BAN CHẤP HÀNH
TRUNG ƯƠNG
-------
|
ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
---------------
|
Số: 21-NQ/TW
|
Hà Nội, ngày 25
tháng 10 năm 2017
|
NGHỊ QUYẾT
HỘI NGHỊ LẦN THỨ SÁU
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG KHÓA XII
VỀ CÔNG TÁC DÂN SỐ TRONG TÌNH HÌNH MỚI
I- TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN
1- Sau 25 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị
lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VII và các chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình đã đạt
được nhiều kết quả quan trọng, góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tốc độ gia tăng dân số đã được khống chế thành
công, đạt mức sinh thay thế sớm 10 năm so với mục tiêu Nghị quyết đề ra và tiếp
tục duy trì cho đến nay, hạn chế tăng thêm hàng chục triệu người. Cơ cấu dân số
chuyển dịch tích cực. Dân số trong độ tuổi lao động tăng mạnh. Từ năm 2007, nước
ta bước vào thời kỳ dân số vàng.
Chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt. Tuổi
thọ trung bình tăng nhanh, đạt 73,4 tuổi năm 2016, cao hơn nhiều nước có cùng mức
thu nhập bình quân đầu người. Tình trạng suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em
giảm mạnh. Tầm vóc, thể lực người Việt Nam có bước cải thiện. Dân số đã có sự
phân bố hợp lý hơn, gắn với quá trình đô thị hoá, công nghiệp hóa và yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Công tác tuyên truyền, giáo dục, nhận thức về dân số
và kế hoạch hóa gia đình của các cấp, các ngành và toàn dân có bước đột phá. Mỗi
cặp vợ chồng có 2 con đã trở thành chuẩn mực, lan tỏa, thấm sâu trong toàn xã hội.
Dịch vụ dân số và kế hoạch hóa gia đình được mở rộng, chất lượng ngày càng cao.
2- Tuy nhiên, công tác dân số và kế hoạch
hóa gia đình vẫn còn nhiều hạn chế. Mức sinh giữa các vùng còn chênh lệch đáng
kể. Mất cân bằng giới tính khi sinh tăng nhanh, đã ở mức nghiêm trọng. Chưa có
giải pháp đồng bộ phát huy lợi thế của thời kỳ dân số vàng và thích ứng với già
hóa dân số.
Người ít có điều kiện chăm sóc và nuôi dưỡng con
còn đẻ nhiều, ảnh hưởng đến chất lượng dân số. Chỉ số phát triển con người
(HDI) còn thấp.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em còn
cao. Tầm vóc, thế lực của người Việt Nam chậm được cải thiện. Tuổi thọ bình
quân tăng nhưng số năm sống khỏe mạnh thấp so với nhiều nước. Tình trạng tảo
hôn, kết hôn cận huyết thống còn phổ biến ở một số dân tộc ít người.
Phân bố dân số, quản lý nhập cư, di dân còn nhiều bất
cập. Việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người di cư và ở nhiều đô thị,
khu công nghiệp còn nhiều hạn chế.
Công tác truyền thông, giáo dục về dân số ở một số
khu vực, nhóm đối tượng hiệu quả chưa cao, vai trò nhà trường còn hạn chế. Nội
dung truyền thông, cung cấp dịch vụ chưa toàn diện, chủ yếu tập trung vào kế hoạch
hóa gia đình.
Một số cơ chế, chính sách về dân số chậm đổi mới. Tổ
chức bộ máy thiếu ổn định, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ làm công tác dân số và
kế hoạch hóa gia đình ở cấp cơ sở còn thấp. Chức năng, nhiệm vụ chưa được điều
chỉnh phù hợp với diễn biến tình hình dân số. Các nội dung về dân số trong phát
triển kinh tế - xã hội còn chưa được chú trọng đúng mức. Nguồn lực đầu tư cho
dân số, kế hoạch hóa gia đình còn thấp, chưa tương xứng với yêu cầu.
3- Những hạn chế, yếu kém trên đây có nhiều
nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu; đặc biệt là:
- Một số cấp ủy, chính quyền chưa nhận thức đúng và
đầy đủ về tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp, tầm quan trọng và ý nghĩa của
công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình; lãnh đạo, chỉ đạo chưa quyết liệt,
chưa hiệu quả.
