khác. Ngân sách nhà nước được cấp
hàng năm theo quy định hiện hành đảm bảo việc thực hiện Đề án với các nội dung
đã được phê duyệt tại Quyết định này.
Điều 3. Tổ chức thực hiện
Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thông tin
và Truyền thông, Bộ Nội vụ, Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật
Việt Nam và các cơ quan có liên quan triển khai xây dựng các văn bản điều chỉnh
chế độ tài trợ, đặt hàng đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật, chính sách
khuyến khích sáng tác đối với văn nghệ sỹ trong các hoạt động văn học, nghệ thuật.
Điều 4. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành.
Điều 5. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc
Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có
liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
Nơi nhận:
- Ban Bí thư Trung ương Đảng;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP;
- UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- Văn phòng Trung ương Đảng;
- Ban Tuyên giáo Trung ương;
- UBTQLH các Hội VHNT Việt Nam;
- VPCP: BTCN, các PCN, Cổng TTĐT, các Vụ: TH, KTTH, ĐP, Công báo;
- Lưu: Văn thư, KGVX (5b).
|
KT.
THỦ TƯỚNG
PHÓ THỦ TƯỚNG
Nguyễn Thiện Nhân
|
ĐỀ ÁN
XÂY DỰNG VÀ RÀ SOÁT CÁC CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH ĐỐI
VỚI CÁC HOẠT ĐỘNG VĂN HỌC NGHỆ THUẬT VÀ VĂN NGHỆ SỸ. CHẾ ĐỘ TÀI TRỢ, ĐẶT HÀNG ĐỐI
VỚI CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC NGHỆ THUẬT. CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH SÁNG TÁC TRONG CÁC
HOẠT ĐỘNG VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
(Thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16 tháng 6
năm 2008 của Bộ Chính trị “Về việc tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ
thuật trong thời kỳ mới”)
Phần thứ nhất.
BỐI CẢNH
Những
năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với văn hóa, văn nghệ, cùng những
thành tựu của công cuộc đổi mới và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước là cơ sở quan trọng thúc đẩy phát triển văn học, nghệ thuật (VHNT) trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, VHNT và đội ngũ văn nghệ sĩ đã
không ngừng phát triển.
Trong
bối cảnh hiện nay, xu hướng các quốc gia ngày càng đề cao tính đặc thù, bản sắc
văn hóa dân tộc, đồng thời chọn lọc tiếp thu các giá trị tinh hoa văn hóa của
nhân loại và tích cực hội nhập quốc tế thì chủ trương đẩy mạnh ngoại giao văn
hóa, coi văn hóa là một trong những trụ cột để thúc đẩy hợp tác quốc tế ngày
càng được coi trọng.
Hơn
50 năm sau Đề cương văn hóa Việt Nam, ngày 16 tháng 7 năm 1998, Hội nghị lần thứ
năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII đã ra Nghị quyết về “Xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” trong đó chỉ rõ
“văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”. Trong Nghị quyết này, phát triển sự
nghiệp VHNT được xác định là một trong 10 nhiệm vụ cụ thể để xây dựng và phát
triển nền văn hóa nước ta.
Ngày
16 tháng 6 năm 2008, Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) “về tiếp
tục xây dựng và phát triển VHNT trong thời kỳ mới” ra đời đánh dấu một bước ngoặt
lớn đối với VHNT nước nhà. VHNT, với tư cách là một bộ phận quan trọng và tinh
tế của văn hóa được khẳng định là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp
phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội. Trong bối cảnh đất nước đang tiếp
tục đổi mới toàn diện hướng tới mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại đến năm 2020, VHNT cũng phải phát triển tương xứng với tầm vóc của dân
tộc. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, những biến đổi trong đời sống kinh tế,
chính trị, xã hội đang là những tiền đề, đồng thời là những thách thức cho sự
phát triển của VHNT Việt Nam. Đánh giá tình hình VHNT thời gian qua, Nghị quyết
23-NQ/TW chỉ rõ “VHNT Việt Nam có bước phát triển mới, có những biến đổi sâu sắc,
những đặc điểm mới, đạt được nhiều thành tựu nhưng cũng còn nhiều hạn chế, yếu
kém đan xen nhau”. Tình hình đó đặt ra những vấn đề cần đổi mới, hoàn thiện hệ
thống cơ chế, chính sách cho VHNT trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường, mở
cửa, hội nhập quốc tế, nhằm mục tiêu chung là khuyến khích, huy động mọi nguồn
lực xã hội cho sự phát triển VHNT, từ khâu sáng tạo, lý luận phê bình, truyền
bá đến tiêu thụ văn hóa. Trong đó, việc rà soát, hoàn thiện, xây dựng hệ thống
chế độ chính sách đối với các hoạt động VHNT và văn nghệ sĩ, đầu tư đặt hàng,
tài trợ, khuyến khích văn nghệ sĩ sáng tác VHNT, thành lập quỹ sáng tác được
coi là khâu đột phá, tạo nên những chuyển biến mang tính đồng bộ, để VHNT phát
triển tương xứng với vai trò của mình trong sự nghiệp phát triển văn hóa của thời
kỳ mới.
Sự cần thiết xây dựng Đề án:
Thực
hiện sự chỉ đạo và phân công của Ban Bí thư, Bán cán sự Đảng Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch chủ trì phối hợp với các Ban cán sự Đảng Bộ, ban, ngành liên
quan lập đề án “Xây dựng và rà soát các chế độ chính sách đối với các hoạt động
VHNT và văn nghệ sĩ. Chế độ tài trợ, đặt hàng đối với các tác phẩm VHNT. Chính
sách khuyến khích sáng tác trong các hoạt động VHNT” trình Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt.
Phạm vi nghiên cứu của Đề án:
Xây
dựng và rà soát chế độ chính sách đặt hàng, tài trợ và khuyến khích sáng tác
trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, bao gồm: văn học, nghệ thuật biểu diễn, điện
ảnh, mỹ thuật và nhiếp ảnh.
Đối tượng nghiên cứu của đề án:
Mọi
tổ chức, cá nhân thuộc tất cả các thành phần kinh tế có hoạt động liên quan tới
lĩnh vực văn học, nghệ thuật, bao gồm: văn học, nghệ thuật biểu diễn, điện ảnh,
mỹ thuật và nhiếp ảnh.
Phần thứ hai.
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG
VỀ CHẾ ĐỘ, CHÍNH SÁCH TÀI TRỢ, ĐẶT HÀNG, KHUYẾN KHÍCH SÁNG TÁC VÀ CÁC QUỸ HỖ TRỢ
SÁNG TẠO TRONG LĨNH VỰC VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
I. CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG VHNT HIỆN NAY:
Được
sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, trong thời gian qua nhiều chính sách, thể chế
pháp luật được ban hành nhằm tạo điều kiện hỗ trợ cho phát triển VHNT, khuyến
khích văn nghệ sĩ sáng tác trong lĩnh vực VHNT. Một số chiến lược, quy hoạch định
hướng của ngành đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt làm cơ sở định hướng cho
VHNT phát triển, như Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 6 tháng 5 năm 2009 phê duyệt
Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2010; Quyết định số 45/2008/QĐ-TTg ngày
28 tháng 3 năm 2008 phê duyệt Quy hoạch phát triển nghệ thuật biểu diễn Việt
Nam đến năm 2010. Bên cạnh đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các nghị
quyết, chỉ thị … chỉ đạo việc thực hiện nhằm tạo điều kiện phát triển VHNT như:
Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ về đẩy mạnh công tác
xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao …
Nhằm
điều chỉnh các hoạt động trên, nhiều chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về
tài trợ, đặt hàng khuyến khích sáng tác trong lĩnh vực VHNT đã được ban hành.
Trong đó, bên cạnh các chính sách chung điều chỉnh nhiều ngành, lĩnh vực đã có
các chính sách điều chỉnh trực tiếp, chủ yếu đến lĩnh vực tài trợ, đặt hàng
khuyến khích sáng tác trong lĩnh vực VHNT bao gồm 10 luật; 16 nghị định; 10 quyết
định; 02 chỉ thị, 11 thông tư (có danh mục các văn bản quy phạm pháp luật đính
kèm).
Trong
thời gian qua, các văn bản trên đã góp phần quan trọng và có tác động tích cực
đối với phát triển VHNT, khuyến khích văn nghệ sĩ sáng tác, lý luận phê bình và
biểu diễn. Đảng, Nhà nước luôn coi văn nghệ sĩ là lực lượng xung kích trên lĩnh
vực VHNT, các chính sách khuyến khích đối với văn nghệ sĩ đã được bổ sung, cập
nhật. Nhiều chính sách đã đi vào cuộc sống là nguồn động viên đối với văn nghệ
sĩ. Bên cạnh các chính sách trên, nhiều giải pháp đồng bộ đã thực hiện tạo điều
kiện cho VHNT phát triển. Hàng năm, ngân sách nhà nước dành cho phát triển văn
hóa đều tăng, trong đó có văn học nghệ thuật. Chương trình mục tiêu Quốc gia về
văn hóa từ năm 2001 đến nay với mức hỗ trợ khoảng 400 đến 500 tỷ đồng mỗi năm
đã góp phần tích cực để bảo tồn, phát huy các giá trị VHNT truyền thống, từng
bước hiện đại hóa và hội nhập ngành điện ảnh. Các chính sách và giải pháp trên
đã tạo động lực xã hội hóa các hoạt động VHNT theo định hướng của Đảng và Nhà
nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh xã hội ngày càng phát triển và hội nhập, VHNT
có tính cạnh tranh gay gắt, những tác phẩm VHNT ra đời cần phải được đầu tư cả
vật chất và tinh thần (đội ngũ và cơ sở hoạt động) để đáp ứng nhu cầu thụ hưởng
các giá trị VHNT của nhân dân ngày càng cao. Do vậy, cần có một chính sách
chung về tài trợ, đặt hàng và khuyến khích sáng tác các tác phẩm VHNT bên cạnh việc
bổ sung, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành cho phù hợp với yêu cầu
của tình hình thực tế hiện nay.
II. CHÍNH SÁCH TÀI TRỢ, ĐẶT HÀNG CÁC TÁC PHẨM VHNT:
1. Thực trạng:
Hiện
nay, chính sách tài trợ, đặt hàng sáng tác các tác phẩm VHNT của Nhà nước được
quy định đối với một số lĩnh vực chuyên ngành như xuất bản (bao gồm tài trợ, đặt
hàng các tác phẩm văn học), điện ảnh (bao gồm các quy định về sản xuất và cung ứng
các sản phẩm, dịch vụ công ích và thông qua chính sách hỗ trợ sáng tạo cho các
Hội VHNT chuyên ngành trung ương và địa phương theo Quyết định số 926/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ).
Trong
lĩnh vực xuất bản, chính sách tài trợ, đặt hàng sáng tác các xuất bản phẩm
(trong đó có tác phẩm văn học) được quy định tại Luật Xuất bản số 30/2004/QH11,
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất bản số 12/2008/QH12, Nghị định
số 111/2005/NĐ-CP và Nghị định số 11/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết
hướng dẫn thi hành Luật Xuất bản như sau: “Nhà nước có chính sách đặt hàng đối
với xuất bản phẩm về lý luận, chính trị; xuất bản phẩm phục vụ thiếu niên, nhi
đồng, đồng bào dân tộc thiểu số, người khiếm thị; xuất bản phẩm cần phổ biến rộng
rãi nhằm phục vụ nhiệm vụ chính trị, xã hội trọng yếu và thông tin đối ngoại;
xuất bản phẩn phục vụ nhiệm vụ thông tin đối ngoại; xuất bản phẩm phục vụ đồng
bào miền núi, hải đảo”; “Nhà nước mua bản thảo đối với những tác phẩm có giá trị
nhưng thời điểm xuất bản chưa thích hợp hoặc đối tượng sử dụng hạn chế; hỗ trợ
mua bản quyền đối với tác phẩm trong nước và nước ngoài có giá trị phục vụ phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội”. “Hằng năm, Bộ Thông tin và Truyền thông duyệt
danh mục xuất bản phẩm thuộc diện đặt hàng, mua bản thảo và hỗ trợ mua bản quyền
đối với nhà xuất bản trung ương; Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương duyệt danh mục xuất bản phẩm thuộc diện đặt hàng, mua bản thảo và hỗ
trợ mua bản quyền đối với nhà xuất bản địa phương”.
Trong
lĩnh vực điện ảnh, chính sách tài trợ, đặt hàng tác phẩm điện ảnh được
quy định tại Luật Điện ảnh số 62/2006/QH11, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Điện ảnh số 31/2009/QH12 và Nghị định số 96/2007/NĐ-CP của Chính phủ hướng
dẫn thi hành Luật Điện ảnh số 62/2006/QH11 như sau: “Nhà nước đặt hàng sản xuất
phim truyện về đề tài thiếu nhi, truyền thống lịch sử, dân tộc thiểu số; phim
tài liệu, phim khoa học, phim hoạt hình”. “Đối với phim sử dụng ngân sách nhà
nước, chủ đầu tư dự án sản xuất phim phải thành lập Hội đồng thẩm định kịch bản;
được quyết định hình thức đấu thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu để lựa
chọn dự án sản xuất phim, bảo đảm chất lượng tác phẩm và hiệu quả kinh tế - xã
hội.
Ngoài
hai lĩnh vực trên, các lĩnh vực VHNT chuyên ngành khác hiện chưa có quy định cụ
thể về chính sách tài trợ, đặt hàng của Nhà nước. Hàng năm, các cơ quan quản lý
nhà nước chuyên ngành đầu tư thực hiện các tác phẩm công trình VHNT ở các
chuyên ngành này thông qua hoạt động sự nghiệp thường xuyên. Ví dụ, hàng năm, Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch giao chỉ tiêu kế hoạch và kinh phí cho các nhà hát
Trung ương để xây dựng vở diễn mới, tổ chức biểu diễn phục vụ công chúng có bán
vé hoặc dưới dạng hợp đồng có thu, giao cho các Trung tâm tổ chức các triển lãm
mỹ thuật, nhiếp ảnh … Ở địa phương hoạt động cũng tương tự như vậy.
Bên
cạnh các quy định theo lĩnh vực chuyên ngành, chính sách tài trợ, đặt hàng của
Nhà nước còn thể hiện ở các văn bản quy định về sản xuất, cung ứng các sản phẩm,
dịch vụ công ích như Nghị định số 31/2005/NĐ-CP ngày 11/3/2005 của Chính phủ
quy định về sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, Quyết định số
256/2006/QĐ-TTg ngày 9/11/2006 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế đấu thầu,
đặt hàng, giao kế hoạch thực hiện sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công
ích, Quyết định số 39/2008/QĐ-TTg ngày 14/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ ban
hành Quy chế đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công
sử dụng Ngân sách Nhà nước. Các văn bản quy định về tiêu chí, danh mục các sản
phẩm, dịch vụ sử dụng ngân sách nhà nước phải được sản xuất và cung ứng theo
hình thức đấu thầu, đặt hàng hoặc giao kế hoạch. Nghị định số 31/2005/NĐ-CP quy
định «xuất bản sách giáo khoa, sách và tạp chí phục vụ giảng dạy và học tập; xuất
bản bản đồ, sách, báo chính trị; xuất bản tạp chí, tranh ảnh, sách báo phục vụ
đồng bào dân tộc thiểu số; sản xuất phim thời sự, tài liệu, khoa học, phim cho
thiếu nhi» được thực hiện theo phương thức đặt hàng hoặc giao kế hoạch, «sản xuất
phim truyện do Nhà nước đặt hàng hoặc tài trợ» được thực hiện theo phương thức
đấu thầu hoặc đặt hàng. Quyết định số 39/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
quy định «sáng tác, dựng vở và biểu diễn các chương trình nghệ thuật phục vụ
nhiệm vụ của Nhà nước; sáng tác biên soạn sách, báo tạp chí và các ấn phẩm văn
hóa phục vụ nhiệm vụ của Nhà nước … » thuộc danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử
dụng ngân sách nhà nước thực hiện đấu thầu, đặt hàng.
