BỘ
CÔNG AN - VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO - TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO - BỘ TƯ
PHÁP
------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------------
|
Số:
17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP
|
Hà
Nội, ngày 24 tháng 12 năm 2007
|
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH TẠI CHƯƠNG XVIII “CÁC TỘI
PHẠM VỀ MA TÚY” CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
Để áp dụng đúng và thống nhất các
quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật
hình sự năm 1999 (sau đây viết tắt là BLHS),
Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp
thống nhất hướng dẫn một số điểm như sau:
I. VỀ MỘT SỐ
KHÁI NIỆM VÀ MỘT SỐ TÌNH TIẾT LÀ YẾU TỐ ĐỊNH TỘI HOẶC ĐỊNH KHUNG HÌNH PHẠT
1. Về một số khái
niệm
1.1. “Chất ma túy” là các chất gây
nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục chất ma túy do Chính
phủ ban hành. Trong đó, cần phân biệt các trường hợp sau:
a) Đối với các chất
ma túy ở thể rắn được hòa thành dung dịch (như dung dịch thuốc phiện, dung dịch
hêrôin dùng để tiêm, chích) hoặc chất ma túy ở thể lỏng đã được pha loãng để tiện
cho việc sử dụng thì không coi toàn bộ dung dịch này là chất ma túy ở thể lỏng
mà cần xác định hàm lượng moocphin trong dung dịch để tính trọng lượng của chất
ma túy đó;
b) Đối với xái thuốc phiện thì
không coi là nhựa thuốc phiện mà phải xác định hàm lượng moocphin trong xái thuốc
phiện để tính trọng lượng của thuốc phiện.
1.2. “Tiền chất dùng vào việc sản
xuất trái phép chất ma túy” là các hóa chất không thể thiếu được trong quá
trình điều chế, sản xuất chất ma túy được quy định trong các danh mục tiền chất
do Chính phủ ban hành.
1.3. “Phương tiện, dụng cụ dùng vào
việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy” là những vật được sản xuất ra
với chức năng chuyên dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy
hay tuy được sản xuất ra với mục đích khác, nhưng đã được sử dụng chuyên vào mục
đích sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy.
1.4. Trong mọi
trường hợp, khi thu giữ được các chất nghi là chất ma túy hoặc tiền chất dùng
vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì đều phải trưng cầu giám định để xác
định loại, hàm lượng, trọng lượng chất ma túy, tiền chất. Nếu chất được giám định
không phải là chất ma túy hoặc không phải là tiền chất dùng vào việc sản xuất
trái phép chất ma túy, nhưng người thực hiện hành vi ý thức rằng chất đó là chất
ma túy hoặc chất đó là tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy,
thì tùy hành vi phạm tội cụ thể mà truy cứu trách nhiệm hình sự người đó theo tội
danh quy định tại khoản 1 của điều luật tương ứng đối với các tội phạm về ma
túy.
Trường hợp một người biết là chất
ma túy giả nhưng làm cho người khác tưởng là chất ma túy thật nên mua bán, trao
đổi… thì người đó không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm về ma túy
mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 139 BLHS, nếu thỏa mãn các dấu hiệu khác nữa trong cấu
thành tội phạm của tội này.
2. Về một số tình
tiết là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt.
2.1. Tình tiết “lợi dụng chức vụ,
quyền hạn” quy định tại khoản 2 các điều 193, 194, 195, 196 và
198 của BLHS, được hiểu là người phạm tội đã dựa vào chức vụ, quyền hạn mà
mình được đảm nhiệm để thực hiện hành vi phạm tội.
2.2. Tình tiết “lợi dụng danh nghĩa
cơ quan, tổ chức” quy định tại khoản 2 các điều 193, 194, 195 và
196 của BLHS được hiểu là người phạm tội đã lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ
chức nơi họ làm việc hoặc công tác để thực hiện hành vi phạm tội.
2.3. Tình tiết
“phạm tội nhiều lần” quy định tại khoản 2 các điều 193, 194,
195, 196, 197, 198, 200 và 201 của BLHS được hiểu
là đã có từ hai lần phạm tội trở lên (hai lần sản xuất trái phép chất ma túy trở
lên, hai lần tàng trữ trái phép chất ma túy trở lên, hai lần bán trái phép chất
ma túy trở lên…) mà mỗi lần phạm tội có đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại
khoản 1 điều luật tương ứng, đồng thời trong số các lần phạm tội đó chưa có lần
nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự.
Trong trường hợp này người phạm tội
phải chịu trách nhiệm hình sự về tổng số lượng chất ma túy của các lần cộng lại,
nếu điều luật có quy định về số lượng chất ma túy để định khung hình phạt.
Người nào tổ chức sử dụng trái phép
chất ma túy; chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy; cưỡng bức, lôi kéo
người khác sử dụng trái phép chất ma túy đối với một người từ hai lần trở lên
cũng bị coi là phạm tội nhiều lần.
2.4. Tình tiết
“phạm tội đối với nhiều người” quy định tại khoản 2 các điều
197,198 và 200 của BLHS được hiểu là trong một lần
phạm tội, người phạm tội đã thực hiện tội phạm đối với từ hai người trở lên (ví
dụ: Trong một lần phạm tội tổ chức cho từ hai người trở lên sử dụng trái phép
chất ma túy; trong một lần phạm tội chứa chấp từ hai người trở lên sử dụng trái
phép chất ma túy; trong một lần phạm tội cưỡng bức, lôi kéo từ hai người trở
lên sử dụng trái phép chất ma túy).
2.5. Tình tiết “có từ hai chất ma
túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng của chất
ma túy quy định tại một trong các điểm từ…” quy định tại điểm i
khoản 2, điểm e khoản 3, điểm đ khoản 4 Điều 193 hoặc điểm o
khoản 2, điểm h khoản 3, điểm h khoản 4 Điều 194 của BLHS được xác định như
sau:
a) Trường hợp các chất ma túy đó đều
có trọng lượng dưới mức tối thiểu quy định tại khoản 2 (tức thuộc
khoản 1) Điều 193 hoặc khoản 2 Điều 194 của BLHS, thì tổng
trọng lượng của các chất ma túy đó được xác định theo các bước sau đây:
Bước 1: Xác định tỷ lệ phần trăm về
trọng lượng của từng chất ma túy so với mức tối thiểu đối với từng chất ma túy
đó tại điểm tương ứng quy định tại khoản 2 Điều 193 hoặc khoản 2 Điều 194 của BLHS.
Bước 2: Cộng tỷ lệ phần trăm về trọng
lượng của từng chất ma túy lại với nhau.
Bước 3: Xác định điểm, khoản, điều
luật. Nếu tổng các tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của các chất ma túy dưới
100%, thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 193 hoặc khoản 1 Điều 194 của
BLHS, nếu tổng tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của các chất ma túy từ 100%
trở lên, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo tình tiết định
khung: “Có từ hai chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương ứng
với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ…” quy định tại điểm i khoản 2 Điều 193 hoặc điểm o khoản 2 Điều 194 của BLHS.