- Trong nhận thức và hành động của đội ngũ cán bộ
làm công tác dân số vẫn còn nặng về kế hoạch hóa gia đình, chưa chú trọng các mặt
cơ cấu, phân bố, chất lượng dân số và tác động qua lại với phát triển.
- Tư tưởng muốn có nhiều con, trọng nam hơn nữ vẫn
còn khá phổ biến trong một bộ phận nhân dân, kể cả cán bộ, đảng viên.
II- QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ MỤC
TIÊU
1- Quan điểm
- Dân số là yếu tố quan trọng hàng đầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác dân số là nhiệm vụ chiến lược, vừa cấp thiết
vừa lâu dài; là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân.
- Tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế
hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển. Công tác dân số phải chú trọng
toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số và đặt
trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và
bảo đảm phát triển nhanh, bền vững.
- Chính sách dân số phải bảo đảm cân bằng, hài hòa
giữa quyền và nghĩa vụ của mọi người dân; giữa việc tuyên truyền, vận động,
nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi với thực thi nghiêm kỷ cương pháp luật; giữa
việc mở rộng, ứng dụng các kỹ thuật mới với việc nâng cao chất lượng dịch vụ,
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân.
- Đầu tư cho công tác dân số là đầu tư cho phát triển.
Nhà nước ưu tiên bố trí ngân sách, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa; tranh thủ sự
hỗ trợ của quốc tế để bảo đảm nguồn lực cho công tác dân số.
- Tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, phù
hợp với trọng tâm công tác dân số trong từng thời kỳ, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ
đạo thống nhất của cấp ủy, chính quyền các cấp và sự quản lý chuyên môn, nghiệp
vụ.
2- Mục tiêu
Giải quyết toàn diện, đồng bộ các vấn đề về quy mô,
cơ cấu, phân bổ, chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ tác động qua lại với
phát triển kinh tế - xã hội. Duy trì vững chắc mức sinh thay thế; đưa tỉ số giới
tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng,
thích ứng với già hóa dân số; phân bố dân số hợp lý; nâng cao chất lượng dân số,
góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững.
Đến năm 2030:
- Duy trì vững chắc mức sinh thay thế (bình quân mỗi
phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con), quy mô dân số 104 triệu người.
Giảm 50% chênh lệch mức sinh giữa nông thôn và
thành thị, miền núi và đồng bằng; 50% số tỉnh đạt mức sinh thay thế; mọi phụ nữ
trong độ tuổi sinh đẻ đều được tiếp cận thuận tiện với các biện pháp tránh thai
hiện đại; giảm 2/3 số vị thành niên và thanh niên có thai ngoài ý muốn.
- Bảo vệ và phát triển dân số các dân tộc có dưới
10 nghìn người, đặc biệt là những dân tộc có rất ít người.
- Tỉ số giới tính khi sinh dưới 109 bé trai/100 bé
gái sinh ra sống; tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi đạt khoảng 22%; tỷ lệ người từ 65
tuổi trở lên đạt khoảng 11%; tỷ lệ phụ thuộc chung đạt khoảng 49%.
- Tỷ lệ nam, nữ thanh niên được tư vấn, khám sức khỏe
trước khi kết hôn đạt 90%; giảm 50% số cặp tảo hôn, giảm 60% số cặp hôn nhân cận
huyết thống; 70% phụ nữ mang thai được tầm soát ít nhất 4 loại bệnh tật bẩm
sinh phổ biến nhất; 90% trẻ sơ sinh được tầm soát ít nhất 5 bệnh bẩm sinh phổ
biến nhất.
- Tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi, trong đó thời
gian sống khỏe mạnh đạt tối thiểu 68 năm; 100% người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y
tế, được quản lý sức khỏe, được khám, chữa bệnh, được chăm sóc tại gia đình, cộng
đồng, cơ sở chăm sóc tập trung.
- Chiều cao người Việt Nam 18 tuổi đối với nam đạt
168,5 cm, nữ đạt 157,5 cm. Chỉ số Phát triển con người (HDI) nằm trong nhóm 4
nước hàng đầu khu vực Đông Nam Á.
