BỘ
CHÍNH TRỊ
-------
|
ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
---------------
|
Số:
22/NQ-TW
|
Hà
Nội, ngày 27 tháng 11 năm 1989
|
NGHỊ QUYẾT
VỀ MỘT SỐ CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH LỚN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI MIỀN NÚI
PHẦN THỨ
NHẤT
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI
MIỀN NÚI
Miền núi là địa bàn rộng lớn,
chiếm 3/4 diện tích tự nhiên của nước ta, là nơi sinh sống lâu đời của phần lớn
các dân tộc thiểu số, có tiềm lực kinh tế to lớn, có nguồn tài nguyên phong
phú, đa dạng, bao gồm đất, rừng, sinh vật, thủy năng, khoáng sản, cây công nghiệp...
với địa thế cao dốc và thảm thực vật lớn, miền núi đóng vai trò quyết định đối
với môi trường sinh thái của cả nước. Nằm dọc biên cương phía bắc và phía tây Tổ
quốc, miền núi lại có nhiều cửa ngõ thông thương giữa nước ta với thế giới và
các nước trong khu vực cho nên có vị trí đặc biệt quan trọng về quốc phòng và
an ninh.
Trong những năm qua, cơ cấu dân
cư ở miền núi có nhiều biến đổi. Trong cộng đồng đó, mỗi dân tộc giữ bản sắc
riêng, song tất cả đều có chung truyền thống yêu nước, đoàn kết, trực tiếp tham
gia và góp phần to lớn vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, giữ vững nền độc
lập và chủ quyền của đất nước.
Vượt qua những khó khăn, thử
thách, đảng bộ và nhân dân các dân tộc ở miền núi không ngừng phấn đấu đã đạt
được nhiều tiến bộ trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế,
từng bước phát huy các thế mạnh của mình, tạo ra những vùng chuyên canh lớn,
làm ra ngày càng nhiều nông sản, lâm sản xuất khẩu, mở mang công nghiệp, tiểu
công nghiệp, thủ công nghiệp.
Ở một số địa phương, bộ mặt nông
thôn miền núi có chuyển biến rõ rệt; một số thị trấn, thị xã, điểm công nghiệp
lớn đã được hình thành. Nhiều gia đình từ đồng bằng đã định cư trên miền núi,
đưa kỹ thuật thâm canh và một số ngành nghề tiểu, thủ công từ miền xuôi lên. Đồng
bào miền núi đã từng bước tiếp cận những thành tựu của khoa học, kỹ thuật; một
số con em các dân tộc thiểu số đã được đào tạo thành công nhân kỹ thuật, cán bộ
khoa học và quản lý.
Tuy nhiên, những tiến bộ đã đạt
được nhìn chung còn nhỏ bé so với khả năng cũng như so với yêu cầu phát triển của
bản thân miền núi và của cả nước. Nhìn chung, trình độ phát triển kinh tế - xã
hội ở miền núi còn rất thấp. Kinh tế hàng hóa chậm phát triển, kinh tế tự nhiên
và nửa tự nhiên còn chiếm tỉ trọng không nhỏ. Tình trạng du canh du cư vẫn chưa
được khắc phục một cách căn bản. Đời sống của đại bộ phận dân cư miền núi còn
nhiều khó khăn, thậm chí có nơi rất khó khăn. Nghèo đói vẫn còn trên diện rộng,
sinh hoạt văn hóa thiếu thốn, tỷ lệ số người mù chữ và thất học còn lớn. Một số
bệnh dịch chưa bị đẩy lùi một cách căn bản, có nơi, có lúc còn phát triển, gây
tử vong cao. Nhiều tiêu cực xã hội phát sinh. Bọn phản động và các thế lực thù
địch tiếp tục lợi dụng địa bàn hiểm trở của miền núi để thực hiện âm mưu chống
phá cách mạng nước ta về mọi mặt. Các tôn giáo đang phát triển một cách không
bình thường ở một số nơi.
Trong thời gian qua, nhiều đơn vị
kinh tế quốc doanh, nhất là các đơn vị quốc doanh nông nghiệp, lâm nghiệp đã được
thành lập ở địa bàn miền núi, nhưng một số lớn đơn vị quốc doanh năng suất thấp,
chất lượng và hiệu quả kém; bao chiếm nhiều đất đai nhưng sử dụng không hết
trong khi nhân dân địa phương lại thiếu đất để canh tác, gây ra mâu thuẫn và
làm cho đại bộ phận rừng và đất rừng không phát huy được tác dụng. Nạn khai
thác bừa bãi và phá rừng diễn ra nghiêm trọng. Việc giao đất, giao rừng cho dân
chưa có chính sách hợp lý và còn chậm trễ.
Bên cạnh một số hợp tác xã đạt
được những thành tựu và tiến bộ, nhìn chung đại bộ phận các hợp tác xã ở nông
thôn miền núi là hình thức, nhất là những hợp tác xã nông nghiệp vùng núi cao.
Kinh tế hộ gia đình và các loại hình kinh tế hợp tác ở trình độ phù hợp chưa được
chú ý đúng mức. Thương nghiệp nhỏ tương ứng với trình độ sản xuất hàng hóa nhỏ
và phân tán bị thu hẹp, có nơi bị xóa bỏ. Việc xây dựng một số vùng kinh tế mới
không tính toán đầy đủ hiệu quả kinh tế - xã hội, lại làm theo cách áp đặt, giản
đơn, nóng vội.
