ỦY
BAN NHÂN DÂN
TỈNH BẮC KẠN
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 867/QĐ-UBND
|
Bắc
Kạn, ngày 22 tháng 06
năm 2017
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ QUY HOẠCH, THĂM DÒ,
KHAI THÁC, CHẾ BIẾN, VẬN CHUYỂN VÀ TIÊU THỤ KHOÁNG SẢN, CHỐNG THẤT THU NGÂN
SÁCH TỪ HOẠT ĐỘNG KHOÁNG SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC KẠN, GIAI ĐOẠN 2017-2020
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH BẮC KẠN
Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa
phương ngày 19/6/2015;
Căn cứ Luật Khoáng sản ngày 17/11/2010;
Căn cứ Nghị định số 158/2016/NĐ-CP
ngày 29/11/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Khoáng sản;
Căn cứ Thông báo số 40-TB/BCSĐ ngày
10/02/2017 của Ban Cán sự đảng UBND tỉnh về nội dung cuộc họp Ban Cán sự đảng
UBND tỉnh ngày 07/02/2017;
Xét đề nghị của Giám đốc Sở Tài
nguyên và Môi trường tại Tờ trình số 132/TTr-STNMT ngày 14/6/2017,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt kèm theo Quyết định này Đề án “Nâng
cao hiệu quả quản lý Quy hoạch, thăm dò, khai thác, chế biến, vận chuyển và
tiêu thụ khoáng sản, chống thất thu ngân
sách từ hoạt động khoáng sản trên địa bàn
tỉnh Bắc Kạn, giai đoạn 2017-2020”.
Điều 2. Các Sở, ngành, địa
phương có liên quan căn cứ theo chức năng nhiệm vụ, tổ chức triển khai thực hiện
Đề án, nhằm đảm bảo đạt hiệu quả cao nhất trong quản lý hoạt động khoáng sản,
chế biến, vận chuyển và tiêu thụ khoáng sản.
Giao Sở Tài nguyên và Môi trường có
trách nhiệm theo dõi, tổng hợp, báo cáo UBND tỉnh về tình hình thực hiện Đề án;
chủ động tham mưu, đề xuất các biện pháp để thực hiện có
hiệu quả các nội dung của Đề án.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày
ký.
Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Giám đốc
các Sở, ngành: Tài nguyên và Môi trường, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Công
Thương, Xây dựng, Giao thông Vận tải, Cục Thuế tỉnh, Công an tỉnh; Chủ tịch
UBND các huyện, thành phố; Chủ tịch UBND các xã, phường, thị trấn và Thủ trưởng các đơn vị liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định
này./.
Nơi nhận:
- Như Điều 3;
- Bộ Tài nguyên và Môi trường;
- TT Tỉnh ủy;
- TT HĐND tỉnh;
- Ủy ban MTTQVN tỉnh;
- Đoàn ĐBQH đơn vị tỉnh Bắc Kạn;
- CT, PCT UBND tỉnh;
- Các Thành viên UBND tỉnh;
- Bộ CHQS tỉnh;
- Các Sở: LĐTB&XH, VHTT&DL, TT&TT, TP, KH&CN, NN&PTNT;
- Các tổ chức đoàn thể của tỉnh;
- LĐVP UBND tỉnh;
- Cổng TTĐT tỉnh;
- Lưu VT, TH, KT, CN.
