VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO - TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO - BỘ CÔNG AN - BỘ QUỐC PHÒNG
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP
|
Hà Nội, ngày
22 tháng 12 năm 2017
|
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
QUY ĐỊNH VIỆC PHỐI HỢP GIỮA CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
TRONG THỰC HIỆN MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU
TRA BỔ SUNG
Căn cứ Bộ luật
Tố tụng hình sự ngày 27 tháng 11 năm 2015;
Căn cứ Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 22 tháng 6 năm 2015;
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
thống nhất ban hành Thông tư liên tịch quy định việc phối hợp giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều
tra bổ sung như sau:
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
và đối tượng áp dụng
1. Thông tư liên tịch này quy định việc phối hợp
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát, Tòa án, Cơ quan
điều tra trong thực hiện một số quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
2. Thông tư liên tịch này được áp dụng đối với
các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong quá trình điều
tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
Điều 2. Giải
thích từ ngữ
Trong Thông tư liên tịch này,
những từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Xâm hại nghiêm trọng quyền
và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng là làm ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia tố tụng, có thể gây ra cho họ
thiệt hại về vật chất, tinh thần;
2. Thay đổi cơ bản kết luận điều
tra trước đó là thay đổi về diễn biến hành vi phạm tội, chứng cứ chứng minh tội
phạm, thay đổi điểm, khoản, điều luật mà Cơ quan điều tra đã đề xuất áp dụng;
3. Thay đổi nội dung cáo trạng
là thay đổi những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự như: thời gian, địa
điểm phạm tội; thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội, hậu quả của tội phạm và những
tình tiết quan trọng khác; chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị can; tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân của bị can; thay đổi điểm,
khoản, điều luật mà Viện kiểm sát đã áp dụng để truy tố.
Điều 3. Phối
hợp thực hiện trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong các trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 245 và điểm a khoản 1
Điều 280 của Bộ luật Tố tụng hình sự
1. Chứng cứ để chứng
minh những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự
quy định tại điểm a khoản 1 Điều 245, điểm a khoản 1 Điều
280 của Bộ luật Tố tụng hình sự là chứng cứ quy định tại Điều
86, Điều 87 của Bộ luật Tố tụng hình sự dùng để chứng minh một hoặc nhiều vấn
đề quy định tại Điều 85, Điều 441 của Bộ luật Tố tụng hình sự
mà nếu thiếu chứng cứ này thì không giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện,
đúng pháp luật.
2. Khi thiếu chứng cứ thuộc một
trong các trường hợp sau đây thì Viện kiểm sát, Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ
sung:
a) Chứng cứ để chứng minh “có
hành vi phạm tội xảy ra hay không” là chứng cứ để xác định hành vi đã xảy ra có
đủ yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình sự hay thuộc các trường hợp không
phải là hành vi phạm tội (quan hệ dân sự, kinh tế, vi phạm hành chính và các
trường hợp khác theo quy định của luật);
b) Chứng cứ để chứng minh “thời
gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội” là chứng cứ xác định
nếu có hành vi phạm tội xảy ra thì xảy ra vào thời gian nào, ở đâu; phương
pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm như thế nào;
c) Chứng cứ để chứng minh “ai
là người thực hiện hành vi phạm tội” là chứng cứ xác định một chủ thể cụ thể đã
thực hiện hành vi phạm tội đó;
d) Chứng cứ để chứng minh “có lỗi
hay không có lỗi” là chứng cứ xác định chủ thể có lỗi hoặc không có lỗi khi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội; nếu có lỗi thì là lỗi cố ý trực tiếp hay lỗi
cố ý gián tiếp hoặc lỗi vô ý do quá tự tin hay lỗi vô ý do cẩu thả theo quy định
tại Điều 10 và Điều 11 của Bộ luật Hình sự;
đ) Chứng cứ để chứng minh “có
năng lực trách nhiệm hình sự không” là chứng cứ xác định khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự chưa; có mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất
khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình hay không; nếu có
thì mắc bệnh đó vào thời gian nào, trong giai đoạn tố tụng nào;