Kết cấu hạ tầng, đặc biệt là đường
giao thông ở miền núi, nhất là ở các vùng cao, xa xôi, hẻo lánh, còn kém phát triển
và bị chia cắt, chưa thành hệ thống thông suốt giữa các vùng, đang kìm hãm việc
mở mang giao lưu ở miền núi cũng như giữa miền núi và miền xuôi.
Một số điểm công nghiệp có quy
mô tương đối lớn như vùng than, các công trình thủy điện, các cơ sở khai khoáng,
cơ khí, hóa chất và phân bón, chế biến lâm sản... hoạt động một cách biệt lập,
chưa đóng góp được vai trò trung tâm lôi cuốn cả vùng phát triển.
Tình hình trên đây có nguyên
nhân là do những khó khăn của nền kinh tế nói chung và của miền núi nói riêng,
nhưng phần quan trọng bắt nguồn từ những khuyết điểm trong chính sách kinh tế -
xã hội đối với miền núi và trong việc tổ chức thực hiện các chính sách đó:
1. Chưa nhận thức sâu sắc vị trí
quan trọng cũng như những đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của miền núi; chưa
thật sự coi sự nghiệp xây dựng miền núi là bộ phận hữu cơ trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của cả nước, chưa gắn bó, liên kết chặt chẽ việc phát
triển kinh tế ở miền núi với miền xuôi. Chưa tổ chức nghiên cứu một cách toàn
diện, tổng thể các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an
ninh của miền núi gắn với vấn đề dân tộc trong việc xác định chủ trương, chính
sách đối với miền núi. Sử dụng vốn đầu tư chưa đúng, nhất là chưa chú trọng
đúng mức đến xây dựng kết cấu hạ tầng của miền núi.
2. Công tác xây dựng quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa ở miền núi có nhiều sai lầm. Chúng ta đã nặng về xây dựng
các cơ sở quốc doanh quy mô lớn, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa nông nghiệp
một cách máy móc, rập khuôn theo mô hình của đồng bằng, thoát lý trình độ sản
xuất và điều kiện xã hội ở miền núi. Cách làm đó đã kìm hãm sản xuất phát triển
và gây ra nhiều hậu quả xấu về kinh tế, xã hội và chính trị.
3. Phương thức đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ tại chỗ cũng như chính sách đối với cán bộ người dân tộc thiểu số
và cán bộ miền xuôi lên công tác ở miền núi chưa được nghiên cứu đầy đủ, thực
hiện lại thiếu nhất quán, tùy tiện, không khuyến khích cán bộ gắn bó lâu dài với
miền núi để cống hiến có hiệu quả vào sự nghiệp phát triển miền núi.
4. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của
Trung ương đối với miền núi chưa tương xứng với vị trí chiến lược quan trọng của
miền núi; hiệu lực chỉ đạo thấp; các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở còn
nhiều biểu hiện thiếu trách nhiệm và quan liêu, khoán trắng, hoặc thụ động, ỷ lại.
Tình hình trên đây đòi hỏi phải
khẩn trương xác định những chủ trương, chính sách đúng đắn nhằm phát triển mạnh
mẽ kinh tế - xã hội, xây dựng miền núi vững mạnh toàn diện. Đây vừa là yêu cầu
cấp bách của miền núi, vừa là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp lâu
dài của đất nước.
PHẦN THỨ
HAI
MỘT SỐ CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH
SÁCH LỚN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI MIỀN NÚI
Để xác định những chủ trương,
chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi theo tinh thần Nghị quyết Đại
hội VI của Đảng và các nghị quyết Trung ương tiếp theo, cần thấu suốt một số
quan điểm sau đây:
Một là, phát triển kinh tế - xã
hội miền núi là một bộ phận hữu cơ của chiến lược phát triển nên kinh tế quốc
dân. Một mặt, các địa phương miền núi có trách nhiệm góp phần thực hiện những
chủ trương chiến lược phát triển kinh tế, xã hội chung của cả nước. Mặt khác,
việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện những chủ trương, chính sách chung ở miền
núi phải tính đầy đủ đến những đặc điểm về tự nhiên, lịch sử, kinh tế, xã hội,
văn hóa, phong tục, tập quán của miền núi nói chung và của riêng từng vùng, từng
dân tộc, trong việc này cần đặc biệt nhấn mạnh vai trò năng động, sáng tạo của
địa phương và cơ sở.
Hai là, sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa miền núi là sự nghiệp chung của nhân
dân cả nước, trước hết là sự nghiệp của nhân dân các dân tộc miền núi và đồng
bào miền xuôi lên định cư ở miền núi. Khai thác và xây dựng miền núi là vì lợi
ích trực tiếp của nhân dân miền núi, đồng thời vì lợi ích chung của cả nước.
Đất đai, tài nguyên miền núi là
của chung cả nước, thuộc sở hữu toàn dân. Song, đồng bào miền núi có trách nhiệm
và quyền trực tiếp là chủ sử dụng cụ thể đất đai, rừng núi và tài nguyên đó để
phát triển kinh tế vì lợi ích của chính mình và vì lợi ích chung của xã hội, vừa
trực tiếp tham gia giữ gìn, bảo vệ biên cương Tổ quốc.
Phải chống tư tưởng chỉ quan tâm
khai thác tài nguyên mà coi nhẹ bảo vệ, bồi đắp, tái tạo tài nguyên, làm cho
tài nguyên miền núi ngày càng nghèo kiệt, phá hoại môi trường sinh thái, gây hậu
quả lâu dài trên nhiều mặt cho cả nước.