Ví dụ 1: Một người sản xuất hai
trăm gam nhựa thuốc phiện và hai gam hêrôin (đều thuộc khoản 1
Điều 193 của BLHS). Tổng trọng lượng của các chất ma túy được xác định như
sau:
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của
nhựa thuốc phiện so với mức tối thiểu đối với nhựa thuốc phiện quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 193 của BLHS là 40% (hai trăm gam so với
năm trăm gam).
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của
hêrôin so với mức tối thiểu đối với hêrôin quy định tại điểm e
khoản 2 Điều 193 của BLHS là 40% (hai gam so với năm gam).
- Tổng tỷ lệ phần trăm về trọng lượng
của cả hai chất nhựa thuốc phiện và hêrôin là 40% + 40% = 80% (dưới 100%), cho
nên người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản
1 Điều 193 của BLHS.
Ví dụ 2: Một người mua bán bốn trăm
gam nhựa thuốc phiện và ba gam hêrôin (đều thuộc khoản 1 Điều
194 của BLHS). Tổng trọng lượng của các chất ma túy được xác định như sau:
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của
nhựa thuốc phiện so với mức tối thiểu đối với nhựa thuốc phiện quy định tại điểm g khoản 2 Điều 194 của BLHS là 80% (bốn trăm gam so với
năm trăm gam).
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của
hêrôin so với mức tối thiểu đối với hêrôin quy định tại điểm h
khoản 2 Điều 194 của BLHS là 60% (ba gam so với năm gam).
- Tổng tỷ lệ phần trăm về trọng lượng
của cả hai chất nhựa thuốc phiện và hêrôin là 80% + 60% = 140% (thuộc trường hợp
từ 100% trở lên), cho nên người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm o khoản 2 Điều 194 của BLHS.
b) Trường hợp các chất ma túy đó đều
được quy định trong cùng một điểm của khoản 2, khoản 3, khoản 4
Điều 193 hoặc trong cùng một điểm của khoản 2, khoản 3, khoản
4 Điều 194 của BLHS thì cộng trọng lượng của các chất ma túy đó lại với
nhau và so sánh với quy định về trọng lượng trong điều luật tương ứng để truy cứu
trách nhiệm hình sự người phạm tội theo khoản nào phù hợp của điều luật đó.
Ví dụ: một người sản xuất 300 gam
nhựa thuốc phiện và 300 gam nhựa cần sa. Do nhựa thuốc phiện và nhựa cần sa được
quy định trong cùng điểm đ khoản 2, điểm b khoản 3, điểm a khoản
4 Điều 193 của BLHS, cho nên chỉ cần cộng trọng lượng nhựa thuốc phiện và
nhựa cần sa là 300g + 300g = 600g. Đối chiếu với quy định về trọng lượng trong Điều 193 của BLHS, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo điểm đ khoản 2 Điều 193 của BLHS.
c) Trường hợp các chất ma túy đó có
trọng lượng tại các điểm khác nhau của cùng khoản 2 (khoản 3)
Điều 193 hoặc khoản 2 (khoản 3) Điều 194 của BLHS, thì
tổng trọng lượng của các chất ma túy đó được xác định theo các bước sau đây:
Bước 1: Xác định tỷ lệ phần trăm về
trọng lượng của từng chất ma túy so với mức tối thiểu đối với từng chất ma túy
đó tại điểm tương ứng quy định tại khoản 3 (khoản 4) Điều 193 hoặc
khoản 3 (khoản 4) Điều 194 của BLHS.
Bước 2: Cộng tỷ lệ phần trăm về trọng
lượng của từng chất ma túy lại với nhau.
Bước 3: Xác định điểm, khoản, điều
luật. Nếu tổng các tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của các chất ma túy dưới
100%, thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 (khoản 3) Điều 193 hoặc khoản 2 (khoản
3) Điều 194 của BLHS; nếu tổng tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của các chất
ma túy từ 100% trở lên, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo
tình tiết định khung: “Có từ hai chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các
chất đó tương ứng với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ…”
quy định tại điểm e khoản 3 (điểm đ khoản 4) Điều 193 hoặc điểm h khoản 3 (điểm h khoản 4) Điều 194 của BLHS.
Ví dụ 1: Một người sản xuất sáu
trăm gam nhựa thuốc phiện và chín gam hêrôin (đều thuộc khoản 2 Điều 193 của
BLHS). Tổng trọng lượng của các chất ma túy được xác định như sau:
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của
nhựa thuốc phiện so với mức tối thiểu đối với nhựa thuốc phiện quy định tại điểm b khoản 3 Điều 193 của BLHS là 60% (sáu trăm gam so với một
kilôgam).
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của
hêrôin so với mức tối thiểu đối với hêrôin quy định tại điểm c
khoản 3 Điều 193 của BLHS là 30% (chín gam so với ba mươi gam).
- Tổng tỷ lệ phần trăm về trọng lượng
của cả hai chất nhựa thuốc phiện và hêrôin là 60% + 30% = 90% (dưới 100%), cho
nên người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm
i khoản 2 Điều 193 của BLHS.
Ví dụ 2: Một người mua bán bốn
kilôgam nhựa thuốc phiện và ba mươi gam côcain (đều thuộc khoản
3 Điều 194 của BLHS). Tổng trọng lượng của các chất ma túy được xác định
như sau:
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của
nhựa thuốc phiện so với mức tối thiểu đối với nhựa thuốc phiện quy định tại điểm a khoản 4 Điều 194 của BLHS là 80% (bốn kilôgam so với
năm kilôgam).
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của
côcain so với mức tối thiểu đối với côcain quy định tại điểm b
khoản 4 Điều 194 của BLHS là 30% (ba mươi gam so với một trăm gam).
- Tổng tỷ lệ phần trăm về trọng lượng
của cả hai chất nhựa thuốc phiện và côcain là 80% + 30% = 110% (thuộc trường hợp
từ 100% trở lên), cho nên người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 4 Điều 194 của BLHS.
d) Trường hợp trong các chất ma túy
đó, có chất ma túy có trọng lượng quy định tại khoản 1, có chất ma túy có trọng
lượng quy định tại khoản 2 (hoặc khoản 3), hoặc có chất ma
túy có trọng lượng quy định tại khoản 2, có chất ma túy có
trọng lượng quy định tại khoản 3 Điều 193 hoặc Điều 194 của BLHS, thì tổng trọng lượng của các chất ma túy đó
được xác định theo các bước sau đây:
Bước 1: Xác định tỷ lệ phần trăm về
trọng lượng của chất ma túy có trọng lượng nhiều nhất so với mức tối thiểu đối
với chất ma túy đó quy định tại khoản 3 (khoản 4) Điều 193 hoặc
khoản 3 (khoản 4) Điều 194 của BLHS theo nguyên tắc chất ma
túy có trọng lượng nhiều nhất thuộc khoản 2 thì so với mức
tối thiểu đối với chất ma túy đó quy định tại khoản 3; chất ma túy có trọng lượng
nhiều nhất thuộc khoản 3 thì so với mức tối thiểu đối với
chất ma túy đó quy định tại khoản 4.