e) Chứng cứ để chứng minh “mục
đích, động cơ phạm tội” là chứng cứ xác định chủ thể thực hiện hành vi phạm tội
với mục đích, động cơ gì; mục đích, động cơ phạm tội là tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự hay là tình tiết định tội, tình tiết định khung hình phạt;
g) Chứng cứ để chứng minh “tình
tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo” là
chứng cứ xác định bị can, bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự nào quy định tại Điều 51, Điều 84 của Bộ luật Hình
sự hoặc áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52, Điều 85 của Bộ luật Hình sự;
h) Chứng cứ để chứng minh “đặc
điểm về nhân thân của bị can, bị cáo” là chứng cứ xác định lý lịch của bị can,
bị cáo; nếu bị can, bị cáo là pháp nhân thương mại thì phải chứng minh tên, địa
chỉ và những vấn đề khác có liên quan đến địa vị pháp lý và hoạt động của pháp
nhân thương mại;
i) Chứng cứ để chứng minh “tính
chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra” là chứng cứ để đánh giá
tính chất, mức độ thiệt hại, hậu quả về vật chất, phi vật chất do hành vi phạm
tội gây ra;
k) Chứng cứ để chứng minh
“nguyên nhân và điều kiện phạm tội” là chứng cứ xác định nguyên nhân chủ quan,
khách quan, điều kiện cụ thể dẫn đến việc chủ thể thực hiện hành vi phạm tội;
l) Chứng cứ để chứng minh “những
tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm
hình sự, miễn hình phạt” là chứng cứ chứng minh những vấn đề được quy định tại
các điều 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 59, 88 và
các điều luật khác của Bộ luật Hình sự;
m) Chứng cứ khác để chứng minh
một hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật Tố tụng
hình sự mà thiếu chứng cứ đó thì không có đủ căn cứ để giải quyết vụ án,
như: chứng cứ để xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới
18 tuổi; chứng cứ để chứng minh vị trí, vai trò của từng bị can, bị cáo trong
trường hợp đồng phạm hoặc phạm tội có tổ chức; chứng cứ để xác định trách nhiệm
dân sự của bị can, bị cáo và những vấn đề khác có ý nghĩa trong việc giải quyết
vụ án theo quy định của pháp luật;
n) Trường hợp pháp nhân thương
mại phạm tội thì ngoài việc xác định chứng cứ trong các trường hợp được quy định
tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g, h, i, k, l và m khoản này còn phải xác định
chứng cứ để chứng minh điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương
mại theo quy định tại Điều 75 của Bộ luật Hình sự.
3. Viện kiểm
sát ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thiếu chứng cứ để chứng
minh thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này mà Viện kiểm
sát không thể tự mình bổ sung được.
4. Thẩm phán được phân công chủ
tọa phiên tòa (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử), Hội đồng xét xử (tại phiên
tòa) ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thiếu chứng cứ để chứng
minh thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này nếu xét thấy
không thể bổ sung được trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc tại phiên tòa.
5. Không trả hồ sơ để điều tra bổ
sung khi thiếu chứng cứ để chứng minh thuộc một trong các trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều này nhưng vẫn truy tố, xét xử được hoặc không thể thu thập được chứng
cứ đó.
Ví dụ 1: Có 03 người làm chứng
nhưng chỉ xác định được 02 người.
Ví dụ 2: Hiện trường đã bị thay
đổi không thể xem xét lại được hay vật chứng đã mất không thể tìm được.
Điều 4. Phối
hợp thực hiện trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong các trường hợp quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều 245 của Bộ luật
Tố tụng hình sự
1. Khi có căn cứ để khởi tố bị
can về một hay nhiều tội phạm khác; có người đồng phạm hoặc người phạm tội khác
liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố bị can thuộc một trong các trường hợp
sau đây thì Viện kiểm sát trả hồ sơ để điều tra bổ sung:
a) Khởi tố và điều tra về một
hay nhiều tội nhưng chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy hành vi của bị can đã
thực hiện cấu thành một hay nhiều tội khác;
b) Ngoài tội phạm đã khởi tố và
điều tra, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có căn cứ để khởi tố bị can về
một hoặc nhiều tội khác;
c) Ngoài bị can đã bị khởi tố
và điều tra, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có người đồng phạm khác hoặc
có người phạm tội khác có liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố bị can.