|
TM. ỦY BAN NHÂN
DÂN
CHỦ TỊCH
Lý Thái Hải
|
ĐỀ ÁN
NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ QUY HOẠCH, THĂM DÒ, KHAI THÁC, CHẾ BIẾN, VẬN
CHUYỂN VÀ TIÊU THỤ KHOÁNG SẢN, CHỐNG THẤT THU NGÂN SÁCH TỪ HOẠT ĐỘNG KHOÁNG SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC KẠN, GIAI ĐOẠN 2017-2020
(Ban hành kèm theo Quyết định số 867/QĐ-UBND ngày 22/6/2017 của UBND tỉnh Bắc Kạn)
PHẦN THỨ NHẤT
SỰ CẦN THIẾT,
CĂN CỨ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN; ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VÀ TÌNH
HÌNH HOẠT ĐỘNG KHOÁNG SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
I. SỰ CẦN THIẾT,
CĂN CỨ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
1. Sự cần
thiết
Bắc Kạn là tỉnh có tiềm năng về khoáng sản, gồm 24 loại khoáng sản được chia thành nhiều nhóm khác nhau, trong đó tiềm
năng về khoáng sản chì kẽm lớn nhất cả nước,
đây là lợi thế để phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Trong những năm
qua, các hoạt động khoáng sản được thực
hiện theo đúng quy định của pháp luật; công tác quản lý nhà nước về hoạt động khoáng sản từng bước được
nâng cao, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Tuy nhiên, trong công tác quản lý nhà
nước, công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động khoáng
sản trên địa bàn vẫn còn một số tồn tại hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu đề ra. Đặc
biệt là công tác quản lý sản lượng khai thác, gắn với chế biến, vận chuyển,
tiêu thụ khoáng sản chưa được giám sát chặt
chẽ, ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách. Nguồn thu ngân sách từ hoạt động khai
thác khoáng sản chưa tương xứng với sản
lượng khoáng sản được khai thác trên địa
bàn tỉnh. Việc khai thác gắn với đầu tư chế biến sâu trên địa bàn còn hạn chế,
gây lãng phí tài nguyên, giá trị gia tăng thấp. Do vậy, việc xây dựng “Đề án
nâng cao hiệu quả quản lý Quy hoạch, thăm dò, khai thác,
chế biến, vận chuyển và tiêu thụ khoáng, chống thất thu ngân sách từ hoạt động
khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn,
giai đoạn 2017 - 2020” là rất cần thiết.
2. Căn cứ xây dựng Đề án
Luật Khoáng
sản năm 2010 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/ 2011).
Nghị định số 158/2016/NĐ-CP ngày
29/11/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Khoáng sản.
Nghị định số 22/2012/NĐ-CP ngày
26/3/2012 của Chính phủ quy định về đấu giá quyền khai thác khoáng sản.
Nghị định số 203/2013/NĐ-CP ngày
28/11/2013 của Chính phủ quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền
khai thác khoáng sản.
Thông tư số 152/2015/TT-BTC ngày
02/10/2015 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế tài nguyên.
Nghị Quyết số 02-NQ/TW
ngày 25/4/2011 của Bộ Chính trị Về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016
của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020.
Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP ngày
06/02/2017 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm
2017, định hướng đến năm 2020.
Chỉ thị số 20/CT-TTg ngày 17/5/2017 của
Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh hoạt động thanh tra,
kiểm tra đối với doanh nghiệp.
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Bắc Kạn lần thứ XI, nhiệm kỳ 2015-2020;
Chỉ thị số 08-CT/TU ngày 02/7/2012 của
Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Kạn về ngăn chặn, xử lý hoạt động khai thác, vận chuyển, chế biến khoáng sản, lâm sản
trái phép gây hủy hoại môi trường trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.
Chương trình hành động số 04-CTr/HD
ngày 15/01/2016 của Tỉnh ủy Bắc Kạn về thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng
bộ tỉnh lần thức XI, nhiệm kỳ 2015-2020.
Nghị quyết số 05/NQ-HĐND ngày
11/4/2017 của Hội đồng nhân dân tỉnh khóa IX (kỳ họp thứ năm) thông qua kết quả
giám sát và đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.
Thông báo số 484-TB/TU ngày 27/3/2017
của Tỉnh ủy về việc nội dung hội nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy ngày 27/3/2017.
Thông báo số 40-TB/BCSĐ ngày
10/02/2017 của Ban Cán sự đảng UBND tỉnh về nội dung cuộc họp Ban Cán sự đảng
UBND tỉnh ngày 07/02/2017.
3. Đối tượng, phạm vi, thời gian
thực hiện Đề án
Đối tượng: Cơ quan quản lý nhà nước về
khoáng sản, hoạt động khoáng sản và các cơ quan khác có liên quan; các
tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực khoáng
sản trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.
Phạm vi: Bao gồm các hoạt động quy hoạch,
thăm dò, khai thác, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.
Thời gian thực hiện: Từ năm 2017 -
2020.
II. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VỀ CÔNG
TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VÀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KHOÁNG SẢN TỪ KHI TÁI LẬP TỈNH
Theo kết quả công tác điều tra địa chất,
tỉnh Bắc Kạn có 273 mỏ và điểm khoáng sản,
điểm khoáng hóa
thuộc 24 loại khoáng sản được chia thành
5 nhóm: Khoáng sản nhiên liệu; Khoáng sản kim loại: Khoáng chất công nghiệp (Đá vôi xi măng, sét xi măng, đá vôi trắng,
dolomit, pyrit, barit, graphit và thạch anh tinh thể, đá ốp lát) Vật liệu xây dựng
thông thường (VLXDTT) khá phổ biến gồm đá vôi làm vật liệu xây dựng thông thường;
đất sét làm gạch, ngói; cát, sỏi phân bố ở các huyện. Trong đó, tiềm năng về khoáng sản kim loại là khá triển vọng gồm quặng
sắt với tài nguyên dự báo khoảng hơn 15 triệu tấn; Quặng sắt mangan; Vàng (Có
19 mỏ và điểm quặng vàng ở huyện Ngân Sơn, huyện Chợ Mới, huyện Pác Nặm, huyện
Bạch Thông, huyện Na Rì). Nhiều nhất là khoáng
sản chì kẽm: Có 77 mỏ và điểm khoáng sản
tập trung chủ yếu ở các huyện: Chợ Đồn, Ngân Sơn, một số
điểm ở huyện Pác Nặm, huyện Na Rì, huyện Chợ Mới, tài nguyên dự báo khoảng 4
triệu tấn kim loại chì kẽm.
1. Công tác quản lý nhà nước về khoáng sản
1.1. Giai đoạn trước Luật Khoáng sản năm 2010 (từ 1997 đến tháng 6/2011)
UBND tỉnh Bắc Kạn cấp 260 lượt giấy
phép hoạt động khoáng sản, gồm khai thác
khoáng sản, tận thu, gia hạn khai thác,
chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản. Trong đó, chủ yếu là giấy phép khai thác tận thu, thời
hạn khai thác từ 01 đến 03 năm. Việc cấp mỏ khoáng
sản chưa gắn với chế biến sâu, nâng
cao giá trị kinh tế; cấp phép hoạt động khoáng
sản còn theo cơ chế “Xin- Cho”.
Theo quy định của Luật Khoáng sản, việc cấp phép đối với các mỏ khoáng sản, trữ lượng tài nguyên khoáng sản đưa vào lập dự án khai thác, báo cáo
nghiên cứu khả thi chỉ căn cứ vào kết quả tài liệu điều tra đánh giá tiềm năng
khoáng sản để cấp phép. Vì vậy, hoạt động
khoáng sản gặp không ít rủi ro, thiếu cơ
sở khoa học để quản lý chặt chẽ sản lượng khai thác của các mỏ, dẫn đến thất
thu ngân sách. Mặt khác, do chưa quy định nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo trữ lượng tài nguyên mỏ, nên hầu
hết các đơn vị tổng hợp, báo cáo trữ lượng tài nguyên thường
lớn hơn thực tế, nên sau khi được cấp phép khai thác, nhiều doanh nghiệp hoạt động
không đạt hiệu quả kinh tế theo dự án đầu tư đã lập. Một số doanh nghiệp nợ,
không nộp đầy đủ các khoản ngân sách nhà nước theo quy định;
một số doanh nghiệp tìm cách khai lỗ
để trốn thuế nhưng không có cơ sở
pháp lý để xử lý.
1.2. Giai đoạn thực hiện Luật Khoáng sản năm 2010 (từ tháng 7/2011 đến tháng 12/2016)
Trong giai đoạn này, công tác quản lý
nhà nước về tài nguyên khoáng sản trên địa
bàn tỉnh từng bước được chấn chỉnh, đi vào nề nếp. Luật Khoáng sản năm 2010 đã khắc phục được các tồn tại
của Luật Khoáng sản năm 1996 và năm 2005,
cụ thể: Thẩm quyền cấp phép được quy định cụ thể hơn; việc cấp phép khai thác
phải thăm dò phê duyệt trữ lượng khoáng sản; nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản. Các giấy
phép hoạt động khoáng sản đảm bảo đúng thẩm
quyền theo quy định tại Điều 82 Luật Khoáng
sản. thuộc Quy hoạch khoáng sản của tỉnh
được Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua và Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt. Công
tác thẩm định hồ sơ luôn tuân thủ trình tự, thủ tục, thời gian theo quy định tại
Nghị định số 15/2012/NĐ-CP ngày 09/3/2012 của Chính phủ; hồ sơ hoạt động khoáng sản đều được Hội đồng thẩm định do UBND tỉnh
thành lập kiểm tra thẩm định; đối với
hồ sơ thăm dò và Báo cáo kết quả thăm dò có mời các chuyên gia đầu ngành có
chuyên môn sâu trong lĩnh vực địa chất khoáng
sản của Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam và Hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản quốc gia. Do vậy, các văn bản, tài liệu
trong hồ sơ hoạt động khoáng sản luôn đảm
bảo đúng quy định. Từ tháng 7 năm 2011 đến hết tháng 12 năm 2016, UBND tỉnh Bắc
Kạn cấp 20 giấy phép thăm dò, 02 quyết định gia hạn thời
gian thăm dò, phê duyệt 29 báo cáo kết quả thăm dò, cấp 14 giấy phép khai thác
khoáng sản, 02 giấy phép khai thác tận
thu khoáng sản, 05 quyết định trả lại một
phần diện tích khai thác.