- Tỷ lệ dân số đô thị đạt trên 45%. Bố trí, sắp xếp
dân cư hợp lý ở vùng biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn. Bảo đảm người
di cư được tiếp cận đầy đủ và công bằng các dịch vụ xã hội cơ bản.
- 100% dân số được đăng ký, quản lý trong hệ thống
cơ sở dữ liệu dân cư thống nhất trên quy mô toàn quốc.
III- NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ
đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về công tác dân số.
Thống nhất nhận thức của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân, tạo sự
đồng thuận cao trong toàn xã hội về tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách từ tập
trung vào kế hoạch hóa gia đình sang giải quyết toàn diện các vấn đề quy mô, cơ
cấu, phân bố và chất lượng dân số trong mối quan hệ hữu cơ với phát triển kinh
tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Đưa công tác dân số, đặc biệt là nâng cao chất lượng
dân số thành một nội dung trọng tâm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy,
chính quyền các cấp. Thực hiện lồng ghép có hiệu quả các yếu tố dân số trong
các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của cả nước, của từng ngành, từng
địa phương. Phát huy tối đa lợi thế dân số vàng, thích ứng với già hóa dân số.
Tăng cường phối hợp liên ngành, phát huy mạnh mẽ
vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân và của cả cộng đồng
trong công tác dân số. Phân công trách nhiệm cụ thể, rõ ràng đối với từng
ngành, từng cơ quan, đoàn thể trong thực hiện các mục tiêu, giải pháp; đặc biệt
là trong việc thực hiện các phong trào thi đua, các cuộc vận động về công tác
dân số, thực hiện nếp sống văn minh, xây dựng môi trường sống lành mạnh, nâng
cao sức khỏe và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Đề cao tính tiên phong, gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng
viên trong việc thực hiện chủ trương, chính sách về công tác dân số, nhất là
sinh đủ 2 con, chú trọng nuôi dạy con tốt, gia đình hạnh phúc, tạo sức lan tỏa
sâu rộng trong toàn xã hội.
2- Đổi mới nội dung tuyên
truyền, vận động về công tác dân số
Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền,
giáo dục về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Nội dung truyền thông, giáo dục phải chuyển mạnh sang chính sách dân số và phát
triển.
Tiếp tục thực hiện cuộc vận động mỗi cặp vợ chồng
nên có 2 con, bảo đảm quyền và trách nhiệm trong việc sinh con và nuôi dạy con
tốt. Tập trung vận động sinh ít con hơn ở vùng, đối tượng có mức sinh cao; duy
trì kết quả ở những nơi đã đạt mức sinh thay thế; sinh đủ 2 con ở những nơi có
mức sinh thấp.
Nâng cao nhận thức, thực hành về bình đẳng giới; đẩy
mạnh truyền thông giáo dục chuyển đổi hành vi nhằm giảm thiểu mất cân bằng giới
tính khi sinh. Tạo chuyển biến rõ nét ở những vùng có tỉ số giới tính khi sinh
cao.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, khơi dậy
phong trào mọi người dân thường xuyên luyện tập thể dục, thể thao, có lối sống
lành mạnh, chế độ dinh dưỡng hợp lý để nâng cao sức khỏe tầm vóc, thể lực người
Việt Nam. Nâng cao nhận thức, thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về cư
trú, về cấm tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống.
Đổi mới toàn diện nội dung, chương trình, phương
pháp giáo dục dân số, sức khỏe sinh sản trong và ngoài nhà trường. Hình thành
kiến thức và kỹ năng về dân số, sức khỏe sinh sản đúng đắn, có hệ thống ở thế hệ
trẻ.
3- Hoàn thiện cơ chế, chính
sách, pháp luật về dân số
Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về dân số
gắn với xây dựng gia đình hạnh phúc. Rà soát, điều chỉnh hoặc bãi bỏ một số quy
định về xử lý vi phạm trong công tác dân số; đồng thời đề cao tính gương mẫu của
cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện chính sách dân số, xây dựng gia đình văn
hóa, hạnh phúc. Nâng cao hiệu lực pháp lý trong quản lý và tổ chức thực hiện, bảo
đảm đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người dân, triển khai toàn diện các nội dung của
công tác dân số. Kiện toàn hệ thống thanh tra chuyên ngành dân số, tăng cường
thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm vi phạm.
