BỘ
TÀI CHÍNH-BỘ TƯ PHÁP-VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO-TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
01/TTLT
|
Hà
Nội , ngày 19 tháng 6 năm 1997
|
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO - VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
- BỘ TƯ PHÁP - BỘ TÀI CHÍNH SỐ 01/TTLT NGÀY 19 THÁNG 6 NĂM 1997 HƯỚNG DẪN VIỆC
XÉT XỬ VÀ THI HÀNH ÁN VỀ TÀI SẢN
Để bảo đảm quyền lợi chính đáng
về tài sản cho các bên liên quan trong các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh tế, lao động và hành chính khi có sự thay đổi về giá cả hay
trong các trường hợp bên có nghĩa vụ về tài sản chưa thực hiện, chậm thực hiện
theo thoả thuận, chưa thi hành án gây nên; để thi hành nghiêm chỉnh các quy định
của Bộ luật dân sự (có hiệu lực từ ngày
1-7-1996), Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp,
Bộ Tài chính thống nhất hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản như
sau:
I- TRƯỜNG HỢP
ĐỐI TƯỢNG CỦA NGHĨA VỤ VỀ TÀI SẢN LÀ CÁC KHOẢN TIỀN, VÀNG
1- Đối với nghĩa vụ là các khoản
tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền lương, tiền chia tài sản, tiền
đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có lãi, tiền truy thu thuế, tiền
truy thu do thu lợi bất chính thì giải quyết như sau:
a) Nếu việc gây thiệt hại hoặc
phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày 1-7-1996 và trong thời gian từ thời
điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá
gạo tăng từ 20% trở lên, thì Toà án quy đổi các khoản tiền đó ra gạo theo giá gạo
loại trung bình ở địa phương (từ đây trở đi gọi tắt là "giá gạo") tại
thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó thành
tiền theo giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản
phải thanh toán và chịu án phí theo số tiền đó.
Ví dụ: Tháng 1-1995 xảy ra việc
tham ô khoản tiền 1 triệu đồng. Nếu tháng 10-1996 xét xử sơ thẩm và giá gạo
trong thời gian này đã tăng quá 20%, thì Toà án phải quy đổi 1 triệu đồng ra gạo
theo giá gạo vào tháng 1-1995. Giả định giá gạo vào tháng 1-1995 là 2.000 đồng/kg,
thì số lượng gạo được quy đổi là 500 kg (1 triệu đồng): 2000 đồng/kg = 500 kg).
Giả định giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm vào tháng 10-1996 là 4.000 đồng/kg,
thì trong phần quyết định của bản án, Toà án buộc người bị kết án về tội tham ô
phải bồi thướng số tiền là 2 triệu đồng (500 kg x 4000 đồng/ kg = 2 triệu đồng),
phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 100.000 đồng (5% x 2 triệu đồng) = 100.000 đồng).
b) Nếu việc
gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ xảy ra sau ngày 1-7-1996 hoặc tuy xảy ra
trước ngày 1-7-1996, nhưng trong khoảng thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc
phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo không tăng hay tuy
có tăng nhưng ở mức dưới 20%, thì Toà án chỉ xác định các khoản tiền đó để buộc
bên có nghĩa vụ phải thanh toán bằng tiền. Trong trường hợp người có nghĩa vụ
có lỗi thì ngoài khoản tiền nói trên còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả
theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian
chậm trả tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo quy định tại khoản
2 Điều 313 Bộ luật dân sự, trừ trường hợp có thoả
thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Ví dụ: Tháng 2 năm 1996, anh A
vay của chị B 2.000.000 đồng không có lãi, với thời hạn vay là một tháng. Đến
ngày 20-3-1996 là hạn phải trả nợ, nhưng anh A không trả được cho chị B. Do đòi
nhiều lần không được nên vào tháng 8-1996 chị B khởi kiện yêu cầu Toà án buộc
anh A trả số tiền đã vay và phải trả tiền lãi cho bị B theo quy định của pháp luật.