Chính
sách tài trợ, đặt hàng sáng tác các tác phẩm VHNT cũng được thể hiện ở chính
sách hỗ trợ sáng tạo của Nhà nước đối với các Hội VHNT. Ngày 6 tháng 7
năm 2006, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 926/QĐ-TTg về việc “phê duyệt đề
án tiếp tục hỗ trợ hoạt động sáng tạo tác phẩm, công trình VHNT, báo chí ở
Trung ương và các Hội VHNT địa phương; hỗ trợ tác phẩm báo chí chất lượng cao ở
địa phương giai đoạn 2006-2010”. Hỗ trợ hoạt động sáng tạo VHNT, báo chí theo
cơ chế Nhà nước đặt hàng thông qua các Hội VHNT chuyên ngành trung ương; hỗ trợ
hoạt động sáng tạo VHNT cho các địa phương thông qua các Hội VHNT địa phương và
Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam; hỗ trợ hoạt động sáng tạo tác
phẩm báo chí chất lượng cao ở địa phương thông qua các Hội Nhà báo ở địa
phương. Ngân sách Nhà nước bố trí ổn định kinh phí 210 tỷ đồng trong giai đoạn
2006-2010 để các Hội VHNT từ trung ương đến địa phương thực hiện hỗ trợ sáng tạo
cho các tác giả sáng tác tác phẩm VHNT và báo chí những mục tiêu cụ thể như
sau:
-
Hỗ trợ các hoạt động sáng tạo trong các lĩnh vực văn học, mỹ thuật, âm nhạc,
sân khấu, điện ảnh, kiến trúc, nhiếp ảnh, múa, văn nghệ dân gian, văn nghệ các
dân tộc thiểu số, báo chí ở Trung ương và các Hội VHNT địa phương cho các đề
tài phản ánh:
+
Về lịch sử, về các thời kỳ kháng chiến cứu nước, truyền thống văn hóa dân tộc.
+
Công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ đất nước, những nhân tố tích cực, những
con người tiêu biểu trong xã hội, của thời đại.
+
Thiếu niên, nhi đồng, dân tộc thiểu số.
-
Hỗ trợ sáng tạo để có những tác phẩm công trình có chất lượng cao; hỗ trợ tác
phẩm; công trình có chất lượng cao nhưng chưa được đầu tư.
-
Hỗ trợ tác phẩm báo chí chất lượng cao ở địa phương tập trung vào các đề tài lớn.
Kinh
phí hỗ trợ được chia theo tỷ lệ cho các nhóm việc:
+
Hỗ trợ cho tác giả, nhóm tác giả chiếm từ 20% đến 30%
+
Mở trại sáng tác, hội nghị tập huấn, thâm nhập thực tế từ 25% đến 30%
+
Công bố tác phẩm từ 20% đến 25%
+
Chi tổ chức thẩm định khoảng 10%
Các
Nội dung hỗ trợ trong 5 năm (2006-2010):
STT
|
Nội
dung hỗ trợ
|
Số
lượng
|
1
|
Tổ chức Trại
sáng tác, nghiên cứu, sưu tầm VHNT
|
1.660
|
2
|
Tổ chức lớp tập
huấn
|
1.080
|
3
|
Tổ chức hội thảo
|
1.240
|
4
|
Lớp bồi dưỡng
nâng cao nghiệp vụ chuyên môn sáng tác, nghiên cứu, sưu tầm VHNT
|
1.120
|
5
|
Hỗ trợ công bố
tác phẩm
|
4.670
|
6
|
Tổ chức triển
lãm (mỹ thuật, nhiếp ảnh)
|
1.540
|
7
|
Số đầu sách xuất
bản
|
4.898
|
8
|
Các công trình
nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn
|
4.080
|
9
|
Số đoàn và tác
giả đi thâm nhập cuộc sống sáng tác
|
1.216
đoàn/14.660 người
|
10
|
Tác giả, nhóm
tác giả được hỗ trợ
|
12.860
|
2. Những kết quả đạt được:
2.1. Chính sách tài trợ, đặt hàng của Đảng và Nhà nước đã kích thích sự
sáng tạo của văn nghệ sĩ, neo giữ và quy tụ các văn nghệ sĩ vào mục tiêu sáng tạo
chung, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, góp phần vào công cuộc
đổi mới của Đảng và Nhà nước.
Chính
sách tài trợ, đặt hàng các tác phẩm VHNT đã góp phần bảo tồn những giá trị VHNT
của Việt Nam qua các thời kỳ từ đấu tranh giải phóng dân tộc đến giai đoạn hòa
bình độc lập và phát triển đất nước …. Những cuốn sách, những bộ phim … được
Nhà nước tài trợ, đặt hàng là kho tài sản và tài liệu vô giá của quốc gia để lại
cho các thế hệ mai sau, giúp họ hiểu hơn về lịch sử phát triển dân tộc. Đồng thời,
chính sách tài trợ, đặt hàng và hỗ trợ sáng tạo các tác phẩm VHNT đã góp phần
khuyến khích văn nghệ sĩ tạo ra những tác phẩm VHNT chất lượng cao, quy tụ lực
lượng văn nghệ sĩ vào mục tiêu sáng tạo để phục vụ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, từ
đó góp phần vào công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước. Việc Nhà nước tài trợ
cho hoạt động sáng tạo của các văn nghệ sĩ đã tạo điều kiện cho các Hội VHNT Việt
Nam hoạt động đúng hướng, đúng chức năng khuyến khích văn nghệ sĩ trong cả nước
có nhiều tác phẩm VHNT phục vụ nhân dân trong cơ chế thị trường, góp phần nâng
cao đời sống tinh thần trong nhân dân, góp phần ổn định xã hội và thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
2.2. Các tác phẩm VHNT do Nhà nước tài trợ, đặt hàng là những tác phẩm
đạt chất lượng tư tưởng nghệ thuật tốt, được tạo điều kiện phổ biến tới mọi tầng
lớp nhân dân để phát huy vai trò định hướng nhận thức, giáo dục thẩm mỹ, là
phương tiện hữu hiệu để tuyên truyền chủ trương đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước, là cầu nối của hợp tác kinh tế và hữu nghị giữa các dân tộc.
Các
tác phẩm VHNT Nhà nước tài trợ, đặt hàng được đầu tư công phu, có chất lượng tư
tưởng nghệ thuật tốt, đã có những ảnh hưởng nhất định trong việc định hướng nhận
thức, giáo dục đối với công chúng. Vì vậy, tài trợ, đặt hàng tác phẩm VHNT để
phục vụ công tác quản lý xã hội của Nhà nước là cần thiết và đúng đắn.
Trong
thời gian qua trên lĩnh vực văn học, thông qua chính sách đặt hàng xuất bản phẩm
và hỗ trợ sáng tạo các tác phẩm VHNT, nhiều bộ sách có giá trị lớn của nền văn
học Việt Nam đã được thực hiện như: Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Tổng tập ngàn
năm văn hiến Thăng Long …. Nhiều tác phẩm được Giải thưởng Nhà nước đợt 1 và đợt
2, được nhận giải thưởng hàng năm của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT
Việt Nam, của Hội Nhà văn Việt Nam. Trong 4 năm trở lại đây, đã có hàng trăm
tác phẩm gồm tiểu thuyết, tập truyện ngắn, tập thơ và trường ca, lý luận phê
bình được in ấn có chất lượng tạo nên một sinh khí mới cho các hoạt động sáng tạo.
Các nhà văn ở các vùng sâu, vùng xa, nhà văn dân tộc thiểu số, các nhà văn gặp
hoàn cảnh khó khăn về kinh tế được đầu tư kinh phí để đi thực tế sáng tác và
hoàn thành tác phẩm.
Trong
lĩnh vực điện ảnh, các bộ phim truyện nhựa do Nhà nước đặt hàng trong thời gian
gần đây như: bộ phim “Ký ức Điện Biên” (năm 2004 – đạo diễn Đỗ Minh Tuấn),
“Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông” (năm 2002 – đạo diễn Khắc Lợi), “Đừng đốt” (năm
2008 – đạo diễn NSND Đặng Nhật Minh) có đề tài chính về giai đoạn chiến tranh,
cách mạng. Thông qua những bộ phim này, công chúng được hiểu thêm cuộc đời hoạt
động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, về cuộc chiến tranh cách mạng hào hùng của dân tộc.
Những phim Nhà nước tài trợ hàng năm ở các thể loại phim truyện, phim tài liệu
và khoa học, phim hoạt hình đều là những tác phẩm có chất lượng nghệ thuật tốt,
là lực lượng chính tham gia các giải thưởng điện ảnh trong nước và quốc tế với
những đề tài chủ yếu về công cuộc đổi mới xây dựng đất nước, dân tộc các vùng
miền và thiếu nhi.
Thông
qua chính sách hỗ trợ sáng tạo các tác phẩm VHNT theo Quyết định số 926/QĐ-TTg,
nhiều tác phẩm VHNT đã ra đời phản ánh sinh động cuộc sống con người trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Các tác phẩm VHNT cũng phát huy vai trò là
cầu nối hữu nghị giữa Việt Nam và các nước trên thế giới thông qua các cuộc triển
lãm quốc tế, các hoạt động giao lưu văn hóa quốc tế …. Trong điều kiện Việt Nam
mở rộng quan hệ hợp tác song phương và gia nhập các tổ chức khu vực và quốc tế
như ASEAN, ASEM, APEC, WTO …, việc sử dụng các tác phẩm VHNT mang đậm bản sắc
văn hóa Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển các mối quan hệ
quốc tế.
2.3. Chế độ chính sách đối với VHNT đã xây dựng được một đội ngũ văn
nghệ sĩ giữ gìn được bản sắc truyền thống và đội ngũ văn nghệ sĩ dân tộc ít người
Việc
Nhà nước đầu tư kinh phí cho hoạt động sáng tạo, nghiên cứu, sưu tầm tác phẩm,
công trình VHNT trên các lĩnh vực, đặc biệt chú trọng tới VHNT truyền thống,
dân tộc ít người trong thời gian qua đã thực sự tạo ra luồng sinh khí mới cho
giới VHNT cả nước. Nhiều tác giả trên lĩnh vực VHNT truyền thống, dân tộc ít
người được đầu tư đã thực hiện được những tác phẩm theo hoài bão và sở trường của
mình. Về nội dung, các tác phẩm được đầu tư đã đi vào các đề tài cách mạng,
kháng chiến, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới. Sáng tác cho thiếu nhi đã có
nhiều khởi sắc. Về thể loại, nhờ có kinh phí đầu tư đã giúp được một phần các
loại hình đang gặp khó khăn như tiểu thuyết, phim hoạt hình cho thiếu nhi, các
bộ môn sân khấu cổ truyền, nhạc giao hưởng … Sáng tác về đề tài dân tộc ít người,
vùng sâu, vùng xa đã có quy mô rộng lớn hơn, nhiều tác giả có thể chuyên tâm
sáng tác về đề tài này. Một điều rất đáng lưu tâm trong giai đoạn đầu tư của
Chính phủ thời gian qua là đã bắt đầu hình thành một đội ngũ tác giả người dân
tộc, giảm khoảng cách nghề nghiệp giữa trung ương và các tỉnh, thành phố, các
vùng miền, tạo sự đoàn kết, nhất trí trong giới, gắn kết sáng tạo với định hướng
của Đảng, Chính phủ.
3. Những hạn chế:
-
Chính sách chưa thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước khuyến khích tài trợ, đặt
hàng các tác phẩm VHNT thuộc tất cả các lĩnh vực.
-
Việc đầu tư sáng tác những tác phẩm có khả năng đạt chất lượng nghệ thuật cao
còn hạn chế, chưa mạnh dạn đầu tư cho những tác giả, tác phẩm tốt
-
Chính sách hỗ trợ sáng tạo theo Quyết định số 926/QĐ-TTg chưa đạt hiệu quả cao
-
Hoạt động của các báo tạp chí, nhà xuất bản của các Hội VHNT chuyên ngành trung
ương rất khó khăn.
4. Nguyên nhân:
4.1.
Hiện nay, chính sách tài trợ, đặt hàng các tác phẩm VHNT mới chỉ được ban hành
trong lĩnh vực xuất bản, điện ảnh, thông qua chính sách hỗ trợ sáng tạo các tác
phẩm VHNT đối với các Hội VHNT và các văn bản về sản xuất và cung ứng các sản
phẩm, dịch vụ công ích. Chưa có một văn bản chính thức của Nhà nước quy định về
tài trợ, đặt hàng chung cho các lĩnh vực VHNT. Do việc tài trợ, đặt hàng mới chỉ
được quy định đối với một số chuyên ngành VHNT cụ thể, nhiều chuyên ngành chưa
có quy định về tài trợ, đặt hàng tác phẩm VHNT như: mỹ thuật, nghệ thuật biểu
diễn, nhiếp ảnh … nên chưa thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước khuyến khích tài
trợ, đặt hàng các tác phẩm VHNT thuộc tất cả các lĩnh vực. Đặc biệt, một số
lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn như sân khấu truyền thống có nguy cơ thất truyền
vì không có người tham gia.
4.2.
Đối với các lĩnh vực đã có quy định về tài trợ, đặt hàng như điện ảnh, xuất bản:
kinh phí tài trợ, đặt hàng thực hiện các tác phẩm hàng năm được bố trí chưa đáp
ứng đủ nhu cầu thực tế, việc đầu tư sáng tác những tác phẩm có khả năng đạt chất
lượng nghệ thuật cao còn hạn chế, chưa mạnh dạn đầu tư cho những tác giả, tác
phẩm tốt. Do kinh phí tài trợ, đặt hàng có hạn, việc phân bổ kinh phí vẫn còn
mang tính chất bình quân.
4.3.
Đối với chính sách hỗ trợ sáng tạo theo Quyết định số 926/QĐ-TTg, về nhận thức
nhiều Hội và cá nhân quan niệm số kinh phí này là của chung, phân chia mỗi người
hưởng một ít, do đó việc đầu tư sáng tác còn dàn trải, phong trào rộng nhưng
không sâu. Bên cạnh đó, mặc dù đã qua nhiều năm thực hiện công tác hỗ trợ sáng
tạo VHNT cho các Hội VHNT, song đối với các Hội VHNT ở trung ương thì điều kiện
tiếp nhận có thuận lợi hơn, nhưng đối với các Hội VHNT địa phương còn nhiều bất
cập. Tại nhiều tỉnh, các Hội VHNT không được tiếp nhận đầy đủ toàn bộ kinh phí
theo kế hoạch phân bổ của Bộ Tài chính. Sau khi đã có ý kiến từ Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch (trước kia là Bộ Văn hóa và Thông tin) và Ủy ban toàn quốc Liên
hiệp với các Hội VHNT Việt Nam, ngân sách cấp cho các Hội mới được giải quyết.
Thực tế từ việc xem xét đánh giá kết quả thực hiện nguồn kinh phí hỗ trợ sáng tạo
VHNT hiện nay còn có những vấn đề sau:
Một
số tỉnh, thành do quán triệt và hiểu chưa đúng chủ trương của Đảng, quyết định
của Thủ tướng Chính phủ nên việc chấp hành và thực hiện chưa thực sự nghiêm
túc.