2. Viện kiểm sát không trả hồ
sơ để điều tra bổ sung trong các trường hợp sau đây:
a) Nếu có căn cứ để tách vụ án
theo quy định tại khoản 2 Điều 242 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
b) Nếu quyết định trả hồ sơ để
điều tra bổ sung của Tòa án có căn cứ mà xét thấy không cần phải trả hồ sơ cho
Cơ quan điều tra thì Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều
tra để bổ sung tài liệu, chứng cứ theo quy định tại khoản 1 Điều
246 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Điều 5. Phối
hợp thực hiện trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong các trường hợp quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều 280 của Bộ luật
Tố tụng hình sự
1. Khi có căn cứ để cho rằng bị
can hoặc bị cáo còn thực hiện hành vi khác mà Bộ
luật Hình sự quy định là tội phạm, còn có đồng phạm khác hoặc có người khác
thực hiện hành vi mà Bộ luật Hình sự quy định
là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can
thuộc một trong các trường hợp sau đây thì Thẩm phán (trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử), Hội đồng xét xử (tại phiên tòa) trả hồ sơ để điều tra bổ sung:
a) Viện kiểm sát truy tố về một
hay nhiều tội, nhưng chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy hành vi của bị can hoặc
bị cáo đã thực hiện cấu thành một hay nhiều tội khác;
b) Ngoài hành vi phạm tội mà Viện
kiểm sát đã truy tố, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có căn cứ để khởi
tố bị can hoặc bị cáo về một hay nhiều tội khác;
c) Ngoài bị can hoặc bị cáo đã
bị truy tố, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có người đồng phạm khác hoặc
có người phạm tội khác liên quan đến vụ án, nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi
tố bị can.
2. Tòa án không trả hồ sơ để điều
tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Trường hợp thuộc điểm a khoản
1 Điều này nhưng chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy có thể xét xử bị can hoặc
bị cáo về một hay nhiều tội tương ứng bằng hay nhẹ hơn hoặc có thể xét xử bị
can hoặc bị cáo ít tội hơn số tội mà Viện kiểm sát truy tố;
b) Đã có quyết định tách vụ án
hoặc chưa có quyết định tách vụ án của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhưng có
căn cứ để tách vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 170, khoản
2 Điều 242 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
c) Đã yêu cầu Viện kiểm sát bổ
sung tài liệu, chứng cứ theo quy định tại Điều 284 của Bộ luật
Tố tụng hình sự.
Điều 6. Phối
hợp thực hiện trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong các trường hợp quy định tại điểm d khoản 1 Điều 245 và điểm d khoản 1
Điều 280 của Bộ luật Tố tụng hình sự
1. Khi có vi phạm nghiêm trọng
về thủ tục tố tụng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì Viện kiểm sát,
Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung:
a) Lệnh, quyết định của Cơ quan
điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mà
theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, nhưng không có phê
chuẩn của Viện kiểm sát hoặc việc ký lệnh, quyết định tố tụng không đúng thẩm
quyền;
b) Không chỉ định, thay đổi hoặc
chấm dứt việc chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội theo quy định tại Điều 76 và Điều 77 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
c) Xác định không đúng tư cách
tham gia tố tụng của người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố,
xét xử dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
d) Khởi tố vụ án hình sự nhưng
không có yêu cầu của bị hại hoặc của người đại diện của bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 155 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
đ) Nhập vụ án hoặc tách vụ án
không đúng quy định tại Điều 170 hoặc Điều 242 của Bộ luật
Tố tụng hình sự;
e) Không cấp, giao, chuyển, gửi,
niêm yết hoặc thông báo văn bản tố tụng gồm lệnh, quyết định, yêu cầu, kết luận
điều tra, bản cáo trạng, bản án cho người bị buộc tội và những người tham gia tố
tụng khác theo đúng quy định của pháp luật xâm hại nghiêm trọng đến quyền bào
chữa, quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và những người tham gia tố
tụng khác;
g) Chưa điều tra, lập lý lịch của
bị can; chưa xác định được những đặc điểm quan trọng về nhân thân của bị can, bị
cáo (tuổi, tiền án, tiền sự), lý lịch hoạt động của pháp nhân thương mại phạm tội
(tên, địa chỉ, những vấn đề khác liên quan đến hồ sơ pháp lý của pháp nhân
thương mại);