Trong vụ kiện này, toà án phải
xác định thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả nợ của anh A là ngày 20-3-1996. Giả sử,
ngày 20-11-1996 toà án mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ kiện đòi nợ này và trong
khoảng thời gian từ 20-3-1996 đến ngày 20-11-1996 giá gạo không tăng hoặc tuy
có tăng nhưng ở dưới mức 20%, thì toà án không quy đổi số tiềnđó ra gạo như hướng
dẫn ở điểm a, mà buộc anh A trả cho chị B số tiền nợ gốc là 2.000.000 đồng và
khoản lãi theo quy định tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật dân sự.
Khoản lãi anh A phải trả cho chị B được tính như sau:
- Khoảng thời gian phải trả lãi
tính từ ngày 20-3-1996 đến ngày 20-11-1996 là 8 tháng.
- Mức lãi phải trả là mức lãi suất
nợ quá hạn của loại vay trung hạn (vì thời gian phải trả lãi quá 6 tháng) tại
thời điểm xét xử sơ thẩm. Theo quy định tại Quyết định số 266-QĐ/NH1 ngày 27-9-1996 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam thì mức lãi suất đó là 2,025%/tháng (1,35% x 150% =
2,025%/tháng).
- Tổng số tiền lãi mà anh A phải
trả chị B trong thời gian 8 tháng là 324.000 đồng (2,025%/tháng x 8 tháng x
2.000.000 đồng = 324.000 đồng).
Như vậy Toà án quyết định buộc
anh A trả cho chị B số tiền là 2.324.000 đồng (2.000.000 đồng + 324.000 đồng =
2.324.000 đồng) và chịu án phí theo quy định của pháp luật.
2- Đối với các khoản tiền tịch
thu, tiền phạt, tiền án phí thì khi xét xử toà án chỉ quyết định mức tiền cụ thể
mà không áp dụng cách tính đã hướng dẫn tại khoản 1 nói trên.
3- Đối với các khoản tiền vay, gửi
ở tài sản Ngân hàng, tín dụng, do giá trị của các khoản tiền đó đã được bảo đảm
thông qua các mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định, cho nên khi xét xử,
trong mọi trường hợp toà án đều không phải quy đổi các khoản tiền đó ra gạo, mà
quyết định buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán số tiền thực tế đã
vay, gửi cùng với khoản tiền lãi, kể từ ngày khi giao dịch cho đến khi thi hành
án xong, theo mức lãi suất tương ứng do Ngân hàng Nhà nước quy định.
Ví dụ: Tháng 1-1996, A vay Ngân
hàng 1.000.000 đồng với thời hạn vay là 6 tháng và với mức lãi suất là
1,75%/tháng theo Quyết định số 381-QĐ/NH1
ngày 28-12-1995 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Khi hết hạn hợp đồng A không
trả tiền vay và tiền lãi cho Ngân hàng. Khi xét xử sơ thẩm vào tháng 10-1996
toà án quyết định A phải trả cho Ngân hàng 1.000.000 đồng nợ gốc cùng với các
khoản tiền lãi của số tiền đã vay, bao gồm tiền lãi theo hợp đồng vay là
105.000 đồng (1.000.000 đồng x 1,75%/tháng x 6 tháng = 105.000 đồng) và tiền
lãi do nợ quá hạn từ tháng 7-1996 đến tháng 10-1996 là 105.000 đồng (1.000.000
đồng x 1,75% x 150% x 4 tháng = 105.000 đồng). Toà án buộc A phải chịu án phí
dân sự sơ thẩm theo tổng số các khoản tiền phải thanh toán tại thời điểm xét xử
sơ thẩm bao gồm 1.000.000 đồng tiền vay, 105.000 đồng tiền lãi theo hợp đồng và
105.000 đồng tiền lãi nợ quá hạn từ tháng 7-1996 đến tháng 10-1996. Trong trường
hợp cụ thể này, án phí dân sự sơ thẩm là 60.5000 đồng (5% x 1.000.000 đồng +
105.000 đồng + 105.000 đồng = 60.500 đồng).