Một
số Hội VHNT (chủ yếu là các Hội VHNT địa phương) tiếp nhận kinh phí theo kế hoạch
phân bổ của Trung ương dành cho các Hội VHNT địa phương, phân bổ có tính chất
cào bằng hoặc cá biệt lấy kinh phí này phục vụ cho việc tổ chức sinh hoạt Hội.
4.4.
Báo tạp chí, nhà xuất bản là cơ quan ngôn luận của giới VHNT, thực hiện nhiệm vụ
chính trị, xã hội, nghề nghiệp do Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý. Trong những
năm qua, kinh phí hoạt động của các báo tạp chí, nhà xuất bản của các Hội VHNT
chuyên ngành trung ương rất khó khăn, một số báo, tạp chí được hỗ trợ một phần
nhỏ từ ngân sách nhà nước. Ví dụ Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam được hỗ trợ
50 triệu đồng/năm trong khi kinh phí cần thiết để duy trì tạp chí này là 400
triệu đồng/năm. Do kinh phí hoạt động hiện nay hết sức khó khăn, nhiều báo tạp
chí, nhà xuất bản của một số Hội VHNT chuyên ngành trung ương và các Hội VHNT địa
phương đang đứng trước nguy cơ phải ngừng hoạt động.
4.5.
Các tác phẩm VHNT chưa có kinh phí để giới thiệu quảng bá trên các phương tiện
thông tin đại chúng, thiếu cạnh tranh thông tin trong cơ chế thị trường.
III. CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ KHUYẾN KHÍCH SÁNG TÁC TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG VHNT:
Chính
sách đầu tư khuyến khích sáng tác trong các hoạt động VHNT của Nhà nước được thể
hiện ở các chính sách cụ thể sau:
1. Chính sách tiền lương và phụ cấp
Từ
năm 2004, thực hiện chính sách cải cách tiền lương, Nhà nước đã ban hành một số
văn bản quy định tiền lương đối với các nghệ sĩ hoạt động trong lĩnh vực VHNT,
gồm:
1)
Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về chế độ
tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, đã quy định:
*
Thang, ngạch lương của nghệ sĩ:
-
Biên tập, biên kịch, biên dịch (ngạch cao cấp, ngạch chính, ngạch viên);
-
Đạo diễn (ngạch cao cấp, ngạch chính, ngạch viên);
-
Họa sĩ (ngạch cao cấp, ngạch chính, ngạch viên);
- Diễn viên (hạng
I, hạng II, hạng III);
- Quay phim (ngạch
cao cấp, ngạch chính, ngạch viên);
* Các chế độ phụ
cấp:
a) Quyết định số
180/2006/QĐ-TTg ngày 09 tháng 8 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ phụ
cấp ưu đãi theo nghề và bồi dưỡng đối với lao động biểu diễn nghệ thuật ngành
văn hóa – thông tin.
- Chế độ phụ cấp
ưu đãi nghề (diễn viên), có 2 mức: 20% và 30% so với bậc lương và phụ cấp tiền
lương.
- Bồi dưỡng tập
luyện, có 3 mức: 20.000 đồng/ngày đối với diễn viên đóng vai chính; mức 15.000
đồng/ngày đối với diễn viên đóng vai chính thứ; mức 10.000 đồng/ngày đối với diễn
viên đóng vai phụ và phục vụ.
- Bồi dưỡng biểu
diễn, có 3 mức: mức 50.000 đồng/buổi diễn đối với diễn viên đóng vai chính, chỉ
đạo nghệ thuật; mức 40.000 đồng/buổi diễn đối với diễn viên đóng vai chính thứ;
mức 20.000 đồng/buổi diễn đối với diễn viên đóng vai phụ, phục vụ và các nhân
viên khác (kể cả trưởng, phó đoàn, cấp dưỡng).
b) Thông tư số
26/2006/TT-BVHTT ngày 21 tháng 2 năm 2006 của Bộ Văn hóa-Thông tin (trước đây)
hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp độc hại, nguy hiểm và bồi dưỡng bằng hiện vật
đối với cán bộ, công chức, viên chức ngành văn hóa, thông tin.
- Mức phụ cấp,
có 3 mức:
+ Mức 4: hệ số
0,4 so với mức lương tối thiểu
+ Mức 3: hệ số
0,3 so với mức lương tối thiểu
+ Mức 2: hệ số
0,2 so với mức lương tối thiểu
2) Quyết định số
82/2005/QĐ-TTg ngày 18 tháng 4 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ ưu
đãi đối với học sinh, sinh viên các bộ môn nghệ thuật truyền thống và đặc thù
trong các trường văn hóa – nghệ thuật, gồm:
- Giảm học phí,
có 2 mức: giảm 70% đối với học sinh, sinh viên học ngành tuồng, chèo, cải
lương, múa hát cung đình; Giảm 50% học phí đối với học sinh, sinh viên học
ngành xiếc và múa.
- Bồi dưỡng nghề,
có 3 mức: mức 40% suất học bổng khuyến khích toàn phần/tháng áp dụng đối với học
sinh, sinh viên học chuyên ngành: tuồng, chèo, cải lương, múa hát cung đình, xiếc,
thanh nhạc, nhạc hơi và múa; mức 30% suất học bổng khuyến khích toàn phần/tháng
áp dụng đối với học sinh, sinh viên chuyên ngành quay phim, mỹ thuật; mức 20%
suất học bổng khuyến khích toàn phần/ tháng áp dụng đối với học sinh, sinh viên
chuyên ngành nhạc dây, nhạc gõ và các bộ môn chuyên ngành khác của điện ảnh.
- Chế độ trang bị
học tập đối với học sinh, sinh viên chuyên ngành: tuồng, chèo, cải lương, múa
hát cung đình, xiếc, múa và mỹ thuật.
3) Nghị định số
43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối
với các đơn vị sự nghiệp công lập.
Chính sách tiền
lương hiện nay có những mặt tích cực và hạn chế như sau:
Tích cực:
- Ban hành được
thang, ngạch, bậc lương cho một số đối tượng hoạt động văn hóa nghệ thuật.
- Ban hành một số
chế độ phụ cấp mang tính đặc thù của một số đối tượng hoạt động văn hóa nghệ
thuật.
- Hàng năm đã điều
chỉnh hệ số lương tối thiểu chung, đã góp phần cải thiện đáng kể thu nhập của đối
tượng hoạt động văn hóa nghệ thuật.
- Giao quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đã giúp cho đơn vị sự nghiệp hoạt động
văn hóa nghệ thuật được chủ động hơn trong việc tạo nguồn thu hợp pháp để nâng
cao và cải thiện đời sống cho lao động hoạt động văn hóa nghệ thuật.
Hạn chế và
nguyên nhân:
- Hệ số các bậc
lương thiết kế của ngạch diễn viên, quay phim thấp hơn một số hệ số bậc lương của
một số ngạch trong bảng lương viên chức nhà nước.
- Bảng lương Diễn
viên hạng III (bảng lương viên chức loại B) chưa hợp lý, vì bảng lương này dùng
chung cho các trình độ: đại học, cao đẳng, trung học.
- Do tính chất
và đặc thù của hoạt động của diễn viên là tuổi nghề ngắn, nhưng bảng lương của
diễn viên lại thiết kế như bảng lương của các viên chức thuộc ngành nghề khác
và thiết kế theo 3 hạng: diễn viên hạng I (cao cấp), diễn viên hạng II (ngạch
chính), diễn viên hạng III (cán sự). Vì vậy, nếu muốn nâng ngạch lương thì phải
đạt đủ tiêu chuẩn theo quy định và thi nâng ngạch, trong lúc đó hệ thống đào tạo
nghề Xiếc và Múa mới chỉ có trường đào tạo trình độ Cao đẳng, chưa có hệ Đại học,
do đó không có tính khả thi và đây là một bất hợp lý tồn tại từ nhiều năm, nên
gây bức xúc trong đội ngũ diễn viên.
- Chưa có bảng
lương cho các chức danh hoạt động văn hóa nghệ thuật như: nhạc sĩ, nhà văn ….
Các chức danh này hiện áp dụng bảng lương viên chức của chức danh công việc được
giao như: biên tập, chuyên viên …
- Do đặc thù của
diễn viên chủ yếu là biểu diễn nghệ thuật và năng khiếu nghệ thuật; trình độ
đào tạo khác nhau nên việc tổ chức thi nâng ngạch cho diễn viên theo quy định gặp
khó khăn như: xác định khả năng chuyên môn, trình độ đào tạo, tiêu chuẩn chuyên
môn nghiệp vụ theo quy định và nội dung thi nâng ngạch cho từng loại hình diễn
viên. Vì vậy, nhiều năm qua chưa tổ chức thi nâng ngạch cho diễn viên.
2. Chính sách bảo hiểm xã hội:
2.1. Tuổi lao động:
Do đặc điểm đào
tạo diễn viên và tính đặc thù về năng khiếu nghệ thuật, nên đối tượng này đã được
phép đăng ký tuyển dụng vào ngạch viên chức thuộc ngành văn hóa, nghệ thuật với
tuổi đời phải đủ 15 tuổi và thực hiện ký hợp đồng làm việc đặc biệt và được quy
định tại Nghị định số 116/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về
tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp của
Nhà nước.
2.2. Tuổi nghề:
- Với tính đặc
thù của biểu diễn nghệ thuật (diễn viên) nên thời gian hoạt động biểu diễn của
nghệ sĩ, diễn viên rất ngắn khoảng từ 15 năm đến 20 năm; đến độ tuổi từ 30 đến
40 đối với nữ và 40 đến 45 đối với nam thì giọng hát, sức bền, độ dẻo dai, khả
năng biểu diễn bị suy giảm không thể đáp ứng được đòi hỏi về chuyên môn của nghề
biểu diễn như: xiếc đế trụ, uốn dẻo, múa balê, hát tuồng …. Do đó, tuổi nghề của
nghệ sĩ, diễn viên rất ngắn: 40 tuổi đối với nữ và 45 tuổi đối với nam.
- Các đối tượng
khác hoạt động văn hóa, nghệ thuật thì tuổi nghề cao hơn.
2.3. Tuổi nghỉ
hưu:
Theo quy định của
Luật Bảo hiểm xã hội và Danh mục nghề, công việc nặng nhọc, độc hại nguy hiểm
thì một số đối tượng lao động biểu diễn nghệ thuật (diễn viên) được giảm tuổi đời
được hưởng chế độ hưu.
Ưu điểm:
Lao động biểu diễn
nghệ thuật (diễn viên) được xếp vào lao động thuộc nghề, công việc nặng nhọc, độc
hại, nguy hiểm được hưởng chế độ hưu, nếu:
- Nam từ đủ 55
tuổi đến đủ 60 tuổi, nữ từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng bảo
hiểm xã hội trở lên mà trong đó có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc,
độc hại, nguy hiểm.
- Người lao động
đã đóng bảo hiểm xã hội đủ 20 năm trở lên, bị suy giảm khả năng lao động từ 61%
trở lên, được hưởng lương hưu với mức thấp hơn so với mức lương hưu của người đủ
điều kiện khi thuộc một trong các trường hợp sau: nam đủ 50 tuổi trở lên, nữ đủ
45 tuổi trở lên; có đủ 15 năm trở lên làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc,
độc hại, nguy hiểm thì không kể tuổi đời.
Hạn chế và
nguyên nhân:
- Do đặc thù của
lao động biểu diễn nghệ thuật (diễn viên) là tuổi biểu diễn nghệ thuật ngắn, khả
năng biểu diễn hạn chế khi tuổi lớn, nhưng sức khỏe và tuổi lao động vẫn còn
theo quy định của pháp luật, nên việc bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở
lên là khó thực hiện được đối với lao động biểu diễn nghệ thuật.
- Theo quy định
của Luật Bảo hiểm xã hội thì chỉ thực hiện cho một số lao động biểu diễn nghệ
thuật (diễn viên) đủ điều kiện theo quy định mới được hưởng lương hưu. Thực tế,
hiện nay có nhiều diễn viên vẫn còn sức khỏe, không còn khả năng biểu diễn nghệ
thuật, không đào tạo lại được, không bố trí được công việc khác, vẫn còn trong
biên chế và hưởng lương lại không thuộc đối tượng hưởng lương hưu theo quy định
vì có tuổi đời: nam từ đủ 50 tuổi đến dưới 55 tuổi, nữ tử đủ 45 tuổi đến dưới
50 tuổi, đây là một khó khăn cho các đơn vị nghệ thuật không thể trẻ hóa được đội
ngũ, không khuyến khích nghệ sĩ trẻ hăng say sáng tạo.
- Các đối tượng
lao động hoạt động văn hóa, nghệ thuật khác thực hiện theo quy định: nam đủ 60
tuổi, nữ đủ 55 tuổi và đóng đủ 20 năm bảo hiểm xã hội trở lên mới được hưởng chế
độ hưu.
3. Chính sách nhà ở:
Trong chính sách
chung của nhà nước, tới nay nhà nước không bao cấp nhà ở cho mọi đối tượng, bao
gồm cả các văn nghệ sĩ. Do vậy, một số ít văn nghệ sĩ có quá trình đóng góp cho
cách mạng hoặc công tác tại các cơ quan Nhà nước được quan tâm bố trí nhà ở
theo tiêu chuẩn quy định của Nhà nước, nay nhà đã xuống cấp. Nhiều văn nghệ sĩ
chưa được cấp nhà hoặc còn gặp khó khăn về nhà ở. Do đặc thù của hoạt động
VHNT, nhiều văn nghệ sĩ thường phải ở gắn liền với các đoàn nghệ thuật phục vụ
cho công tác luyện tập, biểu diễn sáng tạo nghệ thuật. Song điều kiện ở rất khó
khăn, hoặc không có nhà công vụ phải đi trọ, thuê nhà rất ảnh hưởng đến việc biểu
diễn, đặc biệt là các nghệ sĩ trẻ hoặc những nghệ sĩ được điều chuyển từ địa
phương về. Các văn nghệ sĩ chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn, hầu hết các
văn nghệ sĩ phải tự lo về nhà ở.
4. Bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan và chế độ nhuận
bút:
4.1. Bảo hộ
quyền tác giả, quyền liên quan đối với lĩnh vực VHNT:
Trong những năm
qua, hoạt động bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan đã được Nhà nước đặc biệt
quan tâm. Hoạt động nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật có
những tiến bộ quan trọng. Quyền và lợi ích hợp pháp của các tác giả từng bước
được bảo hộ. Nhiều cá nhân và tổ chức có quyền đã áp dụng các biện pháp để tự bảo
vệ quyền của mình. Các tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả đã được hình
thành, bước đầu đã có các hoạt động tích cực, đáng khích lệ.
Tuy nhiên, tình
trạng vi phạm bản quyền diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực với các hình thức và mức
độ khác nhau, nhất là trong lĩnh vực âm nhạc, văn học, chương trình máy tính, bản
ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, kỹ thuật số … Hiện tượng sách, băng
đĩa lậu tràn lan trên thị trường.
Nguyên nhân của
tình trạng nói trên chủ yếu là do nhận thức, hiểu biết, đặc biệt là ý thức chấp
hành pháp luật về quyền tác giả và quyền liên quan của nhiều tổ chức, cá nhân
khai thác, sử dụng còn nhiều hạn chế và chưa nghiêm túc; hệ thống thực thi quyền
tác giả, quyền liên quan của các cấp chính quyền chưa đáp ứng yêu cầu bảo hộ
theo quy định của pháp luật.