Bước 2: Xác định tỷ lệ phần trăm về
trọng lượng của chất ma túy khác so với mức tối thiểu đối với chất ma túy đó
quy định tại khoản 3 (khoản 4) Điều 193 hoặc khoản
3 (khoản 4) Điều 194 của BLHS theo nguyên tắc mức tối thiểu đối với chất ma
túy có trọng lượng nhiều nhất ở khoản nào thì mức tối thiểu của các chất ma túy
khác lấy ở khoản đó.
Bước 3: Cộng các tỷ lệ phần trăm về
trọng lượng của từng chất ma túy lại với nhau và xác định điểm, khoản, điều luật.
Nếu tổng tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của các chất ma túy là từ 100% trở lên
thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo tình tiết định khung:
“Có từ 2 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số
lượng của chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ…” quy định tại điểm e khoản 3 (điểm đ khoản 4) Điều 193; tại điểm
h khoản 3 (điểm h khoản 4) Điều 194 của BLHS (khoản tương ứng của điều luật
có quy định mức tối thiểu đối với chất ma túy có trọng lượng nhiều nhất).
Ví dụ 1: Một người sản xuất bốn
trăm gam nhựa thuốc phiện và hai mươi bốn gam hêrôin. Trong trường hợp này
hêrôin có trọng lượng thuộc điểm e khoản 2 Điều 193 của BLHS,
còn nhựa thuốc phiện có trọng lượng thuộc khoản 1 Điều 193 của
BLHS; do đó, hêrôin có trọng lượng nhiều nhất. Tổng trọng lượng của các chất
ma túy được xác định như sau:
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của
hêrôin so với mức tối thiểu đối với hêrôin quy định tại điểm e
khoản 3 Điều 193 của BLHS là 80% (hai mươi bốn gam so với ba mươi gam).
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của
nhựa thuốc phiện so với mức tối thiểu đối với nhựa thuốc phiện quy định tại điểm b khoản 3 Điều 193 của BLHS là 40% (bốn trăm gam so với một
kilôgam).
- Tổng tỷ lệ phần trăm về trọng lượng
của cả hai chất nhựa thuốc phiện và hêrôin là 80% + 40% = 120% (thuộc trường hợp
từ 100% trở lên), cho nên người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm e khoản 3 Điều 193 của BLHS.
Ví dụ 2: Một người mua bán bốn phẩy
năm kilôgam nhựa thuốc phiện và bốn gam hêrôin. Trong trường hợp này nhựa thuốc
phiện có trọng lượng thuộc điểm a khoản 3 Điều 194 của BLHS,
còn hêrôin có trọng lượng thuộc khoản 1 Điều 194 của BLHS;
do đó, nhựa thuốc phiện có trọng lượng nhiều nhất. Tổng trọng lượng của các chất
ma túy được xác định như sau:
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của
nhựa thuốc phiện so với mức tối thiểu đối với nhựa thuốc phiện quy định tại điểm a khoản 4 Điều 194 của BLHS là 90% (bốn phẩy năm kilôgam
so với năm kilôgam).
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của
hêrôin so với mức tối thiểu đối với hêrôin quy định tại điểm b
khoản 4 Điều 194 của BLHS là 4% (bốn gam so với một trăm gam).
- Tổng tỷ lệ phần trăm về trọng lượng
của cả hai chất nhựa thuốc phiện và hêrôin là 90% + 4% = 94% (dưới 100%), cho
nên người phạm tội vẫn chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản
3 Điều 194 của BLHS.
Ví dụ 3: Một người sản xuất bốn
kilôgam nhựa thuốc phiện và hai mươi gam hêrôin. Trong trường hợp này nhựa thuốc
phiện có trọng lượng thuộc điểm b khoản 3 Điều 193 của BLHS,
còn hêrôin có trọng lượng thuộc điểm e khoản 2 Điều 193 của
BLHS; do đó, nhựa thuốc phiện có trọng lượng nhiều nhất. Tổng trọng lượng của
các chất ma túy được xác định như sau:
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của
nhựa thuốc phiện so với mức tối thiểu đối với nhựa thuốc phiện quy định tại điểm a khoản 4 Điều 193 của BLHS là 80% (bốn kilôgam so với
năm kilôgam).
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của
hêrôin so với mức tối thiểu đối với hêrôin quy định tại điểm b
khoản 4 Điều 193 của BLHS là 20% (hai mươi gam so với một trăm gam).
- Tổng tỷ lệ phần trăm về trọng lượng
của cả hai chất nhựa thuốc phiện và hêrôin là 80% + 20% = 100% (thuộc trường hợp
từ 100% trở lên), cho nên người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm đ khoản 4 Điều 193 của BLHS.
3. Truy cứu trách
nhiệm hình sự trong trường hợp có nhiều hành vi phạm tội.
3.1. Trường hợp một người thực hiện
nhiều hành vi phạm tội quy định tại các điều luật khác nhau, từ Điều
192 đến Điều 194 của BLHS mà các hành vi đó có liên quan chặt chẽ với nhau
(hành vi phạm tội này là điều kiện để thực hiện hoặc là hệ quả tất yếu của hành
vi phạm tội kia) nếu các tội phạm đó không bằng nhau thì người phạm tội bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội theo điều luật có quy định tội nặng
hơn.
Ví dụ: một người trồng cây thuốc
phiện (đã được giáo dục nhiều lần, đã được tạo điều kiện để ổn định cuộc sống
và đã bị xử phạt hành chính về hành vi này), sau đó lại tiến hành sản xuất trái
phép chất ma túy. Trong trường hợp này người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội sản xuất trái phép chất ma túy theo Điều 193 của
BLHS (tội sản xuất trái phép chất ma túy nặng hơn tội trồng cây thuốc phiện
hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy).
3.2. Trường hợp một người thực hiện
nhiều hành vi phạm tội quy định tại các điều luật khác nhau, từ Điều
192 đến Điều 194 của BLHS mà các hành vi đó có liên quan chặt chẽ với nhau
(hành vi phạm tội này là điều kiện để thực hiện hoặc là hệ quả tất yếu của hành
vi phạm tội kia) nếu các tội phạm đó bằng nhau thì người phạm tội bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội được thực hiện đầu tiên theo tội danh
tương ứng.
Đối với người thực hiện hành vi
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy để sản xuất
trái phép chất ma túy thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sản xuất trái
phép chất ma túy quy định tại Điều 193 BLHS.
3.3. Trường hợp một người thực hiện
nhiều hành vi phạm tội quy định tại các điều từ Điều 192 đến Điều
194 của BLHS mà các hành vi đó độc lập với nhau, thì bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về những tội độc lập theo điều luật tương ứng.
Ví dụ một người mua bán trái phép
hêrôin bị bắt, khi khám nhà phát hiện người đó còn có hành vi sản xuất thuốc
phiện. Trong trường hợp này người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
mua bán trái phép chất ma túy theo Điều 194 của BLHS và tội
sản xuất trái phép chất ma túy theo Điều 193 của BLHS.