4- Đối với các khoản vay có lãi
(kể cả loại có kỳ hạn và loại không có kỳ hạn) ở ngoài tổ chức Ngân hàng, tín dụng,
do giá trị của các khoản tiền đó cũng đã được bảo đảm thông qua việc chịu lãi của
bên vay tài sản, cho nên trong mọi trường hợp toà án đều không phải quy đổi số
tiền đó ra gạo, mà chỉ buộc người vay phải trả số tiền nợ gốc chưa trả cùng với
số tiền lãi chưa trả.
Trong việc tính tiền lãi cần
phân biệt các trường hợp như sau:
- Đối với các hợp đồng vay tài sản
giao kết trước ngày 1-7-1996 thì chỉ tính số tiền lãi chưa trả theo quy định của
Bộ luật dân sự; đối với khoản tiền lãi đã
trả thì không phải giải quyết lại.
- Đối với các hợp đồng vay tài sản
giao kết từ ngày 1-7-1996 trở đi thì việc tính lãi phải tuân theo các quy định
của Bộ luật dân sự, số tiền lãi đã trả cũng
phải được giải quyết lại, nếu mức lãi suất mà các bên thoả thuận cao hơn mức
lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 473 Bộ luật dân sự.
Theo quy định của Bộ luật dân sự thì lãi suất được tính như sau:
a) Về nguyên tắc, tiền lãi chỉ
được tính trên số nợ gốc, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có
quy định khác.
Ngoài nguyên tắc tiền lãi chỉ được
tính trên số nợ gốc, các bên có thể thoả thuận về việc nhận lãi vào nợ gốc để
tính lãi của thời hạn vay tiếp theo. Tuy nhiên, để tránh tình trạng bên cho vay
có thể lợi dụng thoả thuận này để thu lợi trái pháp luật, thì toà án chỉ chấp
nhận việc nhập lãi vào nợ gốc một lần đối với loại vay có kỳ hạn giữa các bên ở
ngoài tổ chức Ngân hàng, tín dụng tại thời điểm đến hạn trả nợ mà người vay
không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình. Các trường hợp khác đều phải
tính theo lãi suất nợ quá hạn theo quy định tại khoản 2 Điều 313
Bộ luật dân sự.
b) Nếu mức lãi suất do các bên
thoả thuận vượt quá 50% của lãi suất cao nhất do Ngân hàng Nhà nước quy định đối
với loại vay tương ứng tại thời điểm vay, thì toà án áp dụng khoản
1 Điều 473 Bộ luật dân sự buộc bên vay phải trả lãi bằng 150% mức lãi suất
cao nhất do Ngân hàng Nhà nước quy định đối với loại vay tương ứng.
Ví dụ: A vay của B 10.000.000 đồng
vào ngày 30-12-1995 với thời hạn vay là 6 tháng và với lãi suất là 4%/tháng.
Hàng tháng A đã phải trả lãi cho B. Tháng 7-1996 A ngừng trả lãi cho B. Do đòi
nhiều lần không được, nên tháng 11-1996 B khởi kiện yêu cầu toà án buộc bên A
phải trả cả nợ gốc và lãi cho B. Khi giải quyết vụ kiện này, toà án buộc A trả
cho B tiền nợ gốc là 10.000.000 đồng và tiền lãi theo cách tính như sau:
- Thời điểm A vay B là tháng
12-1995. Theo Quyết định số 381-QĐ/NH1 ngày
28-12-1995 thì lãi suất cao nhất của loại vay trung hạn và dài hạn là
1,7%/tháng. Như vậy toà án chỉ chấp nhận mức lãi suất của hợp đồng vay nợ là
2,55%/tháng (1,7% + 1,7% x 50% = 2,55%/tháng).