4.2. Chế độ
nhuận bút hiện hành được quy định tại Nghị định số 61/2002/NĐ-CP ngày 11
tháng 6 năm 2002 của Chính phủ và Thông tư liên tịch số 21/2003/TTLT-BVHTT-BTC
ngày 01 tháng 7 năm 2003 của liên tịch Bộ Văn hóa – Thông tin (trước đây) và Bộ
Tài chính hướng dẫn việc chi trả chế độ nhuận bút, trích lập và sử dụng quỹ nhuận
bút đối với một số loại hình tác phẩm quy định tại Nghị định số 61/2002/NĐ-CP.
Nghị định số
61/2002/NĐ-CP ngày 11/6/2002 của Chính phủ về chế độ Nhuận bút quy định khung
nhuận bút chi trả cho các tác giả trong nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, hiện nay
khung nhuận bút quy định tại Nghị định này đã lạc hậu, mức nhuận bút chi trả
cho tác giả thấp, chưa đánh giá đúng và đủ công sức của người nghệ sĩ bỏ ra, do
đó không khuyến khích được văn nghệ sĩ toàn tâm toàn ý sáng tác các tác phẩm và
chương trình nghệ thuật chất lượng cao.
Do quy định nhuận
bút tại Nghị định 61/2002/NĐ-CP không còn phù hợp, hiện nay nhiều địa phương,
đơn vị không áp dụng khung nhuận bút này, mà theo thỏa thuận dân sự. Tuy nhiên
với các tác phẩm VHNT được thực hiện bằng nguồn ngân sách nhà nước, Nghị định số
61/2002/NĐ-CP vẫn là căn cứ để chi trả tiền nhuận bút cho tác giả. Yêu cầu phải
sửa đổi Nghị định số 61/2002/NĐ-CP cho phù hợp với thực tế trở nên cần thiết và
cấp bách.
5. Chính sách đối với tài năng trẻ:
Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta đánh giá cao và luôn coi trọng tài năng, thường xuyên quan tâm
việc đào tạo, bồi dưỡng và trọng dụng người tài. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước đòi hỏi nguồn nhân lực cao trong mọi lĩnh vực, nhất là trong
lĩnh vực lãnh đạo, quản lý, khoa học và công nghệ, sản xuất kinh doanh, văn hóa
nghệ thuật, an ninh quốc phòng …
Trong thời gian
qua, sự xuất hiện và phát triển của lực lượng sáng tác trẻ với những dấu hiệu,
đặc điểm mới trên hầu hết các loại hình nghệ thuật đem đến một sinh khí mới,
triển vọng phát triển mới đối với VHNT thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong những năm
qua, ngành giáo dục và đào tạo đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện nhiệm vụ
nâng cao dân trí, đào tạo nhân sự và bồi dưỡng tài năng, trong đó có lĩnh vực
VHNT, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
Tuy nhiên, công
tác bồi dưỡng tài năng ở các cấp học còn chưa rõ nét và có những hạn chế như:
phần lớn các trường đều thực hiện phương thức đào tạo theo lối dàn trải, bình
quân, nhất loạt như nhau trong một chương trình đào tạo chung; không cập nhật
thông tin và kiến thức mới phù hợp với thời đại và quốc tế; chưa có phương thức
tích cực và chủ động để phát hiện và đào tạo, bồi dưỡng học sinh, sinh viên xuất
sắc ngay từ lúc nhập trường; chưa chủ động xây dựng chính sách, cơ chế quản lý,
kế hoạch, biện pháp thích hợp và đồng bộ cho đào tạo, bồi dưỡng sinh viên giỏi;
việc đào tạo, bồi dưỡng liên tục qua các cấp học, đặc biệt là việc bố trí sử dụng
và theo dõi sự phát triển của sinh viên tài năng sau giai đoạn đào tạo ở nhà
trường hầu như chưa được quan tâm.
6.
Xét tặng giải thưởng và danh hiệu nghệ sĩ trong lĩnh vực VHNT:
6.1. Xét tặng
giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng Nhà nước:
Căn cứ Luật Thi
đua – Khen thưởng ngày 26 tháng 11 năm 2003, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Thi đua – Khen thưởng ngày 14 tháng 6 năm 2005 và Nghị định số
121/2005/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Thi đua – Khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Thi đua – Khen thưởng, ngày 27 tháng 7 năm 2007, Bộ
Văn hóa-Thông tin đã ban hành Thông tư số 23/2007/TT-BVHTT ngày 27/7/2007 hướng
dẫn xét tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng Nhà nước về VHNT. Thông tư
này hướng dẫn các lĩnh vực VHNT được xem xét trao giải thưởng gồm: văn học, âm
nhạc, sân khấu, mỹ thuật, nhiếp ảnh, múa, điện ảnh, văn nghệ dân gian, kiến
trúc và văn hóa. Việc xét tặng giải thưởng được thực hiện với các tác giả là
người Việt Nam có tác phẩm được công bố và sử dụng tại Việt Nam từ ngày 02
tháng 9 năm 1945 đến nay và tác giả là người nước ngoài có tác phẩm, công trình
nghiên cứu về Việt Nam. Quyền lợi của người được tặng giải thưởng là được nhận
Bằng chứng nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh hoặc Giải thưởng Nhà nước về VHNT của
Chủ tịch Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được tặng mức tiền thưởng
theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
6.2. Xét tặng
danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân, Nghệ sĩ Ưu tú:
- Thông tư
24/2007/TT-BVHTT ngày 27 tháng 7 năm 2007 của Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch) hướng dẫn về xét tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân,
Nghệ sĩ Ưu tú. Các đối tượng được xét tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân, Nghệ sĩ
Ưu tú bao gồm các đối tượng biểu diễn nghệ thuật như: diễn viên, đạo diễn, biên
đạo múa và người chỉ đạo nghệ thuật trực tiếp, quay phim, họa sĩ, nhạc sĩ, phát
thanh viên phát thanh và truyền hình hoạt động trong lĩnh vực VHNT và một số đối
tượng khác. Người được phong tặng một trong hai danh hiệu nghệ sĩ trên được nhận
Bằng chứng nhận và huy hiệu Nghệ sĩ Nhân dân/Nghệ sĩ Ưu tú và được tặng mức tiền
thưởng (hoặc hiện vật kỷ niệm tương đương) trị giá 4 triệu đồng (đối với Nghệ
sĩ nhân dân) và 3 triệu đồng (đối với Nghệ sĩ Ưu tú).
- Bất cập trong
trao giải: nhìn chung, chính sách xét tặng giải thưởng và danh hiệu nghệ sĩ hiện
nay đã thể hiện được sự ghi nhận của Nhà nước, của cộng đồng đối với những đóng
góp của các cá nhân, tập thể trong lĩnh vực VHNT, tôn vinh những thành quả lao
động của văn nghệ sĩ. Các giải thưởng này có ý nghĩa lớn về mặt tinh thần trong
khi mức thưởng vật chất kèm theo còn khá khiêm tốn, chỉ mang tính tượng trưng
chứ chưa thật sự khuyến khích được văn nghệ sĩ nỗ lực phấn đấu sáng tạo và cống
hiến.
6.3. Xét tặng
giải thưởng của các Hội VHNT:
Hàng năm, các Hội
VHNT có các giải thưởng khác nhau giành cho các tác phẩm VHNT. Các Hội VHNT 63
tỉnh, thành có hội trao giải thưởng hàng năm, có hội 3-5 năm mới trao giải một
lần. Kinh phí trao giải của các hội 63 tỉnh thành phố được Ủy ban nhân dân các
tỉnh, thành phố cấp hàng năm. Mức trao giải thưởng cũng không đồng đều, tùy thuộc
vào mức cấp kinh phí của mỗi tỉnh, thành.
Riêng 10 Hội
VHNT chuyên ngành trung ương và Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt
Nam được ngân sách trung ương cấp kinh phí giải thưởng hàng năm và cấp cố định
từ năm 1993 đến nay. Nhìn chung, kinh phí giải thưởng được sử dụng hiệu quả,
hàng năm lựa chọn được những tác phẩm xứng đáng trong các lĩnh vực văn học, mỹ
thuật, nhiếp ảnh, âm nhạc … giới thiệu với công chúng, động viên khuyến khích
văn nghệ sĩ tìm tòi lao động sáng tạo. Tuy nhiên, mức kinh phí giải thưởng còn
thấp.
Giải thưởng hàng
năm của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam được hình thành từ năm
1993 nhằm tặng cho những tác phẩm xuất sắc thuộc các lĩnh vực: văn xuôi, thơ,
lý luận phê bình văn học, mỹ thuật, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, nhiếp ảnh, kiến
trúc, múa. Đối tượng dự thi gồm:
- Các tác giả
cao tuổi (nam từ 70 tuổi trở lên, nữ từ 65 tuổi trở lên);
- Các tác giả địa
phương do các Hội VHNT tỉnh, thành phố giới thiệu;
- Các tác giả trẻ
(từ 35 tuổi trở xuống) do Hội VHNT địa phương giới thiệu.
Như vậy, giải
thưởng này chủ yếu dành cho các tác giả đang hoạt động sáng tạo ở các tỉnh,
thành phố chưa là Hội viên các Hội chuyên ngành Trung ương (trừ các đối tượng
tác giả cao tuổi là hội viên các Hội VHNT chuyên ngành Trung ương vẫn có quyền
dự xét giải). Tổng kinh phí xét giải thưởng hàng năm là 300 triệu đồng với cơ cấu
như sau:
- Cho tổ chức và
chấm giải (sơ khảo và chung khảo): khoảng 25%
- Cho giải thưởng:
khoảng 75%. Cơ cấu giải thưởng: Giải A: 8 triệu đồng, Giải B: 6 triệu đồng, Giải
C: 4 triệu đồng, Giải tác giả cao tuổi: 4 triệu đồng, Giải tác giả trẻ: 2,5 triệu
đồng, Giải khuyến khích: 2,5 triệu đồng.
Nhìn chung, các
Hội VHNT đã sử dụng kinh phí giải thưởng để lựa chọn trao giải cho những tác phẩm
VHNT xuất sắc. Tuy nhiên, do kinh phí giải thưởng còn thấp nên chưa khuyến
khích được văn nghệ sĩ nhiệt tình hưởng ứng và nỗ lực sáng tạo. Ví dụ, Liên hiệp
VHNT Thành phố Hồ Chí Minh nhiều năm không có tác phẩm dự xét giải trong khi
đây lại là thành phố có nhiều tác phẩm xuất bản nhất hàng năm.
7.
Vai trò của các Hội VHNT trong việc khuyến khích sáng tạo đối với các văn nghệ
sĩ:
Liên hiệp các Hội
VHNT (bao gồm các Hội VHNT chuyên ngành trung ương và các Hội VHNT tỉnh, thành
phố) là tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp có chức năng tập hợp, động
viên phát huy tiềm năng sáng tạo và phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ.
Nghị quyết số
23-NQ/TW của Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh: “Các Hội VHNT phải làm tốt vai trò tập
hợp, đoàn kết phát huy tính chủ động, tích cực xã hội và tài năng sáng tạo của
đội ngũ văn nghệ sĩ …”.
Như vậy, mục đích
tồn tại của các Hội VHNT là tạo điều kiện để có nhiều tác phẩm tốt, tác phẩm có
chất lượng nghệ thuật cao ra đời.
Kinh nghiệm thực
tiễn của nền văn học cách mạng Việt Nam hơn 60 năm qua (kể từ khi tổ chức Hội
Văn nghệ Việt Nam được thành lập) đã khẳng định rằng, Hội VHNT có vai trò rất
quan trọng trong việc thúc đẩy các hoạt động sáng tạo của văn nghệ sĩ.
Với sự cởi mở và
dân chủ của đời sống xã hội, hoạt động sáng tác, nghiên cứu, sưu tầm ở các Hội
VHNT đã phát triển rộng rãi và đa dạng ở tất cả các bộ môn VHNT trên các vùng,
miền trong cả nước.
IV.
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ HỖ TRỢ SÁNG TÁC VHNT TẠI VIỆT NAM:
1. Các quy định hiện hành về tổ chức và hoạt động của Quỹ:
Việc thành lập
và hoạt động của các Quỹ có hoạt động hỗ trợ sáng tác VHNT tại Việt Nam hiện
nay được điều chỉnh bởi các văn bản quy phạm pháp luật về việc tổ chức và hoạt
động của Quỹ xã hội, từ thiện, cụ thể như sau:
- Nghị định số
148/2007/NĐ-CP ngày 25/9/2007 của Chính phủ về tổ chức hoạt động của Quỹ xã hội,
Quỹ từ thiện.
- Thông tư số
09/2008/TT-BNV ngày 31/12/2008 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện một số điều của
Nghị định số 148/2007/NĐ-CP về tổ chức, hoạt động của Quỹ xã hội, Quỹ từ thiện.
- Quyết định số
10/2008/QĐ-BTC ngày 12/2/2008 của Bộ Tài chính về việc ban hành Quy chế quản lý
tài chính Quỹ xã hội, Quỹ từ thiện.
2. Thực trạng các Quỹ có hoạt động hỗ trợ sáng tác văn học,
nghệ thuật tại Việt Nam:
Thời gian qua,
do yêu cầu phát triển từ tình hình thực tế, đã có một số Quỹ có hoạt động hỗ trợ
sáng tác VHNT tại Việt Nam được thành lập như sau:
2.1. Quỹ Văn
hóa: từ năm 1981 đã hình thành Quỹ Văn hóa
- Quỹ có nhiệm vụ
sau:
+ Góp phần bảo vệ
và phát huy các di sản văn hóa Việt Nam, các giá trị nghệ thuật truyền thống,
chăm sóc và phát huy tài năng, khuyến khích phát triển các loại hình VHNT, sưu
tầm giới thiệu các di sản văn hóa, nghệ thuật, những tinh hoa văn hóa thế giới;
trao tặng một số giải thưởng định kỳ về VHNT; phát huy có hiệu quả các nhà sáng
tác và điều dưỡng của văn nghệ sĩ.
+ Góp vốn cùng với
các công ty, xí nghiệp và người sản xuất để sản xuất, hoạt động dịch vụ văn
hóa.
+ Quỹ Văn hóa được
phép giao dịch trực tiếp với các Quỹ Văn hóa hoặc các tổ chức tương đương ở nước
ngoài.
+ Quỹ Văn hóa có
trách nhiệm giúp đỡ Quỹ Văn hóa các địa phương về mặt nghiệp vụ, tạo mọi điều
kiện thuận lợi để Quỹ Văn hóa địa phương sớm hình thành và phát triển ở những
nơi có điều kiện.
- Nguồn kinh phí
hoạt động của Quỹ Văn hóa:
+ Ngân sách Nhà
nước cấp một khoản kinh phí trợ cấp ban đầu;
+ Các khoản kinh
phí huy động được từ đóng góp của nhân dân và các tổ chức trong và ngoài nước;
+ Lợi nhuận do
Quỹ liên kết, liên doanh sản xuất, dịch vụ văn hóa;
+ Tiền giải thưởng
quốc tế, tặng phẩm quốc tế, các khoản ủng hộ của các đoàn nghệ thuật Việt Nam
đi biểu diễn ở nước ngoài về.
Sau một thời
gian hoạt động, năm 1995 Quỹ Văn hóa đã bị giải thể theo Quyết định số
2452/QĐ-BVHTT ngày 22 tháng 7 năm 1995 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin
(trước đây) với lý do sau:
+ Quỹ không có vốn
để hoạt động độc lập trong khi đó mục tiêu rất rộng như: ứng trước kinh phí cho
các nghệ sĩ sáng tác; bổ sung nguồn vốn để xây dựng công trình văn hóa; làm Quỹ
khen thưởng VHNT; bổ sung trợ cấp khó khăn cho nghệ sĩ; bảo tồn di sản văn hóa
dân tộc. Tuy nhiên, do không có những bước đi cụ thể để đạt được những mục tiêu
đề ra nên các hoạt động không hiệu quả, trong khi đó có sự trùng lắp với hoạt động
của các Hội và đầu tư của nhà nước cho các lĩnh vực VHNT.