3.4. Việc xác định các tội bằng
nhau, nặng hơn hoặc nhẹ hơn được thực hiện theo hướng dẫn tại tiểu mục 2.2, mục 2, phần II Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định
trong Phần thứ ba “Xét xử sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
3.5. Trường hợp một người thực hiện
một hoặc nhiều hành vi phạm tội quy định trong một điều luật (Điều
194, Điều 195 và Điều 196 của BLHS) thì cần phân biệt như sau:
a) Trường hợp một người chỉ thực hiện
một trong các hành vi phạm tội theo quy định tại Điều 194 (hoặc
Điều 195 hoặc Điều 196) của BLHS thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với
tên tội danh về hành vi phạm tội đã thực hiện theo điều luật tương ứng.
Ví dụ: một người chỉ mua bán tiền
chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy, thì bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy
theo Điều 195 của BLHS.
b) Trường hợp một người thực hiện
nhiều hành vi phạm tội theo quy định tại Điều 194 (hoặc Điều
195 hoặc Điều 196) của BLHS mà các hành vi đó có liên quan chặt chẽ với
nhau (hành vi phạm tội này là điều kiện để thực hiện hoặc là hệ quả tất yếu của
hành vi phạm tội kia), thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội danh đầy đủ
đối với tất cả các hành vi đã được thực hiện theo điều luật tương ứng và chỉ phải
chịu một hình phạt.
Ví dụ: một người mua bán tiền chất
dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy rồi vận chuyển đến một địa điểm mới
và tàng trữ tiền chất đó, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tên tội danh
là mua bán, vận chuyển tàng trữ tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất
ma túy theo Điều 195 của BLHS và chỉ phải chịu một hình phạt.
c) Trường hợp một người thực hiện
nhiều hành vi phạm tội theo quy định tại Điều 194 (hoặc Điều
195 hoặc Điều 196) của BLHS mà các hành vi đó độc lập với nhau, thì bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về những tội độc lập mà người ấy đã thực hiện. Khi xét
xử, Tòa án áp dụng Điều 50 của BLHS để quyết định hình phạt
chung.
Ví dụ: một người mua bán một loại
tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy và bị bắt, khi khám nhà
phát hiện người đó còn tàng trữ một loại tiền chất khác nhưng không nhằm mục
đích để mua bán. Trong trường hợp này, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy
và tội tàng trữ tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy theo quy
định tại Điều 195 của BLHS. Tùy từng trường hợp cụ thể mà
người đó bị xử phạt mức hình phạt tương ứng đối với từng tội và sau đó quyết định
hình phạt chung cho cả hai tội theo quy định tại Điều 50 của
BLHS.
II. VỀ CÁC TỘI
PHẠM CỤ THỂ
1. Tội trồng cây
thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy (Điều
192).
1.1. “Các loại cây khác có chứa chất
ma túy” là các loại cây có chứa chất gây nghiện, chất hướng thần theo quy định
của Chính phủ, trừ cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa.
1.2. “Trồng cây thuốc phiện, cây
côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy” quy định tại Điều 192 của BLHS là hành vi gieo trồng, chăm bón hoặc thu hoạch
các bộ phận của cây (như lá, hoa, quả, thân cây có chứa chất ma túy).
1.3. Người thực hiện hành vi trồng
cây có chứa chất ma túy chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi đã được áp dụng
đầy đủ cả ba biện pháp: “Đã được giáo dục nhiều lần”, “đã được tạo điều kiện ổn
định cuộc sống” và “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”.
a) “Đã được giáo dục nhiều lần” là
đã được cơ quan nhà nước, tổ chức, người có trách nhiệm ở địa phương từ hai lần
trở lên vận động, thuyết phục, nhắc nhở về việc không được trồng cây có chứa chất
ma túy hoặc phổ biến đường lối, chính sách, quy định của pháp luật về cấm trồng
cây có chứa chất ma túy. Các biện pháp giáo dục này phải được thể hiện bằng
biên bản. Chỉ bị coi là “đã được giáo dục nhiều lần” nếu việc giáo dục được thực
hiện trước khi bị xử phạt hành chính.
b) “Đã được tạo điều kiện để ổn định
cuộc sống” là đã được hỗ trợ về tiền vốn, kỹ thuật để sản xuất, hỗ trợ giống
cây trồng, vật nuôi hoặc đã được hướng dẫn về kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt
cây ăn quả, cây công nghiệp, cây lương thực… để thay thế các loại cây có chứa
chất ma túy.
c) “Đã bị xử phạt hành chính về
hành vi này mà còn vi phạm” được hiểu là trước đó đã có hành vi trồng cây có chứa
chất ma túy và đã bị xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền theo quy định của pháp luật
về xử phạt vi phạm hành chính, nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử
phạt vi phạm hành chính, mà lại tiếp tục có hành vi trồng cây có chứa chất ma
túy và bị phát hiện. (Theo quy định của Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính hiện hành thì có hai hình thức xử phạt vi phạm
hành chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền).
1.4. Người nào biết người khác gieo
trồng, chăm bón hoặc thu hoạch cây có chứa chất ma túy, đã được áp dụng đầy đủ
cả ba biện pháp: “Giáo dục nhiều lần”, “tạo điều kiện ổn định cuộc sống” và “đã
bị xử phạt hành chính về hành vi này” mà vẫn giúp họ thực hiện một trong các hành
vi đó thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm về tội này.
1.5. Trường hợp người trồng cây có
chứa chất ma túy, đã được áp dụng đầy đủ cả ba biện pháp: “Giáo dục nhiều lần”,
“tạo điều kiện ổn định cuộc sống” và “đã bị xử phạt hành chính” nhưng không chịu
phá bỏ mà bán lại cho người khác thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất
ma túy theo quy định tại Điều 192 của BLHS. Người mua lại
cây có chứa chất ma túy để tiếp tục chăm sóc thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về tội này nếu thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm.
Người nào mua bán trái phép cây có
chứa chất ma túy khi cây hoặc các bộ phận của cây có chứa chất ma túy là đối tượng
(chất ma túy) quy định tại Điều 194 của BLHS thì bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy theo Điều
194 của BLHS.
2. Tội sản xuất
trái phép chất ma túy (Điều 193)
2.1. “Sản xuất trái phép chất ma
túy” là làm ra chất ma túy (chế biến, điều chế…) bằng thủ công hoặc có áp dụng
khoa học công nghệ từ cây có chứa chất ma túy, từ các tiền chất và các hóa chất
hoặc làm ra chất ma túy này từ chất ma túy khác mà không được phép của cơ quan
có thẩm quyền hoặc không đúng với nội dung đã được cơ quan có thẩm quyền cho
phép.
Đối với các hành vi nhằm tạo thuận
lợi cho việc sử dụng chất ma túy đã có sẵn như pha chế thuốc phiện thành dung dịch
để tiêm chích, nghiền hêrôin từ bánh thành bột để hít… thì không coi là hành vi
sản xuất trái phép chất ma túy.