- Số tiền lãi A đã trả B trước
tháng 7-1996 toà án không xem xét đến nữa.
- Toà án buộc A trả B khoản tiền
lãi từ tháng 7-1996 đến hết ngày xét xử sơ thẩm (giả sử là đầu tháng 2-1997) là
7 tháng. Như vậy số tiền lãi mà A còn phải trả B là 1.785.000 đồng (2,55% x 7
tháng x 10.000.000 đồng = 1.785.000 đồng).
c) Nếu mức lãi suất không vượt
quá 50% mức lãi suất cao nhất của loại vay tương ứng do Ngân hàng Nhà nước quy
định tại thời điểm vay, thì toà án buộc bên vay phải trả lãi theo đúng mức lãi
suất mà hai bên đã thoả thuận tại thời điểm này.
d) Trong trường hợp các bên có
thoả thuận về việc trả lãi trong việc vay nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc
có tranh chấp về lãi suất, thì áp dụng lãi suất tiết kiệm có kỳ hạn do Ngân
hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm xét xử sơ thẩm
theo quy định tại khoản 2 Điều 473 Bộ luật dân sự.
5- Trong trường
hợp đối tượng hợp đồng vay tài sản là vàng, thì lai suất chỉ được chấp nhận khi
Ngân hàng Nhà nước có quy định và cách tính lãi suất không phân biệt như các
trường hợp đã nêu tại khoản 4 trên đây, mà chỉ tính bằng mức lãi suất do Ngân
hàng Nhà nước quy định.
II- TRƯỜNG HỢP
ĐỐI TƯỢNG CỦA NGHĨA VỤ VỀ TÀI SẢN LÀ HIỆN VẬT
1- Trong các trường hợp đối tượng
của nghĩa vụ về tài sản là hiện vật, thì khi giải quyết vụ án cần phải xem xét
và xác định người có nghĩa vụ có thể thực hiện được nghĩa vụ giao vật hay
không, người có quyền có chấp nhận tiếp nhận hiện vật hay không, để tuỳ từng
trường hợp cụ thể mà giải quyết theo các hướng sau đây:
a) Nếu có đủ điều kiện buộc người
có nghĩa vụ về tài sản thực hiện nghĩa vụ giao vật, thì toà án ra quyết định buộc
người đó phải giao hiện vật theo quy định tại Điều 294 Bộ luật
dân sự và trong bản án, quyết định phải ghi rõ tình trạng, số lượng, chất
lượng, chủng loại... của hiện vật phải giao để việc thi hành án được rõ ràng,
thuận lợi. Tuy nhiên, toà án vẫn phải xác định giá trị của hiện vật đó theo giá
thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm để tính án phí.
Ví dụ: A cho B mượn chiếc xe đạp
mini Nhật còn mới nguyên, B làm mất chiếc xe đạp này, nên A khởi kiện yêu cầu
toà án buộc B phải trả lại chiếc xe đạp đó. Khi xét xử sơ thẩm toà án buộc B phải
trả cho A chiếc xe đạp mini Nhật mới nguyên. Nếu giá chiếc xe đạp mini Nhật còn
mới nguyên trên thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm là 2.500.000 đồng (5% x
2.500.000 đồng = 125.000 đồng).
b) Nếu bên có nghĩa vụ không thể
có hiện vật để thực hiện nghĩa vụ giao vật, thì toà án quyết định buộc họ phải
thanh toán giá trị của hiện vật theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm
và bồi thường thiệt hại.