Trong việc phát triển kinh tế -
xã hội miền núi, phải quán triệt phương châm "Trung ương và địa phương
cùng làm, Nhà nước và nhân dân cùng làm", một mặt, phải khắc phục tư tưởng
chờ đợi, ỷ lại vào ngân sách Trung ương, xem nhẹ nỗ lực của địa phương; mặt
khác, Nhà nước cần cố gắng bố trí vốn đầu tư thích đáng hơn cho miền núi, trước
mắt tập trung đầu tư cho phát triển giao thông vận tải, thông tin liên lạc, điện
và nguồn nước cho sản xuất và sinh hoạt của dân cư. Đồng thời, cần xây dựng những
chính sách phù hợp, tạo điều kiện và động viên mạnh mẽ nhân dân miền núi khai
thác tiềm năng và thế mạnh của mình, phát triển kinh tế hàng hóa, kinh doanh có
hiệu quả, từng bước tự tích lũy để đầu tư xây dựng và phát triển miền núi.
Ba là, nắm vững chủ trương phát
triển có kế hoạch nên kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội;
điều chỉnh lại quan hệ sản xuất ở miền núi cho phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất, thật sự tôn trọng quyền tự quyết định của nhân dân
trong việc lựa chọn các hình thức kinh tế và cơ chế quản lý thích hợp, lấy hiệu
quả làm tiêu chuẩn hàng đầu, nhất thiết không hình thức, máy móc, rập khuôn, áp
đặt.
Xây dựng các tổ chức kinh tế quốc
doanh theo hướng bảo đảm hiệu quả, trở thành lực lượng nòng cốt trong phát triển
kinh tế - xã hội ở miền núi; áp dụng rộng rãi các hình thức kinh tế hợp tác quá
độ thích hợp từ thấp đến cao; đặc biệt coi trọng kinh tế hộ gia đình; khuyến
khích rộng rãi mọi người đầu tư kinh doanh đất rừng, các ngành công nghiệp, vận
tải và dịch vụ; thực hiện tự do lưu thông, trao đổi, mua bán thỏa thuận; tranh
thủ nguồn vốn và sự hợp tác của nước ngoài trong việc phát triển kinh tế - văn
hóa miền núi.
Bốn là, phải phát triển miền núi
toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, trong
đó trọng tâm là phát triển kinh tế - xã hội gắn với thực hiện tốt chính sách
dân tộc của Đảng. Quan tâm đúng mức đến việc giải quyết các vấn đề xã hội, cải
thiện đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
Để thực hiện trên thực tế quyền
bình đẳng giữa các dân tộc, một mặt, pháp luật phải bảo đảm quyền bình đẳng đó;
mặt khác, phải có chính sách và tạo điều kiện để nhân dân các dân tộc miền núi
vươn lên mạnh mẽ, phát triển kinh tế, văn hóa, từng bước nâng cao năng suất lao
động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, coi trọng đào tạo
cán bộ người dân tộc; tôn trọng và phát huy những phong tục, tập quán và truyền
thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc. Nền văn minh ở miền núi phải được xây dựng
trên cơ sở mỗi dân tộc phát huy bản sắc văn hóa của mình, vừa tiếp thu tinh hoa
văn hóa của các dân tộc khác và góp phần phát triển nền văn hóa chung của cả nước,
tạo ra sự phong phú, đa dạng trong nền văn minh của cộng đồng các dân tộc Việt
nam.
Về quốc phòng, an ninh, cần thực
hiện tốt các quyết định ghi trong Nghị quyết 02 và Nghị quyết 07 của Bộ Chính
trị (khóa VI), vận chụng một cách phù hợp với miền núi. Giữ gìn biên cương của
Tổ quốc, bảo vệ miền núi là việc chung của cả nước, trước hết là việc thiết
thân của nhân dân miền núi. Đội ngũ cán bộ, chiến sĩ quân đội, an ninh bảo vệ
miền núi (kể cả bộ đội biên phòng) chủ yếu phải tuyển chọn từ thanh niên miền
núi để đào tạo.
Để bảo đảm phát triển miền núi
toàn diện và vững chắc, vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải coi trọng công tác
xây dựng Đảng, làm cho đảng bộ các địa phương miền núi thật sự thể hiện được
trí tuệ của nhân dân các dân tộc miền núi, đại diện cho lợi ích và nguyện vọng
chính đáng của đồng bào các dân tộc, gắn bó với nhân dân, xứng đáng là hạt nhân
lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền núi và góp phần xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên cả nước.
Các quan điểm trên là cơ sở để
xác định những chủ trương và chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền
núi trong những năm tới, bao gồm những mặt sau đây:
I. Xây dựng
cơ cấu kinh tế miền núi theo hướng phát triển kinh tế hàng hóa, liên kết chặt
chẽ với các tỉnh đồng bằng, ra sức phát huy thế mạnh của từng vùng.
1. Nông nghiệp, lâm nghiệp
Vấn đề lương thực ở miền núi phải
được giải quyết theo quan điểm kinh tế hàng hóa, bằng thế mạnh của mỗi địa
phương, xóa bỏ kiểu tự túc lương thực ở mọi địa bàn. Theo tinh thần đó, một mặt
thâm canh lương thực trên những diện tích chắc ăn, nhất là các vùng trọng điểm
lương thực đã có điều kiện về thủy lợi. Mặt khác, để có nguồn hàng hóa trao đổi
lấy lương thực và hàng tiêu dùng, cần khuyến khích sản xuất, chế biến và tiêu
thụ các sản phẩm là thế mạnh của miền núi như đặc sản rừng, dược liệu, các loại
màu, cây công nghiệp, cây ăn quả, đại gia súc, khoáng sản...