2.2. Phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp quy định tại điểm a khoản 3 là trường hợp người phạm
tội có đầy đủ các điều kiện sau đây:
a) Thực hiện hành vi sản xuất trái
phép chất ma túy từ năm lần trở lên không phân biệt đã bị xét xử hay chưa bị
xét xử, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa
án tích;
b) Người phạm tội lấy hành vi sản
xuất trái phép chất ma túy làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội
sản xuất trái phép chất ma túy làm nguồn sống chính.
3. Tội tàng trữ,
vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều
194)
3.1. “Tàng trữ trái phép chất ma
túy” là cất giữ, cất giấu bất hợp pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào (như trong
nhà, ngoài vườn, chôn dưới đất, để trong vali, cho vào thùng xăng xe, cất dấu trong
quần áo, tư trang mặc trên người hoặc theo người…) mà không nhằm mục đích mua
bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Thời gian tàng trữ dài hay
ngắn không ảnh hưởng đến việc xác định tội này.
3.2. “Vận chuyển trái phép chất ma
túy” là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp chất ma túy từ nơi này đến nơi khác dưới
bất kỳ hình thức nào (có thể bằng các phương tiện khác nhau như ô tô, tàu bay,
tàu thủy…; trên các tuyến đường khác nhau như đường bộ, đường sắt, đường hàng
không, đường thủy, đường bưu điện…; có thể để trong người như cho vào túi áo,
túi quần, nuốt vào trong bụng, để trong hành lý như vali, túi xách v.v…) mà
không nhằm mục đích mua bán, tàng trữ hay sản xuất trái phép chất ma túy khác.
Người giữ hộ, hoặc vận chuyển trái
phép chất ma túy cho người khác, mà biết rõ mục đích mua bán trái phép chất ma
túy của người đó, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép
chất ma túy với vai trò đồng phạm.
3.3. “Mua bán trái phép chất ma
túy” là một trong các hành vi sau đây:
a) Bán trái phép chất ma túy cho
người khác (không phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có) bao gồm cả
việc bán hộ chất ma túy cho người khác để hưởng tiền công hoặc các lợi ích
khác;
b) Mua chất ma túy nhằm bán trái
phép cho người khác;
c) Xin chất ma túy nhằm bán trái
phép cho người khác;
d) Dùng chất ma túy nhằm trao đổi
thanh toán trái phép (không phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có);
đ) Dùng tài sản không phải là tiền
đem trao đổi, thanh toán… lấy chất ma túy nhằm bán lại trái phép cho người
khác;
e) Tàng trữ chất
ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;
g) Vận chuyển chất ma túy nhằm bán
trái phép cho người khác.
Người tổ chức, người xúi giục, người
giúp sức cho người thực hiện một trong các hành vi mua bán trái phép chất ma túy
được hướng dẫn từ điểm a đến điểm g tiểu mục 3.3 này đều bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy.
3.4. “Chiếm đoạt chất ma túy” là một
trong các hành vi trộm cắp, lừa đảo, tham ô, lạm dụng tín nhiệm, cưỡng đoạt, cướp,
cướp giật, công nhiên chiếm đoạt chất ma túy của người khác. Trường hợp người
có hành vi chiếm đoạt chất ma túy nhằm mục đích bán lại chất ma túy đó cho người
khác, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội danh đầy đủ đối với hành vi
đã thực hiện theo Điều 194 BLHS và chỉ phải chịu một hình
phạt.
3.5. Chất gây nghiện, chất hướng thần
là chất ma túy; còn thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần là để chữa bệnh (chỉ chứa
một hàm lượng nhất định chất ma túy) và được quản lý theo quy chế quản lý dược
phẩm của Bộ Y tế. Người nào không thuộc đối tượng quy định tại Điều
201 BLHS mà vi phạm trong việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán thuốc
gây nghiện, thuốc hướng thần nhằm mục đích kinh doanh thuốc chữa bệnh hoặc để
chữa bệnh thì bị xử lý hành chính hoặc thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một
tội phạm tương ứng khác không phải là tội phạm về ma túy (ví dụ: tội kinh doanh
trái phép, tội buôn lậu…). Trường hợp sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán
thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần trái phép nhằm thỏa mãn nhu cầu về sử dụng
trái phép chất ma túy cho mình hoặc cho người khác thì bị xử lý về tội phạm ma
túy tương ứng (nếu thỏa mãn điều kiện về trọng lượng chất ma túy theo quy định
của pháp luật).
3.6. Người nào tàng trữ, vận chuyển
trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy với số lượng sau đây không nhằm mục đích
mua bán hay sản xuất trái phép chất ma túy khác thì áp dụng khoản
4 Điều 8 BLHS, theo đó không truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng phải bị xử
lý hành chính:
a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc
cao côca có trọng lượng dưới một gam;
b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng
dưới không phẩy một gam;
c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá
cây côca có trọng lượng dưới một kilôgam;
d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng
dưới năm kilôgam;
đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng
dưới một kilôgam;
e) Các chất ma túy khác ở thể rắn
có trọng lượng dưới một gam;
g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng
từ mười mililít trở xuống.
3.7. Khi truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy cần
phân biệt:
a) Người nào đã bị kết án về tội
tàng trữ, vận chuyển trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, chưa được xóa án
tích mà lại tiếp tục tàng trữ, vận chuyển trái phép hoặc chiếm đoạt một trong
các chất ma túy có số lượng được hướng dẫn từ điểm a đến điểm g tiểu mục 3.6
trên đây, nếu không thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm thì bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 194 BLHS. Nếu là tái phạm
nguy hiểm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều
194 của BLHS.
b) Người nào bán trái phép chất ma
túy cho người khác và còn cho họ sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu
hoặc quản lý của mình để sử dụng trái phép chất ma túy thì ngoài việc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy theo Điều
194 BLHS, người đó còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp việc
sử dụng trái phép chất ma túy theo Điều 198 BLHS;
c) Người nào biết người khác đi mua
chất ma túy để sử dụng trái phép mà gửi tiền nhờ mua hộ chất ma túy để sử dụng
thì người nhờ mua hộ phải chịu trách nhiệm hình sự về số lượng chất ma túy đã
nhờ mua hộ. Người đi mua phải chịu trách nhiệm hình sự về tổng số lượng chất ma
túy đã mua cho bản thân và mua hộ.
d) Người nào biết người khác mua chất
ma túy để sử dụng trái phép mà dùng phương tiện để chở họ cùng chất ma túy và bị
bắt giữ nếu số lượng chất ma túy đến mức phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép chất ma túy thì người đó là đồng phạm với
người mua về tội tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép chất ma túy quy định tại Điều 194 BLHS.
đ) Người nào tàng
trữ trái phép, vận chuyển trái phép một trong các chất ma túy có số lượng được
hướng dẫn từ điểm a đến điểm g tiểu mục 3.6 mục 3 phần II
Thông tư này mà không nhằm mục đích mua bán hay sản
xuất trái phép chất ma túy khác, nhưng chứng minh được là nhằm mục đích sử dụng
trái phép chất ma túy, tuy đã được giáo dục nhiều lần và đã bị xử lý hành chính
bằng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc thì phải bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội sử dụng trái phép chất ma túy theo Điều 199
của BLHS.
4. Tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất
ma túy (Điều 195).
4.1. “Tàng trữ tiền chất dùng vào
việc sản xuất trái phép chất ma túy” là cất giữ, cất giấu bất hợp pháp tiền chất
ở bất cứ nơi nào (như trong nhà, ngoài vườn, chôn dưới đất, để trong vali, hoặc
cho vào thùng xăng xe…) để dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy.
4.2. “Vận chuyển tiền chất dùng vào
việc sản xuất trái phép chất ma túy” là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp tiền
chất từ nơi này đến nơi khác dưới bất kỳ hình thức nào (có thể bằng các phương
tiện khác nhau như ô tô, tàu bay, tàu thủy…; trên các tuyến đường khác nhau như
đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường thủy, đường bưu điện…; có thể để
trong người như cho vào túi áo, quần, nuốt vào bụng…; có thể để trong hành lý
như vali, túi xách…) để dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy.
4.3. “Mua bán tiền chất dùng vào việc
sản xuất trái phép chất ma túy” là một trong các hành vi sau đây:
a) Bán tiền chất cho người khác để
người đó sản xuất trái phép chất ma túy;
b) Mua tiền chất nhằm bán cho người
khác để người đó sản xuất trái phép chất ma túy;
c) Xin tiền chất nhằm bán trái phép
cho người khác để người đó sản xuất trái phép chất ma túy;
d) Dùng tiền chất để trao đổi,
thanh toán trái phép cho người khác để người đó sản xuất trái phép chất ma túy;
đ) Dùng tài sản (không phải là tiền)
đem trao đổi, thanh toán lấy tiền chất nhằm bán lại cho người khác để người đó
sản xuất trái phép chất ma túy;
e) Tàng trữ tiền chất nhằm bán trái
phép cho người khác để người đó sản xuất trái phép chất ma túy;
g) Vận chuyển tiền chất nhằm bán
trái phép cho người khác để người đó sản xuất trái phép chất ma túy.
4.4. “Chiếm đoạt tiền chất dùng vào
việc sản xuất trái phép chất ma túy” là một trong các hành vi trộm cắp, lừa đảo,
lạm dụng tín nhiệm, cưỡng đoạt, cướp, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt… tiền chất
của người khác để dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy.
4.5. Người tàng trữ, vận chuyển,
mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy
chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 195 của BLHS khi các
hành vi đó được thực hiện nhằm mục đích để sản xuất trái phép chất ma túy hoặc
nhằm bán lại cho người khác để họ sản xuất trái phép chất ma túy. Trường hợp
không chứng minh được mục đích nhằm sản xuất trái phép chất ma túy hoặc mục
đích nhằm bán lại cho người khác để họ sản xuất trái phép chất ma túy thì không
phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 195 của
BLHS mà tùy từng trường hợp cụ thể có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội phạm khác theo quy định của BLHS.
Trong trường hợp tiền chất có trọng
lượng dưới 50 gam (đối với tiền chất ở thể rắn) hoặc dưới 75 mililít (đối với
tiền chất ở thể lỏng) thì áp dụng khoản 4 Điều 8 BLHS để
không truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng phải bị xử lý hành chính.
5. Tội sản xuất,
tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất
hoặc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 196).
5.1. “Sản xuất các phương tiện, dụng
cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy” là làm ra các
phương tiện, dụng cụ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 phần
I Thông tư này (có thể bằng phương pháp thủ công hoặc áp dụng khoa học kỹ
thuật) để dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy.
5.2. “Tàng trữ các phương tiện, dụng
cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy” là hành vi cất giữ
các phương tiện, dụng cụ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1
phần I Thông tư này ở bất kỳ địa điểm nào (như trong nhà, ngoài vườn, chôn
dưới đất, để trong vali hoặc cho vào thùng xăng xe…) để dùng vào việc sản xuất
hoặc sử dụng trái phép chất ma túy.
5.3. “Vận chuyển các phương tiện dụng
cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy” là hành vi dịch
chuyển các phương tiện, dụng cụ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.3
mục 1 phần I Thông tư này từ nơi này đến nơi khác dưới bất kỳ hình thức nào
(có thể bằng các phương tiện khác nhau như ô tô, tàu bay, tàu thủy…; trên các
tuyến đường khác nhau như đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường thủy, đường
bưu điện…; có thể để trong người như cho vào túi áo, quần…; có thể để trong
hành lý như vali, túi xách…) để dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy hoặc
sử dụng trái phép chất ma túy.
5.4. “Mua bán các phương tiện, dụng
cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy” là một trong các
hành vi sau đây:
a) Bán các phương tiện, dụng cụ được
hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 phần I Thông tư này cho người
khác để người đó dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy hoặc sử dụng trái
phép chất ma túy;
b) Mua các phương tiện, dụng cụ được
hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 phần I Thông tư này nhằm
bán cho người khác để người đó dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy hoặc
sử dụng trái phép chất ma túy;
c) Xin các phương tiện, dụng cụ được
hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 phần I Thông tư này nhằm
bán trái phép cho người khác để người đó dùng vào việc sản xuất trái phép chất
ma túy hoặc sử dụng trái phép chất ma túy;
d) Dùng các phương tiện, dụng cụ được
hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 phần I Thông tư này để trao
đổi, thanh toán trái phép cho người khác để người đó dùng vào việc sản xuất
trái phép chất ma túy hoặc sử dụng trái phép chất ma túy;
đ) Dùng tài sản (không phải là tiền)
đem trao đổi, thanh toán lấy các phương tiện, dụng cụ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 phần I Thông tư này nhằm bán lại trái phép cho
người khác để người đó dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy hoặc sử dụng
trái phép chất ma túy;
e) Tàng trữ các phương tiện, dụng cụ
được hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 phần I Thông tư này
nhằm bán trái phép cho người khác để người đó dùng vào việc sản xuất trái phép
chất ma túy hoặc sử dụng trái phép chất ma túy;
g) Vận chuyển các phương tiện, dụng
cụ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 phần I Thông tư này
nhằm bán trái phép cho người khác để người đó dùng vào việc sản xuất trái phép
chất ma túy hoặc sử dụng trái phép chất ma túy.
5.5. Khi truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người có hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển hoặc mua bán các
phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy
cần phân biệt:
a) Chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình
sự trong trường hợp việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển hoặc mua bán các phương
tiện, dụng cụ là nhằm để dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma
túy;
b) Người lần đầu sản xuất, tàng trữ,
vận chuyển hoặc mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái
phép chất ma túy và chỉ dùng các phương tiện, dụng cụ này để cho bản thân họ sử
dụng trái phép chất ma túy, thì chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự
nhưng phải bị xử lý hành chính. Trường hợp đã bị xử lý hành chính theo quy định
của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính mà còn vi phạm thì phải bị truy cứu
trách nhiệm hình sự;
c) Đối với trường hợp sản xuất,
tàng trữ, vận chuyển hoặc mua bán từ năm bộ dụng cụ, phương tiện (có thể cùng
loại, có thể khác loại) trở xuống thì áp dụng khoản 4 Điều 8
BLHS để không truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng phải bị xử lý hành chính.
d) “Vật phạm pháp có số lượng lớn”
quy định tại khoản 2 Điều 196 của BLHS là trường hợp sản
xuất, tàng trữ, vận chuyển hoặc mua bán từ hai mươi bộ phương tiện, dụng cụ (có
thể cùng loại, có thể khác loại) trở lên.