2- Theo quy định tại khoản 2 Điều 310, Điều 311 và khoản 1 Điều 313 Bộ luật dân sự thì
người chậm thực hiện nghĩa vụ giao vật, không thực hiện nghĩa vụ giao vật phải
bồi thường thiệt hại cho người có quyền.Thiệt hại trong trường hợp không giao
hiện vật, chậm thực hiện nghĩa vụ giao vật, là thu nhập thực tế bị mất, bị giảm
sút. Để tính thiệt hại cụ thể, có thể tính theo mức thu nhập thực tế bị mất, bị
giảm sút cụ thể do bên bị thiệt hại chứng minh, nếu không xác định được thiệt hại
cụ thể, thì tính bằng mức thu nhập bình quân (sau khi đã trừ các khoản chi phí)
của 5 tháng liền kề (nếu chưa đủ 5 tháng thì tính bằng mức thu nhập bình quân của
các tháng đó), trước thời điểm phát sinh nghĩa vụ giao vật.
Ví dụ: Theo hợp đồng A mua của B
một máy xẻ gỗ và thời điểm giao nhận hàng là ngày 1-9-1996. Do đã mua máy mới
nên cuối tháng 8-1996 A bán máy cũ của mình. Đến thời hạn theo hợp đồng B không
giao máy cho A làm A không có máy để sản xuất. Cuối tháng 12-1996 A kiện B ra
toà án đòi B phải trả máy xẻ gỗ và bồi thường thiệt hại. Giả định có căn cứ xác
định được thu nhập của A trong tháng 4-1996 là 1.200.000 đồng, tháng 5-1996 là
1.700.000 đồng, tháng 6-1996 là 1.000.000 đồng, tháng 7-1996 là 1.800.000 đồng,
tháng 8-1996 là 1.300.000 đồng, thì thu nhập bình quân hàng tháng của A là
1.400.000 đồng. Như vậy, nếu tháng 1-1997 xử sơ thẩm và chấp nhận yêu cầu của A
thì toà án buộc B phải trả máy cho A (trong trường hợp B không trả được máy thì
phải trả số tiền bằng giá trị của máy xẻ gỗ đó tại thời điểm xét xử sơ thẩm) và
bồi thường thiệt hại cho a tiền thu nhập thực tế bị mất của 4 tháng (từ tháng
9-1996 đến tháng 1-1997 là 5.600.000 đồng (1.400.000 đồng x 4 tháng = 5.600.000
đồng).
Đối với thiệt hại loại này thì
toà án buộc người gây thiệt hại phải bồi thường đến thời điểm người có quyền có
đơn khởi kiện ra Toà án.
III- VIỆC BẢO
VỆ QUYỀN LỢI CHO BÊN ĐƯỢC THI HÀNH ÁN
1- Để bảo đảm quyền lợi cho bên
được thi hành án, hạn chế việc bên phải thi hành án cố tình dây dưa, không tự
nguyện thi hành án, cùng với việc quyết định khoản tiền mà bên có nghĩa vụ về
tài sản phải thanh toán cho bên được thi hành án, khoản tiền phải nộp để đưa
vào ngân sách Nhà nước (tiền tịch thu, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu
lợi bất chính, tiền phạt), toà án phải quyết định rõ trong bản án hoặc quyết định
là kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp
cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ
ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản
tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả
các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của
số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước
quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật dân sự, trừ trường hợp được hướng dẫn
tại khoản 3 phần 1 Thông tư này về các khoản vay của tổ chức
Ngân hàng, tín dụng. Khi tính lãi chỉ tính lãi số tiền còn phải thi hành án, mà
không tính lãi của số tiền lãi chưa trả trong quá trình thi hành án.
