ỦY
BAN NHÂN DÂN
TỈNH HÀ GIANG
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 1969/QĐ-UBND
|
Hà Giang, ngày 28 tháng 9 năm 2017
|
QUYẾT ĐỊNH
PHÊ DUYỆT CHIẾN LƯỢC HỘI NHẬP QUỐC TẾ TỈNH HÀ GIANG ĐẾN NĂM 2020, TẦM
NHÌN ĐẾN NĂM 2030
CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG
Căn cứ Luật tổ chức chính quyền địa
phương ngày 19 tháng 6 năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày
10-4-2013 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về hội
nhập quốc tế;
Căn cứ Nghị quyết số 31/NQ-CP ngày
13/5/2014 của Chính phủ về ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực
hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam về hội nhập quốc tế;
Căn cứ Quyết định số 40/QĐ-TTg
ngày 07/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030;
Căn cứ Nghị quyết số 08-NQ/TU
ngày 17-6-2016 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân trên địa bàn tỉnh Hà
Giang giai đoạn 2016-2020;
Xét đề nghị của Giám đốc Sở Ngoại
vụ tỉnh Hà Giang tại Tờ trình số 110/TTr-SNgV ngày 13 tháng 9 năm 2017,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt kèm theo Quyết định này “Chiến lược hội
nhập quốc tế tỉnh Hà Giang đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”.
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày
ký ban hành.
Điều 3. Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh, Giám đốc Sở
Ngoại vụ, Thủ trưởng các sở, ban, ngành, Chủ tịch UBND các huyện, thành phố có
liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
Nơi nhận:
- Ban Đối Ngoại Trung
ương Đảng;
- Văn Phòng Chính phủ;
- Bộ Ngoại giao;
- Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam;
- Thường trực Tỉnh ủy;
- Thường trực HĐND tỉnh;
- Chủ tịch, các PCT UBND tỉnh;
- CVP, PVP UBND tỉnh;
- Như điều 3;
- Vnpt Ioffice; Cổng TTĐT tỉnh; TT Công báo;
- Lưu: VT, NC.
|
CHỦ
TỊCH
Nguyễn Văn Sơn
|
CHIẾN LƯỢC
HỘI NHẬP QUỐC TẾ TỈNH HÀ GIANG ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1969/QĐ-UBND ngày 28 tháng 9 năm 2017 của Ủy
ban nhân dân tỉnh Hà Giang)
Phần 1
BỐI CẢNH QUỐC TẾ
VÀ TRONG NƯỚC, TỔNG QUAN HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
I. Bối cảnh quốc tế
Tình hình thế giới và quan hệ quốc tế
đến năm 2020 có chiều hướng phức tạp, bất định và khó lường hơn. Thế giới tiếp
tục chuyển sang cục diện đa cực, tương quan lực lượng tiếp tục thay đổi. Trong
quan hệ giữa các nước lớn, đặc biệt là quan hệ Mỹ-Trung, xu hướng cạnh tranh có
phần nổi trội hơn. Chiến tranh, xung đột, bất ổn chính trị vẫn xảy ra ở nhiều
nơi trên thế giới, nhiều vấn đề an ninh phi truyền thống tiếp tục nổi lên gay gắt
như khủng bố, di cư bất hợp pháp, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm
môi trường,... đe dọa an ninh, ổn định và phát triển của nhiều quốc gia, đồng
thời đòi hỏi cộng đồng quốc tế phải tăng cường hợp tác để xử lý.
Kinh tế thế giới tiếp tục có chiều hướng
phục hồi nhưng chậm và còn nhiều khó khăn. Nhiều nước tiếp tục đẩy mạnh tái cơ
cấu nền kinh tế, điều chỉnh chiến lược phát triển. Toàn cầu hóa, sự phát triển
của khoa học-công nghệ, sự gia tăng và già hóa dân số, vốn và các thị trường vốn,
tài nguyên thiên nhiên vẫn là những động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
toàn cầu. Mặc dù một số biểu hiện chống toàn cầu hóa và bảo hộ thương mại đang
nổi lên trong vài năm gần đây nhưng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện vẫn
đang là xu thế tất yếu và được hầu hết các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là
khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, ủng hộ. Từ nay đến năm 2020, xu hướng liên kết
kinh tế dưới hình thức các khu vực tự do thương mại (FTA) nhằm thúc đẩy tăng
trưởng, tạo việc làm và đa dạng hóa thị trường tiếp tục phát triển. Nhiều FTA
khu vực lớn được ký kết và đi vào triển khai, điển hình là Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định Đối tác Toàn diện Khu vực (RCEP) ở châu
Á-Thái Bình Dương; Hiệp định Đối tác xuyên Đại Tây Dương giữa Mỹ và Liên minh
Châu Âu (EU) và Hiệp định Thương mại tự do giữa EU và
Ca-na-đa. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại nhiều cơ hội và cả
không ít thách thức, đặc biệt đối với các nước đang phát triển, trong việc tận
dụng sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất để rút
ngắn khoảng cách phát triển.
Ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, hòa
bình, ổn định và phát triển căn bản được duy trì mặc dù cạnh tranh giữa các nước
lớn, chạy đua hiện đại hóa vũ trang, tranh chấp lãnh thổ, biển đảo vẫn diễn biến
phức tạp. Châu Á có vai trò ngày càng quan trọng trong kinh tế toàn cầu, là động lực tăng trưởng chủ chốt trong quá trình toàn cầu hóa. Về chính
trị, kiến trúc an ninh-chính trị khu vực tiếp tục vận động. ASEAN trở thành Cộng
đồng, kiên trì nỗ lực giữ vai trò trung tâm tại các cơ chế
đa phương, điều hòa quan hệ giữa các nước lớn, mặc dù
ASEAN và một số cơ chế hợp tác chính
trị-an ninh do ASEAN dẫn dắt hiện đang đứng trước nguy cơ suy giảm vai trò do gặp
phải nhiều thách thức phức tạp từ trong nội khối lẫn sự cạnh tranh giữa các nước
lớn.
Trong bối cảnh này, quá trình phát
triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế của nước ta trong thập kỷ tới, bên cạnh
các thuận lợi, còn có thể gặp phải nhiều khó khăn và thách thức phức tạp hơn trước. Tình hình an ninh khu vực, nhất là vấn đề Biển Đông, có thể diễn biến phức tạp hơn. Đảm bảo quốc phòng, an
ninh, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và duy trì môi trường quốc tế hòa bình, ổn định,
thuận lợi cho phát triển tiếp tục là nhiệm vụ trọng tâm, đòi hỏi đầu tư nhiều
nguồn lực hơn nữa. Ở trong nước, đổi mới mô hình tăng trưởng,
nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền
kinh tế tiếp tục là những vấn đề trọng tâm phải giải quyết vì mục tiêu phát triển
nhanh và bền vững. Các vấn đề an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu,
thiên tai ngày càng tác động gay gắt hơn, đòi hỏi những nguồn lực lớn hơn nếu
muốn ứng phó hiệu quả.
II. Tình hình hội
nhập quốc tế của Việt Nam
Quá trình đổi mới, mở cửa và hội nhập
quốc tế của Việt Nam trong ba thập kỷ qua đã đạt được những thành tựu to lớn,
góp phần tạo thế và lực mới cho đất nước. Năm 2007, Việt Nam gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), tập trung thực hiện đầy đủ các cam kết với WTO; đồng
thời chủ động, tích cực đàm phán và ký kết nhiều thỏa thuận kinh tế, thương mại
mới nhằm hội nhập sâu và toàn diện hơn vào nền kinh tế khu
vực và thế giới, trong đó có Cộng đồng kinh tế ASEAN, các hiệp định thương mại
tự do thế hệ mới với mức cam kết sâu rộng hơn so với WTO như Hiệp định đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên
minh Châu Âu (EVFTA); hoàn thành FTA với các đối tác quan trọng gồm FTA với Hàn
Quốc, FTA với Liên minh kinh tế Á-Âu. Hiện ta đang tiếp tục đàm phán hiệp định
Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) nhằm đạt được một thỏa thuận kinh tế
toàn diện, phù hợp với điều kiện của Việt Nam và các nước ASEAN. Tính đến nay,
Việt Nam đã ký kết và tham gia 11 FTA khu vực và song phương, trong đó có 06
FTA trong khuôn khổ hợp tác ASEAN.
Hội nhập kinh tế quốc tế trong thập kỷ
qua đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, góp phần tích cực đến phát triển kinh tế-xã
hội của đất nước, nâng cao sức mạnh quốc gia, năng lực cạnh tranh, góp phần đa
dạng hóa thị trường, đặc biệt thị trường xuất khẩu cho
hàng hóa và sản phẩm mà ta có thể mạnh; thu hút khối lượng lớn đầu tư trực tiếp
nước ngoài, công nghệ và các nguồn lực quan trọng khác. Hội nhập kinh tế quốc tế
còn là động lực quan trọng thúc đẩy đổi mới và cải cách trong nước theo hướng
xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, cải thiện môi trường kinh
doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp, sản phẩm.
Hội nhập trong các lĩnh vực chính trị,
quốc phòng, an ninh góp phần duy trì môi trường quốc tế hòa bình, ổn định, thuận
lợi cho phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc
tế. Hội nhập về văn hóa, lao động, an sinh xã hội, y tế, giáo dục-đào tạo, khoa
học-công nghệ... tiếp tục phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, đa dạng về
hình thức, phương thức, đối tác và có nhiều chuyển biến về chất lượng.
Hội nhập văn hóa, lao động, an sinh
xã hội, y tế, giáo dục-đào tạo, khoa học- công nghệ, môi trường,... tiếp tục
chú trọng việc áp dụng các tiêu chí, tiêu chuẩn khu vực và quốc tế phù hợp với
các cam kết Việt Nam đã đưa ra nhằm bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, luật
và các quy định của từng ngành, lĩnh vực; đồng thời tự nguyện áp dụng một cách
có chọn lọc, phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của Việt Nam các tiêu chí,
tiêu chuẩn, chuẩn mực khu vực và quốc tế trong việc xây dựng khung tiêu chí,
tiêu chuẩn, chuẩn mực của Việt Nam trong các ngành, lĩnh vực; từng bước hài hòa
hóa các tiêu chí, tiêu chuẩn, chuẩn mực Việt Nam với các tiêu chí, tiêu chuẩn
và chuẩn mực quốc tế.
Quá trình hội nhập quốc tế của nước
ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, tuy nhiên hiện vẫn đang ở giai đoạn hội
nhập “chiều rộng”, gia nhập, tham gia, đàm phán và ký kết các thỏa thuận quốc tế,
khu vực, nhưng chưa tạo được sự đan xen, gắn kết lợi ích một cách lâu dài và bền
vững giữa nước ta với các đối tác. Sự chuẩn bị trong nước đối với các cam kết
quốc tế sắp phải thực hiện còn chậm và thiếu chủ động, trong đó lớn nhất là
chưa tận dụng được các cơ hội của hội nhập quốc tế, với hội nhập kinh tế là trọng
tâm.
Đại hội Đảng XII đã đặt ra trọng tâm
là đưa tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta đi vào chiều sâu. Trong những
năm tới, tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta sẽ diễn ra trong bối cảnh tình
hình quốc tế tiếp tục có nhiều biến động khó lường, bên cạnh nhiều thuận lợi,
chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều thách thức mới như nguy cơ bị tổn thương
trước những biến động quốc tế, cạnh tranh ngày càng gay gắt, làm gia tăng nguy
cơ tụt hậu nếu hội nhập quốc tế không đạt được các mục tiêu mà Đảng đã đề ra.
Trong quá trình hội nhập chung của đất
nước ở cả ba lĩnh vực trên, sự tham gia của các địa phương rất đáng ghi nhận.
Các địa phương đã tích cực tìm hiểu, việc nắm bắt được các xu thế lớn về hợp
tác quốc tế như xu thế liên kết đa tầng nấc ở nhiều lĩnh vực, hình thành các
khu vực tự do thương mại với các luật chơi mới, phân công
lao động quốc tế và chuỗi giá trị... nhiều tỉnh, thành phố đã thiết lập và phát
triển quan hệ hợp tác, đối tác bền vững với chính quyền địa phương các nước,
các tập đoàn đa quốc gia, các tổ chức quốc tế như Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu...
phát huy hiệu quả tiềm năng và thế mạnh của địa phương trong hội nhập và phát
triển theo xu thế chung của đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hội nhập quốc tế của các địa phương thời gian qua
còn nhiều bất cập, mức độ hội nhập trong nhiều lĩnh vực còn thấp, hiệu quả chưa
cao. Tốc độ và năng lực triển khai các hoạt động hội nhập, đặc biệt là hội nhập
kinh tế quốc tế, chưa đồng đều, dẫn đến quá trình hội nhập chung chưa được triển
khai theo lộ trình thống nhất từ
Trung ương tới địa phương.