+ Quỹ Văn hóa
chưa được điều hành hợp lý. Việc gây quỹ, marketing, điều hành, tổ chức, quản
lý, kiểm tra còn bất cập, việc lựa chọn các dự án tài trợ còn dàn trải, bình
quân.
+ Nguyên nhân thực
tiễn khách quan: Những năm đầu thập kỷ 90 là giai đoạn khó khăn của ngành
văn hóa khi mới chuyển đổi từ cơ chế bao cấp hoàn toàn sang cơ chế tự trang trải
một phần kinh phí. Nhiều doanh nghiệp văn hóa, nhà hát, rạp chiếu phim lâm vào
tình trạng khó khăn. Đầu tư cho văn hóa của cả khu vực nhà nước lẫn các khu vực
khác chưa đáp ứng đủ nhu cầu.
2.2. Quỹ Hỗ
trợ phát triển điện ảnh:
Luật Điện ảnh và
Nghị định số 96/2007/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Điện ảnh quy định cụ thể về
Quỹ Hỗ trợ phát triển Điện ảnh như sau:
- Mục tiêu của
Quỹ hỗ trợ phát triển điện ảnh do Thủ tướng Chính phủ thành lập để sử dụng cho
các hoạt động:
+ Thưởng cho
phim có giá trị tư tưởng, nghệ thuật cao, có hiệu quả xã hội theo điều lệ tổ chức
và hoạt động của Quỹ;
+ Hỗ trợ sản xuất
phim thể nghiệm nghệ thuật, phim đầu tay trên cơ sở ý kiến tư vấn của Hội đồng
thẩm định kịch bản văn học thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;
+ Hỗ trợ cho việc
đầu tư sáng tác kịch bản, mở trại sáng tác, tổ chức cho nghệ sĩ đi thực tế, hội
thảo khoa học, hỗ trợ đào tạo cho cán bộ có năng lực, sinh viên xuất sắc đi học
điện ảnh ở nước ngoài, quảng bá phim Việt Nam ra nước ngoài nhằm khuyến khích,
thúc đẩy phát triển nền điện ảnh dân tộc.
- Nguồn kinh
phí:
+ Ngân sách nhà
nước;
+ Huy động đóng
góp tự nguyện, tài trợ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước, nước ngoài và
các nguồn thu nhập hợp pháp khác;
+ Nguồn thu bán
phim từ các phim được Nhà nước tài trợ, đặt hàng.
2.3. Quỹ của
các Hội VHNT
Thông qua nguồn
kinh phí hỗ trợ sáng tạo của Chính phủ theo Quyết định số 926/QĐ-TTg ngày 6
tháng 7 năm 2006, các Hội VHNT đã tự hình thành các Quỹ của riêng mình. Tuy
nhiên, hiện nay, các Quỹ này còn hoạt động tự phát do chưa có chế tài quy định
cụ thể.
Quỹ giải thưởng
của UBTQ Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam và của các Hội chuyên ngành trung ương
chưa bao quát và động viên hết được các tác giả có đóng góp cho sự nghiệp VHNT ở
các tỉnh và thành phố. Trong khi các Hội VHNT tỉnh, thành phố chưa có quỹ giải
thưởng của Hội mình để xét trao giải thưởng hàng năm cho các tác giả của địa
phương mình. Hiện nay, nhiều tỉnh, thành phố có đặt giải thưởng định kỳ 3 năm,
5 năm trao giải một lần. Kinh phí giải thưởng do UBND tỉnh cấp, là giải thưởng
VHNT của tỉnh. Đó là sự quan tâm rất lớn của cấp ủy và chính quyền địa phương
những nơi đó nhưng không phải tỉnh nào, địa phương nào cũng làm được điều này.
Có địa phương đã đặt ra giải thưởng của tỉnh do UBND tỉnh chủ trì (có Nghị quyết
của tỉnh ủy và HĐND tỉnh) mà gần 20 năm vẫn chưa trao giải thưởng VHNT của tỉnh
cho một tác phẩm nào. Bên cạnh đó cũng còn một số địa phương chưa có giải thưởng
của tỉnh và cũng không có giải thưởng của Hội.
(Tham khảo Phụ lục
số 3: Giải thưởng văn học nghệ thuật các tỉnh, thành phố hiện nay).
2.4. Một số
Quỹ tài trợ vốn đầu tư nước ngoài:
2.4.1. Quỹ Hỗ
trợ văn hóa vùng và dân tộc thiểu số Việt Nam:
- Giai đoạn hoạt
động: 05 năm (2006-2010).
- Vốn đầu tư ban
đầu: 2 triệu curon Đan Mạch (khoảng 7 tỷ đồng) do Chính phủ Đan Mạch tài trợ.
- Thành viên
sáng lập: Đại sứ quán Đan Mạch.
- Mục tiêu hoạt
động: hỗ trợ bảo tồn các giá trị và bản sắc văn hóa truyền thống của các vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Quỹ tập trung
phát triển văn hóa cấp vùng, trong đó ưu tiên giúp các nghệ sĩ và đồng bào dân
tộc thiểu số phát triển các giá trị văn hóa truyền thống và hỗ trợ họ tiếp cận
nghệ thuật đương đại.
- Các hoạt động:
+ Tài trợ ít nhất
60 hoạt động mỗi năm tại các vùng được lựa chọn ở Việt Nam, với trọng tâm là
duy trì và phát triển văn hóa vùng và văn hóa dân tộc thiểu số.
+ Hỗ trợ, thực
hiện và quảng bá cho công chúng về các hoạt động nghệ thuật của các địa phương.
+ Tổ chức những
sự kiện và lễ hội ở các địa phương và dân tộc thiểu số.
+ Bảo tồn di sản
văn hóa địa phương và dân tộc thiểu số.
+ Giáo dục và
đào tạo các nghệ sĩ dân tộc thiểu số thông qua những chương trình học bổng.
2.4.2. Quỹ
phát triển và trao đổi văn hóa Đan Mạch – Việt Nam:
- Giai đoạn hoạt
động: 05 năm 2006-2010.
- Vốn đầu tư ban
đầu: 03 triệu curon Đan Mạch (khoảng 10,5 tỷ đồng) do Chính phủ Đan Mạch tài trợ.
- Thành viên
sáng lập: Đại sứ quán Đan Mạch.
- Mục tiêu hoạt
động: trợ giúp cho các nghệ sĩ và nhà hoạt động văn hóa đương đại tại Việt Nam
và các hoạt động trao đổi văn hóa giữa Đan Mạch và Việt Nam.
- Các hoạt động:
+ Giới thiệu văn
hóa Đan Mạch tại Việt Nam với mục đích hỗ trợ sự hiểu biết và trao đổi văn hóa
giữa nghệ sĩ hai nước thông qua các dự án hợp tác của nghệ sĩ Đan Mạch và Việt
Nam.
+ Giới thiệu văn
hóa Việt Nam đến với công chúng Đan Mạch để truyền cảm hứng và giúp nhân dân
Đan Mạch hiểu biết hơn về đối thoại và giao thoa văn hóa thông qua các hoạt động
biểu diễn và triển lãm tại Đan Mạch của các nghệ sĩ Việt Nam nói riêng hoặc
thông qua các dự án hợp tác có sự tham gia của các đối tác Đan Mạch.
+ Quỹ cũng dành
một phần nhất định để hỗ trợ sự phát triển nghệ thuật tại Việt Nam thông qua
tài trợ các sự kiện và lễ hội văn hóa với sự tham gia của các nghệ sĩ Việt Nam
hoặc kết hợp với các nghệ sĩ Đan Mạch.
+ Tổ chức một giải
thưởng thường niên giành cho nghệ sĩ trẻ tài năng của Việt Nam.
2.4.3. Quỹ học
bổng và văn hóa Việt Nam Kumho Asiana:
- Thời gian hoạt
động: từ năm 2008
- Vốn đầu tư ban
đầu: 2 triệu đô la Mỹ (tương đương 35 tỷ đồng) của tập đoàn Kumho Aisana (Hàn
Quốc).
- Thành viên
sáng lập: Tập đoàn Kumho Aisana phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và
Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Mục tiêu: tích
cực tài trợ cho việc bồi dưỡng những nhân tài sẽ đảm đương những vai trò quan
trọng trong công cuộc phát triển kinh tế và phát triển văn hóa xã hội của Việt
Nam trong tương lai.
- Các hoạt động:
+ Tài trợ các hoạt
động văn hóa nghệ thuật bao gồm tài trợ cho các môn nghệ thuật truyền thống dân
tộc và trao tặng học bổng nhằm bồi dưỡng nhân tài của Việt Nam (từ năm 2008, mỗi
năm có khoảng 100 sinh viên được nhận học bổng).
+ Tổ chức cuộc
thi hùng biện tiếng Hàn Quốc hàng năm để cấp học bổng du học và tìm hiểu văn
hóa Hàn Quốc cho sinh viên Việt Nam.
2.4.4. Quỹ
Toyota Việt Nam:
- Giai đoạn hoạt
động: 2005-2008
- Vốn đầu tư ban
đầu: 4 triệu đô la Mỹ (tương đương 70 tỷ đồng) do Công ty Toyota Việt Nam đóng
góp.
- Thành viên
sáng lập: Công ty Toyota Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa-Thông tin
(cũ), nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
- Mục tiêu hoạt
động: Tăng cường các hoạt động cộng đồng để phát triển văn hóa, xã hội, đặc biệt
là cải tiến chất lượng giáo dục đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại Việt
Nam.
- Các hoạt động:
+ Thực hiện
chương trình “giáo dục an toàn giao thông cho khoảng 5 triệu học sinh tiểu học
toàn quốc trong 03 năm (2005-2008) thông qua hình ảnh nhân vật hoạt hình
Pokemon.
+ Tổ chức khóa học
mang tên “Bí quyết thành công trong sản xuất kinh doanh” tại Đại học Bách Khoa
Hà Nội.
+ Thực hiện
chương trình “Hòa nhạc Toyota Concert” nhằm hỗ trợ nâng cấp Dàn nhạc Giao hưởng
Quốc gia Việt Nam đạt trình độ quốc tế.
+ Thực hiện
chương trình “Học bổng Toyota” dành cho các sinh viên xuất sắc tại các trường đại
học chuyên ngành kỹ thuật trên cả nước.
Phần thứ ba.
QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU,
NGUYÊN TẮC VÀ CÁC GIẢI PHÁP XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ TÀI TRỢ, ĐẶT HÀNG ĐỐI VỚI CÁC TÁC
PHẨM VĂN HỌC NGHỆ THUẬT, CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH SÁNG TÁC TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG
VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
I.
QUAN ĐIỂM
1. Nhà nước khuyến
khích và tạo điều kiện thuận lợi để mọi tổ chức, cá nhân tham gia phát triển VHNT.
2. Phát triển
VHNT phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và xu hướng
phát triển của thế giới.
3. Phát triển
VHNT trên cơ sở hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật và tăng cường đầu tư
kinh phí cho lĩnh vực.
4. Nhà nước thực
hiện tài trợ kinh phí cho tổ chức, tác giả hoặc nhóm tác giả để tạo điều kiện
và khuyến khích họ sáng tạo ra các tác phẩm VHNT có giá trị và phổ biến tác phẩm,
công trình VHNT tới công chúng trên cơ sở cân đối giữa nhu cầu kinh phí và khả
năng ngân sách.
5. Nhà nước đầu
tư đặt hàng các tác phẩm, công trình VHNT để phục vụ nhiệm vụ chính trị và thực
hiện chức năng quản lý xã hội. Tác phẩm, công trình VHNT đặt hàng được ngân
sách nhà nước cấp 100% kinh phí để thực hiện.
II.
MỤC TIÊU
1. Tạo mọi điều
kiện thuận lợi để đội ngũ văn nghệ sĩ sáng tạo ra nhiều tác phẩm có giá trị cao
về tư tưởng và nghệ thuật; phát hiện và khẳng định những giá trị mới làm phong
phú và đa dạng đời sống văn hóa, văn nghệ; góp phần xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
2. Từng bước
hoàn thiện khung pháp lý đối với việc tài trợ, đặt hàng và khuyến khích sáng
tác trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật.
3. Xây dựng
chính sách đãi ngộ phù hợp, bình đẳng đối với văn nghệ sĩ trong các cơ sở công
lập và ngoài công lập, bảo đảm cho văn nghệ sĩ tạo ra các tác phẩm văn học nghệ
thuật có chất lượng; thực hiện chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa của Đảng và Nhà
nước.
4. Có chính sách
đào tạo, bồi dưỡng và đãi ngộ đặc biệt với nhân tài của đất nước trong lĩnh vực
văn học, nghệ thuật.
5. Tôn trọng,
phát huy dân chủ, tự do tư tưởng trong hoạt động sáng tạo văn học nghệ thuật,
nghiên cứu, sưu tầm để tạo ra các tác phẩm văn học, công trình nghệ thuật, gắn
liền với phát huy trách nhiệm công dân của trí thức, văn nghệ sĩ.
6. Củng cố, đẩy
mạnh hoạt động của các Hội văn học, nghệ thuật ở Trung ương và địa phương nhằm
nâng cao khả năng tập hợp, phát huy tiềm năng sáng tạo và phát triển đội ngũ
văn nghệ sĩ của Hội.
III.
NGUYÊN TẮC:
1. Văn nghệ sĩ
được đảm bảo quyền lợi, sống bằng nghề, yên tâm gắn bó và cống hiến cho nền
VHNT của nước nhà.
2. Văn nghệ sĩ
được đãi ngộ theo tài năng, không phân biệt tuổi tác.
3. Đảm bảo đối xử
bình đẳng giữa văn nghệ sĩ của đơn vị công lập và ngoài công lập.
4. Đảm bảo phù hợp
với cam kết của Việt Nam với các nước, tổ chức quốc tế và các thông lệ quốc tế.
IV.
CÁC GIẢI PHÁP VỀ XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH TÀI TRỢ, ĐẶT HÀNG VÀ KHUYẾN KHÍCH SÁNG TÁC
VHNT:
1. Các giải pháp chung:
Để thực hiện việc
xây dựng chính sách và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tài trợ, đặt
hàng và khuyến khích sáng tác VHNT cần tập trung vào các công việc sau:
- Đề xuất ban
hành văn bản quy định về tài trợ, đặt hàng và khuyến khích sáng tác các tác phẩm
VHNT, qua đó quy định rõ về tiêu chí, phương thức, loại hình … tài trợ, đặt
hàng các tác phẩm VHNT.
+ Về tài trợ:
Hàng năm Nhà nước thành lập Hội đồng thẩm định các tác phẩm VHNT có chất lượng
cao để tài trợ kinh phí cho sáng tác và công bố tác phẩm. Cơ chế tài trợ sẽ được
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trình cấp có thẩm quyền quy định.
+ Đặt hàng: Hàng
năm Nhà nước đưa ra những tiêu chí về đề tài, loại hình nghệ thuật cần đặt hàng
sáng tác. Các Hội, các đơn vị, cá nhân có đề án, đề cương tác phẩm thực hiện
tiêu chí đề ra đăng ký đặt hàng sáng tác. Cơ chế đặt hàng sẽ được Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch trình cấp có thẩm quyền quy định.