h) Không có người phiên dịch,
người dịch thuật cho người tham gia tố tụng trong trường hợp họ không sử dụng
được tiếng Việt hoặc tài liệu tố tụng không thể hiện bằng tiếng Việt; họ là người
câm, người điếc, người mù theo quy định tại Điều 70 của Bộ
luật Tố tụng hình sự;
i) Không từ chối tiến hành,
tham gia tố tụng hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
trong trường hợp quy định tại các điều 49, 51, 52, 53, 54,
68, 69 và 70 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
k) Việc điều tra, thu thập chứng
cứ để chứng minh đối với vụ án không đúng trình tự, thủ tục quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự nên không có giá trị chứng minh trong vụ án hình sự;
l) Biên bản về hoạt động điều
tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án mà không chuyển cho Viện
kiểm sát theo đúng quy định tại khoản 5 Điều 88 của Bộ luật Tố
tụng hình sự;
m) Chứng cứ để chứng minh đối với
vụ án đã được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố nhưng không đưa vào hồ
sơ vụ án hoặc bị sửa chữa, thêm bớt dẫn đến sai lệch hồ sơ vụ án;
n) Việc điều tra, truy tố không
đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
o) Có căn cứ để xác định có việc
bức cung, nhục hình trong quá trình tiến hành tố tụng làm cho lời khai của bị
can không đúng sự thật;
p) Khiếu nại, tố cáo của bị
can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không được giải quyết theo
đúng quy định của pháp luật xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của
họ;
q) Những trường hợp khác phải
ghi rõ lý do trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
2. Viện kiểm sát, Tòa án không
trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo quy định tại khoản 1 Điều này khi thuộc một
trong các trường hợp sau đây:
a) Có vi phạm nghiêm trọng thủ
tục tố tụng, nhưng không xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của
người tham gia tố tụng;
b) Người bị buộc tội, người bị
hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi nhưng khi thực hiện hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử thì họ đã đủ 18 tuổi.
Điều 7. Phối
hợp thực hiện trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 298 của Bộ luật Tố tụng hình
sự
Trường hợp Tòa án trả hồ sơ để
điều tra bổ sung khi có căn cứ cho rằng bị can hoặc bị cáo phạm tội khác nặng
hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố thì thực hiện như sau:
1. Trường hợp phải thay đổi quyết
định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can về tội danh khác nặng hơn
thì Viện kiểm sát trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung để thay đổi
tội danh và kết luận điều tra về tội danh khác nặng hơn;
2. Trường hợp Viện kiểm sát đã
yêu cầu mà Cơ quan điều tra không thực hiện thì Viện kiểm sát ra quyết định
thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can về tội
danh khác nặng hơn và yêu cầu Cơ quan điều tra thực hiện theo quy định tại Điều 156 và Điều 180 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Điều 8. Phối
hợp thực hiện việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Trong thời hạn quyết định việc
truy tố hoặc chuẩn bị xét xử, Viện kiểm sát, Tòa án phải nghiên cứu toàn diện hồ
sơ vụ án nhằm kịp thời phát hiện các trường hợp phải trả hồ sơ để điều tra bổ
sung và ra ngay quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Điều 9. Quyết
định trả hồ sơ để điều tra bổ sung
1. Việc trả hồ sơ để điều tra bổ
sung phải ra quyết định bằng văn bản và do người có thẩm quyền ký theo quy định
tại các điều 41, 44 và 45 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Trong quyết định trả hồ sơ để
điều tra bổ sung phải ghi số, ngày, tháng, năm và lần trả hồ sơ (thứ nhất hoặc
thứ hai). Trong phần nội dung phải ghi cụ thể những vấn đề cần phải điều
tra bổ sung, những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng cần được khắc phục
và những căn cứ pháp luật được áp dụng.
3. Trường hợp phải tiếp tục trả
hồ sơ để điều tra bổ sung thì trong quyết định nêu rõ những vấn đề yêu cầu điều
tra bổ sung lần trước chưa được điều tra bổ sung hoặc đã điều tra bổ sung nhưng
chưa đạt yêu cầu hoặc từ kết quả điều tra bổ sung làm phát sinh vấn đề mới cần
điều tra.
4. Trường hợp Tòa án quyết định
trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để truy tố lại theo quy định tại khoản
3 Điều 298 của Bộ luật Tố tụng hình sự thì trong quyết định trả hồ sơ phải
nêu rõ tội danh nặng hơn mà Tòa án đề nghị Viện kiểm sát truy tố lại.
Điều 10.