Trong những năm tới, việc thực hiện
các hiệp định thương mại tự do với các cam kết sâu, rộng chưa từng có với thời
gian chuyển đổi ngắn sẽ có tác động sâu sắc, nhiều chiều đối với hầu
hết các lĩnh vực của nền kinh tế. Trước sức ép cạnh tranh kinh tế ngày càng gay
gắt trong nước, trong khu vực và quốc tế, doanh nghiệp và sản phẩm địa phương
có nguy cơ gặp khó khăn không chỉ trên thị trường quốc tế mà ngay trên thị trường
nội địa, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp, nhà sản xuất quy mô nhỏ. Bên cạnh
đó, công tác chuẩn bị trong nước về mọi mặt, nhất là thể chế kinh tế sẽ bị “dồn
nén” trong những năm tới cũng sẽ đòi hỏi các địa phương cải cách thể chế, đổi mới
cả tư duy, phương thức, cơ chế quản lý, điều hành kinh tế - xã hội và nguồn
nhân lực.
Các địa phương đối mặt với những
thách thức đến từ mối quan hệ giữa đẩy mạnh hội nhập quốc tế với giữ vững ổn định
chính trị - xã hội, an ninh, quốc phòng, giữ gìn bản sắc văn hóa và bảo vệ môi
trường. Hội nhập quốc tế sâu rộng hơn có thể làm gia tăng nguy cơ nước ta dễ bị
tổn thương cả về chính trị, kinh tế, xã hội và an ninh trước các cú sốc, biến động
từ bên ngoài, nhất là tác động của khủng hoảng kinh tế - tài chính, an ninh mạng,
chủ nghĩa khủng bố, xung đột, tranh chấp lãnh thổ, biển đảo... đây là những
thách thức mới đối với các địa phương nước ta, nhất là các tỉnh biên giới trong
đó có Hà Giang.
Phần 2:
TỔNG QUAN TIẾN
TRÌNH HỘI NHẬP CỦA HÀ GIANG
Hà Giang là tỉnh miền núi, biên giới
nằm giữa khu vực Đông Bắc và Tây Bắc của Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội 320 km;
phía Đông giáp với tỉnh Cao Bằng, phía Tây giáp với tỉnh Lào Cai và Yên Bái,
phía Nam giáp với tỉnh Tuyên Quang và phía Bắc tiếp giáp với tỉnh Vân Nam và
Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây, Trung Quốc. Tỉnh có chiều dài biên giới là 277,556[1]km với điểm cực bắc của Tổ quốc là Lũng Cú; có diện tích đất tự nhiên là trên 7.900
km2, được chia thành 11 đơn vị hành chính (01 thành phố và 10 huyện),
trong đó có 07 huyện biên giới với 34 xã, thị trấn biên giới.
Quá trình hội nhập quốc tế của Hà
Giang được tiến hành cùng với quá trình đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế của
cả nước. Do đặc thù về vị trí địa lý, đặc điểm phát triển kinh tế-xã hội của một
tỉnh miền núi, biên giới. Hà Giang chú trọng thúc đẩy quan hệ song phương với
các địa phương nước láng giềng Trung Quốc trên hầu hết các lĩnh vực, đồng thời
từng bước mở rộng quan hệ với các đối tác khác nhằm phát huy các tiềm năng, thế
mạnh của địa phương và huy động các nguồn lực quốc tế giúp thúc đẩy phát triển
kinh tế-xã hội. Đến nay, quá trình hội nhập của Hà Giang
đã đạt được những kết quả nhất định tuy nhiên tiến độ, phạm vi và mức độ hội nhập
của Hà Giang so với nhiều địa phương còn hạn chế.
I. Thành tựu và
mức độ hội nhập
1. Hội nhập kinh tế quốc tế
Trong những năm qua Hà Giang chủ yếu
hội nhập với tỉnh Vân Nam và Quảng Tây (Trung Quốc). Các cơ chế hợp tác song
phương được thiết lập, chủ yếu dưới hình thức hội đàm định kỳ giữa các sở, ban, ngành của tỉnh với các cơ quan tương ứng của các địa
phương Trung Quốc[2]... Việc thiết lập các cơ chế hợp tác song
phương là tiền đề cho thúc đẩy hội nhập kinh tế của Hà
Giang với các địa phương Trung Quốc, thu được số kết quả đáng ghi nhận như:
kinh tế biên mậu trở thành mũi nhọn; hoạt động xuất, nhập khẩu trên địa bàn tỉnh
có nhiều khởi sắc. Tổng giá trị hàng hóa xuất, nhập khẩu
năm 2015 đạt trên 215 triệu USD, tăng 10% so với năm 2014. Kim ngạch xuất, nhập
khẩu năm 2016 đạt 1.374,4 tỷ đô la Mỹ, tăng 639,2% so với cùng kỳ năm trước;
thu thuế nộp ngân sách Nhà nước đạt trên 149 tỷ đồng, tăng
gần 0,8% so với cùng kỳ. Đến nay, kinh tế biên mậu đóng
góp 30% nguồn thu của tỉnh. Nhằm tiếp tục thúc đẩy hội nhập kinh tế và phát triển kinh tế biên mậu với Trung Quốc, Hà Giang đã từng bước đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng cửa khẩu quốc tế Thanh Thủy (Việt Nam) - Thiên Bảo (Trung Quốc),
03 cửa khẩu phụ và 11 lối mở tạm thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất, nhập
cảnh, xuất nhập khẩu và lưu thông hàng hóa của cư dân hai bên biên giới. Áp dụng
các tiêu chí, tiêu chuẩn quốc tế về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hàng
hóa xuất nhập khẩu; đa dạng hóa ngoại tệ trong thanh toán quốc tế.
Hà Giang cũng đã bước đầu triển khai
các biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và các sản phẩm
có thế mạnh của địa phương[3]. Công
tác ứng dụng tiến bộ khoa học-công nghệ vào sản xuất nông nghiệp nhằm tạo ra sản
phẩm có giá trị cao và có khả năng cạnh tranh hơn bắt đầu được chú trọng. Công
tác quảng bá tiềm năng, thế mạnh của địa phương nhằm kêu gọi hợp tác, đầu tư
ngày càng được chú trọng. Tỉnh đã tích cực tổ chức và thường xuyên tham gia các
hoạt động xúc tiến đầu tư, thương mại quốc tế; tạo điều kiện thuận lợi cho các
công ty, doanh nghiệp, chuyên gia nước ngoài vào khảo sát đầu tư, thúc đẩy hợp tác tại địa phương. Vận động, kêu gọi các nguồn vốn đầu tư, viện
trợ ODA, NGO hỗ trợ địa phương phát triển kinh tế-xã hội ổn định, bền vững.
Hội nhập kinh tế quốc tế trở thành một
trong những động lực quan trọng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của
tỉnh, thúc đẩy cải cách hành chính, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi thông
qua điều chỉnh, ban hành chính sách ưu đãi, thu hút đầu tư, công nghệ, tri thức,
kinh nghiệm quản lý và các nguồn lực quan trọng khác; tạo thêm nhiều việc làm;
nâng cao dân trí và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
2. Hội nhập chính trị, quốc phòng,
an ninh
Hội nhập về chính trị, quốc phòng, an
ninh được thúc đẩy về chiều rộng, từng bước đi vào chiều sâu. Các hoạt động đối
ngoại của đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân được triển khai tích
cực, góp phần mở rộng, phát triển và củng cố mối quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp
tác toàn diện với các địa phương Trung Quốc. Ngoài ra, Hà Giang cũng đã thiết lập
được nhiều cơ chế hợp tác song phương với các đối tác khác như: thiết lập quan
hệ với Đại sứ quán các nước Thụy Điển, Lào, Pháp, Nhật,
Ca-na-đa, Ai-len, Ấn Độ, Hoa Kỳ, Hungary, Isarel, Phillipin...
Tỉnh đã thiết lập nhiều cơ chế hợp
tác song phương với các cơ quan tương ứng của các địa phương Trung Quốc. Các cơ
chế này đã được thể chế hóa và phát huy hiệu quả tích cực
dưới hình thức hội đàm, giao ban định kỳ; tham gia cơ chế hợp tác trong khuôn
khổ Nhóm công tác liên hợp giữa các tỉnh Hà Giang, Lào
Cai, Lai Châu, Điện Biên (Việt Nam) và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc); Ủy ban Công
tác liên hợp giữa các tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng,
Hà Giang và Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây (Trung Quốc). Trong số các tỉnh
biên giới, Hà Giang là tỉnh duy nhất tham gia cả hai Nhóm
công tác liên hợp. Thông qua các cơ chế hợp tác, Tỉnh đã
ký kết nhiều văn bản thỏa thuận hợp tác, điển hình là Thỏa thuận hợp tác giữa Tỉnh ủy Hà Giang, Đảng Cộng sản Việt Nam
và Tỉnh ủy Vân Nam, Đảng Cộng sản Trung Quốc; Thỏa thuận khung về Chương trình
hợp tác toàn diện giữa Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Giang và Chính quyền nhân dân
châu Văn Sơn, tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) giai đoạn
2012-2015 và 2016-2020 và Thỏa thuận khung về hợp tác toàn diện giữa tỉnh Hà
Giang với thành phố Bách Sắc, tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc)...
Hội nhập trong lĩnh vực quốc phòng,
an ninh được đẩy mạnh, từng bước thực hiện hiệu quả các thỏa thuận giữa Bộ Quốc
phòng Việt Nam với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an Trung Quốc.
Hà Giang là địa phương đi đầu trong số các tỉnh biên giới thiết lập các cơ chế
và thỏa thuận hợp tác với các địa phương của bạn. Đến nay các cơ chế hợp tác quốc
phòng-an ninh hoạt động hiệu quả, góp phần tạo sự tin cậy, tăng cường hiểu biết,
phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng hai bên trong công tác đối ngoại, giao lưu
trao đổi và xử lý giải quyết các vụ việc; góp phần giữ vững an ninh- chính trị,
trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới.
3. Hội nhập văn hóa, xã hội, dân tộc,
giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ và các lĩnh vực khác
Tiếp tục phát triển theo chiều rộng,
theo hướng mở rộng quan hệ giữa Hà Giang với các đối tác nước ngoài, tăng cường
đẩy mạnh hoạt động giới thiệu con người, quảng bá bản sắc văn hóa, tiềm năng du
lịch của Hà Giang thông qua các hoạt động trong khuôn khổ các sự kiện quốc tế
như hội chợ quốc tế ASEAN-Trung Quốc; ký kết và triển khai thỏa thuận thiết lập
quan hệ hữu nghị giữa công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn và Khu
thắng cảnh Thạch Lâm, tỉnh Vân Nam (Trung Quốc); Lễ hội
hoa tam giác mạch thường niên; không gian văn hóa dân tộc Mông Hà Giang và các
sự kiện xúc tiến quảng bá du lịch khác.
Về lao động: Trong 5 năm (2011-2015)
toàn Tỉnh có 636 lao động được tuyển chọn đi xuất khẩu lao động[4], đi làm việc tại các thị trường:
Malaysia, Hàn Quốc, Qatar, Đài Loan, Nhật Bản, Trung Đông... Ngoài ra, Tỉnh đã
ký thỏa thuận về quản lý lao động qua biên giới với Chính quyền nhân dân châu
Văn Sơn, Vân Nam (Trung Quốc) và thỏa thuận hợp tác quản lý lao động với thành
phố Bách Sắc, Quảng Tây (Trung Quốc); tăng cường phối hợp,
trao đổi giữa hai bên nhằm thực hiện quản lý hiệu quả hơn lao động qua biên giới
làm việc, đồng thời tạo thêm việc làm cho người lao động, đặc biệt lao động là
đồng bào vùng biên[5].
Về giáo dục-đào tạo: Tỉnh Hà Giang hợp
tác với tỉnh Vân Nam và Quảng Tây (Trung Quốc) trong đào tạo nguồn nhân lực đối
với các ngành có nhu cầu, bồi dưỡng cán bộ công chức, học sinh, sinh viên[6]; tiếp nhận và
triển khai Dự án tăng cường hệ thống trợ giúp xã hội do UNICEF, WB tài trợ; Dự
án hợp tác với Công ty cổ phần hỗ trợ Nhật-Việt, đẩy mạnh triển khai công tác
quản lý và liên kết đào tạo nguồn nhân lực.
Trong lĩnh vực y tế: Hà Giang triển
khai các nội dung hợp tác với phía đối đẳng Trung Quốc về phòng chống dịch bệnh;
tăng cường tổ chức hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức cho người dân tại
khu vực biên giới... Đồng thời tiếp nhận và triển khai các chương trình, dự án
hợp tác với Công ty cổ phần phụ trợ Việt - Nhật; Liên minh toàn cầu về vắc xin
và tiêm chủng (GAVI); Dự án nâng cao năng lực phòng chống HIV/AIDS khu vực tiểu
vùng Mê Kông mở rộng do Ngân hàng ADB tài trợ; dự án hỗ trợ chính sách ngành y
tế do Liên minh Châu Âu tài trợ; tiếp nhận và triển khai các chương trình, dự
án do Quỹ toàn cầu phòng chống sốt rét (PCSR), Quỹ toàn cầu vòng 9 phòng chống
Lao...