- Tiếp tục sửa đổi,
bổ sung, hoàn thiện các chính sách liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến tài
trợ, đặt hàng các tác phẩm VHNT bao gồm: thành lập quỹ cải cách chính sách tiền
lương và phụ cấp, chính sách bảo hiểm xã hội, chính sách nhà ở, bảo hộ quyền
tác giả, quyền liên quan và chế độ nhuận bút; chính sách đối với tài năng trẻ,
xét tặng giải thưởng và danh hiệu nghệ sĩ, quảng bá VHNT, đầu tư thông qua
chương trình mục tiêu quốc gia, huy động đóng góp của các tổ chức cá nhân trong
nước và ngoài nước, thực hiện xã hội hóa…, cụ thể là:
a) Tổ chức hợp
lý các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật.
b) Tăng cường
công tác quản lý kinh phí đầu tư, tài trợ, đặt hàng.
c) Sử dụng hiệu
quả nguồn ngân sách nhà nước, đẩy mạnh việc xã hội hóa để khuyến khích sáng
tác, hỗ trợ và quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật.
d) Đổi mới công
tác đào tạo, đặc biệt là tài năng trẻ.
đ) Tổ chức các
cuộc thi sáng tác, hội thảo khoa học, biểu diễn, trưng bày các tác phẩm văn học,
nghệ thuật, trao giải thưởng hàng năm cho các tác phẩm văn học, nghệ thuật có
chất lượng cao; quảng bá hợp tác quốc tế, giao lưu và hội nhập với văn học, nghệ
thuật thế giới.
e) Nâng cao hiệu
quả, vai trò của các Hội văn học, nghệ thuật trong việc tạo điều kiện, khuyến
khích sáng tác, đẩy mạnh lý luận phê bình, quảng bá các tác phẩm của nghệ sĩ ở
trong và ngoài nước.
2. Các giải pháp cụ thể:
2.1. Đề xuất
một số nội dung cơ bản xây dựng văn bản quy định về tài trợ, đặt hàng và khuyến
khích sáng tác các tác phẩm VHNT
2.1.1. Về tài
trợ, đặt hàng sáng tác các tác phẩm VHNT:
+ Về tài trợ:
Nhà nước thực hiện tài trợ kinh phí cho các tổ chức, tác giả hoặc nhóm tác giả
để sáng tạo ra các tác phẩm VHNT có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao từ khâu
đầu tư sáng tác tới khâu công bố và phổ biến tác phẩm. Cơ chế tài trợ được thực
hiện thông qua Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các Hội VHNT chuyên ngành
trung ương và địa phương.
+ Về đặt hàng:
Nhà nước đầu tư đặt hàng các tác phẩm, công trình VHNT để phục vụ nhiệm vụ
chính trị và thực hiện chức năng quản lý xã hội. Tác phẩm, công trình VHNT đặt
hàng được ngân sách nhà nước cấp 100% kinh phí để thực hiện và phổ biến tác phẩm.
Bản quyền các tác phẩm, công trình VHNT đặt hàng thuộc về Nhà nước. Cơ chế đặt
hàng được thực hiện thông qua Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các Hội VHNT
chuyên ngành trung ương và địa phương.
+ Các đối tượng
được tài trợ, đặt hàng bao gồm:
Các văn nghệ sĩ
thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động trong lĩnh vực VHNT.
Các tổ chức có
chức năng thực hiện sáng tạo tác phẩm VHNT.
2.1.2. Về
khuyến khích sáng tác các tác phẩm VHNT:
i/ Khuyến khích
đối với văn nghệ sĩ sáng tác trong lĩnh vực VHNT:
* Quy định về chế
độ nhuận bút: các tổ chức, cá nhân sáng tạo tác phẩm VHNT được hưởng nhuận bút
theo quy định hiện hành (Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số
61/2002/NĐ-CP).
* Chế độ lương,
thưởng, phụ cấp đối với Nghệ sĩ Nhân dân, Nghệ sĩ Ưu tú:
- Được nhận tiền
thưởng theo quy định hiện hành.
- Được xét nâng
bậc lương trước niên hạn.
- Được hưởng phụ
cấp danh hiệu: Mức phụ cấp đối với Nghệ sĩ Nhân dân bằng 100% lương tối thiểu/tháng;
đối với Nghệ sĩ Ưu tú bằng 2/3 mức lương tối thiểu/tháng.
* Khuyến khích
hoạt động sáng tác, biểu diễn, trình chiếu… các loại hình VHNT phục vụ thiếu
niên, nhi đồng và đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa.
ii/ Khuyến khích
đối với tổ chức, doanh nghiệp tài trợ cho hoạt động sáng tạo VHNT:
Các tổ chức,
doanh nghiệp tài trợ kinh phí cho hoạt động sáng tạo VHNT thì kinh phí tài trợ
được tính vào chi phí của tổ chức, doanh nghiệp khi xác định thu nhập chịu thuế.
2.1.3. Chế độ
thăm hỏi, hỗ trợ kinh phí đối với văn nghệ sĩ:
- Đối với các
Nghệ sĩ Nhân dân và những người được Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà
nước, có công với cách mạng khi đau ốm nặng được thăm hỏi, hỗ trợ kinh phí.
2.2. Tiếp tục
sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các chính sách liên quan đến tài trợ, đặt hàng các
tác phẩm VHNT:
2.2.1. Các
chính sách đang được triển khai sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng mới:
a) Chính sách bảo
hộ quyền tác giả:
Liên tịch Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Thông tin và Truyền thông và Bộ Tài chính ban hành
Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện việc mua bản quyền khi sử dụng tác phẩm
VHNT để phục vụ lợi ích cộng đồng.
b) Tăng cường cơ
sở vật chất cho VHNT:
Có quy hoạch, đầu
tư xây dựng cơ sở vật chất, thiết chế văn hóa như: Nhà hát, rạp chiếu phim, nhà
xuất bản, khu triển lãm, trung tâm văn hóa nghệ thuật.
c) Phát huy vai
trò của các Hội VHNT:
Chính sách quan
trọng và cấp bách hiện nay đối với văn nghệ sĩ là kiện toàn cơ cấu tổ chức của
các Hội VHNT. Cần có quy định về mô hình tổ chức theo tính chất đặc thù của mỗi
Hội chuyên ngành Trung ương và mô hình tổ chức đối với các Hội VHNT địa phương
của 63 tỉnh thành phố trong cả nước.
- Các Hội VHNT
chuyên ngành Trung ương:
Các Hội VHNT
chuyên ngành Trung ương được tách ra từ Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, có bề
dày hoạt động trên 50 năm, được Ban Bí thư trực tiếp chỉ đạo nên cơ cấu tổ chức
được tạm hoàn thiện theo thời gian và nghiệp vụ hoạt động. Trong mỗi Hội có đặc
thù hoạt động của riêng chuyên ngành nhưng vẫn cần có một quy chuẩn về cơ cấu tổ
chức của mỗi Hội.
- Các Hội VHNT địa
phương:
Sau khi tỉnh Hà
Tây sáp nhập vào Hà Nội năm 2008, hiện nay còn 63 Hội VHNT tỉnh, thành phố. Hội
VHNT địa phương được thành lập sớm nhất năm 1960 và Hội VHNT địa phương thành lập
muộn nhất năm 2004. Tổ chức của các Hội VHNT địa phương do Ủy ban nhân dân của
các tỉnh thành lập, quy định số lượng biên chế đồng thời tài trợ kinh phí duy
trì bộ máy công tác Hội và các hoạt động VHNT.
Do khả năng về
ngân sách và nhận thức về hoạt động văn học, nghệ thuật của mỗi tỉnh, thành phố
khác nhau nên cơ cấu Hội VHNT của các tỉnh, thành phố không thống nhất. Số biên
chế của mỗi Hội rất khác biệt. Có Hội gồm 17, 18 biên chế do Tỉnh ủy, UBND đánh
giá được vai trò của hoạt động văn học nghệ thuật vào đời sống chính trị - xã hội
của tỉnh, có Hội chỉ gồm 3 hoặc 4 biên chế, không đủ người và kinh phí để triển
khai các hoạt động văn học, nghệ thuật, thậm chí tên gọi các Hội và cả con dấu
cũng không thống nhất.
Nguyên nhân trên
dẫn đến việc tập hợp, đoàn kết văn nghệ sĩ cả nước còn hạn chế và hoạt động
VHNT cả nước chưa được đồng đều. Lưu lượng văn nghệ sĩ cả nước có tới gần 34
ngàn người, với sản phẩm lao động mang tính đặc thù, có ảnh hưởng trực tiếp đến
đời sống tinh thần xã hội nên các Hội VHNT, nhất là các Hội VHNT địa phương cần
có tổ chức liên kết chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương để thực hiện tốt đường
lối do Đảng lãnh đạo.
2.2.2. Các
chính sách tiếp tục được nghiên cứu, xem xét để giải quyết trong thời gian tới:
a) Chế độ Nhuận
bút:
Do quá trình biến
động của nền kinh tế thị trường, nhuận bút các tác phẩm VHNT ngày càng bất cập,
chưa khuyến khích được đội ngũ văn nghệ sĩ tâm huyết với nghề. Vì vậy, cần sửa
đổi Nghị định 61/2002/NĐ-CP của Chính phủ về chế độ nhuận bút cho phù hợp với đời
sống VHNT hiện nay.
b) Chính sách
đào tạo tài năng trẻ:
- Để những nghệ
sĩ trẻ có tài năng trên lĩnh vực VHNT được đào tạo cơ bản, đề nghị Chính phủ có
chính sách và phân bổ chỉ tiêu đào tạo hàng năm cho lĩnh vực VHNT ở các trường
đào tạo chuyên ngành trong và ngoài nước.
- Xây dựng chính
sách để trẻ hóa đội ngũ cán bộ.
c) Giải thưởng đối
với danh hiệu nghệ sĩ trong lĩnh vực VHNT:
- Giải thưởng đối
với danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân, Nghệ sĩ Ưu tú:
Điều chỉnh mức
tiền thưởng đối với danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân, Nghệ sĩ Ưu tú cho phù hợp với
biến động về giá cả và mức tăng lương tối thiểu chung theo quy định của Nhà nước
trong từng năm, đảm bảo sự ghi nhận của Nhà nước đối với các danh hiệu này. Tuy
nhiên, việc điều chỉnh mức tiền thưởng này cần phải được nghiên cứu chung cho
các đối tượng, bao gồm các đối tượng ở các lĩnh vực khác được điều chỉnh theo
Luật Thi đua – Khen thưởng như Nhà giáo Nhân dân, Nhà giáo Ưu tú, Thầy thuốc
Nhân dân, Thầy thuốc Ưu tú… Ngày 15 tháng 4 năm 2010, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 42/2010/NĐ-CP quy định chi tiết, thi hành một số Điều của Luật Thi đua,
Khen thưởng và Luật sửa đổi bổ sung một số Điều của Luật Thi đua, Khen thưởng.
Nghị định này thay thế Nghị định số 121/2005/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2005 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi đua,
Khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng.
Đây là sự điều chỉnh kịp thời, thể hiện sự ghi nhận của Nhà nước đối với danh
hiệu nghệ sĩ trong lĩnh vực VHNT.
- Giải thưởng
hàng năm của các Hội VHNT:
Giải thưởng hàng
năm cho các tác giả VHNT được trao hàng năm thông qua Ủy ban toàn quốc Liên hiệp
các Hội VHNT Việt Nam; tuy nhiên việc trao giải thưởng này chưa được thể chế
hóa thành quy định pháp lý. Đề nghị xây dựng Đề án về trao thưởng hàng năm cho
các tác giả trên lĩnh vực VHNT. Trong đó xác định cụ thể loại hình giải thưởng,
số tiền thưởng để có cơ sở thực hiện chung, tạo sự hưng phấn cho các nghệ sĩ
sáng tạo.
d) Xác định đối
tượng trong các loại hình VHNT được trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải
thưởng Nhà nước:
Đề nghị trong
Nghị định hướng dẫn Luật Thi đua - Khen thưởng cần quy định rõ đối tượng được
giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng Nhà nước. Ví dụ: trong lĩnh vực Điện ảnh,
tác giả và đạo diễn đều được xét tặng giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng Nhà
nước; trong nghệ thuật múa biên đạo được xét tặng cả hai loại giải thưởng Hồ
Chí Minh, giải thưởng Nhà nước; nhưng đối với lĩnh vực sân khấu thì chỉ có tác
giả được xét tặng giải thưởng này mà không có đạo diễn, điều này đã gây nên những
thắc mắc trong văn nghệ sĩ. Vì vậy đề nghị Chính phủ đưa cụ thể đối tượng được
giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng Nhà nước vào Nghị định thực hiện Luật Thi
đua - Khen thưởng.
đ) Tiếp tục đầu
tư sáng tác cho các Hội VHNT và cơ quan báo hoặc tạp chí của các Hội VHNT
- Tiếp tục đầu
tư cho các Hội VHNT giai đoạn 2010 – 2015 theo Quyết định số 926/QĐ-TTg ngày 6
tháng 7 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ hỗ trợ hoạt động sáng tạo để thúc đẩy
niềm say mê, kích thích sáng tạo của lực lượng văn nghệ sĩ.
- Đẩy mạnh công
tác đào tạo, bồi dưỡng, tập hợp văn nghệ sĩ, tài năng trẻ, củng cố và ổn định
cơ quan báo hoặc tạp chí của các Hội VHNT. Coi báo và tạp chí của Hội ngoài nhiệm
vụ tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng còn là vườn ươm, nơi tạo dựng sự
nghiệp, công bố tác phẩm VHNT cho văn nghệ sĩ.
e) Đầu tư kinh
phí cho báo tạp chí, nhà xuất bản của các Hội VHNT:
Xây dựng đề án
trình Chính phủ ban hành Nghị định về chính sách đầu tư kinh phí phù hợp cho tạp
chí, báo, xuất bản của các Hội VHNT để các đơn vị này hoạt động ổn định, thực
hiện chức năng phổ biến, tuyên truyền phục vụ chính trị.
KẾT LUẬN
Trong thời kỳ đổi
mới, cùng với các lĩnh vực khác, VHNT đã nắm bắt được dòng mạch chính là chủ
nghĩa yêu nước và nhân văn, gắn bó với dân tộc, phản ánh chân thật cuộc sống đấu
tranh cách mạng và lao động sáng tạo của nhân dân, có nhiều tác phẩm tốt trong
tất cả các loại hình nghệ thuật, thể hiện qua những đề tài lịch sử, chiến tranh
cách mạng và những vấn đề thời sự của đất nước, phát hiện, khẳng định các nhân
tố mới, tham gia cuộc đấu tranh lên án cái xấu, cái ác, sự biến chất, thoái hóa
về nhân cách, đời sống và đạo đức trong một bộ phận xã hội.
Tuy nhiên, cùng
với các thành tựu trên, hoạt động VHNT trong nền kinh tế thị trường cũng đã bộc
lộ những hạn chế, yếu kém, đó là: thiếu hụt những tác phẩm mới phản ánh giai đoạn
đổi mới, bám sát thực tiễn cuộc sống của đất nước và dân tộc, một bộ phận những
người sáng tạo chạy theo những chủ đề câu khách, thị hiếu tầm thường, khu vực
truyền bá VHNT bị thị trường chi phối, có lúc, có nơi bị mất định hướng, thiếu
hụt đội ngũ sáng tạo, phê bình. Năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý còn bộc lộ
nhiều bất cập, hạn chế; nội dung và phương thức lãnh đạo chậm đổi mới. Chưa lường
hết được tác động phức tạp, tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường, dẫn tới sự
lúng túng, thụ động khi định hướng và xử lý những vấn đề mới phát sinh. Việc thể
chế hóa các Nghị quyết, quan điểm của Đảng còn chậm; một số cơ chế, chính sách
vẫn chưa được cụ thể hóa để thực hiện, trong đó có những chính sách đối với văn
nghệ và văn nghệ sĩ đã lạc hậu nhưng chậm được sửa đổi. Chưa xây dựng được những
công trình văn hóa, nghệ thuật tương xứng với vị thế của đất nước thời kỳ mới.