Khuyến khích gia đình đồng bào
các dân tộc, gia đình cán bộ, công nhân, viên chức, các đơn vị kinh tế cơ sở,
các cơ quan, trường học, đơn vị quân đội trồng cây, chăm sóc rừng, khai thác đất
trống, đồi trọc dưới nhiều hình thức như vườn rừng, trại rừng...
Đối với đồng bào du canh, du cư,
cần đầu tư có trọng điểm tạo địa bàn sinh sống ổn định cho đồng bào; đảm bảo
cho đồng bào đất đai canh tác, từng bước cải thiện điều kiện giao thông và nguồn
nước, hướng dẫn và giúp đỡ đồng bào thâm canh nương rẫy và phát triển kinh tế
gia đình.
Đối với nơi mật độ dân cư quá
đông, thiếu đất canh tác, đồng bào có nguyện vọng chuyển đến nơi có điều kiện
sinh sống tốt hơn, Nhà nước thực hiện chính sách như đối với đồng bào đi xây dựng
vùng kinh tế mới, có kế hoạch cho nhân dân di chuyển trên cơ sở tự nguyện và
thu xếp trong từng dòng họ trên địa bàn dân cư nơi đi và nơi đến, giúp đồng bào
sớm ổn định sản xuất, bảo đảm đoàn kết dân tộc. Vốn đầu tư của Nhà nước dành
cho các đối tượng trên giao cho các địa phương thực hiện theo kế hoạch.
Cùng với việc đẩy mạnh trồng rừng,
nhất là trồng rừng trong khu vực nhân dân, một mặt tổ chức khai thác hợp lý những
khu rừng đến tuổi, mặt khác trong những năm trước mắt cần hạn chế khai thác gỗ
tràn lan đối với diện tích rừng đầu nguồn, rừng bảo vệ và rừng đã nghèo kiệt.
Áp dụng chính sách tiết kiệm tiêu dùng gỗ, đặc biệt là các loại gỗ quý hiếm. Hết
sức hạn chế xuất khẩu gỗ chưa qua chế biến.
2. Công nghiệp và kết cấu hạ tầng.
Phát triển mạnh công nghiệp chế
biến và ngành nghề tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp nông thôn, trước hết là
công nghiệp chế biến nông sản, lâm sản, với quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, phù hợp
với khả năng đầu tư của các hộ kinh doanh. Bảo vệ và phát triển những ngành nghề
truyền thống của đồng bào các dân tộc như dệt thổ cẩm, thêu ren, đan lát...; mở
mang những ngành nghề mới, nhất là những ngành nghề dùng nguyên liệu tại chỗ; tổ
chức rộng rãi khâu sơ chế nông - lâm sản ở các gia đình. Các cơ sở có trang bị
kỹ thuật hiện đại tập trung làm nhiệm vụ gia công chế biến tinh để nâng cao giá
trị sản phẩm; mở rộng kinh doanh theo hướng tổng hợp làm tốt dịch vụ ở cả khâu
sản xuất và đặc biệt là ở khâu tiêu thụ.
Sắp xếp lại và đổi mới cơ chế quản
lý đối với các cơ sở công nghiệp lớn, kể cả các cơ sở công nghiệp quốc phòng.
Khai thác triệt để mọi công suất hiện có, đồng thời phấn đấu tạo thêm nhiều
năng lực sản xuất mới. Gắn các cơ sở lớn với hệ thống công nghiệp nhỏ địa
phương, hình thành những trung tâm kinh tế, văn hóa dịch vụ ở từng vùng, đáp ứng
nhu cầu của nhân dân địa phương về hàng tiêu dùng, công cụ sản xuất và dịch vụ
sửa chữa máy móc.
Về giao thông vận tải, tập trung
vốn đầu tư của trung ương và địa phương, tổ chức tốt các lực lượng quân đội và
thanh niên xung phong tham gia xây dựng cơ bản, huy động các đơn vị kinh tế quốc
doanh trên địa bàn đóng góp, đồng thời tranh thủ vốn vay hoặc hợp tác với nước
ngoài để xây dựng và nâng cấp một số trục giao thông chủ yếu, một số trung tâm
kinh tế quan trọng. Tăng thêm phương tiện vận tải cơ giới, đồng thời phát triển
rộng khắp vận tải thô sơ. Có chính sách bán các phương tiện vận tải cho nhân
dân và khuyến khích tư nhân bỏ vốn kinh doanh vận tải ở miền núi, không hạn chế
quy mô và cung độ vận tải, phát triển vận tải thủy ở những nơi có điều kiện.
Về điện, sớm cung cấp điện cho
nhân dân ở những vùng gồm các nhà máy thủy điện. Đồng thời coi trọng phát triển
thủy điện nhỏ và các dạng năng lượng khác theo phương châm tập thể, các đơn vị
sản xuất kinh doanh và nhân dân cùng làm, trên quy mô thôn, bản hoặc liên gia
đình.
Về nguồn nước, cùng với việc đầu
tư khai thác có hiệu quả một số hồ đập lớn, huy động vốn địa phương và vốn
trong dân để xây dựng các hồ đập nhỏ vừa phục vụ thâm canh nông nghiệp, vừa
phát triển nghề cá nhân dân và cải thiện môi trường sinh thái. Tăng thêm máy
bơm các loại theo yêu cầu từng vùng để bán cho dân, nhất là ở những vùng trồng
cây công nghiệp. Tổ chức khảo sát và khai thác các nguồn nước, kể cả nước ngầm ở
những nơi có khó khăn về nguồn nước.