Lĩnh vực khoa học công nghệ: Đã triển
khai áp dụng các quy định về đo lường chất lượng theo tiêu chí tiêu chuẩn khu vực
và quốc tế, như trong kinh doanh xăng dầu; xây dựng kế hoạch hành động sản xuất
sạch hơn trong công nghiệp; ứng dụng công nghệ thông tin, áp dụng hệ thống quản
lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO vào quy trình giải quyết thủ tục hành chính; ứng
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp.
Việc áp dụng các tiêu chí, tiêu chuẩn
khu vực và quốc tế phù hợp với các cam kết quốc tế Việt Nam trên các lĩnh vực
văn hóa, lao động, y tế, giáo dục, khoa học- kỹ thuật... đã được chú trọng triển
khai thực hiện tại địa phương.
II. Một số hạn chế và nguyên
nhân
Tuy đã đạt được một số thành tựu đáng
khích lệ như trên, công tác hội nhập quốc tế của tỉnh Hà Giang những năm qua
còn có những hạn chế sau:
Thứ nhất,
nhận thức về tầm quan trọng của hội nhập quốc tế và triển khai công tác hội nhập
mới chỉ được quán triệt ở các cấp lãnh đạo, thông qua ban hành một số nghị quyết,
chương trình hành động hội nhập. Ở cấp sở, ban, ngành nhận thức về tầm quan trọng
của hội nhập nói chung và hội nhập trong từng lĩnh vực
chưa đồng đều, việc triển khai thực hiện chưa đồng bộ.
Thứ hai,
chuyển biến tư duy hội nhập quốc tế của Tỉnh còn chưa theo kịp với đòi hỏi của
tình hình hiện nay. Quy hoạch tổng thể kinh tế-xã hội của địa phương chưa được phản ánh rõ nét và cụ thể hóa trong các chương trình, kế hoạch
hội nhập. Cấp ủy, chính quyền các cấp, các doanh nghiệp và người dân địa phương
chưa nắm rõ các cam kết, thỏa thuận kinh tế mà nước ta
tham gia ký kết để “đón đầu”, chuẩn bị tốt nhất cho việc thực hiện các cam kết
này, tận dụng tối đa các cơ hội mà các thỏa thuận đó đem lại.
Nhiều cơ hội do hội nhập mang lại
chưa được tranh thủ để nâng cao năng suất, trình độ công nghệ và quản trị, nâng
cao chất lượng tăng trưởng, năng lực và sức cạnh tranh của nền kinh tế, mở rộng
thị trường quốc tế cho sản phẩm của địa phương cũng như đưa sản phẩm tham gia
chuỗi giá trị toàn cầu. Ngoài sản phẩm chè có thương hiệu xuất khẩu, một số sản
phẩm có thể mạnh khác như cam, sản phẩm du lịch văn hóa, lịch sử và sinh
thái... còn ở dạng tiềm năng.
Thứ ba,
chưa khai thác hết nội dung một số cơ chế hợp tác, như trong khuôn khổ Nhóm
công tác liên hợp giữa các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Điên
Biên, Lai Châu với tỉnh Vân Nam và Ủy ban công tác liên hợp
giữa các tỉnh Hà Giang, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng với Khu tự trị dân tộc
Choang, Quảng Tây. Một số cơ chế hợp tác định ký trong các ngành, lĩnh vực chưa
phát huy hiệu quả, đặc biệt trong trường hợp phát sinh các vấn đề đột xuất cần
tìm hiểu hoặc giải quyết ngay.
Thứ tư,
môi trường kinh doanh và đầu tư đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế còn nhiều bất
cập; kết cấu hạ tầng còn nhiều khó khăn; các cơ sở đào tạo quy mô nhỏ, chương
trình đào tạo còn bất cập, cải cách hành chính tuy đã thực hiện quyết liệt
nhưng hiệu quả chưa cao.
Thứ năm,
Việc mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác với địa phương các nước trong khu vực và
trên thế giới Tỉnh chưa có định hướng. Trong thời gian qua, Tỉnh mới tập trung
phát triển quan hệ song phương với 02 địa phương Vân Nam và Quảng Tây, Trung Quốc.
Những hạn chế kể trên trong công tác
hội nhập quốc tế của tỉnh Hà Giang xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan và
khách quan sau:
Thứ nhất,
xuất phát điểm của Hà Giang tương đối thấp; là tỉnh miền núi, địa hình khó
khăn, khí hậu khá khắc nghiệt, thiếu nguồn nước, diện tích đất dành cho nông
nghiệp ít, sản xuất nông nghiệp về cơ bản còn nhỏ lẻ; quy mô kinh tế nhỏ và kém
phát triển[7], tỷ
lệ hộ nghèo còn cao (theo tiêu chí nghèo đa chiều năm 2016 là 38,75%); nguồn vốn
đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng và xã hội chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước
(khoảng 90%). Quy mô dân số ít, trong đó đồng bào dân tộc (19 dân tộc) chiếm
87% tổng dân số. Tình trạng thiếu nguồn lực - cá nhân lực lẫn vật lực - luôn là
thách thức lớn đối với tỉnh Hà Giang.
Thứ hai,
Trong phát triển quan hệ với các địa phương đối đẳng của Trung Quốc, Hà Giang
cũng ở thế bất lợi hơn so với một số tỉnh biên giới khác
như Lào Cai, Lạng Sơn và Quảng Ninh. Tỉnh Hà Giang có đường
biên giới dài với Trung Quốc, địa hình nhiều nơi hiểm trở, phần lớn tuyến đường tuần tra biên giới chưa được xây dựng, kết cấu
hạ tầng cửa khẩu, lối mở, chợ biên giới chưa được đầu tư
xây dựng. Ngoài cửa khẩu quốc tế Thanh Thủy, các cửa khẩu
khác ở Hà Giang phân tán không thuộc khu kinh tế cửa khẩu vì vậy hoạt động giao
thương tại các cửa khẩu trên địa bàn tỉnh không được hưởng các ưu tiên, ưu đãi.
Hai tỉnh tiếp giáp với Hà Giang là Vân Nam và Quảng Tây của Trung Quốc đều là
các tỉnh nghèo, kết cấu hạ tầng kém phát triển[8].
Thứ ba, đội
ngũ làm công tác hội nhập quốc tế của tỉnh còn nhiều hạn chế, nhất là trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ; sự am hiểu thị trường các nước, luật pháp và thông lệ quốc
tế, kinh nghiệm hoạt động trên thị trường. Công tác quảng bá, giới thiệu Hà
Giang với các đối tác nước ngoài về các cơ hội đầu tư, hợp tác thương mại, xúc
tiến du lịch chưa được thực hiện một cách có bài bản; tình trạng thiếu thông
tin về các chính sách phát triển, quy định, tập quán làm ăn của các địa phương,
doanh nghiệp nước ngoài...
Phần III
TRIỂN VỌNG VÀ ĐỊNH
HƯỚNG
I. Triển vọng
Từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp
theo, quá trình hội nhập quốc tế của Hà Giang phải đối mặt với nhiều thách thức
song triển vọng thành công là không nhỏ với một số điểm chính sau:
1. Từ các yếu tố nội tại của tỉnh
Thứ nhất,
tỉnh Hà Giang có sự đồng thuận và quyết tâm chính trị cao về tầm quan trọng hội
nhập quốc tế đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Trên cơ sở chủ
trương, đường lối chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, Tỉnh ủy và Ủy ban
nhân dân tỉnh đã và đang tiếp tục ban hành nhiều nghị quyết và chương trình
hành động triển khai công tác hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực, đẩy mạnh công
tác cải cách hành chính. Đội ngũ lãnh đạo và công chức ở cấp sở, ban, ngành là
những cán bộ có trình độ kiến thức, có tinh thần chủ động, trách nhiệm và quyết
tâm cao, đại diện cho một thế hệ trẻ năng động và tích cực trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển địa phương. Quyết tâm đổi mới tư duy về hội nhập quốc tế
ngày càng lan rộng tới các sở, ban, ngành, đơn vị trên địa bàn tỉnh, tạo nên động
lực mạnh mẽ trong tỉnh về mở rộng hợp tác phát triển, hội nhập quốc tế, đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Thứ hai,
Hà Giang có tiềm năng đáng kể về hợp tác và hội nhập quốc tế. Các tiềm năng của
Hà Giang có nhiều nét độc đáo, là tiền đề quan trọng để phát triển lợi thế cạnh
tranh của địa phương.
Ở vị trí đặc biệt là cửa ngõ phía Bắc
của quốc gia, có 4 tuyến Quốc lộ đi qua, có đường biên giới giáp với Trung Quốc
dài 277,556km, gồm 01 cặp cửa khẩu Quốc
tế, 03 cửa khẩu phụ và 11 lối mở tạm thời. Với lợi thế này, Hà Giang có thể trở
thành không gian kết nối giữa vùng Đông Bắc và Tây Bắc của Việt Nam, giữa các tỉnh
dọc Quốc lộ 2 với vùng phía Nam của Trung Quốc rộng lớn, như kết nối Đông Bắc
và Tây Bắc, kết nối một trục giữa các tỉnh Tuyên Quang - Vĩnh Phúc với thị trường
châu Văn Sơn (Trung Quốc)[9].
Diện tích đất nhỏ nhưng đất đai thổ nhưỡng khí hậu phù hợp
cho việc trồng cây có giá trị cao làm nguyên liệu giấy như thông, mỡ, bồ đề....,
trồng cây công nghiệp dài ngày như cao su, cà phê, quế... các cây dược liệu như
đỗ trọng, thảo quả...; cây ăn quả có múi như cam, quýt, lê, mận, đào..., cây
công nghiệp có nguồn gốc cận nhiệt và ôn đới như là chè, cũng như các cây thuốc
quý (tam thất, đương quy, đo trọng, hồi, thảo quả...). Hà Giang cũng nằm
trong vùng giàu có về tài nguyên khoáng sản. Các khoáng sản chính là than, sắt,
thiếc, chì - kẽm, đồng, apatit, pyrit, đá vôi và sét làm xi măng, gạch ngói, gạch
chịu lửa, tạo điều kiện cho Hà Giang có thể hợp tác với các đối tác nước ngoài
về khai thác và chế biến khoáng sản.
Về thương mại, du lịch: Thương mại
biên giới của Hà Giang với Trung Quốc không thuận như Lào Cai và Lạng Sơn nhưng lại tạo cơ hội cho Hà Giang lựa chọn chiến lược phát triển kinh
tế đồng đều mở rộng hội nhập với các đối tác khác ngoài Trung Quốc. Một thế mạnh
khác của Hà Giang là việc khai thác du lịch quá cảnh sang tỉnh Vân Nam (Trung
Quốc). Du lịch là lĩnh vực có nhiều tiềm năng phát triển của Hà Giang. Đặc biệt,
Hà Giang là địa phương có Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn đã
được UNESCO công nhận (tháng 10/2010). Đây là Công viên địa chất thứ hai ở Đông
Nam Á và là công viên địa chất đầu tiên của Việt Nam cho đến nay. Nhờ đó, Hà
Giang trở thành thành viên Mạng lưới công viên địa chất thế giới (GGN) gồm 33
thành viên trong đó có những địa phương lớn trên thế giới như Hàn Quốc, Canada,
Anh, Malaysia...
Thứ ba,
Tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh ổn định; chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia được giữ vững; phòng chống
tội phạm, phòng chống ma túy, bảo đảm trật tự an toàn giao thông đạt được nhiều
kết quả, tạo điều kiện để chính quyền và nhân dân địa phương tập trung mọi nguồn
lực cho phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế.
Thứ tư, Tỉnh
đã và đang từng bước tiến hành đổi mới cách thức, kiện toàn cơ chế phối hợp
liên ngành, phù hợp với những chuyển biến nhanh của tình
hình và hội nhập quốc tế. Công tác chuẩn bị của Tỉnh để
hội nhập quốc tế đã, đang có những bước chuyển quan trọng, nổi bật
là việc Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TU ngày 16/7/2016 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đối
ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân trên địa bàn tỉnh giai đoạn
2016-2020; ban hành các chương trình, kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết
22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong đó đề ra các định hướng,
nhiệm vụ lớn về hội nhập quốc tế và xác định hội nhập kinh tế là trọng tâm của
tỉnh...
2. Từ các yếu tố bên ngoài
Thứ nhất,
môi trường hoạt động đối ngoại, mở rộng hợp tác quốc tế của tỉnh ngày càng có
nhiều thuận lợi. Việt Nam đã thiết lập được quan hệ đối tác chiến lược và đối
tác toàn diện với nhiều nước, đặc biệt là các nền kinh tế lớn trên thế giới và
khu vực.
Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong những
năm qua cơ bản ổn định, đường biên giới hòa bình, hữu nghị với Trung Quốc tạo nền
tảng thúc đẩy quan hệ giữa Hà Giang và các địa phương Trung Quốc trên mọi lĩnh
vực. Kinh tế Trung Quốc tiếp tục phát triển năng động và đang tích cực thúc đẩy
các chính sách liên kết và hội nhập quốc tế với nhiều sáng kiến quan trọng. Các
chủ trương lớn của Trung Quốc như “Đại khai phá miền Tây”, chính sách mở cửa
kinh tế bắt đầu từ khu vực ven biển phía Đông và biên giới
với các nước láng giềng; khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN và các chiến
lược "Hai hành lang một vành đai"... đều hướng vào việc khơi thông
các tuyến hành lang kinh tế nối khu vực các tỉnh phía Tây Nam và Đông Nam của
Trung Quốc với các khu vực miền Bắc, Việt Nam.
Quan hệ giữa Việt Nam với Nhật Bản và
Hàn Quốc đang phát triển rất tốt đẹp. Với Nhật Bản, hai bên đã nâng cấp quan hệ
thành Đối tác chiến lược sâu rộng (năm 2014), với Hàn Quốc đã nâng cấp quan hệ
thành Đối tác hợp tác chiến lược (năm 2009). Đặc biệt hai nước này rất chú trọng
thúc đẩy hợp tác sâu rộng và toàn diện, đặc biệt là hợp tác ở cấp độ địa phương
với Việt Nam. Các chính sách của Nhật Bản tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam nói chung và Hà Giang nói riêng tranh thủ được các tiềm năng,
nhất là về kinh tế và viện trợ từ Nhật Bản. Trên thực tế,
Hà Giang đã tích cực và chủ động trong việc tiếp xúc và mời một số đoàn công
tác của Nhật Bản đến khảo sát, làm việc với các lãnh đạo tỉnh, nhằm kêu gọi các
dự án hợp tác và đầu tư.
Hợp tác giữa Việt Nam với các nước ASEAN
trong khuôn khổ Cộng đồng ASEAN ngày càng được đẩy mạnh, có nhiều tiềm năng
trong việc thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực đào tạo tay nghề, xuất khẩu lao động
và hợp tác liên kết du lịch với các nước trong khu vực ASEAN khá dồi dào, trong
đó tập trung vào Malaysia, Brunei, Thái Lan (xuất khẩu lao động); Malaysia,
Indonesia (hợp tác phát triển Công viên địa chất toàn cầu), Thái Lan,
Philippin, Lào, Campuchia (hợp tác du lịch); với Singapore, Philippine (đào tạo
nhân lực, ngoại ngữ)...
Trên nền quan hệ tốt đẹp giữa Việt
Nam với các nước như Israel, Úc, New Zealand, Hungary, Hoa
Kỳ, Liên minh châu Âu và các nước Trung Đông..., Hà Giang có thể tranh thủ được
nhiều cơ hội mà bạn ưu tiên phát triển với Việt Nam như hợp tác nông nghiệp
công nghệ cao, giáo dục-đào tạo, xóa đói giảm nghèo, xuất khẩu lao động, bảo vệ
môi trường, phúc lợi xã hội và gìn giữ bảo tồn các di sản văn hóa...
Thứ hai,
công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế của các địa phương nói chung và Hà Giang
nói riêng nhận được sự quan tâm, hỗ trợ nhiều hơn từ Trung ương. Quan hệ giữa Bộ
Ngoại giao, Ban Đối ngoại Trung ương Đảng, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt
Nam và các bộ, ban, ngành liên quan với UBND tỉnh Hà Giang ngày càng gắn kết chặt
chẽ, thiết lập và tổ chức nhiều cơ chế, chương trình gặp gỡ, hỗ trợ, tạo điều
kiện thuận lợi cho công tác hội nhập hội nhập quốc tế ở địa phương.
II. Định hướng hội nhập quốc tế
của Hà Giang
1. Mục tiêu
1.1. Mục tiêu tổng quát
Tiếp tục mở rộng, phát triển mối quan
hệ láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện với các địa phương Trung Quốc; tăng
cường mở rộng, thiết lập mối quan hệ hợp tác với địa phương các nước phát triển
trong khu vực, các tổ chức quốc tế, các cơ quan ngoại giao nước ngoài tại Việt
Nam; liên kết, thu hút đầu tư phát triển kinh tế, đào tạo nguồn nhân lực, tranh
thủ khoa học, công nghệ; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát
triển; bảo đảm quốc phòng-an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn
xã hội; tạo sự chủ động, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu
quả hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo về công tác đối ngoại; khai thác tiềm năng, thế
mạnh, tranh thủ tối đa các nguồn lực quốc tế thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ tỉnh Khóa XVI, nhiệm kỳ 2015-2020 và các nhiệm kỳ tiếp theo, phấn đấu
đưa Hà Giang thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn, thu hẹp khoảng cách phát
triển so với các tỉnh, thành trong cả nước.
1.2. Mục tiêu cụ thể
* Về hội
nhập kinh tế quốc tế:
- Thu hút tối đa các nguồn lực bên
ngoài về vốn, công nghệ, kỹ năng quản trị doanh nghiệp, khoa học-công nghệ phục
vụ cho việc nâng cao chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của tăng trưởng kinh
tế;
- Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; xây
dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ hiện đại, hiệu quả và bền
vững;
- Nâng cao năng suất lao động; tăng
cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ và các sản phẩm
của địa phương;
- Nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân bằng việc xác lập, chuẩn hóa các tiêu chuẩn, điều kiện, quy
trình sản xuất;
- Gia tăng số lượng và chất lượng thu
hút đầu tư nước ngoài, viện trợ phát triển phục vụ cho phát triển, tranh thủ tối
đa các nguồn lực quốc tế nhằm triển khai hai chương trình mục tiêu quốc gia về
xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020; phấn đấu đến
năm 2020 có được 2-3 nhà đầu tư nước ngoài tham gia các dự án lớn của tỉnh và
có thêm 8-10 tổ chức nước ngoài tham gia các dự án của tỉnh.
- Phát huy được các lĩnh vực có lợi
thế cạnh tranh dựa trên các ưu thế của tỉnh như các sản phẩm nông nghiệp sạch,
hữu cơ (cam, mật ong, thịt bò, dược liệu...); các sản phẩm du lịch đặc
thù gắn với việc giữ gìn và phát huy bản sắc các dân tộc dựa trên lợi thế là
công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn và sự đa dạng bản sắc văn
hóa trên địa bàn tỉnh; phấn đấu đến năm 2020, điểm đến Công viên địa chất toàn
cầu cao nguyên đá Đồng Văn tham gia vào chuỗi sản phẩm du lịch của các nước
trong Cộng đồng ASEAN.
- Mở rộng, phát triển mạnh thị trường
nội địa, đa dạng hóa thị trường ngoài nước, khai thác có hiệu quả các thị trường
có hiệp định thương mại tự do và thị trường tiềm năng trong đó tập trung mở rộng
thị trường ASEAN. Phấn đấu đến năm 2020, hàng nông - lâm sản của tỉnh Hà Giang
có mặt tại thị trường ASEAN.
- Nâng cao nhận thức, trách nhiệm và
kỹ năng hội nhập cho cán bộ, đảng viên và nhân dân khi thực hiện các cam kết quốc
tế song phương và đa phương tại địa phương.
* Về Hội
nhập chính trị, quốc phòng và an ninh:
- Củng cố và duy trì môi trường thuận
lợi cho hội nhập kinh tế và hội nhập trong các lĩnh vực khác; đóng góp hiệu quả
hơn vào việc bảo vệ chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội;
- Duy trì và bảo vệ tốt an ninh, trật
tự tại khu vực biên giới, hợp tác chặt chẽ, nhanh chóng trong việc phòng ngừa
ngăn chặn và trấn áp các loại tội phạm tại khu vực biên giới; Thúc đẩy hợp tác
phòng ngừa, ngăn chặn và trấn áp các loại tội phạm xuyên quốc gia (khủng bố, hình sự, kinh tế, ma túy, công
nghệ cao...); chủ động phát hiện, đấu tranh làm thất bại
mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng hội nhập quốc tế để xâm
phạm an ninh quốc gia nước ta.
- Tăng cường duy trì thúc đẩy quan hệ
hợp tác với tỉnh Vân Nam và Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc đi
vào chiều sâu, hợp tác thiết thực; mở rộng quan hệ hợp tác với các địa phương
khác của Trung Quốc; mở rộng quan hệ hợp tác với Đại sứ quán các nước tại Việt
Nam để tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác với nhiều đối tác quốc tế khác trong đó
có việc mở rộng quan hệ hữu nghị với các địa phương nước ngoài có chung đặc điểm
với tỉnh Hà Giang như: Nhật Bản, Úc, Hàn Quốc, các nước
ASEAN. Phấn đấu đến năm 2020, thiết lập mới với 1-2 địa phương các nước, đến
năm 2030, tiếp tục thiết lập mới với địa phương các nước khác theo lộ trình.
- Tăng cường thiết lập quan hệ hợp
tác với các các cơ quan ngoại giao nước ngoài, các tổ chức quốc tế đóng tại Việt
Nam để quảng bá, giới thiệu tiềm năng thế mạnh của tỉnh Hà Giang, tranh thủ sự
hỗ trợ trong các lĩnh vực, tạo môi trường thuận lợi cho việc mở rộng quan hệ đối
ngoại của tỉnh Hà Giang.
* Về hội
nhập văn hóa, xã hội, dân tộc, khoa học-công nghệ, giáo dục-đào tạo và các lĩnh
vực khác:
- Tiếp thu tri thức, tinh hoa văn hóa
của nhân loại; bảo tồn, phát huy và quảng bá các giá trị văn hóa truyền thống tốt
đẹp của các dân tộc trong tỉnh; quảng bá, giới thiệu truyền thống văn hóa, lịch
sử, con người Hà Giang với bạn bè quốc tế;
- Tranh thủ tối đa các nguồn lực quốc
tế nhằm thực hiện thành công các mục tiêu về lao động, an sinh và xã hội, giáo
dục-đào tạo, y tế, khoa học-công nghệ theo các chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ
tỉnh đã đề ra.
- Chú trọng nâng cao nguồn nhân lực
và năng lực khoa học-công nghệ; tạo công ăn việc làm, bảo đảm quyền của người
lao động và các nhóm yếu thế; thúc đẩy công bằng xã hội, đảm bảo an sinh xã hội
và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
- Tăng cường xuất khẩu lao động trong
đó làm tốt công tác giáo dục định hướng, dạy nghề, kỹ năng và ngoại ngữ cho người
lao động; chú trọng tuyên truyền, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận với hoạt
động xuất khẩu lao động bằng con đường chính thức; giải quyết kịp thời các vướng
mắc, rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng đưa lao động đi làm việc ở nước
ngoài.
2. Quan điểm chỉ đạo
2.1. Nhận thức rõ, chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn của Đảng nhằm thực hiện nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước; xây dựng sự đồng thuận sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân, nhân dân các dân tộc Hà Giang, từ đó tạo nên sự chuyển biến căn bản trong
nhận thức và hành động để thực hiện thành công định hướng Chiến lược hội nhập
quốc tế này.
2.2. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế theo
chiều rộng và chiều sâu trên tinh thần thể hiện và giữ vững đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa của Việt Nam. Quán triệt phương
châm hội nhập phục vụ phát triển kinh tế-xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng-an
ninh trên địa bàn tỉnh. Mọi cơ chế, chính sách phải phát huy tính chủ động,
tích cực và khả năng sáng tạo của tất cả các tổ chức, cá nhân, các doanh nghiệp,
khai thác hiệu quả các tiềm năng của toàn xã hội.
2.3. Triển khai đồng bộ trên tất cả
các lĩnh vực, nhưng có trọng tâm, trọng điểm và lộ trình phù hợp với điều kiện
phát triển kinh tế-xã hội của Hà Giang. Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập
trong các lĩnh vực khác phải hài hòa, tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp
phần tích cực vào việc bảo đảm an ninh quốc phòng, thúc đẩy phát triển văn hóa,
xã hội. cần có các lộ trình cụ thể, đồng bộ trong một Chiến lược hội nhập quốc
tế tổng thể, phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực, thực tiễn của địa
phương.
2.4. Hội nhập quốc tế của tỉnh Hà
Giang cần được tiến hành trên cơ sở phát huy tối đa nội lực; gắn kết chặt chẽ
và thúc đẩy quá trình hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, nâng cao sức mạnh tổng hợp và khả năng cạnh tranh của địa phương; gắn kết chặt chẽ với quá trình gia
tăng mức độ liên kết giữa các vùng, miền, khu vực trong nước.
2.5. Nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết
quốc tế đi đối với chủ động, tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả
các quy tắc, luật lệ chung; chủ động đề xuất sáng kiến, cơ chế hợp tác trên
nguyên tắc cùng có lợi; nắm rõ các cam kết, thỏa thuận kinh tế mà nước ta tham
gia ký kết để “đón đầu”, chuẩn bị tốt nhất cho việc thực hiện
các cam kết này tại địa phương; tận dụng tối đa các cơ hội mà các thỏa thuận đó
mang lại. Hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa có cơ hội lẫn
thách thức, vì vậy cần chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để
rơi vào thế bị động.