Hệ thống các Hội VHNT chậm đổi mới nội dung và phương thức hoạt động.
Nghị quyết
23-NQ/TW của Bộ Chính trị dành sự quan tâm riêng cho VHNT đã thể hiện ý chí của
Đảng đối với sự nghiệp phát triển VHNT trong bối cảnh thị trường, hội nhập quốc
tế, đã thực sự khuyến khích nhiều lực lượng xã hội tham gia vào việc đầu tư, hỗ
trợ phát triển VHNT. Qua đó đã nâng cao vai trò của VHNT để VHNT tiếp tục là
“người lính” xung kích trên mặt trận tư tưởng, góp phần phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ đổi mới.
Đề án “Xây dựng
và rà soát các chế độ chính sách đối với các hoạt động VHNT và văn nghệ sĩ. Chế
độ tài trợ, đặt hàng đối với các tác phẩm VHNT. Chính sách khuyến khích sáng
tác trong các hoạt động VHNT” được thực hiện nhằm đề xuất từng bước kiện toàn hệ
thống cơ chế chính sách phát triển văn học, làm bệ phóng cho nền VHNT Việt Nam
trong giai đoạn tiếp theo đạt tới một tầm cao mới. Việc đề xuất sửa đổi, bổ
sung chế độ chính sách đối với VHNT về cơ bản sẽ giải quyết được cơ bản chế độ
chính sách đối với giới văn nghệ sĩ nói chung như: vấn đề nhuận bút, vấn đề kiện
toàn tổ chức của các hội VHNT … Tuy nhiên, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế
quốc tế hiện nay cùng những biến đổi sâu sắc về chính trị, bên cạnh những thuận
lợi, đất nước ta đang gặp nhiều khó khăn nhất định về kinh tế nên cũng tác động
không nhỏ tới việc thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ để khuyến khích, tạo điều
kiện cho phát triển VHNT. Do vậy, xây dựng, sửa đổi các chính sách cũng như việc
thực hiện các giải pháp nhằm khuyến khích sáng tác VHNT cần kịp thời nhận được
sự chỉ đạo từ các Ban của Đảng, Chính phủ, sự phối hợp và hỗ trợ của các ngành,
các cấp và các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực VHNT.
Cùng với việc từng
bước hoàn thiện thể chế và tăng cường đầu tư cho VHNT, chắc chắn trong thời
gian tới VHNT sẽ có những khởi sắc, xứng đáng là một bộ phận quan trọng và tinh
tế của văn hóa góp phần củng cố và phát triển nền tảng tinh thần của xã hội./.
PHẦN PHỤ LỤC
Phụ lục số 1:
|
Danh mục các văn bản quy phạm
pháp luật hiện hành về tài trợ đặt hàng đối với các tác phẩm văn học, nghệ
thuật, khuyến khích sáng tác trong các hoạt động văn học, nghệ thuật và thành
lập Quỹ sáng tác.
|
Phụ lục số 2:
|
Lộ trình xây dựng hoặc sửa đổi, bổ
sung các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động tài trợ, đặt hàng và
khuyến khích sáng tác các tác phẩm văn học, nghệ thuật.
|
Phụ lục số 3:
|
Giải thưởng văn học nghệ thuật
các tỉnh, thành phố hiện nay.
|
PHỤ LỤC SỐ 1
DANH MỤC CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
HIỆN HÀNH VỀ TÀI TRỢ ĐẶT HÀNG ĐỐI VỚI CÁC TÁC PHẨM VHNT, KHUYẾN KHÍCH SÁNG TÁC
TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG VHNT VÀ THÀNH LẬP QUỸ SÁNG TÁC
1.
Luật Điện ảnh số 62/2006/QH11 ngày 12 tháng 7 năm 2006 của Quốc hội
2.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh số 31/2009/QH12 ngày
18/6/2009 của Quốc hội
3.
Luật Xuất bản số 30/2004/QH11 ngày 14 tháng 12 năm 2004 của Quốc hội.
4.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất bản số 12/2008/QH12 ngày 12
tháng 6 năm 2008 của Quốc hội.
5.
Luật Bảo hiểm xã hội số 71/2006/QH11 ngày 12 tháng 7 năm 2006 của Quốc hội.
6.
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 ngày 12 tháng 6 năm 2008 của Quốc
hội.
7.
Luật Thuế giá trị gia tăng số 13/2008/QH12 ngày 12 tháng 6 năm 2008 của Quốc hội.
8.
Luật thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12 ngày 5 tháng 12 năm 2007 của Quốc hội
9.
Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 ngày 12 tháng 12 năm 2005 của Quốc hội.
10.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ số 36/2009/QH12 ngày
19/6/2009 của Quốc hội.
11.
Nghị định số 96/2007/NĐ-CP ngày 6 tháng 6 năm 2007 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Điện ảnh.
12.
Nghị định số 111/2005/NĐ-CP ngày 26 tháng 8 năm 2005 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Xuất bản.
13.
Nghị định số 11/2009/NĐ-CP ngày 10 tháng 2 năm 2009 của Chính phủ về việc sửa đổi,
bổ sung Nghị định số 111/2005/NĐ-CP ngày 26 tháng 08 năm 2005 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Xuất bản.
14.
Nghị định số 152/2006/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm
xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc.
15.
Nghị định 100/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ về việc quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí
tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan.
16.
Nghị định số 47/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ về quy định xử
phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan
17.
Nghị định số 116/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về tuyển dụng,
sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước
18.
Nghị định số 31/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 3 năm 2005 của Chính phủ về sản xuất
và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích.
19.
Nghị định số 53/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2006 của Chính phủ về chính sách
khuyến khích phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập.
20.
Nghị định 100/2008/NĐ-CP ngày 8 tháng 9 năm 2008 của Chính phủ về việc quy định
chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân.
21.
Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30 tháng 05 năm 2008 của Chính phủ về chính
sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy
nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường.
22.
Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về chế độ
tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lưu lượng vũ trang
23.
Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ về việc quy định
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên
chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập.
24.
Nghị định số 61/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 6 năm 2002 của Chính phủ về chế độ Nhuận
bút.
25.
Nghị định số 148/2007/NĐ-CP ngày 25/9/2007 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động
của Quỹ xã hội, Quỹ từ thiện
26.
Nghị định 121/2005/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Thi đua – Khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Thi đua – Khen thưởng
27.
Quyết định số 180/2006/QĐ-TTg ngày 09 tháng 8 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ
về chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề và bồi dưỡng đối với lao động biểu diễn nghệ
thuật ngành văn hóa – thông tin.
28.
Quyết định số 1466/QĐ-TTg ngày 10 tháng 10 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về
việc ban hành Danh mục chi tiết các loại hình, tiêu chí quy mô, tiêu chuẩn của
các cơ sở thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo, dạy nghề, y tế,
văn hóa, thể thao, môi trường.
29.
Quyết định số 151/QĐ-TTg ngày 13 tháng 2 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc
hỗ trợ hoạt động sáng tạo tác phẩm, công trình VHNT, báo chí theo cơ chế Nhà nước
đặt hàng.
30.
Quyết định số 926/QĐ-TTg ngày 06 tháng 7 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc
Phê duyệt Đề án tiếp tục hỗ trợ hoạt động sáng tạo tác phẩm, công trình VHNT,
báo chí ở trung ương và các Hội VHNT địa phương; hỗ trợ tác phẩm báo chí chất
lượng cao ở địa phương giai đoạn 2006 – 2010.
31.
Quyết định số 256/2006/QĐ-TTg ngày 09 tháng 11 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ
ban hành Quy chế đấu thầu, đặt hàng, giao kế hoạch thực hiện sản xuất và cung ứng
sản phẩm, dịch vụ công ích.
32.
Quyết định số 39/2008/QĐ-TTg ngày 14 tháng 3 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ
ban hành Quy chế đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp
công sử dụng Ngân sách Nhà nước.
33.
Quyết định 82/2005/QĐ-TTg ngày 18 tháng 4 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về
chế độ ưu đãi đối với học sinh, sinh viên các bộ môn nghệ thuật truyền thống và
đặc thù trong các trường văn hóa – nghệ thuật.
34.
Quyết định số 45/2008/QĐ-TTg ngày 28 tháng 3 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Quy hoạch phát triển nghệ thuật biểu diễn Việt Nam đến năm 2010.
35.
Quyết định số 125/2007/QĐ-TTg ngày 31 tháng 7 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa giai đoạn 2006 - 2010
36.
Chỉ thị số 04/2007/CT-TTg ngày 22 tháng 2 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về
việc tăng cường bảo hộ quyền tác giả.
37.
Chỉ thị số 36/2008/CT-TTg ngày 31 tháng 12 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về
tăng cường quản lý và thực thi quyền tác giả và quyền liên quan
38.
Thông tư liên tịch số 52/2003/TTLT/BVHTT-BTC ngày 29 tháng 8 năm 2003 của Bộ
VHTT-BTC hướng dẫn việc hỗ trợ hoạt động sáng tạo tác phẩm công trình văn học -
nghệ thuật, báo chí theo cơ chế Nhà nước đặt hàng
39.
Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BVHTT-BTC ngày 14 tháng 6 năm 2007 của liên
ngành Bộ Văn hóa – Thông tin (trước đây) và Bộ Tài chính hướng dẫn hỗ trợ tác
phẩm báo chí chất lượng cao ở Trung ương và địa phương giai đoạn 2007 – 2010.
40.
Thông tư 135/2008/TT-BTC ngày 31 tháng 12 năm 2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn
Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30 tháng 05 năm 2008 của Chính phủ về chính
sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy
nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường.
41.
Thông tư liên tịch số 13/2006/TTLT-BVHTT-BTC ngày 19 tháng 1 năm 2006 của Bộ
Văn hóa – Thông tin và Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện chế độ ưu đãi đối với học
sinh, sinh viên các bộ môn nghệ thuật truyền thống và đặc thù trong các trường
văn hóa – nghệ thuật.
42.
Thông tư số 26/2006/TT-BVHTT ngày 21 tháng 2 năm 2006 của Bộ Văn hóa – Thông
tin (trước đây) hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp độc hại, nguy hiểm và bồi dưỡng
bằng hiện vật đối với cán bộ, công chức, viên chức ngành văn hóa, thông tin.
43.
Thông tư liên tịch số 94/2006/TTLT-BVHTT-BNV-BTC ngày 01 tháng 12 năm 2006 của
Bộ Văn hóa – Thông tin, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Quyết định
số 180/2006/QĐ-TTg ngày 09/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ phụ cấp ưu
đãi theo nghề và bồi dưỡng đối với lao động biểu diễn nghệ thuật ngành văn hóa
– thông tin.
44.
Thông tư liên tịch số 29/2009/TT-BTC ngày 10 tháng 2 năm 2009 quy định về mức
thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp giấy chứng nhận Quyền tác
giả, quyền liên quan.
45.
Thông tư liên tịch Bộ Văn hóa – Thông tin – Bộ Tài chính số
21/2003/TTLT-BVHTT-BTC ngày 1 tháng 7 năm 2003 hướng dẫn việc chi trả chế độ
nhuận bút, trích lập và sử dụng Quỹ Nhuận bút đối với một số loại hình tác phẩm
quy định tại Nghị định số 61/2002/NĐ-CP.
46.
Thông tư số 23/2007/TT-BVHTT ngày 27 tháng 7 năm 2007 của Bộ Văn hóa – Thông
tin hướng dẫn xét tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng Nhà nước về VHNT
47.
Thông tư số 09/2008/TT-BNV ngày 31/12/2008 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện một
số điều của Nghị định số 148/2007/NĐ-CP về tổ chức, hoạt động của Quỹ xã hội,
Quỹ từ thiện
48.
Quyết định số 10/2008/QĐ-BTC ngày 12/2/2008 của Bộ Tài chính về việc ban hành
Quy chế quản lý tài chính Quỹ xã hội, Quỹ từ thiện
PHỤ LỤC SỐ 2
LỘ TRÌNH XÂY DỰNG HOẶC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG TÀI TRỢ, ĐẶT HÀNG VÀ KHUYẾN
KHÍCH SÁNG TÁC CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT
STT
|
Tên
công việc
|
Cơ
quan chủ trì
|
Cơ
quan phối hợp
|
Thời
gian thực hiện
|
1
|
Nghị định của Chính phủ về đổi mới
cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính (trong đó có tiền lương) đối với các đơn
vị sự nghiệp công lập thuộc ngành văn hóa, thể thao và du lịch
|
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
|
Bộ Nội vụ, Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội và các cơ quan có liên quan
|
Năm
2011 – 2012
|
2
|
Nghị định của Chính phủ về hoạt động
nghệ thuật biểu diễn
|
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
|
Các cơ quan có liên quan
|
Năm
2011
|
3
|
Nghị định của Chính phủ về quản
lý mỹ thuật
|
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
|
Các cơ quan có liên quan
|
Năm
2011
|
4
|
Nghị định hướng dẫn thi hành Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ
|
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
|
Bộ Tư pháp và các cơ quan có liên
quan
|
Năm
2011
|
5
|
Đề án trình Thủ tướng Chính phủ
quyết định về việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giảng viên trình độ cao trong
lĩnh vực văn hóa nghệ thuật nhằm xây dựng đội ngũ chuyên gia đầu ngành về văn
hóa, nghệ thuật
|
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
|
Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ
quan có liên quan
|
Năm
2011
|
6
|
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
về Quy hoạch phát triển ngành mỹ thuật đến năm 2020.
|
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
|
Các cơ quan có liên quan
|
Năm
2011
|
7
|
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
về quy hoạch tượng đài danh nhân
|
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
|
Các cơ quan có liên quan
|
Năm
2011
|
8
|
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
về đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo của các trường văn hóa, nghệ thuật
|
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
|
Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ
quan có liên quan
|
Năm
2011
|
9
|
Thông tư liên tịch hướng dẫn thực
hiện giao kế hoạch, đặt hàng đấu thầu sản xuất phim, mua bản quyền phim bằng
ngân sách Nhà nước
|
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
|
Bộ Tài chính và các cơ quan có
liên quan
|
Năm
2011
|
10
|
Thông tư liên tịch hướng dẫn đấu
thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp hoạt động biểu diễn nghệ thuật sử dụng
ngân sách nhà nước
|
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
|
Bộ Tài chính và các cơ quan có
liên quan
|
Năm
2011
|
11
|
Đề án trình Thủ tướng Chính phủ
ban hành Quyết định về đào tạo, bồi dưỡng và phát triển các tài năng trẻ
trong lĩnh vực VHNT
|
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
|
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài
chính và các cơ quan có liên quan
|
Năm
2011
|
12
|
Đề án trình Thủ tướng Chính phủ
quyết định về việc, tài trợ, đầu tư đặt hàng sáng tác các tác phẩm VHNT cho các
Hội VHNT giai đoạn 2011 – 2015 (trên cơ sở đánh giá lại hiệu quả hỗ trợ hoạt
động sáng tạo cho các Hộ VHNT giai đoạn 2006 – 2010 theo Quyết định
926/QĐ-TTg ngày 6 tháng 7 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ)
|
Ủy ban toàn quốc Liên Hiệp các Hội
VHNT Việt Nam
|
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch,
Bộ Tài chính và các cơ quan có liên quan
|
Năm
2011
|
13
|
Đề án trình Thủ tướng Chính phủ
quyết định về “Đưa việc giáo dục nghệ thuật truyền thống vào chương trình
giáo dục tiểu học và trung học cơ sở”
|
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
|
Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục và Đào
tạo và các cơ quan có liên quan
|
Năm
2011
|
PHỤ LỤC SỐ 3
GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC NGHỆ THUẬT CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ HIỆN
NAY
Số
TT
|
Hội
VHNT
|
Tên
Giải thưởng
|
Năm
thành lập
|
Định
kỳ trao giải
|
Tổng
kinh phí
|
Ghi
chú (Hạn chế, kiến nghị)
|
1
|
An Giang
|
Giải thưởng VHNT An
Giang
|
2000
|
5
năm/lần
|
Giải A: 30 triệu
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
|
2
|
Bà Rịa - Vũng Tàu
|
Giải thưởng VHNT Bà Rịa - Vũng
Tàu
|
1991
|
1991-2003
2004-2009
(5
năm/lần)
|
257 triệu
321 triệu
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
|
3
|
Bạc Liêu
|
Giải thưởng Cao Văn Lầu
|
2009
|
|
Giải A: 15 triệu
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
|
4
|
Bắc Giang
|
Giải thưởng VHNT Sông Thương
|
2002
|
5
năm/lần
|
100 triệu (đã trao giải lần II
năm 2008)
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
|
5
|
Bắc Kạn
|
Chưa thành lập giải thưởng
|
|
|
|
|
6
|
Bắc Ninh
|
Chưa thành lập giải thưởng
|
|
|
|
|
7
|
Bến Tre
|
Giải thưởng VHNT Nguyễn Đình
Chiều tỉnh Bến Tre
|
2009
|
5
năm/lần
|
Không cố định, có tính đến trượt
giá và nâng cao dần
|
Được Tỉnh ủy, UBND tỉnh nhiệt
tình ủng hộ
|
8
|
Bình Dương
|
Giải thưởng Huỳnh Văn Nghệ
|
1995
|
5
năm/lần
|
250 triệu
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
|
9
|
Bình Định
|
Giải thưởng Đào Tấn – Xuân Diệu
|
1997
|
5
năm/lần
|
Tổng kinh phí lần 3 (2007) = 500
triệu, trong đó:
- Giải A: 12 triệu
- Giải B: 8 triệu
- Giải KK: 5 triệu
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT.