Từ nay trở đi, toà án không tự ấn
định trong bản án, quyết định thời điểm hoặc thời hạn bên có nghĩa vụ thi hành,
trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Ví dụ: Theo vụ kiện ở ví dụ được
nêu ở điểm b khoản 1 phần này, toà án buộc anh A phải trả cho chị B tổng số tiền
là 2.324.000 đồng (2.000.000 đồng tiền vay + 324.000 đồng tiền lãi = 2.324.000
đồng). Trong bản án, quyết định của toà án phải tuyên bố rõ: kể từ ngày chị B
có đơn yêu cầu thi hành án, nêu anh A không chịu trả số tiền nêu trên thì hàng
tháng anh A còn phải trả cho chị B số tiền lai theo mức lãi suất nợ quá hạn do
Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
2- Nếu trong bản
án, quyết định của Toà án đã buộc người có nghĩa vụ phải giao vật cho người có
quyền, thì khi thi hành án, bên có nghĩa vụ phải giao vật theo đúng quyết định
của toá án, trừ trường hợp các bên đương sự tự thoả thuận với nhau để bên phải
thi hành án thanh toán giá trị của hiện vật bằng tiền cho bên được thi hành án.
Trong trường hợp bên phải thi
hành án cố tình không giao hiện vật thì cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp
cưỡng chế buộc bên thi hành án phải giao hiện vật.
Nếu qua xác minh có căn cứ xác định
là hiện vật phải giao thực sự không còn hoặc người phải thi hành án mất khả
năng giao hiện vật (hiện vật bị thất lạc; hiện vật cùng loại không còn có bán
trên thị trường nữa; hiện vật là động sản bị hư hỏng nặng so với tình trạng khi
toà án xét xử sơ thẩm, nên người được thi hành án không nhận...) thì Thủ trưởng
cơ quan thi hành án có quyền hoà giải để bên được thi hành án nhận giá trị hiện
vật bằng tiền theo thời giá. Trong trường hợp bên được thi
hành án không đồng ý nhận giá trị hiện vật bằng tiền và cơ quan thi hành án
không cưỡng chế được người thi hành án giao vật vì lý do nêu trên, thì Thủ
trưởng cơ quan thi hành án có quyền ra quyết định buộc người phải thi hành án nộp
số tiền bằng giá trị của hiện vật phải giao theo giá đã được xác định trong bản
án, quyết định của toà án và mời bên được thi hành án đến nhận, nếu bên được
thi hành án không đến nhận, thì cơ quan thi hành án làm thủ tục gửi số tiền đó
vào Ngân hàng theo loại tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn mang tên của người được
thi hành án và báo cho người được thi hành án biết là việc thi hành án đã chấm
dứt, người được thi hành án chỉ có quyền nhận số tiền trong sổ tiết kiệm (cả tiền
gốc và tiền lãi) đã đứng tên của họ.
IV- HƯỚNG DẪN
VỀ HIỆU LỰC CỦA THÔNG TƯ
1- Thông tư này có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 15-7-1997.
2- Đối với các vụ án đã được xét
xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, nhưng bản án, quyết định đã bị
kháng cáo, kháng nghị trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành và chưa giải
quyết xong, thì áp dụng Thông tư này để giải quyết.
3- Đối với bản án, quyết định của
toà án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành và
vụ án đã được giải quyết đúng theo các hướng dẫn trước đây, thì không áp dụng Thông
tư này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
4- Việc thi hành án các bản án, quyết
định của toà án có hiệu lực trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành được
quy định như sau:
a) Trong trường hợp tài sản phải
thi hành án là hiện vật thì cơ quan thi hành án được áp dụng hướng dẫn tại phần III của Thông tư này để giải quyết việc thi hành án.
b) Đối với các trường hợp tài sản
phải thi hành án không phải là hiện vật thì cơ quan thi hành án thi hành đúng
theo quyết định của toà án, kể cả các khoản lãi mà bên phải thi hành án phải chịu
do chậm thi hành án gây ra.
Trong quá trình thực hiện Thông
tư này, nếu có gì vướng mắc, thì cần báo cáo ngay cho Toà án nhân dân tối cao,
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính để có hướng dẫn kịp thời.
Nguyễn
Ngọc Hiến
(Đã
ký)
|
Trịnh
Hồng Dương
(Đã
ký)
|
Nguyễn
Thị Tuyết
(Đã
ký)
|
Tào
Hữu Phùng
(Đã
ký)
|