Rà soát, bổ sung các quy định của pháp luật về
nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi. Ngăn ngừa có hiệu quả việc lạm dụng
khoa học - công nghệ để lựa chọn giới tính thai nhi. Đẩy mạnh công tác bình đẳng
giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Ban hành Chiến lược dân số trong tình hình mới;
phát huy tối đa lợi thế cơ cấu dân số vàng, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát
triển đất nước nhanh, bền vững và thích ứng với già hóa dân số.
Hoàn thiện chính sách, pháp luật về bảo vệ, chăm
sóc và phát huy vai trò người cao tuổi; khuyến khích người cao tuổi tham gia
các hoạt động kinh tế - xã hội; xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của
người sử dụng lao động và người lao động cao tuổi. Tích cực, chủ động xây dựng
môi trường thân thiện với người cao tuổi.
Rà soát, nâng cao chất lượng quy hoạch các đô thị,
khu công nghiệp, khu chế xuất, chủ động chuẩn bị các điều kiện để dân cư được
phân bố tương ứng, phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an ninh,
quốc phòng của từng vùng và trong chiến lược tổng thể xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Có chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho người di
cư được tiếp cận đầy đủ và công bằng với các dịch vụ xã hội cơ bản; hỗ trợ thỏa
đáng để thu hút, tạo điều kiện cho người dân sinh sống ổn định, lâu dài ở các
khu vực khó khăn, trọng yếu về an ninh, quốc phòng. Thực hiện có hiệu quả chính
sách bảo vệ và phát triển các dân tộc thiểu số, đặc biệt là các dân tộc thiểu số
rất ít người.
4- Phát triển mạng lưới và nâng
cao chất lượng dịch vụ về dân số
Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của mạng
lưới cung cấp dịch vụ dân số toàn diện về quy mô, cơ cấu, chất lượng và phân bố
dân số.
Tiếp tục củng cố mạng lưới dịch vụ kế hoạch hóa gia
đình. Phát triển mạng lưới cung cấp các dịch vụ tầm soát, chẩn đoán sớm bệnh tật
trước sinh, sơ sinh, hỗ trợ sinh sản, tư vấn kiểm tra sức khỏe sinh sản trước
hôn nhân. Tăng cường kết nối, hợp tác với các cơ sở cung cấp dịch vụ ngoài công
lập. Đổi mới phương thức cung cấp, đưa dịch vụ tới tận người sử dụng; thúc đẩy
cung cấp dịch vụ qua mạng.
Sắp xếp lại hệ thống các cơ sở bảo trợ xã hội công
lập theo hướng đẩy mạnh xã hội hóa, tạo lập môi trường thân thiện, hòa nhập giữa
các nhóm đối tượng và với xã hội.
Phát triển mạnh hệ thống chuyên ngành lão khoa
trong các cơ sở y tế. Khuyến khích phát triển các cơ sở chăm sóc người cao tuổi;
cơ sở cung cấp các loại hình dịch vụ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, văn hóa, giải
trí của người cao tuổi.
Ưu tiên đầu tư nguồn lực nhà nước, đồng thời huy động
nguồn lực xã hội phát triển các cơ sở cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản bảo đảm
các nhóm dân số đặc thù như trẻ em, người khuyết tật, người bị di chứng chiến
tranh, người cao tuổi, đồng bào dân tộc ít người, người di cư... đều thực sự
bình đẳng về cơ hội tham gia, thụ hưởng thành quả phát triển.
Đẩy mạnh nghiên cứu về dân số và phát triển, nhất
là các vấn đề mới, trọng tâm về cơ cấu, chất lượng, phân bố dân số và lồng ghép
yếu tố dân số vào kế hoạch phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực. Tăng cường
hợp tác giữa các cơ sở nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước, phát triển mạng
lưới nghiên cứu về dân số và phát triển.