3. Một số chủ trương, định hướng lớn
3.1. Thường xuyên rà soát, cập nhật,
nghiêm túc thực hiện các nhiệm vụ hội nhập theo các văn kiện của Đảng, Nhà nước
đã thông qua.
3.2. Đẩy mạnh hội nhập theo chiều rộng
và chiều sâu, thúc đẩy quan hệ hợp tác với Trung Quốc làm trọng tâm; từng bước
mở rộng quan hệ với các đối tác khác dựa trên tiềm năng, thế mạnh, và nhu cầu của
Hà Giang và nhu cầu, lợi ích và tiềm năng của đối tác, trước hết chú trọng mở rộng
quan hệ các đối tác chiến lược và đối tác toàn diện của Việt Nam như các nước
ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc...
3.3. Huy động tối đa nguồn lực và lợi
thế từng vùng nhằm mục tiêu xây dựng nền tảng vững chắc
cho hội nhập bên ngoài; đảm bảo việc hoạch định và triển khai các chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển của tỉnh, nhất là phát triển cơ sở hạ tầng, phát
triển đô thị phải phù hợp với chiến lược chung và hướng tới gia tăng mức độ
liên kết với các địa phương lân cận, các trung tâm lớn của vùng, miền.
3.4. Thúc đẩy, tăng cường quan hệ hai
chiều giữa Trung ương - địa phương; chú trọng thiết lập, củng cố các kênh cung
cấp thông tin đa chiều, chú trọng cung cấp thông tin căn bản của tỉnh, xác định
các loại hình thông tin các ngành, lĩnh vực địa phương cần trong quá trình triển
khai các kế hoạch, đề án hội nhập.
3.5. Nâng tầm hội nhập quốc tế trên
các tầng nấc, cơ chế liên kết theo hướng đẩy mạnh chủ động tham gia, tiếp cận
đa ngành, đa phương, đề cao nội hàm phát triển, nhất là trong các vấn đề mà Tỉnh
quan tâm, có lợi ích như đối tác phát triển, giảm nghèo, biến đổi khí hậu, bảo
vệ môi trường, thương mại biên giới...
3.6. Nỗ lực tạo đột phá trong vận động
các đối tác, nhất là các đối tác lớn, quan trọng với địa phương. Xử lý hiệu quả
tranh chấp, vướng mắc kinh tế, thương mại và đầu tư nhằm bảo đảm lợi ích chính
đáng của người lao động và doanh nghiệp của địa phương.
Phần IV
NHIỆM VỤ VÀ GIẢI
PHÁP HỘI NHẬP TRONG CÁC LĨNH VỰC
I. Nhiệm vụ, giải
pháp chung
1. Đổi mới tư duy trong tham gia các
hoạt động hội nhập, liên kết hội nhập quốc tế theo hướng “chủ động tham gia,
tích cực đề xuất và đóng góp”. Thúc đẩy liên kết, hợp tác liên ngành, đa
ngành và đa phương, bền vững, nhằm phát huy lợi thế cạnh tranh của địa phương.
2. Đẩy mạnh nâng cao năng lực thực
thi hội nhập quốc tế. Huy động mọi nguồn lực để thực hiện thành công 3 đột phá
chiến lược: Cải cách thể chế; phát triển kết cấu hạ tầng; phát triển nguồn nhân
lực có chất lượng.
II. Nhiệm vụ, giải
pháp cụ thể
1. Chủ động, tích cực hội nhập quốc
tế trên cả ba lĩnh vực kinh tế quốc tế, chính trị - quốc phòng - an ninh, văn
hóa - xã hội và các lĩnh vực khác
1.1. Hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.1. Thúc đẩy quan hệ hợp tác với
Trung Quốc
- Chú trọng các lĩnh vực địa phương có
tiềm năng, thế mạnh khi tìm kiếm, mở rộng đối tác hợp tác của
Trung Quốc.
- Triển khai thực hiện hiệu quả các
cam kết, chương trình hợp tác kinh tế- thương mại trong các thỏa thuận khung, bản
ghi nhớ giữa Hà Giang và các địa phương Trung Quốc.
- Tìm ra thế mạnh của tỉnh để tham
gia vào các chuỗi cung ứng, sản xuất liên quốc gia với Trung Quốc. Nâng cao sức
cạnh tranh của sản phẩm, tìm những sản phẩm ta có thế mạnh,
xây dựng một số thương hiệu, nhãn hiệu của tỉnh có uy tín để xuất khẩu vào thị
trường Trung Quốc, cần tìm ra các “mặt hàng ngách”, chuyển dần từ sản phẩm thô
sang các mặt hàng đã gia công, chế biến trong bối cảnh nhiều mặt hàng của Tỉnh
trùng với các mặt hàng thế mạnh của Vân Nam (chè, mật ong, dược liệu) và
đòi hỏi của thị trường Trung Quốc đang ngày càng cao hơn.
- Ký hiệp định công nhận lẫn nhau về
chất lượng sản phẩm với các đối tác Trung Quốc; ký kết các thỏa thuận hợp tác với
một số tỉnh, thành phố, nhà đầu tư, doanh nghiệp của Trung Quốc; liên kết đầu
tư giữa doanh nghiệp hai bên để sản xuất theo vùng chuyên canh, có tiêu chuẩn chất lượng, có hợp đồng dài hạn đối với các mặt hàng nông sản
mà địa phương có thế mạnh, bạn có nhu cầu (cà chua); hạn
chế xuất khẩu chè tiểu ngạch sang Trung Quốc nhằm tránh rủi ro về giá cả và
thanh toán; đẩy mạnh ký kết các hợp đồng chính thức với các đối tác; thiết lập
các kênh phân phối uy tín, ổn định sản phẩm chè và các sản phẩm xuất khẩu khác của Hà Giang sang thị trường Trung Quốc.
- Xây dựng, đề xuất các cơ chế, chính
sách đặc thù của tỉnh nhằm thu hút các doanh nghiệp xuất nhập khẩu tham gia
kinh doanh xuất nhập khẩu tại các cửa khẩu trên địa bàn tỉnh.
- Quản lý hiệu quả, chính thức hóa
thương mại qua biên giới, tập trung vào cửa khẩu chính ngạch, quy mô lớn để kiểm
soát tốt thương mại, bảo vệ sản xuất trong nước; kiểm soát chất lượng nông sản.
Trong bối cảnh Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc đi vào thực hiện,
ưu thế của hình thức biên mậu sẽ giảm dần (thuế suất các mặt hàng giảm bằng 0%, không có sự chênh lệnh đáng kể giữa
biên mậu và chính ngạch). Vì vậy, tỉnh Hà Giang cần tăng
cường đẩy mạnh hợp tác qua các kênh chính thức, chính ngạch tiến tới hạn chế dần
kênh tiểu ngạch trong hợp tác với Trung Quốc để đảm bảo tính chất ổn định, lâu
dài, tránh rủi ro cho việc xuất khẩu với Trung Quốc (thương mại tiểu ngạch mặc dù tạo nguồn thu thêm cho tỉnh
nhưng rất không ổn định, bấp bênh, dễ bị ảnh hưởng, tác động). Có thể thực hiện thông qua các biện pháp như ký kết các hợp đồng đầu
tư, các thỏa thuận thương mại chính thức..., tập trung vào các doanh nghiệp,
pháp nhân lớn, có uy tín của bạn.
- Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cứng
giúp tăng cường kết nối hạ tầng giao thông với các tỉnh biên giới nước ta với
các tỉnh, địa phương Trung Quốc, chú trọng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng khu
vực các cửa khẩu, biên giới.
- Xây dựng Quy hoạch phát triển hệ thống
cửa khẩu biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn
đến năm 2035 thuộc địa bàn tỉnh Hà Giang quản lý.
- Tranh thủ nguồn vốn đầu tư của
Trung Quốc đặc biệt trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng trong bối cảnh bạn đang đẩy
mạnh liên kết, kết nối khu vực. Tuy nhiên, tránh tiếp nhận các nguồn đầu tư chất
lượng thấp, công nghệ lạc hậu, ảnh hưởng đến môi trường.
- Tổ chức nghiên cứu, tìm hiểu và cập nhật luật pháp, quy định, các chính sách phát triển kinh tế-xã
hội nói chung của các tỉnh có biên giới với Hà Giang; các lĩnh vực ưu tiên phát
triển; chính sách điều tiết, chính sách biên mậu, chính sách thuế ở các cửa khẩu;
cập nhật các điều chỉnh, thay đổi về chính sách; các ưu tiên chính sách, mối
quan tâm, lợi ích của các đối tác Trung Quốc khi xây dựng các đề án (mở chợ,
mở lối mở), chương
trình phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế (biên mậu) của địa phương;
xây dựng các kế hoạch hợp tác, liên kết với các đối tác Trung Quốc nhằm chủ động
nắm bắt cơ hội, dự liệu mức độ hiệu quả của đề án, chương trình và đề phòng các
rủi ro có khả năng xảy ra.
- Tăng cường hợp tác với Tổng lãnh sự
quán Việt Nam tại Nam Ninh, Côn Minh, thiết lập cơ chế cung cấp thông tin giúp
tổng hợp các thông tin kinh tế cho tỉnh, doanh nghiệp trong tỉnh về đối tác
kinh doanh của Trung Quốc, hỗ trợ tỉnh kết nối với các doanh nghiệp và nhà đầu
tư, thẩm định tư cách pháp nhân của các doanh nghiệp; nghiên cứu thị trường,
thông tin mặt hàng (tiêu chuẩn chất lượng, mẫu mã); thông tin về rào cản
kỹ thuật đối với hàng hóa của ta; chu kỳ sản xuất, tiêu thụ, thay đổi công nghệ;
xác định tác động thuận, nghịch đối với sản xuất của Hà Giang; dự báo cơ hội,
thách thức cụ thể; cung cấp thông tin về chính sách tiếp nhận lao động của đối
tác; hỗ trợ công ty môi giới và sử dụng lao động của đối tác; cảnh báo, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và công dân
ta; tổ chức các hoạt động quảng bá, xúc tiến đầu tư-thương mại.
- Thường xuyên tổ chức các khóa cung
cấp thông tin, đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cho doanh nghiệp, thương nhân, các
hộ gia đình trên địa bàn tỉnh tham gia hoạt động xuất khẩu hàng hóa sang Trung
Quốc về luật pháp, chính sách, tập quán kinh doanh, xuất xứ hàng hóa, phương thức
thanh toán, ký kết hợp đồng; các vấn đề kỹ thuật như bảo quản, đóng gói bao bì,
nhãn mác theo đúng quy chuẩn đối với các sản phẩm xuất khẩu.
1.1.2. Mở rộng hợp tác với các đối tác khác
- Tăng cường tìm kiếm, mở rộng hợp
tác với các đối tác trong các lĩnh vực địa phương có tiềm năng, thế mạnh, hoặc
có nhu cầu hỗ trợ để phát triển; tìm kiếm, mở rộng thị trường
cho hàng hóa xuất khẩu tiềm năng của tỉnh; tận dụng hiệu
quả các hoạt động hỗ trợ kết nối giữa các địa phương và các đối tác nước ngoài;
đồng hành cùng các địa phương trong tiến trình hội nhập quốc tế, nhất là về
kinh tế quốc tế.
- Duy trì, xúc tiến hợp tác và mở rộng
quan hệ với các đối tác đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Úc, Isarel, Hungary, Mỹ
và một số nước ASEAN, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài...
Tích cực xây dựng và triển khai các đề án đối ngoại của tỉnh nhằm tăng cường
thiết lập, củng cố và phát triển quan hệ hợp tác với địa phương các nước và các
nước đối tác chiến lược khác.
- Trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp,
chăn nuôi chú trọng tìm kiếm mở rộng hợp tác với các nước đối tác tiềm năng dựa
trên các tiêu chí gồm có chung đặc điểm, thế mạnh trong lĩnh vực này; có thể mạnh
về khoa học-công nghệ, nông nghiệp công nghệ cao; là những đối tác quan trọng đối
với Việt Nam, có thiện chí hợp tác và có khả năng hỗ trợ Việt Nam trong lĩnh vực
này. Một số đối tác tiềm năng đáp ứng các tiêu chí này gồm Nhật Bản, New
Zealand, Israel[10].
- Chú trọng công tác tìm hiểu thị trường,
gồm nhu cầu thị trường, thông số, tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa của
các đối tác; hệ thống nhập và phân phối hàng hóa; thị hiếu người tiêu dùng ở
các nước là đối tác tiềm năng đối với các sản phẩm địa phương muốn xuất khẩu;
xác định hội chợ là nơi tìm bạn hàng, trao đổi kinh nghiệm, mở rộng kết nối;
thường xuyên đánh giá hiệu quả cách thức tổ chức các hoạt động xúc tiến thương
mại.