3. Thương nghiệp và dịch vụ.
Để cung cấp đủ, kịp thời lương
thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và tiêu thụ hết sản phẩm hàng hóa của miền núi,
cần thu gọn đầu mối hệ thống thương nghiệp quốc doanh (nội thương, xuất nhập khẩu,
dịch vụ...), xóa bỏ các tổ chức trung gian không cần thiết, mở rộng kinh doanh
tổng hợp; chấn chỉnh các tổ chức thương nghiệp tập thể với nhiều trình độ và
quy mô. Tổ chức rộng khắp mạng lưới đại lý mua bán đến tận làng, bản, tại các
chợ và trên các trục giao thông. Khuyến khích cá thể, tư nhân đăng ký kinh
doanh thương nghiệp đối với tất cả các mặt hàng mà pháp luật không cấm.
Khuyến khích tất cả các thành phần
kinh tế mở rộng các hoạt động dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống, kể cả kinh
tế, văn hóa, y tế... theo pháp luật.
4. Đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào miền núi.
Tiếp tục hoàn thiện công tác điều
tra cơ bản ở miền núi, xúc tiến việc đánh giá tổng hợp các điều kiện tự nhiên
và các nguồn tài nguyên thiên nhiên, dựa vào đó mà xây dựng quy hoạch tổng thể
và các kế hoạch dài hạn và ngắn hạn phát triển kinh tế xã hội miền núi, trong
đó bảo đảm tốt việc bảo vệ môi trường sinh thái.
Trước mắt, trên cơ sở sử dụng tốt
các tư liệu điều tra cơ bản thực hiện việc xác định cơ cấu sản xuất cho từng
vùng, xác định các đối tượng và khu vực đầu tư có hiệu quả nhất để tập trung vốn
đầu tư. Cần chú trọng việc nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật trong
lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi và chế biến nông, lâm sản, nhất là đối với các
cây trồng, vật nuôi là thế mạnh của từng vùng. Dựa vào các trung tâm hiện có về
chăn nuôi và trồng trọt ở miền núi xúc tiến việc tổ chức các dịch vụ kỹ thuật
phục vụ sản xuất; tạo giống mới hoặc thuần hóa các loại giống nhập từ bên ngoài
có ưu thế, cung cấp đủ giống cho trồng trọt và chăn nuôi, chống sâu bệnh cho
cây trồng và dịch bệnh cho vật nuôi, ứng dụng các công nghệ mới chế biến nông sản,
lâm sản... Đồng thời chú trọng việc đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ các
cơ sở khai thác và chế biến các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các cơ sở công
nghiệp nhẹ và tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và chế
biến lương thực, thực phẩm. Quan tâm cải tiến cơ cấu bữa ăn.
Các ngành kinh tế - kỹ thuật cần
xây dựng một số trung tâm nghiên cứu khoa học - kỹ thuật phù hợp với đặc điểm của
từng vùng (Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên...) và đáp ứng các yêu cầu thiết thực
của địa phương, với cơ cấu gọn nhẹ và phương pháp làm việc linh hoạt, gắn liền
nghiên cứu với chỉ đạo đưa tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Đồng thời các cơ sở
khoa học, kỹ thuật của Trung ương cần tăng cường và xúc tiến nhanh các đề tài,
chương trình nghiên cứu khoa học kỹ thuật phục vụ miền núi. Cần hết sức chú trọng
việc đào tạo cán bộ kỹ thuật cho miền núi, gắn liền công tác đào tạo cán bộ với
việc nghiên cứu và ứng dụng các kỹ thuật công nghệ mới.
5. Kinh tế đối ngoại.
Bên cạnh việc khuyến khích khai
thác hàng xuất khẩu, tổ chức tốt việc chế biến bằng nhiều quy mô với kỹ thuật
hiện đại để nâng cao giá trị hàng xuất khẩu. Tổ chức và quản lý tốt xuất nhập
khẩu ở các tỉnh, huyện biên giới, kể cả việc trao đổi hàng hóa giữa nhân dân
hai bên, có chính sách bảo hộ hàng nội địa, chống phá hoại kinh tế, chống buôn
lậu của gian thương và của các tổ chức Nhà nước. Các địa phương miền núi giáp
biên có thể phát huy vai trò đầu cầu, làm tổng đại lý trong giao dịch, xuất nhập
khẩu với các nước láng giềng theo quy định của Nhà nước.
Mở rộng các hình thức hợp tác
kinh tế đối ngoại. Có chính sách ưu đãi, cởi mở nhằm thu hút đầu tư nước ngoài
để mở mang kinh tế miền núi, cả về nông nghiệp, lâm nghiệp cũng như công nghiệp
khai khoáng, công nghiệp chế biến, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, kết cấu hạ
tầng, thương nghiệp và dịch vụ. Áp dụng các hình thức đầu tư linh hoạt, từ hợp
doanh ở các mức độ khác nhau đến hình thức 100% vốn là của nước ngoài.
Đầu tư phát triển du lịch và dịch
vụ du lịch ở miền núi. Tu bổ và xây dựng thêm các khu du lịch, điểm du lịch như
Điện Biên, Trường Sơn, Tam Đảo, Đà Lạt... để thu hút khác du lịch trong nước và
từ nước ngoài.