5- Bảo đảm nguồn lực cho công
tác dân số
Bảo đảm đủ nguồn lực đáp ứng yêu cầu triển khai
toàn diện công tác dân số. Ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước cho công tác dân số,
công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe giáo dục, đào tạo, văn hóa, thể
thao... nhằm nâng cao chất lượng dân số, đời sống mọi mặt của nhân dân, nhất là
đối tượng chính sách, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải
đảo.
Đẩy mạnh xã hội hóa, có chính sách khuyến khích các
tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư xây dựng các cơ sở sản
xuất, phân phối, cung cấp các phương tiện, dịch vụ trong lĩnh vực dân số.
Phát triển thị trường, đa dạng hóa các gói bảo hiểm,
bao gồm bảo hiểm nhà nước, bảo hiểm thương mại với nhiều mệnh giá tương ứng các
gói dịch vụ khác nhau để các nhóm dân số đặc thù đều bình đẳng trong việc tham
gia và thụ hưởng các dịch vụ phúc lợi, an sinh xã hội.
6- Kiện toàn tổ chức bộ máy,
nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ dân số
Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân
số theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả; bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của
cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, đồng thời thực hiện quản lý chuyên môn thống
nhất. Có chính sách đãi ngộ thoả đáng, nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ
cộng tác viên ở thôn, bản, tổ dân phố...
Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng
lực, thực hiện chuẩn hóa đội ngũ cán bộ dân số các cấp, các ngành đáp ứng yêu cầu
chuyển hướng sang chính sách dân số và phát triển. Đưa nội dung dân số và phát
triển vào chương trình đào tạo, tập huấn, nghiên cứu khoa học.
Xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành nhằm tăng cường
chỉ đạo, điều phối hoạt động của các ngành, cơ quan có chức năng quản lý các
lĩnh vực liên quan tới dân số và phát triển.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường ứng dụng
công nghệ thông tin trong quản lý, cung cấp dịch vụ, tạo thuận lợi cho người
dân. Đẩy nhanh triển khai thực hiện đăng ký dân số và cơ sở dữ liệu dân cư quốc
gia thống nhất dùng chung đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội. Cung cấp số liệu đầy
đủ, tin cậy và dự báo dân số chính xác phục vụ việc lồng ghép các yếu tố dân số
trong xây dựng và thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình,
dự án phát triển kinh tế - xã hội.
7- Tăng cường hợp tác quốc tế
Chủ động, tích cực hội nhập, tăng cường hợp tác quốc
tế trong lĩnh vực dân số. Tích cực tham gia các tổ chức, diễn đàn đa phương,
song phương về dân số và phát triển. Tranh thủ sự đồng thuận, hỗ trợ về tài
chính, tri thức, kinh nghiệm và kỹ thuật của các nước, các tổ chức quốc tế. Tập
trung nguồn lực để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc
về dân số.
IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1- Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính
phủ lãnh đạo, chỉ đạo việc hoàn thiện pháp luật liên quan đến công tác dân số;
tăng cường sự giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc,
các Ủy ban của Quốc hội về công tác dân số.
2- Các tỉnh ủy, thành ủy, các ban đảng, ban
cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương xây dựng kế hoạch với các
nhiệm vụ, giải pháp, lộ trình cụ thể, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ để thực hiện
Nghị quyết.
3- Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp
với Ban cán sự đảng Bộ Y tế, Ban cán sự đảng Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức
học tập, quán triệt, tuyên truyền, phổ biến sâu rộng về nội dung, kết quả thực
hiện Nghị quyết.
4- Ban cán sự đảng Chính phủ chủ trì, phối hợp
với các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn và cấp ủy trực thuộc Trung ương
thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết, định kỳ báo cáo Bộ
Chính trị, Ban Bí thư kết quả thực hiện Nghị quyết.
Nơi nhận:
- Các tỉnh ủy, thành ủy,
- Các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương,
- Các đảng ủy đơn vị sự nghiệp Trung ương,
- Các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương,
- Lưu Văn phòng Trung ương Đảng.
|
T/M BAN CHẤP
HÀNH TRUNG ƯƠNG
TỔNG BÍ THƯ
Nguyễn Phú Trọng
|