6. Tội tổ chức sử
dụng trái phép chất ma túy (Điều 197)
6.1. “Tổ chức sử dụng trái phép chất
ma túy” là một trong các hành vi sau đây:
a) Chỉ huy, phân công, điều hành các
hoạt động đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác;
b) Chỉ huy, phân công, điều hành việc
chuẩn bị, cung cấp chất ma túy, địa điểm, phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử
dụng trái phép chất ma túy, tìm người sử dụng chất ma túy.
Người nào thực hiện một trong các
hành vi sau đây theo sự chỉ huy, phân công, điều hành của người khác thì bị coi
là đồng phạm về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy: đưa trái phép chất
ma túy vào cơ thể người khác; cung cấp trái phép chất ma túy cho người khác để họ
sử dụng trái phép chất ma túy; chuẩn bị chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào
(mua, xin, tàng trữ, sản xuất…) nhằm đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người
khác; chuẩn bị địa điểm (thuê địa điểm, mượn địa điểm, sử dụng địa điểm không
thuộc quyền chiếm hữu của mình hoặc đang do mình quản lý để làm nơi đưa trái
phép chất ma túy vào cơ thể người khác); chuẩn bị dụng cụ, phương tiện dùng vào
việc sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào (mua, xin, tàng trữ…)
nhằm sử dụng để đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác; tìm người sử dụng
chất ma túy để đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể của họ.
6.2. Khi truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cần
phân biệt:
a) Người nghiện ma túy có chất ma
túy (không phân biệt nguồn gốc ma túy do đâu mà có) cho người nghiện ma túy
khác chất ma túy để cùng sử dụng trái phép thì không bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, mà tùy từng trường hợp có
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy hoặc
tội sử dụng trái phép chất ma túy;
b) Người nào thực hiện hành vi tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy, mà còn thực hiện một hay nhiều hành vi phạm
tội khác về ma túy quy định tại các điều luật tương ứng của BLHS, thì ngoài việc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo Điều 197 của BLHS, tùy từng trường hợp còn có
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm khác đã thực hiện quy định tại
điều luật tương ứng của BLHS.
6.3. Về một số tình tiết là yếu tố
định khung quy định tại Điều 197 của BLHS.
a) “Đối với
người đang cai nghiện” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều
197 của BLHS là trường hợp phạm tội đối với người
mà người đó đã được cơ quan có thẩm quyền kết luận họ nghiện ma túy và đang được
cai nghiện tại trung tâm cai nghiện, tại gia đình hoặc tại cộng đồng dân cư.
b) “Gây bệnh nguy hiểm cho người
khác” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 197 của BLHS là trường
hợp người tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (có thể biết hoặc không biết)
đã gây ra một số bệnh nguy hiểm cho người sử dụng chất ma túy như HIV/AIDS,
viêm gan B, lao…
Trường hợp người tổ chức sử dụng
trái phép chất ma túy biết bản thân họ hoặc người khác đã nhiễm HIV mà cố ý lây
truyền HIV cho người sử dụng chất ma túy thì cùng với việc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 197 của BLHS, người này còn bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội lây truyền HIV cho người khác theo quy định tại Điều 117 của BLHS hoặc tội cố ý truyền HIV cho người khác
theo quy định tại Điều 118 của BLHS.
c) “Gây bệnh nguy hiểm cho nhiều
người” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 197 của BLHS là
gây bệnh nguy hiểm cho từ hai người trở lên.
d) “Gây tổn hại cho sức khỏe của
nhiều người mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%” quy định tại điểm
b khoản 3 Điều 197 của BLHS là trường hợp gây tổn hại cho sức khỏe của từ
hai người trở lên mà tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%.
đ) “Gây tổn hại cho sức khỏe của
nhiều người mà tỷ lệ thương tật 61% trở lên” quy định tại điểm
a khoản 4 Điều 197 của BLHS là trường hợp gây tổn hại cho sức khỏe của từ
hai người trở lên mà tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên.
7. Tội chứa chấp
việc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 198)
7.1. “Chứa chấp việc sử dụng trái
phép chất ma túy” là hành vi của người có địa điểm thuộc quyền chiếm hữu của
mình hoặc do mình quản lý biết người khác là đối tượng sử dụng trái phép chất
ma túy, nhưng vẫn cho họ mượn hoặc thuê địa điểm đó để họ trực tiếp sử dụng
trái phép chất ma túy nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ về sử dụng chất ma túy.
7.2. “Có bất kỳ hành vi nào khác chứa
chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” là trường hợp người có địa điểm thuộc
quyền chiếm hữu của mình hoặc do mình quản lý, biết người khác (không phải là
ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của mình) là đối tượng
sử dụng trái phép chất ma túy, tuy không cho họ thuê, mượn địa điểm, nhưng lại
để mặc cho họ hai lần sử dụng trái phép chất ma túy trở lên hoặc để mặc cho nhiều
người sử dụng trái phép chất ma túy.
7.3. Khi truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy cần phân biệt:
a) Người có địa điểm cho người khác
mượn hoặc thuê địa điểm mà biết là họ dùng địa điểm đó không phải để họ sử dụng
chất ma túy nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ về sử dụng chất ma túy, mà dùng địa điểm
đó để đưa chất ma túy trái phép vào cơ thể người khác, thì phải bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội “tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại
Điều 197 của BLHS.
b) Người nghiện
ma túy cho người nghiện ma túy khác cùng sử dụng trái phép chất ma túy tại địa
điểm thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của mình thì không phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy; đối với người
nào có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội sử dụng trái phép chất ma túy, thì người
đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng trái phép chất ma túy quy định
tại Điều 199 của BLHS.
8. Tội sử dụng
trái phép chất ma túy (Điều 199)
8.1. “Sử dụng trái phép chất ma túy”
là hành vi tự mình hoặc nhờ người khác đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể
mình dưới bất kỳ hình thức nào (như hút, hít, uống, tiêm, chích…) nhằm thỏa mãn
nhu cầu sử dụng chất ma túy.