II. Thực hiện
tốt chhnh shch kinh tế nhiều thhnh phần, điều chỉnh quan hệ sản xuất vh đổi mới
quản lý, giải phóng triệt để năng lực sản xuất ở miền núi.
1. Chấn chỉnh các liên hiệp,
công ty, tổng công ty theo hướng xóa bỏ các tổ chức trung gian không cần thiết,
tiến hành một đợt kiểm tra tình hình sử dụng đất đai của các nông trường, lâm
trường, các đơn vị đóng trên địa bàn miền núi, xác định lại quy mô sử dụng đất
hợp lý. Phần đất đai do các tổ chức và đơn vị nói trên bỏ hoang hóa, không có
khả năng đưa vào sử dụng trong những năm trước mắt hoặc đang sử dụng một cách
kém hiệu quả thì kiên quyết cắt trả lại cho chính quyền địa phương để cấp cho
nhân dân sản xuất đạt hiệu quả cao hơn. Diện tích rừng phòng hộ, rừng khoanh
nuôi bảo vệ, chủ yếu do chính quyền địa phương quản lý. Đất giao cho nông trường,
lâm trường sử dụng đều phải chịu thế, kể cả đất chưa sử dụng vào sản xuất nông
nghiệp, lâm nghiệp.
Để bảo đảm mọi diện tích đất
đai, vườn cây, khoảnh rừng, tài sản đều có chủ cụ thể, cần thực hiện rộng rãi
việc giao khoán, cho thuê, đấu thầu cho các hộ nông dân và gia đình công nhân
viên chức sử dụng, kinh doanh ổn định lâu dài. Ban hành các văn bản pháp lý xác
nhận quyền của các hộ nhận khoán được thừa kế sử dụng đất đai được khoán, chuyển
nhượng các sản phẩm và vốn liếng, tài sản đầu tư trên đất nhận khoán.
Chuyển mạnh các nông, lâm trường
sang hướng hoạt động dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ lưu thông, đáp ứng nhu cầu của
người sản xuất, kinh doanh đất đai, đồi rừng trên địa bàn, thuộc mọi thành phần
kinh tế.
Các đơn vị kinh tế quốc doanh phải
chuyển hẳn sang hạch toán, kinh doanh, phát triển kinh tế hàng hóa, phấn đấu
làm ăn có lãi. Những đơn vị thua lỗ kéo dài, không có khả năng củng cố thì chuyển
sang các hình thức kinh tế thích hợp.
Chuẩn bị và tiến hành làm thử việc
chuyển một số nông trường, lâm trường sang xí nghiệp cổ phần dưới nhiều hình thức
(kể cả hợp tác với nước ngoài) hoặc xí nghiệp tư nhân.
2. Đối với khu vực kinh tế tập
thể, phải giải quyết trên nguyên tắc thật sự dân chủ và tự nguyện. Khuyến khích
nông dân tham gia các tổ chức kinh tế hợp tác linh hoạt theo nhiều hình thức và
nhiều quy mô thích hợp giữa các hộ gia đình, giữa những người lao động. Đối với
những hợp tác xã đã hoạt động có nền nếp, có hiệu quả, cần tiếp tục đổi mới
theo hướng xác định quy mô hợp lý, áp dụng rộng rãi khoán hộ. Hợp tác xã phải
vươn lên làm tốt các khâu dịch vụ kỹ thuật và dịch vụ lưu thông.
Đối với những hợp tác xã kinh
doanh kém hiệu quả, tập thể xã viên sẽ bàn bạc để điều chỉnh quy mô hoặc quyết
định chuyển sang các hình thức thích hợp.
3. Kinh tế hộ gia đình. Trong chặng
đường đầu tiên cũng như trong một thời gian dài của thời kỳ quá độ, kinh tế hộ
gia đình là hình thức thích hợp để phát triển kinh tế hàng hóa ở miền núi, do
đó cần được đặc biệt coi trọng khuyến khích và giúp đỡ để phát triển.
Đối với một số đồng bào dân tộc ở
Tây Nguyên đang sinh sống trong các "nhà dài", cần cấp đất đai và tạo
điều kiện để vận động đồng bào phát triển kinh tế vườn, hình thành các hộ gia
đình gắn với các cụm dân cư, từng bước chuyển từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế
hàng hóa theo đơn vị hộ là chủ yếu.
4. Kinh tế tư nhân hoạt động
theo luật pháp cả trên lĩnh vực nông - lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương
nghiệp, dịch vụ... có vai trò quan trọng, là một nhân tố tích cực trong quá
trình chuyển từ nền kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hóa ở miền núi.
Khuyến khích mọi tổ chức kinh tế
và tư nhân, ở miền núi và từ miền xuôi lên, trong nước và ngoài nước, đầu tư
phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp chế biến, tiểu thủ
công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ, vận tải, xây dựng, đáp ứng nhu cầu trong
nước và xuất khẩu. Không hạn chế quy mô, thị trường, không phân biệt thành phần
kinh tế đối với mọi hàng hóa, trừ một ít sản phẩm do Nhà nước quy định tư nhân
không được kinh doanh.
Mở rộng các hình thức hợp tác,
liên doanh, liên kết linh hoạt giữa các tỉnh, các thành phố, các tổ chức kinh tế
ở miền xuôi với các địa phương và các đơn vị kinh tế ở miền núi. Các tổ chức
kinh tế này được tự do lưu thông các sản phẩm làm ra, được xem xét giảm hoặc miễn
thuế kinh doanh trong một số năm đầu.
III. Đổi mới
các chính sách kinh tế - xã hội đối với miền núi.