Phối hợp thực hiện quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung
1. Cơ quan điều tra có trách
nhiệm thực hiện đầy đủ các yêu cầu nêu trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung của Viện kiểm sát theo quy định tại Điều 167 và Điều
245 của Bộ luật Tố tụng hình sự; nếu quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung của Viện kiểm sát không có căn cứ theo quy định tại các điều
3, 4 và 6 của Thông tư liên tịch này thì sau khi nhận hồ sơ vụ án, Cơ quan
điều tra phải có văn bản nêu rõ lý do giữ nguyên kết luận điều tra và chuyển lại
hồ sơ cho Viện kiểm sát.
2. Sau khi nhận được hồ sơ vụ
án và quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, Viện kiểm sát xử lý
như sau:
a) Nếu quyết định trả hồ sơ để
điều tra bổ sung của Tòa án có căn cứ mà Viện kiểm sát có thể tự bổ sung được
thì Viện kiểm sát tiến hành điều tra theo quy định tại khoản 2
và khoản 3 Điều 236, khoản 1 Điều 246 của Bộ luật Tố tụng hình sự; trường hợp
không thể tự mình bổ sung được thì Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ để điều
tra bổ sung và chuyển ngay hồ sơ cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra;
b) Nếu quyết định trả hồ sơ để
điều tra bổ sung của Tòa án không có căn cứ theo quy định tại các điều
3, 5 và 6 của Thông tư liên tịch này thì Viện kiểm sát có văn bản nêu rõ lý
do giữ nguyên quyết định truy tố và chuyển lại hồ sơ cho Tòa án để đưa vụ án ra
xét xử theo quy định tại Điều 246 và khoản 3 Điều 280 của
Bộ luật Tố tụng hình sự.
3. Sau khi kết thúc điều tra bổ
sung, Cơ quan điều tra phải có kết luận điều tra bổ sung, trong đó kết luận rõ
đối với từng vấn đề điều tra bổ sung, quan điểm giải quyết vụ án và tùy từng
trường hợp thì xử lý như sau:
a) Nếu kết quả điều tra bổ sung
làm thay đổi cơ bản kết luận điều tra trước đó thì Cơ quan điều tra phải ra kết
luận điều tra mới thay thế theo quy định tại khoản 3 Điều 245 của
Bộ luật Tố tụng hình sự;
b) Nếu kết quả điều tra bổ sung
dẫn đến đình chỉ điều tra, thì Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra
theo quy định tại Điều 230 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
4. Sau khi có kết quả điều tra
bổ sung, Viện kiểm sát xử lý như sau:
a) Nếu kết quả điều tra bổ sung
không làm thay đổi nội dung cáo trạng trước đó thì Viện kiểm sát có văn bản nêu
rõ lý do giữ nguyên quyết định truy tố và chuyển hồ sơ đến Tòa án;
b) Nếu kết quả điều tra bổ sung
làm thay đổi cơ bản nội dung cáo trạng trước đó thì Viện kiểm sát ban hành cáo
trạng mới thay thế và chuyển hồ sơ đến Tòa án;
c) Nếu kết quả điều tra bổ sung
dẫn đến đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông
báo cho Cơ quan điều tra, Tòa án biết theo quy định tại Điều
248 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Điều 11.
Phối hợp giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra để hạn chế việc trả hồ sơ để điều
tra bổ sung
1. Viện kiểm sát và Cơ quan điều
tra phải phối hợp chặt chẽ ngay từ khi tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội
phạm và trong suốt quá trình điều tra vụ án.
Điều tra viên phải chủ động gửi
đầy đủ, kịp thời chứng cứ, tài liệu đã thu thập được cho Kiểm sát viên thụ lý vụ
án và thực hiện đầy đủ các yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát.
Kiểm sát viên phải thường xuyên
theo dõi, nắm chắc tiến độ điều tra vụ án, nghiên cứu kỹ chứng cứ, tài liệu do
Điều tra viên đã thu thập; kịp thời đề ra yêu cầu điều tra, chủ động phối hợp với
Điều tra viên để điều tra làm rõ những vấn đề cần chứng minh ngay trong giai đoạn
điều tra vụ án; đồng thời kiểm sát chặt chẽ các hoạt động điều tra và việc lập
hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra, bảo đảm việc điều tra vụ án khách quan, toàn
diện theo quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự.