- Có nhiều dư luận sau mỗi lần
xét giải: nếu bó hẹp giải thưởng cho thực chất tài năng, giải sẽ chỉ trao
quanh quẩn cho một số tác giả gạo cội”, dư luận cho là không động viên được
phong trào chung; nếu mở rộng nhiều giải, dư luận lại cho rằng mang tính mặt
trận”, không có tác dụng tôn vinh, định hướng…
|
10
|
Bình Phước
|
Chưa thành lập giải thưởng
|
|
|
|
|
11
|
Bình Thuận
|
Giải Văn nghệ Dục Thanh
|
1993
|
5
năm/lần
|
100 triệu (2005), trong đó:
- Giải A: 7 triệu
- Giải B: 5 triệu
- Giải C: 3 triệu
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
|
12
|
Cà Mau
|
Giải thưởng Phan Ngọc Hiển
|
2005
|
5
năm/lần
|
288.125 triệu
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
|
13
|
Cao Bằng
|
Giải thưởng Pác Bó
|
2003
|
3
năm/lần
|
45 triệu
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân văn.
- Quy chế giải thưởng chưa phù hợp:
xây dựng 3 giải (giải đặc biệt, giải xuất sắc và giải khuyến khích), do đó,
HĐGT cấp cơ sở (Hội) còn khá lúng túng, vì rất khó đánh giá, xếp loại giải
|
14
|
Cần Thơ
|
Giải thưởng VHNT Bùi Hữu Nghĩa
|
2010
|
4
năm/lần
|
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
- Lần đầu xét từ 1945 – 2010
|
15
|
Đà Nẵng
|
Giải thưởng VHNT Tp. Đà Nẵng
|
2002
|
5
năm/lần
|
Căn cứ vào chất lượng các tác phẩm
– công trình VHNT:
- Giải A: 20 triệu
- Giải B: 15 triệu
- Giải C: 10 triệu
- Giải KK: 5 triệu
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
- Hạn chế: Các Hội chuyên ngành
chưa tập hợp hết và đề xuất những tác phẩm tiêu biểu của chuyên ngành; Cơ cấu
thành phần Hội đồng chấm giải (cấp thành phố) không thuộc các chuyên ngành
VHNT, có tính chất mặt trận ảnh hưởng đến chất lượng của giải.
- Đề xuất: UBTQ nên thống nhất sườn
giải thưởng ở địa phương
|
16
|
Đak Lak
|
Giải thưởng VHNT Chư Yang Sin
|
|
5
năm/lần
|
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT (lần 1 năm 2010)
|
17
|
Đak Nông
|
Chưa có giải thưởng về VHNT
|
|
|
|
|
18
|
Đồng Nai
|
Chưa có giải thưởng về VHNT
|
|
|
|
|
19
|
Đồng Tháp
|
Giải thưởng VHNT Nguyễn Quang
Diêu
|
2005
|
5
năm/lần
|
780 triệu (đã trao lần 1)
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT.
- Tác phẩm dự thi của tác giả
trên khắp cả nước sáng tác về Đồng Tháp
|
20
|
Điện Biên
|
Giải thưởng VHNT Điện Biên Phủ
|
2009
|
5
năm/lần
|
210 triệu
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
|
21
|
Gia Lai
|
Giải thưởng VHNT Gia Lai
|
2004
|
5
năm/lần
|
350 triệu
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT.
- Kiến nghị: Hội chuyên ngành trung
ương cần cử ít nhất là một thành viên trong HĐNT tham gia cùng HĐNT của tỉnh
để xét giải; Giải thưởng đã đạt được trong các cuộc thi, các Hội chuyên ngành
nên là một trong những tiêu chí để xét giải; nên tăng giá trị giải thưởng
|
22
|
Hà Giang
|
Giải thưởng Tây Côn Lĩnh
|
|
5
năm/lần
|
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT.
|
23
|
Hà Nam
|
Giải thưởng Nguyễn Khuyến
|
|
5
năm/lần
|
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT.
|
24
|
Hà Nội
|
Giải thưởng VHNT Thăng Long
|
|
|
|
|
25
|
Hậu Giang
|
Chưa có giải thưởng về VHNT
|
|
|
|
|
26
|
Hà Tĩnh
|
Giải thưởng VHNT Nguyễn Du
|
1998
|
5
năm/lần
|
Tùy theo đợt. Lần thứ IV = 120
triệu, lần thứ V (dự kiến cuối 2010) dự trù 200 triệu
|
Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT.
|
27
|
Hải Dương
|
Giải thưởng VHNT Côn Sơn – Hải
Dương
|
1985
|
5
năm/lần
|
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT.
|
28
|
Hải Phòng
|
- Giải thưởng VHNT Nguyễn Bỉnh
Khiêm
|
2000
|
5
năm/lần
|
|
- Giải thưởng của UBND thành phố
về VHNT.
- Hàng năm Hội còn tổ chức trao
giải thưởng cho cuộc thi và triển lãm ảnh nghệ thuật; Tạp chí Cửa Biển của
Hội cũng trao tặng thưởng cho tác phẩm hay thuộc các thể loại in trên tạp
chí.
- Hạn chế: số lượng, cơ cấu của
giá trị vật chất của giải còn thấp, không phù hợp với 9 Hội chuyên ngành thuộc
Hội
|
- Giải thưởng VHNT Nguyên Hồng
|
2008
|
2
năm/lần
|
53 triệu
|
29
|
Hòa Bình
|
Giải thưởng về VHNT
|
|
Không
định kỳ
|
Không cố định
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh.
- Không thành thông lệ nên không có
năm thành lập; không định kỳ trao giải, chỉ trao vào những năm có sự kiện
chính trị lớn của tỉnh (khi có đề xuất của Hội VHNT)
|
30
|
Hưng Yên
|
Giải thưởng VHNT Phố Hiến
|
|
5
năm/lần
|
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
|
31
|
Tp Hồ Chí Minh
|
|
|
|
|
|
32
|
Khánh Hòa
|
- Giải thưởng VHNT Khánh Hòa
|
2001
|
1
năm/lần
|
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
|
- Giải thưởng VHNT Khánh Hòa
|
2006
|
5
năm/lần
|
33
|
Kiên Giang
|
|
|
|
|
- Từ năm 2000 đến nay, Hội VHNT
có xây dựng đề án và đề nghị UBND tỉnh nhưng chưa được sự chấp nhận của UBND
tỉnh.
|
34
|
Kon Tum
|
Chưa có giải thưởng về VHNT
|
|
Dự
kiến 5 năm/lần
|
Chưa xác định. Tỉnh đã nhất trí về
chủ trương nhưng Sở Tài chính không phân bổ được
|
|
35
|
Lai Châu
|
Chưa có giải thưởng về VHNT
|
|
|
|
|
36
|
Lạng Sơn
|
Giải thưởng VHNT Hoàng Văn Thụ
|
1994
|
5
năm/lần
|
Tổng kinh phí cho giải thưởng lần
thứ III (11/2009) là 349.700.000 đ
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
- Hạn chế: Việc thực hiện quy chế
GT chưa liên tục, từ 1994 đến 2009 mới tổ chức được lần thứ 3
|
37
|
Lào Cai
|
- Giải thưởng Văn nghệ Lào Cai
|
1992
|
1
năm/lần
|
32.900.000đ (7 chuyên ngành)
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
- Từ khi thành lập đến nay chưa
có sự thay đổi về mức kinh phí, nhất là kinh phí giải thưởng hàng năm thấp
|
- Giải thưởng VHNT Phan Xi
Păng
|
2002
|
5
năm/lần
|
153 triệu (9 chuyên ngành)
|
38
|
Lâm Đồng
|
Chưa có giải thưởng về VHNT
|
|
|
|
|
39
|
Long An
|
Văn học nghệ thuật Nguyễn
Thông
|
2001
|
4
năm/lần
|
|
|
40
|
Nam Định
|
Giải thưởng Lương Thế Vinh
|
|
5
năm/lần
|
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
|
41
|
Nghệ An
|
Giải thưởng Hồ Xuân Hương
|
1997
|
5
năm/lần
|
Tăng lên theo mỗi kỳ trao giải,
năm 2006 = 861 triệu, trong đó:
- Giải A: 20 triệu
- Giải B: 15 triệu
- Giải C: 10 triệu
- KK: 5 triệu
- Tặng phẩm: 4 triệu
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
|
42
|
Ninh Bình
|
Giải thưởng Trương Hán Siêu
|
|
5
năm/lần
|
Đã trao 3 lần
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
|
43
|
Ninh Thuận
|
Chưa thành lập Giải thưởng
|
|
|
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
|
44
|
Phú Thọ
|
- Giải thưởng VHNT Hùng Vương
|
1985
|
5
năm/lần
|
250 triệu (2005 - 2010)
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
|
- Giải thưởng VHNT hàng năm
|
2009
|
Hàng
năm
|
30 triệu đồng
|
45
|
Phú Yên
|
Giải thưởng VHNT Phú Yên
|
|
5
năm/lần
|
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
|
46
|
Quảng Bình
|
Giải thưởng Lưu Trọng Lư
|
|
|
|
UBND tỉnh đã trao 3 lần
|
47
|
Quảng Nam
|
Chưa có giải thưởng về VHNT
|
|
|
|
|
48
|
Quảng Ngãi
|
Giải thưởng Văn học nghệ thuật
Quảng Ngãi
|
2010
|
5
năm/lần
|
250 triệu
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
|
49
|
Quảng Ninh
|
Giải thưởng Hạ Long
|
|
5
năm/lần
|
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
|
50
|
Quảng Trị
|
Giải thưởng sáng tạo VHNT hàng
năm
|
2002
|
Hàng
năm
|
25 triệu
- Giải Nhất: 1.500.000
- Giải Nhì: 1.000.000
- Giải Ba: 600.000
- Giải KK: 300.000
|
- Giải thưởng có tính khuyến
khích sự sáng tạo của Hội viên.
- Hạn chế: Giải thưởng không cao
|
51
|
Sóc Trăng
|
Chưa có giải thưởng về VHNT
|
|
|
|
|
52
|
Sơn La
|
Chưa có giải thưởng về VHNT
|
|
|
|
Đề nghị tỉnh thành lập Hội đồng
Giải thưởng và tỉnh đã đồng ý. Sẽ thực hiện trong thời gian tới.
|
53
|
Tây Ninh
|
Giải thưởng VHNT Xuân Hồng (dự
kiến)
|
2010
(dự kiến)
|
5
năm/lần
|
391,5 triệu
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT.
- Hội đã công văn trình UBND về
việc xét duyệt thành lập giải thưởng nhưng vẫn chưa hoàn tất các khâu chuẩn bị
cho giải thưởng
|
54
|
Thái Bình
|
Giải thưởng Lê Quý Đôn
|
1981
|
5
năm/lần
|
153 triệu (giải thưởng lần thứ IV
năm 2002), trong đó:
- Giải Nhất: 5.000.000đ
- Giải Nhì: 3.000.000đ
- Giải Ba: 2.000.000đ
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
- Hạn chế: Quyết định giải thưởng
của UBND tỉnh ra từ năm 1981 đến nay không còn phù hợp. Giải thưởng 5 năm/lần
nhưng giá trị giải thưởng không cao
|
55
|
Thái Nguyên
|
Giải thưởng VHNT tỉnh Thái
Nguyên
|
1992
|
5
năm/lần
|
60 triệu
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
|
56
|
Thanh Hóa
|
Giải thưởng VHNT tỉnh Thanh
Hóa
|
1994
|
5
năm/lần
|
Năm 2000 = 100 triệu, trong đó:
- Giải A: 5 triệu
- Giải B: 3 triệu
- Giải C: 2 triệu
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
- Quy chế về giá trị giải không
được thay đổi, không tính đến trượt giá nên ảnh hưởng sự động viên đối với
văn nghệ sĩ
|
57
|
Thừa Thiên Huế
|
Văn học nghệ thuật cố đô
|
1993
|
5
năm/lần
|
Kỳ trao giải thứ IV (2008) = 268
triệu, trong đó:
- Giải Nhất: 15 triệu
- Giải Nhì: 10 triệu
- Giải Ba: 6 triệu
- Giải KK: 5 triệu
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
- Quy chế, thể lệ giải thưởng
chưa phù hợp với một số loại hình nghệ thuật, do đó chưa thỏa đáng trong quá
trình tổ chức xét giải; cơ cấu và số lượng giải chưa tương xứng với phong
trào VHNT của tỉnh; đối tượng và thể loại, loại hình VHNT tham gia còn nhiều
hạn chế và bất cập.
|
58
|
Tiền Giang
|
Giải VHNT Thủ Khoa Huân
|
2010
|
5
năm/lần
|
Chưa xác định
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
|
59
|
Trà Vinh
|
Chưa có giải thưởng về VHNT
|
|
|
|
|
60
|
Tuyên Quang
|
Giải thưởng Tân Trào
|
1993
|
2
năm/lần
|
Chưa xác định
|
Chưa trao lần nào
|
61
|
Vĩnh Long
|
Giải thưởng VHNT định kỳ hàng
năm
|
2009
|
1
năm/lần
|
40 triệu đồng
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
|
62
|
Vĩnh Phúc
|
Giải thưởng VHNT Vĩnh Phúc
|
|
5
năm/lần
|
Giải A: 10 triệu
|
Đã xét trao giải 3 đợt
|
63
|
Yên Bái
|
Giải thưởng về VHNT tỉnh Yên
Bái
|
1993
|
1
năm/lần
|
62 triệu (2009)
|
- Giải thưởng của UBND tỉnh về
VHNT
- Giá trị giải thưởng cao nhất 3
triệu đồng
|