8.2. Chỉ truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều
199 của BLHS trong trường hợp người sử dụng trái phép chất ma túy “đã được
giáo dục nhiều lần” và sau đó lại “đã bị xử lý hành chính bằng biện pháp đưa
vào cơ sở bắt buộc chữa bệnh” mà còn tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy.
a) “Đã được giáo dục nhiều lần” là
đã được cơ quan nhà nước, tổ chức cũng như những người có trách nhiệm ở địa
phương từ hai lần trở lên vận động, thuyết phục, nhắc nhở (việc áp dụng các biện
pháp giáo dục này phải được thể hiện bằng văn bản) hoặc xử phạt vi phạm hành
chính, nhưng vẫn tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy;
b) “Đã bị xử lý hành chính bằng biện
pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc” là đã bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
theo quy định tại các điều 28, 29 Luật phòng chống ma túy năm
2000, Điều 26 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và
Nghị định số 135/2004/NĐ-CP ngày 10/6/2004 của
Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, tổ chức hoạt
động của cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính và chế độ áp dụng đối với người chưa thành niên, người tự
nguyện vào cơ sở chữa bệnh (đã có quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và thực tế
người đó đã bị đưa vào cơ sở này, không đòi hỏi phải đã chấp hành xong quyết định),
nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý hành chính theo quy định của
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
8.3. Trường hợp người nghiện ma túy
tự nguyện hoặc gia đình làm đơn xin cai nghiện và đã được nhận vào cai nghiện tại
cơ sở cai nghiện bắt buộc thì không coi là: “Đã bị xử lý hành chính bằng biện
pháp đưa vào cơ sở bắt buộc chữa bệnh”.
9. Tội cưỡng bức,
lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 200)
9.1. “Cưỡng bức người khác sử dụng
trái phép chất ma túy” là hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực hoặc các
thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người khác để buộc họ phải sử dụng trái
phép chất ma túy trái với ý muốn của họ.
9.2. “Lôi kéo người khác sử dụng
trái phép chất ma túy” là hành vi rủ rê, dụ dỗ, xúi giục hoặc bằng các thủ đoạn
khác nhằm khêu gợi sự ham muốn của người khác để họ sử dụng trái phép chất ma
túy.
9.3. Về một số tình tiết định khung
hình phạt quy định tại Điều 200 của BLHS:
a) “Vì động cơ đê hèn” quy định tại
điểm c khoản 2 Điều 200 của BLHS là vì động cơ trả thù hoặc
vì các động cơ tư lợi, thấp hèn khác;
b) “Gây bệnh nguy hiểm cho người
khác” quy định tại điểm i khoản 2 Điều 200 của BLHS là trường
hợp người phạm tội (có thể biết hoặc không biết) đã gây ra cho người bị cưỡng bức,
lôi kéo sử dụng trái phép chất ma túy một số bệnh nguy hiểm như HIV/AIDS, viêm
gan B, lao…
Trường hợp người cưỡng bức, lôi kéo
người khác sử dụng trái phép chất ma túy biết bản thân họ hoặc người khác đã
nhiễm HIV mà cố ý lây truyền HIV cho người sử dụng chất ma túy thì cùng với việc
bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng
trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều
200 của BLHS, người này còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lây truyền
HIV cho người khác theo quy định tại Điều 117 của BLHS hoặc
tội cố ý truyền HIV cho người khác theo quy định tại Điều 118
của BLHS.
c) “Gây bệnh nguy hiểm cho nhiều
người” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 200 của BLHS là
gây bệnh nguy hiểm cho từ hai người trở lên.
d) “Gây chết nhiều người” quy định
tại khoản 4 Điều 200 của BLHS là trường hợp việc cưỡng bức,
lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy đã gây ra cái chết của từ hai
người trở lên.
e) “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng
khác” quy định tại khoản 4 Điều 200 của BLHS là gây hậu quả
chết một người đồng thời gây bệnh nguy hiểm cho nhiều người hoặc gây ra các hậu
quả đặc biệt nghiêm trọng về kinh tế, xã hội (như gây khó khăn, cản trở việc
cai nghiện ma túy, gây dư luận bất bình, làm quần chúng hoang mang, lo sợ
v.v…).
10. Tội vi phạm
quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác (Điều 201)
“Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng
thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác” quy định tại khoản
1 Điều 201 của BLHS được hiểu là hành vi của người có trách nhiệm trong việc
nghiên cứu, giám định, sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, mua bán, vận
chuyển, bảo quản, tàng trữ, phân phối, cấp phát, sử dụng, xử lý, trao đổi thuốc
gây nghiện và các chất ma túy khác đã không làm đúng quy định của Nhà nước về
quản lý và sử dụng các chất đó (như không thực hiện đúng với giấy phép quy định
về số lượng, chất lượng, chủng loại, sai với các quy trình hoạt động hoặc phân
phối hoặc cấp phát không đúng đối tượng. Ví dụ, bán thuốc gây nghiện cho người
khác mà không có đơn của thầy thuốc có thẩm quyền.. hoặc thiếu trách nhiệm
trong các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, mua bán, vận chuyển, bảo quản, phân
phối, cấp phát, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác, để xảy ra mất
mát, hư hỏng, sai số lượng, chất lượng, chủng loại…).
III. HIỆU LỰC
THI HÀNH
1. Thông tư này
có hiệu lực thi hành sau mười lăm ngày, kể từ ngày đăng Công báo và thay thế
Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BNV
ngày 02/01/1998 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) hướng dẫn áp dụng một số
quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của BLHS và Thông tư liên tịch số 02/1998/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA ngày 05/8/1998 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an hướng dẫn áp dụng một số quy định tại
Chương VIIA “các tội phạm về ma túy” của BLHS.
2. Các hướng dẫn
trong Thông tư này nếu làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự so với các văn bản trước
đây thì được áp dụng khi điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm,
xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với người thực hiện hành vi phạm tội trước
khi Thông tư này có hiệu lực.
3. Đối với các
trường hợp mà người phạm tội đã bị kết án đúng theo các văn bản trước đây và bản
án đã có hiệu lực pháp luật thì không áp dụng các hướng dẫn trong Thông tư này
để kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm, trừ trường hợp có những
căn cứ kháng nghị khác. Nếu theo Thông tư này, họ không phải chịu trách nhiệm
hình sự thì giải quyết theo thủ tục miễn chấp hành hình phạt.
4. Đối với các
trường hợp đang tiến hành điều tra, truy cố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm,
xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm mà được áp dụng các hướng dẫn trong Thông tư
này để tuyên bố miễn trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo thì Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án cần giải thích cho họ rõ về trường hợp được miễn
trách nhiệm hình sự này không phải là cơ sở của việc bồi thường thiệt hại do
người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra.
5. Trong quá
trình thực hiện Thông tư này, nếu thấy có vướng mắc hoặc cần phải hướng dẫn, giải
thích bổ sung thì đề nghị phản ánh về Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp để có giải thích, hướng dẫn kịp thời./.
KT.
VIỆN TRƯỞNG
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
PHÓ VIỆN TRƯỞNG
Hoàng Nghĩa Mai
|
KT.
BỘ TRƯỞNG BỘ CÔNG AN
THỨ TRƯỞNG
THƯỢNG TƯỚNG
Lê Thế Tiệm
|
KT.
CHÁNH ÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
PHÓ CHÁNH ÁN THƯỜNG TRỰC
Đặng Quang Phương
|
KT.
BỘ TRƯỞNG
BỘ TƯ PHÁP
THỨ TRƯỞNG THƯỜNG TRỰC
Hoàng Thế Liên
|