2. Trước
khi kết thúc điều tra vụ án ít nhất 10 ngày, Điều tra viên và Kiểm sát viên phải
phối hợp để đánh giá các chứng cứ, tài liệu đã thu thập, bảo đảm đầy đủ, hợp
pháp; nếu phát hiện có một trong các căn cứ quy định tại các điều 3, 4, 5 và 6 của Thông tư liên tịch
này thì phải bổ sung, khắc phục ngay trong giai
đoạn điều tra; đối với những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, Cơ quan điều
tra và Viện kiểm sát phải tiến hành sơ kết, đánh giá toàn diện kết quả điều tra
vụ án, chỉ đạo điều tra giải quyết những vấn đề còn mâu thuẫn, tồn tại và quyết
định việc kết thúc điều tra, hướng xử lý vụ án theo quy định của pháp luật.
Điều 12.
Phối hợp giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án trong giai đoạn truy tố
để hạn chế việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung
1. Sau khi nhận hồ sơ vụ án và
kết luận điều tra, Kiểm sát viên phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, kiểm tra việc chấp
hành các thủ tục tố tụng, tính đầy đủ, hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu
trong hồ sơ vụ án.
Kiểm sát viên phải trực tiếp hỏi
cung bị can trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 183
của Bộ luật Tố tụng hình sự; nếu thấy còn thiếu chứng cứ, tài liệu hoặc có
vi phạm thủ tục tố tụng mà tự mình có thể bổ sung được thì Kiểm sát viên phối hợp
với Điều tra viên để bổ sung, khắc phục kịp thời; trường hợp không thể bổ sung
được thì Kiểm sát viên phải báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát để xem xét, quyết định.
2. Trong thời hạn quyết định việc
truy tố, nếu thấy vụ án có những vấn đề phức tạp về chứng cứ, tội danh hoặc
trong trường hợp cần thiết khác, Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát để
trao đổi với lãnh đạo Cơ quan điều tra, Tòa án về hướng giải quyết vụ án.
3. Trường hợp phát sinh những vấn
đề phức tạp, Viện kiểm sát chủ động tổ chức họp liên ngành để làm rõ những
vấn đề cần phải điều tra bổ sung nhằm bảo đảm việc trả hồ sơ để điều tra bổ
sung đúng trọng tâm, triệt để và kịp thời.
4. Trường hợp các cơ quan tiến
hành tố tụng cùng cấp không thống nhất được với nhau về vấn đề cần phải điều
tra bổ sung, thì cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý hồ sơ vụ án phải chủ trì
xây dựng báo cáo của các cơ quan tiến hành tố tụng cùng cấp để báo cáo với lãnh
đạo liên ngành cấp trên trực tiếp xem xét cho ý kiến về việc giải quyết vụ án.
Điều 13.
Phối hợp giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong giai đoạn xét xử để hạn chế việc trả
hồ sơ để điều tra bổ sung
1. Trong thời hạn chuẩn bị xét
xử, sau khi nghiên cứu hồ sơ nếu thấy có một trong các căn cứ trả hồ sơ để điều
tra bổ sung quy định tại các điều 3, 4, 5 và 6 của Thông tư liên
tịch này thì Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa trao đổi với Kiểm
sát viên để có biện pháp khắc phục kịp thời hoặc có thể bổ sung được tại phiên
tòa mà không phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Nếu Kiểm sát viên và Thẩm phán
không thống nhất ý kiến, thì báo cáo lãnh đạo liên ngành xem xét cho ý kiến về
việc giải quyết vụ án.
Trường hợp Viện kiểm sát phát
hiện có căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát có văn bản đề
nghị Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo quy định tại khoản
2 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên chủ động phối hợp với Hội
đồng xét xử làm rõ những chứng cứ liên quan đến việc giải quyết đúng đắn vụ án
hình sự. Nếu có một trong các căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung quy định tại
các điều 3, 4, 5 và 6 của Thông tư liên tịch này hoặc phát
sinh những vấn đề mới, phức tạp mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa thì Hội
đồng xét xử tự mình hoặc theo đề nghị của Kiểm sát viên quyết định trả hồ sơ để
điều tra bổ sung.