1. Trước mắt, điều chỉnh chính
sách thuế nông nghiệp, thuế tiểu, thủ công nghiệp, thuế lưu thông hàng hóa, nhằm
khuyến khích phát triển kinh tế hàng hóa ở miền núi. Phương hướng chung là miễn
thuế nông nghiệp cho một số vùng có nhiều khó khăn, miễn thuế lưu thông cho một
số sản phẩm thiết yếu, giảm thuế nông nghiệp cho sản xuất lương thực và thuế
kinh doanh cho một số ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp ở nông thôn miền núi.
Nhà nước tăng tỷ lệ trích từ thuế để lại cho các huyện, xã miền núi.
2. Chuyển từ phương thức trợ giá
bán vật tư sản xuất sang trợ giá mua sản phẩm hàng hóa. Thực hiện chính sách trợ
cấp trực tiếp thay cho trợ cấp qua giá đối với những người thuộc đối tượng hưởng
chính sách xã hội. Áp dụng lãi suất tín dụng phù hợp đối với một số mặt hàng
tiêu dùng cần dự trữ ở khâu lưu thông để bảo đảm cung ứng đều đặn cho đồng bào
miền núi, nhất là vào mùa mưa bão.
3. Khuyến khích việc hình thành
các trung tâm công gnhiệp - thương mại - dịch vụ tại các thị trấn, thị tứ, các
trục giao thông ở miền núi. Đầu tư xây dựng và cải tạo các chợ ở miền núi, để
chợ thật sự trở thành các tụ điểm kinh tế, văn hóa, thương mại, giao dịch. Trừ
danh mục những sản phẩm không được tự do lưu thông do Nhà nước công bố, khuyến
khích tự do sản xuất kinh doanh, tự do lưu thông trao đổi các sản phẩm hàng hóa
giữa các dân tộc, các vùng ở miền núi và giữa miền núi với miền xuôi, trên phạm
vi cả nước. Mở rộng mạng lưới thương nghiệp, kể cả thương nghiệp tư nhân đến cả
những bản làng hẻo lánh. Đối với các chợ biên giới, cần chú trọng bảo đảm an
ninh quốc gia, theo đúng pháp luật của Nhà nước.
4. Về đời sống và công tác giáo
dục, đào tạo, văn hóa, xã hội, y tế.
Trước mắt tập trung giải quyết một
số vấn đề chủ yếu sau đây:
a. Tăng mức đầu tư cho hệ thống
y tế miền núi, bảo đảm cung ứng đủ thuốc thông thường và thuốc phòng chống dịch
bệnh. Tích cực đào tạo, bồi dưỡng và có chính sách khuyến khích thỏa đáng đối với
cán bộ y tế miền núi, phấn đấu trong một thời gian nhất định có đủ cán bộ y tế ở
các bản làng hoặc liên bản. Hệ thống này gắn với các cơ sở Hội chữ thập đỏ Việt
Nam nhằm nâng cao khả năng quản lý chăm sóc sức khỏe của nhân dân ở từng bản nhỏ
và ở từng cụm dân cư.
Nhà nước cần có quy định cụ thể
để đánh giá, xác nhận và khuyến khích các lương y có uy tín hành nghề và truyền
nghề. Khuyến khích mạnh việc chế biến, sử dụng dược liệu địa phương và các
phương thuốc gia truyền để phòng bệnh và chữa bệnh. Khuyến khích các cán bộ y tế
có đủ điều kiện lập các cơ sở chế biến dược liệu, khám và chữa bệnh cho nhân
dân với nhiều hình thức thích hợp (tổ hợp tác, tư nhân) ở miền núi.
Có chính sách trợ cấp điều trị tại
các bệnh viện trực tiếp cho những cán bộ và nhân dân sinh sống ở vùng cao, vùng
thượng, vùng căn cứ cách mạng đang có nhiều khó khăn.
Tranh thủ và dành phần thích
đáng viện trợ của các nước và các tổ chức quốc tế để đầu tư phát triển y tế,
giáo dục và cải thiện đời sống đồng bào các dân tộc vùng cao, biên giới, vùng
sâu, vùng căn cứ.
b. Có chính sách ưu đãi trong việc
cung ứng một số mặt hàng thiết yếu đối với đời sống của nhân dân các dân tộc
như muối ăn, dầu thắp sáng, thuốc chữa bệnh, giấy học sinh, dịch vụ văn hóa,
văn nghệ...
Thực hiện chương trình cấp nước
sinh hoạt cho các điểm dân cư ở vùng cao, biên giới và các đồn biên phòng. Phấn
đấu đến năm 1995 giải quyết về cơ bản nhu cầu nước sinh hoạt cho nhân dân các
vùng trên.
c. Tăng cường các phương tiện
thông tin đại chúng, kể cả các phương tiện hiện đại như máy thu thanh cát-sét,
máy thu hình, băng ghi hình, để cải tiến và nâng cao các chương trình phát
thanh, truyền hình ở địa phương, phổ biến các văn hóa phẩm và tài liệu có nội
dung thiết thực, phù hợp với yêu cầu và truyền thống của đồng bào các dân tộc.