- Nghiên cứu lựa chọn đối tác, thị
trường trọng tâm để hợp tác, thúc đẩy phát triển; giảm sự phụ thuộc vào một số
thị trường nhiều rủi ro; chú trọng mở rộng thị trường cho xuất khẩu chè Hà
Giang, hướng tới các thị trường xuất khẩu chínhủ ca Việt Nam gồm Pakistan,
Afganistan, Iran (ngoài Đài Loan, Trung Quốc), các thị trường tiềm năng trong
Liên minh kinh tế Á-Âu, trong đó có Nga; triển khai các hoạt động xúc tiến
thương mại cấp quốc gia; hỗ trợ các doanh nghiệp thiết lập quan hệ với các nhà
nhập khẩu lớn của các thị trường xuất khẩu này; xây dựng chiến lược thâm nhập
các thị trường trong Liên minh kinh tế Á-Âu.
- Tiến hành nghiên cứu các thị trường
tiềm năng, xúc tiến thương mại, tìm kiếm bạn hàng, phát triển và quảng bá
thương hiệu đối với các sản phẩm chăn nuôi xuất khẩu tiềm năng của Hà Giang như
mật ong, bò.
- Tận dụng các khuôn khổ hợp tác,
tham gia các hoạt động hỗ trợ kết nối giữa các địa phương và các đối tác nước
ngoài do Cục Ngoại vụ, Bộ Ngoại giao ký kết hoặc làm đầu mối như hợp tác với
Phòng Thương mại Úc (Auscham)[11], với Hiệp hội doanh nghiệp châu Âu tại Việt
Nam (Eurocham) và Mạng lưới kinh doanh châu Âu - Việt Nam (EVBN)[12],... nhằm tìm
hiểu thông tin tiếp cận các thị trường này; tiếp cận các nguồn vốn hỗ trợ phát
triển trong lĩnh vực địa phương cần và đối tác quan tâm, có khả năng hỗ trợ;
tìm hiểu cơ hội trao đổi thương mại
và đầu tư song phương; giới thiệu đến đối tác tiềm năng, thế mạnh, chính sách
ưu đãi thu hút đầu tư nước ngoài của địa phương; vận động viện trợ giúp phát
triển kinh tế - xã hội của vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo hướng hỗ trợ đồng
bào tự phát triển kinh tế gia đình để có thu nhập cao hơn
thông qua việc tham gia vào các hoạt động phát triển du lịch văn hóa, phát triển
ngành nghề sản xuất tiểu thủ công nghiệp vùng miền núi dân
tộc thiểu số.
- Tiếp cận các nguồn tín dụng ưu đãi
cho các dự án phát triển kết cấu hạ tầng, xóa đói giảm nghèo, phát triển nông
nghiệp nông thôn, phát triển nguồn nhân lực, quản lý rủi ro, thiên tai của tỉnh
trong đó nghiên cứu xây dựng các chương trình, dự án phát triển kết cấu hạ tầng,
an sinh xã hội để kêu gọi các nguồn lực tài chính từ Quỹ
phát triển kinh tế của các nước có tiềm lực tài chính lớn ở khu vực Vùng Vịnh (Ả
rập Xê út, UAE, Kuwait...), các nguồn vốn ODA hỗ trợ địa
phương phát triển.
- Học tập, trao đổi kinh nghiệm với một
số tỉnh, thành khác trong việc mở rộng quan hệ với đối tác là các địa phương,
doanh nghiệp nước ngoài[13].
1.2. Hội nhập chính trị, quốc
phòng, an ninh
2.1.1. Đẩy mạnh, làm sâu sắc hơn và nâng cao hiệu quả hợp tác song phương với các địa phương Trung Quốc
- Đưa các khuôn khổ hợp tác hiện có
đi vào chiều sâu, thiết lập các cơ chế mới đáp ứng yêu cầu phát triển của quan
hệ; góp phần tạo dựng và nâng cao độ tin cậy giữa hai nước.
- Là tỉnh biên giới, ưu tiên cao cho
hội nhập của địa phương là phối hợp quản lý tốt, duy trì đường biên giới hòa
bình và hữu nghị, tạo thuận lợi cho hợp tác kinh tế; duy trì các kênh liên lạc,
hợp tác kịp thời và hiệu quả với các đối tác Trung Quốc để vừa thúc đẩy hợp
tác, vừa kịp thời xử lý những vấn đề nảy sinh.
- Rà soát, triển khai đầy đủ, có hiệu
quả các thỏa thuận đã ký kết; thường xuyên rà soát hoạt động của các cơ chế hợp
tác hiện có với các địa phương Trung Quốc; định kỳ đánh giá hiệu quả các cơ chế
hợp tác này trong việc thúc đẩy quan hệ và giải quyết các vấn đề nảy sinh; đề
xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ chế này.
- Duy trì, nâng cao hiệu quả các cơ
chế đối thoại, tiếp xúc, hợp tác biên giới giữa Hà Giang với các địa phương
Trung Quốc; chú trọng tăng cường thông tin, minh bạch hóa chính sách, cơ chế
triển khai chính sách; thiết lập các cơ chế hợp tác mới đáp ứng yêu cầu phát
triển của quan hệ, hình thành các cơ chế đủ mạnh để giải quyết các vấn đề nảy
sinh.
- Đánh giá hiệu quả hoạt động các cơ
chế của Ủy ban công tác liên hợp và Nhóm công tác liên hợp giữa các tỉnh biên
giới Việt Nam với Trung Quốc, đề xuất các biện pháp nhằm tận dụng hiệu quả hơn
các cơ chế này trong tăng cường trao đổi hợp tác và giải quyết những vấn đề ở cấp
lãnh đạo tỉnh giữa hai bên; tăng cường trao đổi thực hiện các chuyến thăm làm
việc giữa lãnh đạo hai tỉnh.
- Mở rộng, tăng cường các hoạt động đối
ngoại Đảng thông qua thiết lập và mở rộng quan hệ với Tỉnh ủy, Châu ủy, Huyện ủy
của tỉnh Vân Nam và khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây
(Trung Quốc); Liên hiệp các tổ chức hữu nghị tỉnh tăng cường
thúc đẩy giao lưu nhân dân, trước hết là với Trung Quốc và các nước ASEAN; kết
nối, tham gia các hoạt động trong khuôn khổ hội hữu nghị
Việt -Trung, Việt - Lào (Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam) và các hội hữu
nghị khác.
- Phát huy vai trò nòng cốt và tinh
thần chủ động của Mặt trận Tổ quốc tỉnh, các tổ chức đoàn thể và các tổ chức
nhân dân trong công tác đối ngoại nhân dân, thúc đẩy quan hệ đối ngoại nhân dân
ở khu vực biên giới; tạo điều kiện để cư dân biên giới được
giao lưu, qua lại thăm thân, trao đổi hàng hóa; tổ chức ký
kết, nhân rộng mô hình kết nghĩa giữa các thôn, xã, hương, trấn, huyện hai bên
biên giới ngày càng thực chất, hiệu quả.
- Tiếp tục đẩy mạnh
các hoạt động hợp tác song phương về quốc phòng, an ninh với các lực lượng Công
an, Biên phòng, Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc nhằm thực hiện hiệu quả các
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh, góp phần triển khai hiệu quả
quy chế quản lý biên giới, duy trì đường biên giới hữu nghị, ổn định; đấu tranh
phòng, chống tội phạm; tăng cường giao lưu, hợp tác, mở rộng các cơ chế tuần
tra chung, vận hành hiệu quả đường dây nóng, diễn tập chống khủng bố; tăng cường
theo dõi, phối hợp với lực lượng của bạn nhằm đánh giá tình hình, phát hiện sớm
và có phương án đối phó với các âm mưu và hoạt động của các phần tử/lực lượng lợi
dụng hội nhập quốc tế để xâm phạm an ninh quốc gia.
- Duy trì, rà soát hoạt động của các
cơ chế hợp tác hiện có; tham mưu, đề xuất cho lãnh đạo tỉnh các hình thức hợp
tác/nội dung trọng tâm cần thúc đẩy hợp tác nhằm làm sâu sắc thêm quan hệ chính
trị, quốc phòng, an ninh.
- Chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng đảm bảo điều kiện thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, bảo đảm an ninh biên
giới, đầu tư xây dựng đường tuần tra biên giới, rà phá bom mìn trên tuyến biên
giới.
2.1.2. Mở rộng quan hệ với các đối
tác khác
- Tìm kiếm, mở rộng quan hệ với các địa
phương nước ngoài có chung đặc điểm phát triển với Hà Giang[14], chú trọng thiết lập một số
đối tác hợp tác cụ thể với địa phương các nước Nhật Bản, Úc, Hàn Quốc, các nước
ASEAN. Phấn đấu đến năm 2020, 2030 thiết lập được quan hệ đối tác hợp tác với một
số địa phương nước ngoài.
- Hợp tác có chọn lọc trong một số
lĩnh vực “phi truyền thống” như: Chống khủng bố và các hoạt động của các phần tử
cực đoan, phòng chống tội phạm xuyên quốc gia, phòng chống và giảm nhẹ thiên
tai, phòng chống dịch bệnh lớn.
- Mở rộng hợp tác với các đối tác
trong Mạng lưới công viên địa chất toàn cầu GGN trên thế giới nhằm khai thác thế
mạnh về du lịch của công viên địa chất toàn cầu cao nguyên Đá Đồng Văn, kết nối
các tour du lịch, thu hút đầu tư vào cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng dịch vụ
du lịch, đưa công viên địa chất cao nguyên Đá Đồng Văn vào danh mục các điểm ưa
thích của khách du lịch quốc tế, trở thành sản phẩm du lịch nổi bật của Việt
Nam tham gia các chuỗi du lịch khu vực Đông Nam Á và toàn cầu.
- Phối hợp chặt chẽ, thiết lập cơ chế
hợp tác/làm việc thường kỳ với bộ phận đầu mối của các cơ quan thuộc khối đối
ngoại Trung ương gồm Ban Đối ngoại Trung ương Đảng, Bộ Ngoại giao, Liên hiệp
các Tổ chức hữu nghị Việt Nam nhằm hỗ trợ, tư vấn tìm kiếm các đối tác, triển
khai các dự án hợp tác với các đối tác nước ngoài của Hà Giang.
- Thúc đẩy xây dựng
quan hệ đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân với một số nước
trong khu vực và các nước khác trên thế giới; chủ động đăng ký, tích cực tham
gia với các đoàn Trung ương tham dự các diễn đàn đa phương chính đảng của các Đảng
Cộng sản và công nhân, các đảng cánh tả và các đảng tiến bộ của các nước trong
khu vực và trên thế giới.
1.3. Hội nhập văn hóa-xã hội, giáo
dục-đào tạo, khoa học-kỹ thuật, y tế, thể thao-du Iịch
1.3.1. Đổi
mới và tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, nhất là về chương trình, nội dung
và chất lượng giáo dục-đào tạo, dạy nghề. Phát huy vai trò của công nghệ thông
tin và các thành tựu khoa học-công nghệ hiện đại trong quản lý nhà nước về giáo
dục-đào tạo. Rà soát, sắp xếp mạng lưới cơ sở dạy nghề, đồng thời cần phải có
giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp
theo hướng chuẩn hóa và xây dựng lộ trình chuẩn hóa.
1.3.2. Lồng
ghép các hoạt động hội nhập quốc tế trong quá trình xây dựng và triển khai các
chương trình, đề án phát triển văn hóa, lao động, xã hội, y tế, giáo dục- đào tạo,
khoa học-công nghệ, môi trường và các lĩnh vực khác.
- Cập nhật thông tin về các chiến lược,
đề án hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, lao động, giáo dục-đào
tạo, khoa học-công nghệ, y tế, môi trường, v.v... của các Bộ, ban, ngành Trung
ương; lựa chọn, lồng ghép các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp hoạt động hội nhập
quốc tế trong các lĩnh vực này khi xây dựng và triển khai các chương trình, đề
án phát triển văn hóa, xã hội, lao động, xã hội, y tế, giáo dục-đào tạo, khoa học-
công nghệ, môi trường,... của tỉnh phù hợp với năng lực và điều kiện thực tiễn
địa phương.
- Áp dụng thống nhất các tiêu chí,
tiêu chuẩn quốc gia trong các lĩnh vực giáo dục-đào tạo, y tế, lao động, an
sinh xã hội, khoa học-công nghệ, đo lường, chất lượng, sở hữu trí tuệ, môi trường....;
xây dựng bảng đối chiếu với các tiêu chí, tiêu chuẩn ASEAN và quốc tế trong các
lĩnh vực này, xác định mục tiêu cần đạt được và các biện pháp cần thực hiện
theo từng giai đoạn nhằm thu hẹp khoảng cách giữa Hà Giang với các địa phương
trong cả nước, tiến tới thu hẹp khoảng cách với các nước ASEAN-4 trong các lĩnh
vực này.
- Cập nhật và lồng ghép các tiêu chí,
tiêu chuẩn của Khung trình độ quốc gia vào các đề án của ngành giáo dục- đào tạo,
các chính sách, đề án về phát triển nguồn nhân lực, lao động; tham gia các hoạt
động kiểm định chất lượng giáo dục theo bộ tiêu chuẩn quốc gia; tiếp cận với
các chương trình đào tạo tiên tiến, trước mắt phấn đấu văn
bằng, chứng chỉ của người học được công nhận ở các nước trong khu vực.