3. Đối với vụ án do Viện kiểm
sát cấp trên thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và phân công cho Viện
kiểm sát cấp dưới thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm, nếu phát hiện
có căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Tòa án thụ lý xét xử sơ thẩm trao đổi
với Viện kiểm sát cùng cấp để làm rõ những vấn đề điều tra bổ sung. Trước khi
Tòa án ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Viện kiểm sát cấp dưới báo
cáo với Viện kiểm sát cấp trên xem xét, trao đổi với Tòa án. Trường hợp Tòa án
vẫn quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì xử lý như sau:
a) Nếu quyết định trả hồ sơ để
điều tra bổ sung của Tòa án có căn cứ thì Viện kiểm sát cấp dưới làm văn bản
nêu rõ lý do và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cấp trên để thực hiện việc
điều tra bổ sung theo thẩm quyền;
b) Nếu quyết định trả hồ sơ để
điều tra bổ sung của Tòa án không có căn cứ thì Viện kiểm sát cấp dưới có văn bản
nêu rõ lý do giữ nguyên quyết định truy tố và chuyển lại hồ sơ cho Tòa án để
đưa vụ án ra xét xử đồng thời báo cáo Viện kiểm sát cấp trên.
4. Trường hợp vụ án có bị can
đang bị tạm giam mà xét thấy cần phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì trước
khi hết thời hạn tạm giam ít nhất 07 ngày, Tòa án thông báo cho Viện kiểm sát
biết để xem xét, quyết định việc tạm giam bị can khi nhận hồ sơ vụ án.
Điều 14. Phối
hợp thực hiện quản lý việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung
1. Các cơ quan tiến hành tố tụng
có trách nhiệm quản lý việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở cấp mình. Viện kiểm
sát có trách nhiệm quản lý về số vụ, số lần trả hồ sơ để điều tra bổ sung của
các cơ quan tiến hành tố tụng cùng cấp. Viện kiểm sát cấp tỉnh có trách nhiệm tổng
hợp, đánh giá tình hình trả hồ sơ để điều tra bổ sung của cơ quan tiến hành tố
tụng cấp tỉnh và cấp huyện thuộc địa phương quản lý.
2. Định kỳ (hàng tháng, hàng
quý, sáu tháng, một năm) từng cơ quan tiến hành tố tụng phải xây dựng báo cáo về
việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung; trong đó, phải đánh giá tình hình, xác định
số vụ/ bị can, bị cáo, phân tích lý do trả hồ sơ để điều tra bổ sung, số vụ trả
có căn cứ, số vụ trả không có căn cứ, nguyên nhân, trách nhiệm của từng cơ
quan, người tiến hành tố tụng trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
3. Cách tính tỷ lệ trả hồ sơ để
điều tra bổ sung của Viện kiểm sát, Tòa án như sau:
a) Tỷ lệ trả hồ sơ để điều tra
bổ sung của Viện kiểm sát bằng số vụ án do Viện kiểm sát đã quyết định trả hồ
sơ để điều tra bổ sung có căn cứ trên tổng số vụ Cơ quan điều tra đã có kết luận
điều tra chuyển hồ sơ đến Viện kiểm sát đề nghị truy tố (bao gồm cả số vụ kết
thúc điều tra cũ chưa giải quyết và số vụ mới);
Ví dụ: Năm 2018 Viện kiểm sát tỉnh
H đã có quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung 9 vụ được Cơ quan điều tra chấp
nhận trong tổng số 150 vụ (cũ 10 vụ, mới 140 vụ) mà Cơ quan điều tra đã có kết
luận điều tra chuyển hồ sơ đề nghị Viện kiểm sát truy tố, thì tỷ lệ trả hồ sơ
điều tra bổ sung của Viện kiểm sát đối với Cơ quan điều tra là 6% (9 vụ/150 vụ
x 100%).
b) Tỷ lệ trả hồ sơ để điều tra
bổ sung của Tòa án bằng số vụ án do Tòa án đã quyết định trả hồ sơ để điều tra
bổ sung có căn cứ trên tổng số vụ Viện kiểm sát đã truy tố và chuyển hồ sơ đến
Tòa án để xét xử (bao gồm cả số vụ truy tố cũ chưa giải quyết và số vụ truy tố
mới);
Ví dụ: Năm 2018 Tòa án đã có
quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung 5 vụ được Viện kiểm sát chấp nhận trong
tổng số 100 vụ (cũ 10 vụ, mới 90 vụ) mà Viện kiểm sát đã truy tố và chuyển hồ
sơ đến Tòa án để xét xử, thì tỷ lệ trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án đối với
Viện kiểm sát là 5% (5 vụ/100 vụ x 100%).
c) Trường hợp cùng một vụ án
nhưng Viện kiểm sát, Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều lần, thì tính
là 01 vụ và phân tích là trả nhiều lần;
d) Trường hợp vụ án do Tòa án
trả hồ sơ để điều tra bổ sung, sau đó Viện kiểm sát lại trả hồ sơ yêu cầu Cơ
quan điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án, thì tính là 01 vụ và phân tích
là trả 01 lần (vụ án được tính do Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung).