Chú trọng sử dụng ngôn ngữ dân tộc (và chữ viết nếu có) trong công tác thông
tin tuyên truyền.
d. Đổi mới chính sách giáo dục,
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và chế độ đãi ngộ cán bộ miền núi. Tăng thêm vốn đầu
tư cho việc xây dựng các trường, lớp, đào tạo giáo viên phổ thông, bảo đảm đủ
giáo viên và chỗ học cho con em các dân tộc. Tổ chức lại hệ thống trường phổ
thông cơ sở, trước hết là ở những xã vùng cao, kể cả các lớp dân lập ở thôn, bản
hoặc liên gia đình. Phấn đấu phổ cập cấp I cho lứa tuổi thanh thiếu niên theo
chương trình phù hợp; miễn học phí cho học sinh là con em các dân tộc miền núi
và con em các gia đình miền xuôi lên lập nghiệp ở miền núi mà có nhiều khó
khăn. Chú ý giải quyết tốt nhu cầu của một số dân tộc về học chữ dân tộc mình
xen kẽ với học chữ phổ thông.
Đối với đồng bào có nhu cầu học
chữ dân tộc, phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để việc học tập của đồng bào đạt
hiệu quả thiết thực.
Xem xét lại hệ thống giáo dục
phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội miền núi nói chung, từng vùng
nói riêng. Trước hết, mở rộng và củng cố các trường phổ thông dân tộc nội trú,
trường vừa học vừa làm, các trung tâm dạy nghề, các lớp dự bị cho con em các
dân tộc miền núi, chuẩn bị vào các trường đại học và chuyên nghiệp đối với một
số ngành nghề cần thiết. Đồng thời có chính sách ưu đãi trong tuyển sinh và học
bổng, đặc biệt là đối với con em các dân tộc vùng cao. Thực hiện nguyên tắc ưu
tiên đào tạo cán bộ dân tộc, cán bộ công tác ở miền núi, học xong trở về địa
phương phục vụ đồng bào các dân tộc.
Mở rộng chương trình đào tạo, bồi
dưỡng ngắn hạn cán bộ và quản lý các kỹ thuật viên phù hợp với cơ cấu sản xuất
và tập quán từng vùng. Khôi phục các lớp dành riêng cho cán bộ miền núi ở trường
đảng, trường hành chính, các trường đoàn thể quần chúng ở Trung ương và địa
phương, đồng thời có chế độ thỏa đáng đối với học viên các lớp nói trên.
Bổ sung chính sách, chế độ đối với
cán bộ người dân tộc cũng như người miền xuôi công tác ở địa bàn miền núi, nhất
là cán bộ công tác ở vùng cao, vùng hẻo lánh, hải đảo.
PHẦN THỨ
BA
TỔ CHỨC, CHỈ ĐẠO, THỰC
HIỆN
1. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
đối với miền núi; kiện toàn tổ chức và tăng cường chất lượng đội ngũ cán bộ của
các cơ quan tham mưu, đủ sức giúp Trung ương cả trong công tác nghiên cứu, ban
hành chính sách cũng như kiểm tra việc tổ chức thực hiện các chính sách dân tộc,
chính sách kinh tế, xã hội ở miền núi.
Đổi mới hình thức tổ chức và
phương thức hoạt động của các đoàn thể quần chúng cho phù hợp với thực tế miền
núi nhằm động viên mạnh mẽ phong trào quần chúng thực hiện thắng lợi chủ trương
và chính sách của Đảng.
2. Để bảo đảm thực hiện thắng lợi
những yêu cầu và chủ trương lớn trên đây, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Hội đồng
Bộ trưởng cần tăng cường thích đáng đội ngũ cán bộ chủ chốt cho các tỉnh miền
núi, kể cả cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý và cán bộ khoa học kỹ thuật. Bộ
Chính trị sẽ phân công một số đồng chí chịu trách nhiệm chính và có kế hoạch định
kỳ nghe báo cáo tình hình thực hiện nghị quyết này. Hội đồng Bộ trưởng phân
công một Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng thường xuyên chỉ đạo công tác miền
núi. Các ngành liên quan cần phân công một đồng chí lãnh đạo phụ trách và một số
cán bộ chuyên trách về những vấn đề miền núi.
Các tỉnh miền núi và các tỉnh,
thành có huyện miền núi cần tùy theo mức độ mà phân công một số thành viên
trong Uỷ ban nhân dân tỉnh chuyên trách công tác dân tộc, công tác vùng cao,
vùng sâu, vùng căn cứ cũ.
Cần có quy định vận dụng nguyên
tắc tập trung dân chủ phù hợp trong Hội đồng nhân dân ở những địa phương có nhiều
dân tộc khác nhau để Hội đồng nhân dân thật sự là cơ quan quyền lực của dân, đồng
thời bảo đảm đoàn kết dân tộc.
Củng cố chính quyền cấp xã gắn với
việc xác định đúng đắn nhiệm vụ của cấp buôn, làng, bản, chú ý đến vai trò của
các trưởng bản, già làng trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội và các nhiệm vụ
về an ninh quốc phòng.
3. Hội đồng Bộ
trưởng chỉ đạo cụ thể hóa và pháp chế hóa những nội dung nêu trong nghị quyết
này để ban hành và thực hiện từ quý I năm 1990. Trong quá trình cụ thể hóa cần
xác định những bước đi thích hợp, những việc làm thiết thực, cụ thể, vừa sức với
cố gắng cao nhất có thể được. Tập trung vào những việc cần làm trong thời gian
trước mắt và trong vài năm tới.
4. Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ
đạo các Ban Đảng kiểm tra việc thi hành; thường xuyên theo dõi, sơ kết, tổng kết,
rút kinh nghiệm, kịp thời đề xuất những kiến nghị bổ sung trong quá trình thực
hiện.
|
TM.
BỘ CHÍNH TRỊ
TỔNG BÍ THƯ
Nguyễn Văn Linh
|