- Áp dụng các tiêu chuẩn ASEAN (như
của Cộng đồng Văn hóa-xã hội ASEAN) và quốc tế (như ILO) vào việc xây dựng các chính sách và chương
trình phát triển lao động, việc làm của tỉnh; từ nay đến năm 2020, chú trọng nâng
cao chất lượng lao động; gia tăng tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo có
văn bằng, chứng chỉ; tăng năng suất lao động chú trọng lao động có trình độ tay
nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao; chú trọng đào tạo nghề trong 8 lĩnh vực ngành
nghề ASEAN đã có thỏa thuận, nhằm tận dụng thị trường lao động rộng lớn ASEAN[15]; vận hành có
hiệu quả hệ thống cơ sở dữ liệu và thực hành tốt nhất về năng suất lao động để
theo dõi tình hình thực hiện và phân tích, đánh giá, dự báo; tăng cường hợp tác
giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, coi trọng đào tạo đại học, cao đẳng và dạy
nghề theo chuẩn khu vực và quốc tế; rà soát, cập nhật các hiệp định công nhận
văn bằng, chuyển đổi tín chỉ và kỹ năng nghề giữa Việt Nam với các nước ASEAN, Trung
Quốc. Duy trì và mở rộng mới thị trường xuất khẩu lao động sang các nước Hàn Quốc,
Nhật Bản, Đài Loan, CHLB Đức, các nước Trung Đông - Châu Phi, Malaysia, Thái
Lan, Lào... phấn đấu đến năm 2020, xuất khẩu 2.500 lao động trong đó có 1.500
lao động sang thị trường Trung Quốc.
- Từng bước áp dụng các tiêu chí,
tiêu chuẩn khu vực và quốc tế làm tiêu chí phấn đấu và thước đo đánh giá về an
sinh xã hội; trước mắt chú trọng vào chuẩn nghèo, chương trình và phạm vi bao
phủ của các chương trình bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội, cung cấp dịch vụ xã
hội của tỉnh.
- Áp dụng các tiêu chí, tiêu chuẩn
khoa học-kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, tập trung vào các sản phẩm nông
nghiệp có thể xuất khẩu, đặc biệt là chè. Chú trọng đầu tư sản phẩm chè có
thương hiệu và chất lượng cao; tập trung vào kiểm soát chất lượng, quy trình sản
xuất theo các tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn thực phẩm, GMP của các nhà máy chế biến;
nâng cao năng lực áp dụng các tiêu chuẩn trong sản xuất
chè nguyên liệu; xây dựng vùng nguyên liệu đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế
(EU, Hoa Kỳ); có phương án quản lý việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật để đảm bảo
dư lượng thuốc tồn dư cho phép theo tiêu chuẩn quốc tế.
- Áp dụng tiêu chuẩn quản lý chất lượng
phù hợp đối với các bệnh viện trên địa bàn tỉnh dựa trên tiêu chuẩn quốc gia, từng
bước áp dụng chuẩn khu vực và quốc tế trong khám, chữa bệnh. Hoàn thiện hệ thống
chỉ số thống kê y tế có khả năng so sánh trước hết ở cấp quốc gia, đến 2030 hướng
tới cấp khu vực trên một số tiêu chí địa phương có năng lực thực hiện; góp phần
thực hiện hiệu quả các mục tiêu cam kết quốc tế trong lĩnh vực y tế.
- Áp dụng các tiêu chí, tiêu chuẩn
khu vực và quốc tế trong việc quản lý, giám sát bảo vệ môi trường trên địa bàn
tỉnh, đặc biệt là môi trường các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu dân cư
và khu vực biên giới.
- Rà soát hệ thống tiêu chuẩn quốc
gia, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, các thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam ký kết về
tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng; nhằm hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng
trong các lĩnh vực này ở địa phương, đưa vào áp dụng trong các lĩnh vực đời sống.
1.3.3.
Tăng cường giao lưu, ký kết, triển khai các thỏa thuận hợp
tác song phương, đa phương nhằm tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ quốc tế chú trọng
phát triển các ngành, lĩnh vực tỉnh còn yếu và thiếu.
- Chủ động phối hợp với các đầu mối
cung cấp thông tin về điều phối, phân bổ, giới thiệu các
chương trình, dự án đầu tư, viện trợ của các tổ chức quốc tế với các cơ quan chủ
yếu gồm PACCOM (Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam), Cục Ngoại vụ (Bộ Ngoại
giao), vụ Hợp tác quốc tế của các Bộ, ngành liên quan, các cơ quan đại diện ngoại
giao ở Việt Nam mà tỉnh đã thiết lập quan hệ; cung cấp thông tin căn bản và lập
danh mục các đề án về các lĩnh vực ưu tiên cần vận động viện trợ, hỗ trợ nước
ngoài cho các cơ quan này.
- Chủ động phối hợp với Bộ Giáo dục
và đào tạo, Bộ Y tế nhằm tìm kiếm đối tác, ký kết thỏa thuận hợp tác giáo dục-đào
tạo, hợp tác giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp; y tế; đưa các thỏa thuận đã
ký đi vào triển khai, đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm.
- Đề xuất cơ chế hợp tác, tiến tới ký
kết các thỏa thuận với các cơ quan, địa phương Trung Quốc về hợp tác phòng ngừa
và kiểm soát ô nhiễm môi trường và ô nhiễm xuyên biên giới; khai thác, sử dụng
và phát triển bền vững nguồn nước liên quốc gia.
- Khai thác nguồn lực tài chính, kỹ
thuật, con người từ các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ quốc
tế và các đối tác khác trong việc xây dựng và triển khai các chính sách, chương
trình, dự án trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa
học - công nghệ.
1.3.4. Mở
rộng các hoạt động hợp tác giao lưu văn hóa-nghệ thuật, quảng bá văn hóa đặc sắc
của địa phương.
- Ký kết thỏa thuận hợp tác về văn
hóa-nghệ thuật với các địa phương Trung Quốc; tổ chức thực hiện các chương trình,
hoạt động văn hóa đối ngoại của Hà Giang; phối hợp với các Bộ, ngành liên quan
tổ chức các sự kiện văn hóa đối ngoại tại địa phương và xây dựng, quảng bá hình
ảnh con người, văn hóa của địa phương ở trong nước và nước ngoài.
- Duy trì và mở
rộng các hoạt động giao lưu văn hóa thể thao giữa Hà Giang với các cơ quan, địa
phương đối đăng của Trung Quốc và với các địa phương nước khác.
2. Hoàn thiện thể chế, chính sách,
cải cách hành chính
- Triển khai thực hiện có hiệu quả
Nghị quyết trung ương 4 khóa XII "Về một số chủ
trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất
lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế” và Nghị
quyết 06-NQ/TW "Về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị-xã hội trong bối cảnh nước ta
tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới"; gắn với việc thực hiện
các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm tỉnh Hà Giang giai
đoạn 2016-2020.
- Cập nhật thông tin về hội nhập kinh
tế quốc tế, các thỏa thuận quốc tế Việt Nam đã ký kết như: Cộng đồng Kinh tế
ASEAN, Hiệp định tự do thương mại Việt Nam-Liên minh kinh tế Á-Âu, Hiệp định tự
do thương mại Việt Nam-EU, Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên
Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định đối tác toàn diện khu vực (RCEP)... nhằm tăng
cường hiểu biết, nhận thức của các cấp, ngành, doanh nghiệp, người dân về cơ hội
và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế; dựa trên thực tiễn địa phương, điều
chỉnh, lồng ghép các mục tiêu, cam kết, các quy định, tiêu chí, tiêu chuẩn vào các đề án, quy hoạch, chương trình của các ngành, lĩnh vực liên
quan; cập nhật các cam kết đã được nội luật hóa;
- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả kế
hoạch cải cách hành chính của tỉnh giai đoạn 2016-2020; cập nhật mới, sửa đổi,
hủy bỏ các quy định cũ không phù hợp, nhất là thủ tục liên quan đến đầu tư, xuất
nhập khẩu, thuế; xây dựng chương trình hành động thực hiện Kế hoạch tổng thể
triển khai cơ chế một cửa quốc gia và cơ chế một cửa ASEAN giai đoạn 2016-2020;
đẩy nhanh ứng dụng thương mại điện tử và công nghệ thông tin trong công tác quản
lý điều hành, tạo dựng môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp
trong tỉnh và các nhà đầu tư đến tìm hiểu, thực hiện đầu tư tại tỉnh; có giải
pháp nâng cao nhóm chỉ số về hạ tầng viễn thông và nguồn nhân lực theo phương
pháp đánh giá chính phủ điện tử của Liên Hợp Quốc.
- Phát triển đồng bộ các yếu tố của nền
kinh tế thị trường, hiện đại hóa nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Thực hiện
quy hoạch cơ cấu sản xuất theo từng ngành và khu vực địa lý, khai thác thế mạnh
(cửa khẩu, công viên địa chất), chú trọng các dự án trọng điểm, sản phẩm chủ lực,
có vai trò quyết định đến sự thành công của các mục tiêu phát triển.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp: Hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, đặc
biệt là hoàn thiện chính sách thúc đẩy phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ cùng
với khuyến khích khởi nghiệp, sáng tạo; đẩy mạnh liên kết ngành hàng, hỗ trợ
doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tham gia cụm liên kết ngành trong các lĩnh vực địa
phương có thể mạnh như nông sản; đăng ký bản quyền, thương hiệu để bảo vệ doanh nghiệp và sản phẩm của địa phương; hỗ trợ doanh nghiệp
trong việc mở rộng thị trường, thông tin, đào tạo nguồn nhân lực; hỗ trợ doanh
nghiệp trong các tranh chấp thương mại.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản
phẩm: Xác định và xây dựng kế hoạch phát triển các ngành hàng chiến lược của Tỉnh
trong đó xác lập chuẩn hóa các tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình sản xuất, quy
cách, mẫu mã sản phẩm. Đẩy mạnh thực hiện chương trình xây dựng thương hiệu
nông sản của địa phương; tập trung nông nghiệp sinh thái sạch, hình thành một số
vùng sản xuất giống áp dụng công nghệ cao; gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất nông
nghiệp với xây dựng thương hiệu sản phẩm, chỉ dẫn địa lý gắn với quảng bá, giới
thiệu và tiêu thụ sản phẩm cho người nông dân; có chiến lược nâng giá trị sản
phẩm nông nghiệp có thế mạnh, trước mắt là tiêu thụ trong
nước, sau tính đến xuất khẩu như cam, mật ong...; có chính sách phù hợp để phát
triển và tiêu thụ nhóm sản phẩm xuất khẩu chủ lực, đặc biệt là chè, chú trọng
xây dựng thương hiệu chè và hợp tác với các đối tác quảng bá thương hiệu văn
hóa chè Việt Nam và tham gia các chuỗi cung ứng tại các quốc gia là các thị trường
xuất khẩu chính; thúc đẩy công nghiệp chế biến để gia tăng giá trị nông sản,
đưa các doanh nghiệp công nghệ cao tham gia sản xuất nông nghiệp; xây dựng hệ
thống thông tin tiêu chuẩn chất lượng, kết nối thông tin sản
xuất với các thông tin thị trường tiêu thụ.
- Cải thiện môi trường thu hút đầu tư
trong nước, nước ngoài; đơn giản hóa, giảm đến mức tối đa
thủ tục khởi sự kinh doanh; xây dựng và có cơ chế thông tin hiệu quả đến các
nhà đầu tư về các chính sách ưu đãi, các biện pháp bảo vệ các nhà đầu tư, đặc
biệt là đầu tư tư nhân trong các ngành, lĩnh vực, dự án tỉnh chú trọng như xây
dựng cơ sở hạ tầng giao thông, dịch vụ nhằm phát triển du lịch, nông nghiệp,
các cụm công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu; xây dựng bộ tiêu chí của địa phương,
trong đó thể hiện rõ các nhu cầu về phát triển kinh tế - xã hội, làm cơ sở thẩm
định tính hiệu quả của các thỏa thuận đầu tư với các đối tác nước ngoài...; đẩy
nhanh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, điều hành, tạo môi
trường kinh doanh minh bạch, thông thoáng; thực hiện chương trình hành động về
cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh.
Thực hiện cơ chế tham vấn thương mại đối với doanh nghiệp đặc biệt là các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu.
- Thường xuyên nghiên cứu, nắm bắt và
dự báo đánh giá tác động của các thỏa thuận, hiệp định song phương, đa phương,
các tổ chức, diễn đàn mà Việt Nam tham gia để từ đó tranh thủ các cơ hội và hạn
chế các thách thức ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; phối
hợp với các tổ chức, cơ quan trong và ngoài nước để nghiên cứu, học hỏi, trao đổi
kinh nghiệm về công tác nghiên cứu, phân tích, dự báo, đánh giá và nâng cao chất
lượng tham mưu về chính sách hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Đào tạo nguồn nhân lực tham gia
công tác hội nhập quốc tế
- Thực hiện cải cách chế độ công vụ,
công chức; chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác hội nhập;
đẩy mạnh đào tạo trong và ngoài nước, Bồi dưỡng, tập huấn và đẩy mạnh công tác tuyên
truyền nâng cao nhận thức, kỹ năng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân chủ động,
tích cực tham gia, thực hiện các cam kết quốc tế song phương, đa phương mà Việt
Nam đã ký kết.
- Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao cho các ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm của tỉnh như nông, lâm nghiệp,
du lịch; chú trọng đẩy mạnh hợp tác giáo dục- đào tạo với các đối tác có thế
mạnh và có quan hệ chặt chẽ về giáo dục và đạo tạo với Việt Nam.
Cử cán bộ tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác hội nhập;
xây dựng đề án cử cán bộ một số ngành, lĩnh vực chủ chốt tham gia đào tạo
chuyên sâu tại một số nước đối tác tiềm năng như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc,
New Zealand[16]...
- Cử cán bộ thực tập tại các cơ quan
Trung ương như Bộ Ngoại giao, Bộ Công thương trong lĩnh vực về nâng cao năng lực
Hội nhập quốc tế; xây dựng mô hình chương trình cử sinh viên, lao động sang các
doanh nghiệp của các thị trường phát triển để học hỏi và nâng cao tay nghề. Cử
cán bộ tham gia làm việc tại các cơ quan đại diện nước ngoài có quan hệ hợp tác
với Hà Giang (Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại Nam Ninh, Côn Minh, Trung Quốc).
4. Chú trọng công tác thông tin
trong quá trình hội nhập
- Phối hợp với các Bộ, ngành Trung
ương liên quan thiết lập các cơ chế cung cấp thông tin, chủ động xác định các
lĩnh vực, các loại thông tin Hà Giang cần trong quá trình phát triển và hội nhập
kinh tế quốc tế.
- Chủ động phối hợp chặt chẽ với Bộ
Công thương, Bộ Ngoại giao trong công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến
thức về hội nhập kinh tế quốc tế, các cam kết của Việt Nam về hội nhập kinh tế
quốc tế nhằm thực hiện hiệu quả chính sách thông tin và hỗ trợ doanh nghiệp địa
phương trong việc tận dụng các cơ hội và đối phó với thách thức do quá trình hội
nhập mang lại; chú trọng phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
trong thông tin về chính sách hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực nông nghiệp.
- Thiết lập cơ chế cung cấp thông tin
với các cơ quan đại diện Việt Nam ở các nước, chuẩn bị thông tin căn bản trong
các lĩnh vực địa phương có thể mạnh, tiềm năng cung cấp cho các cơ quan đại diện
nhằm giúp quảng bá, xúc tiến thương mại, kêu gọi đầu tư, hỗ trợ phát triển, chú
trọng các cơ quan đại diện tại các nước là các đối tác chính cho xuất khẩu hàng
hóa, lao động, và thu hút nguồn khách du lịch của Việt Nam nói chung, Hà Giang
nói riêng như Pakistan, Afganistan, Iran, Đài Loan, Trung Quốc, các nước trong
Liên minh kinh tế Á-Âu (cho xuất khẩu chè); các nước ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản,
Hàn Quốc[17]
(tiếp nhận lao động); Pháp, Hà Lan, Đức (nguồn khách du lịch); tận dụng thông
tin cung cấp từ các cơ quan đại diện làm đầu vào cho việc xây dựng hệ thống
thông tin hội nhập kinh tế và phát triển các lĩnh vực thế mạnh về kinh tế-thương
mại của tỉnh.
- Tăng cường cung cấp thông tin về chủ
trương, chính sách ưu đãi nhằm thu
hút đầu tư trong nước, nước ngoài phát triển ngành du lịch và khai thác khía cạnh
kinh tế của văn hóa dân tộc Hà Giang; có chính sách thông tin và hỗ trợ các hãng
du lịch trong và ngoài nước tiến hành khảo sát mở các tour du lịch lên Hà Giang
và các tỉnh biên giới Việt Nam và giữa Hà Giang và địa phương Trung Quốc; xây dựng
kế hoạch giới thiệu sản phẩm du lịch, chú trọng quảng bá Công viên địa chất
toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn và văn hóa dân tộc đặc sắc của Hà Giang tại các
hội chợ du lịch quốc tế và khu vực.
- Chủ động đưa các nội dung kinh tế
như: Vận động các nguồn vốn đầu tư, viện trợ (bao gồm cả ODA, NGO), công nghệ,
tri thức vào hoạt động đối ngoại của tỉnh, nhất là vào chương trình của các
đoàn cán bộ của tỉnh khi ra nước ngoài công tác và khi tiếp xúc, làm việc với
các Đại sứ quán, các tổ chức quốc tế...
- Xây dựng và triển khai các biện
pháp, cách tiếp cận tốt hơn nữa để người dân và doanh nghiệp tiếp cận thông tin
về hội nhập một cách dễ dàng và thuận tiện hơn.
5. Đẩy mạnh gia tăng mức độ liên kết
vùng
- Bổ sung phát huy, thế mạnh của từng
địa phương, tận dụng lợi thế do kết nối mang lại phục vụ mục tiêu phát triển
chung, thúc đẩy hội nhập xuyên biên giới với các địa
phương giáp biên.
- Chú trọng xây dựng, nâng cấp kết cấu
hạ tầng giao thông, kết nối với các tỉnh thuộc vùng cửa ngõ phía Bắc của vùng
kinh tế trọng điểm Bắc Bộ nước ta, có quan hệ mật thiết về kinh tế với các tỉnh
phía Nam và Đông Nam Trung Quốc, được xác định là vùng kinh tế tổng hợp, có vị
trí chiến lược về an ninh, quốc phòng đối với cả nước.
- Tiếp tục kêu gọi đầu tư thực hiện
các dự án giao thông kết nối như đường kết nối vối tuyến cao tốc Hà Nội-Lào
Cai; quốc lộ 297, 34; các dự án đường tỉnh lộ và một số tuyến đường dân sinh
vào vùng sản xuất nông nghiệp chuyên canh tập trung.
- Phối hợp, liên kết, thu hút đầu tư
để phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần, chế biến, vận chuyển nhằm
gia tăng giá trị, giảm chi phí vận chuyển; tận dụng kết nối liên tỉnh, vùng nhằm
khai thác hiệu quả tiềm năng các lĩnh vực Hà Giang có thế mạnh
như du lịch;
- Tổ chức các khóa nghiên cứu, học tập
kinh nghiệm phát triển các mô hình liên kết vùng, miền đã triển khai ở một số tỉnh
phía Nam.
6. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng cân bằng, bền vững
Triển khai các giải pháp phát triển
du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn mang tính chất liên vùng. Chú trọng hướng
đột phá mới tạo nét riêng cho Hà Giang trong đó: Tập trung triển khai thực hiện
Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Hà Giang giai đoạn 2020, định hướng
đến năm 2030; Xây dựng và triển khai hiệu quả Quy hoạch đầu tư phát triển du lịch
công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn và
thành phố Hà Giang đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035; Đề án quảng bá du lịch
đến năm 2020; Xây dựng và triển khai thực hiện Kế hoạch phát triển sản phẩm du
lịch tỉnh Hà Giang đến năm 2025... Triển khai hiệu quả thỏa thuận hợp tác giữa
Tỉnh với Công ty TNHH McKinsey&Company Việt Nam khảo sát và tư vấn quy hoạch
phát triển Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn...
Tăng cường triển khai thực hiện có hiệu
quả các hoạt động liên kết hợp tác phát triển du lịch 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng, 6
tỉnh Việt Bắc, chương trình hợp tác phát triển với thành phố Hà Nội, Hải Phòng,
Quảng Ninh, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh; chương trình hợp tác
với tỉnh Vân Nam, Quảng Tây, Trung Quốc; chú trọng bảo tồn và trùng tu các di sản
văn hóa vật thể, phi vật thể; tiếp tục triển khai Chiến lược ngoại giao văn hóa
đến năm 2020.
Phần V
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
I. Lộ trình thực
hiện
1. Giai đoạn 1 (2017 - 2020): Triển khai đồng bộ các định hướng, xây dựng và bước đầu triển khai Chiến
lược, kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược theo định hướng trong từng lĩnh vực,
mốc thời gian, nhiệm vụ cụ thể đề ra.
2. Giai đoạn 2: Đánh giá kết quả thực hiện Chiến lược tổng thể giai đoạn 1 vào cuối
năm 2020 và đề xuất các điều chỉnh, bổ sung về mục tiêu, quan điểm, định hướng,
nhiệm vụ và giải pháp triển khai hội nhập quốc tế giai đoạn 2021-2025;
2026-2030.
II. Tổ chức thực
hiện
1. Sở Ngoại vụ có chức năng là cơ
quan đầu mối, phối hợp với Biên phòng, Công an tỉnh, các huyện có đường biên giới
với các địa phương Trung Quốc tham mưu, triển khai đồng bộ các định hướng, giải
pháp hội nhập trong các lĩnh vực công tác hội nhập chính trị, quốc phòng, an
ninh; tham mưu, đề xuất những nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm về hội nhập chính
trị, quốc phòng, an ninh cần tập trung chỉ đạo, điều hành trong từng giai đoạn
triển khai Chiến lược; tổng hợp và định kỳ báo cáo Tỉnh ủy,
Ủy ban nhân dân tỉnh.
2. Sở Công thương có chức năng là cơ
quan đầu mối, tham mưu, phối hợp với Sở Ngoại vụ, Sở Kế hoạch & Đầu tư, Sở
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch, Sở
Giao thông vận tải, Sở Xây dựng, Ban Quản lý Khu kinh tế cửa khẩu, Cục Hải quan
tỉnh, các Ngân hàng trên địa bàn tỉnh... về công tác hội nhập kinh tế quốc tế của
tỉnh; triển khai đồng bộ các nhóm nhiệm vụ và giải pháp hội nhập kinh tế quốc tế
của tỉnh; đề xuất những nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm về hội nhập quốc tế về
kinh tế cần tập trung chỉ đạo, điều hành trong từng giai đoạn triển khai Chiến
lược; tổng hợp và định kỳ báo cáo Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh.
3. Sở Lao động, Thương binh & Xã
hội có chức năng là cơ quan đầu mối, tham mưu, phối hợp với sở Y tế, sở Giáo dục
& Đào tạo; sở Khoa học & Công nghệ, Sở Tài nguyên & Môi trường... về
công tác hội nhập văn hóa-xã hội dân tộc, tôn giáo, giáo dục - đào tạo, khoa học-công
nghệ và các lĩnh vực khác; triển khai thực hiện đồng bộ các định hướng và giải
pháp hội nhập trong các lĩnh vực được giao; tham mưu, đề xuất những nhiệm vụ trọng
tâm, trọng điểm về hội nhập trong các lĩnh vực này; tổng hợp và định kỳ báo cáo
Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh tình hình kết quả triển khai thực hiện.
4. Sở Nội vụ, phối hợp với sở Ngoại vụ
và các sở, ban, ngành liên quan lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình
độ, năng lực cán bộ đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế, chú trọng bồi dưỡng kiến
thức chuyên môn hội nhập trong từng lĩnh vực; tăng cường kỹ năng, nghiệp vụ và
ngoại ngữ.
5. Các sở, ban, ngành, các huyện
thành phố liên quan căn cứ theo chức năng, nhiệm vụ, triển khai thực hiện Chiến
lược trong phạm vi thẩm quyền của mình, cụ thể hóa bằng kế hoạch, đề án trong
ngành, lĩnh vực mình quản lý và phụ trách để tổ chức thực hiện, hàng năm báo
cáo UBND tỉnh (qua Sở Ngoại vụ tổng hợp).
III. Giám sát và
đánh giá
Sở Ngoại vụ - cơ quan đầu mối tham
mưu công tác đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân của tỉnh
định kỳ chủ động xây dựng báo cáo Tỉnh ủy, UBND tỉnh. Nội dung báo cáo cần tập
trung vào tổng kết việc thực hiện các nhiệm vụ chính nêu trên và những nội dung
quan trọng khác gồm:
- Kết quả của việc mở rộng quan hệ với
các đối tác và đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu, hiệu quả.
- Lộ trình, tiến độ và kết quả việc
áp dụng, lồng ghép các tiêu chí, tiêu chuẩn khu vực trong các quy hoạch, chính
sách của các ngành, lĩnh vực; mức độ điều chỉnh các quy hoạch, chính sách do
tác động của việc triển khai công tác hội nhập.
- Tác động tích cực của việc triển
khai công tác hội nhập trong các lĩnh vực đối với phát triển kinh tế-xã hội của
tỉnh.
- Mức độ, hiệu quả quản lý các hoạt động
liên quan đến hội nhập trên địa bàn tỉnh; những vấn đề kinh tế, xã hội, an
ninh, môi trường... phát sinh trong quá trình triển khai và quản lý triển khai
các hoạt động liên quan đến hội nhập trên địa bàn tỉnh.
- Khuyến nghị, đề xuất điều chỉnh luật,
quy định liên quan trong các lĩnh vực; kiến nghị hỗ trợ, tư vấn từ các Bộ,
ngành Trung ương, Ban chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế đối với địa phương.