Điều 15.
Phối hợp xác định trách nhiệm trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung
1. Cơ quan điều tra, Điều tra
viên chịu trách nhiệm trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong những trường
hợp sau đây:
a) Không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng, không đầy đủ, kịp thời yêu cầu điều tra hoặc quyết định trả hồ sơ để
điều tra bổ sung của Viện kiểm sát dẫn đến vụ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ
sung đối với những vấn đề mà Viện kiểm sát đã yêu cầu điều tra;
b) Không cung cấp đầy đủ, kịp
thời chứng cứ, tài liệu liên quan theo quy định của pháp luật trong quá trình
điều tra vụ án làm cho Kiểm sát viên không nắm được nội dung vụ án để kịp thời
đề ra yêu cầu điều tra dẫn đến Viện kiểm sát hoặc Tòa án phải trả hồ sơ để điều
tra bổ sung.
2. Viện kiểm sát, Kiểm sát viên
chịu trách nhiệm trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong những trường hợp
sau đây:
a) Không đề ra yêu cầu điều tra
hoặc không trả hồ sơ để điều tra bổ sung đối với những vấn đề có thể phát hiện
được dẫn đến Tòa án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
b) Quyết định trả hồ sơ để điều
tra bổ sung không có căn cứ và Cơ quan điều tra có văn bản giữ nguyên kết luận
điều tra, sau đó Viện kiểm sát quyết định truy tố như đề nghị của Cơ quan điều
tra.
3. Thẩm phán được phân công chủ
tọa phiên tòa hoặc Hội đồng xét xử chịu trách nhiệm trong việc trả hồ sơ để điều
tra bổ sung trong trường hợp quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung không có
căn cứ và Viện kiểm sát có văn bản giữ nguyên quyết định truy tố, sau đó Tòa án
xét xử vụ án như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.
4. Trong trường hợp quy định tại
các khoản 1, 2 và 3 Điều này, lãnh đạo cơ quan tiến hành tố tụng tổ chức kiểm
điểm, xác định trách nhiệm cụ thể của từng người tiến hành tố tụng ở mỗi cấp có
liên quan đến việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung để xem xét, xử lý theo quy định
của pháp luật.
Điều 16.
Điều khoản thi hành
1. Thông tư liên tịch này có hiệu
lực thi hành từ ngày 06 tháng 02 năm 2018, thay thế Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSTC-BCA-TATC ngày 27/8/2010 của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
thi hành các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự
về trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Hướng dẫn trước đây của Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trái
với quy định tại Thông tư liên tịch này được bãi bỏ.
2. Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm
tổ chức thực hiện Thông tư liên tịch này.
3. Trong quá trình thực
hiện Thông tư liên tịch nếu có vướng mắc, các cơ quan, đơn vị, địa phương phản
ánh về Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ
Quốc phòng để có hướng dẫn kịp thời./.
KT. CHÁNH
ÁN TÒA ÁN
NHÂN DÂN TỐI CAO
PHÓ CHÁNH ÁN
Nguyễn Trí Tuệ
|
KT. VIỆN TRƯỞNG
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
PHÓ VIỆN TRƯỞNG
Trần Công Phàn
|
KT. BỘ TRƯỞNG
BỘ CÔNG AN
THỨ TRƯỞNG
Thượng tướng Lê Quý Vương
|
KT. BỘ TRƯỞNG
BỘ QUỐC PHÒNG
THỨ TRƯỞNG
Thượng tướng Lê Chiêm
|
Nơi nhận:
- Ủy ban thường vụ Quốc hội;
- Ủy ban Pháp luật của Quốc hội;
- Ủy ban Tư pháp của Quốc hội;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Ban Nội chính Trung ương;
- Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương;
- Văn phòng Quốc hội;
- Văn phòng Chính phủ (02 bản);
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Bộ Công an;
- Bộ Quốc phòng;
- Bộ Tư pháp;
- Lưu: VT (VKSNDTC, TANDTC, BCA, BQP), V4.
|
|