Bảng
tổng hợp thu ngân sách nhà nước từ hoạt động khoáng
sản, giai đoạn 2011-2016
STT
|
Năm
|
Tổng
thu
(Triệu đồng)
|
Tỷ
lệ so sánh với năm trước (%)
|
Ghi
chú
|
1
|
2011
|
62.178
|
144,42
|
|
2
|
2012
|
65.349
|
105,10
|
|
3
|
2013
|
82.449
|
126,17
|
|
4
|
2014
|
77.293
|
93,75
|
|
5
|
2015
|
107.183
|
138,67
|
|
6
|
2016
|
98.876
|
92,25
|
|
Quy hoạch thăm dò, khai thác và sử dụng
khoáng sản của tỉnh giai đoạn 2013 - 2020
đã được Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua tại Nghị quyết số 21/2013/NQ-HĐND ngày
29/7/2013, được điều chỉnh, bổ sung tại Nghị quyết số 14/2014/NQ-HĐND ngày
18/7/2014 và Nghị quyết số 38/NQ-HĐND ngày 17/12/2015 của
Hội đồng nhân dân tỉnh.
2. Tình hình hoạt động khoáng sản hiện nay
2.1. Thăm dò, khai thác khoáng sản
Tính đến tháng 02 năm 2017, trên địa
bàn tỉnh có 43 giấy phép hoạt động khoáng
sản còn hiệu lực, trong đó: 11 giấy phép thăm dò (gồm 04
giấy phép do Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp và 07 giấy phép do UBND tỉnh cấp);
32 giấy phép khai thác (cấp theo Luật Khoáng
sản 2010, UBND tỉnh cấp mới được 01 giấy phép khai thác khoáng sản không phải VLXDTT - mỏ chì kẽm Pù
Quéng) (cụ thể các giấy phép tại phụ lục 02).
Khai thác đá vôi làm vật liệu xây dựng
thông thường (VLXDTT) 17 giấy phép; khai thác cát sỏi 03
giấy phép; khai thác sét gạch ngói 01 giấy phép; khai thác quặng chì kẽm 08 giấy
phép; khai thác quặng sắt 02 giấy phép; khai thác đá vôi
trắng 01 giấy phép.
Khai thác khoáng sản VLXDTT chủ yếu phục vụ nhu cầu xây dựng trên địa bàn.
Tuy nhiên, các mỏ đá vôi chỉ hoạt động đạt khoảng 30% công
suất thiết kế do nhu cầu thị trường thấp.
Các hoạt động khai thác khoáng sản kim loại trong những năm gần đây có
chiều hướng giảm mạnh do nhu cầu tiêu thụ thấp. Đặc biệt là quặng sắt, năm 2016
có 02 mỏ phải dừng hoạt động do không tiêu thụ được (mỏ Bản
Quân, xã Ngọc Phái và mỏ Pù Ổ, xã Quảng Bạch, huyện Chợ Đồn).
Đối với quặng chì kẽm, trong số 08 mỏ được cấp phép chỉ có mỏ Chợ Điền và mỏ Nà
Bốp-Pù Sáp là hoạt động khá ổn định; mỏ Nà Tùm, Nà Duồng, huyện Chợ Đồn và mỏ
Sáo Sào, huyện Ngân Sơn hoạt động cầm chừng, không ổn định;
mỏ Pù Quéng, huyện Chợ Đồn, đơn vị mới Thông báo khai thác ngày 03/4/2017; các
mỏ chưa hoạt động khai thác: Mỏ Lũng Váng, huyện Chợ Đồn
(do liên quan vùng CT229, hiện đang làm thủ tục đất đai); mỏ Nà Lẹng-Nà Cà, huyện
Bạch Thông (đang xây dựng cơ bản mỏ). Khoáng
sản đá vôi trắng mỏ Nà Hai, xã Quảng Khê, huyện Ba Bể, do chất lượng sản phẩm không cao nên chưa cạnh tranh được trên thị trường, từ 2007 mỏ
chỉ hoạt động cầm chừng, nay không hoạt động.
2.2. Chế biến khoáng sản
Trên địa bàn tỉnh có 07 dự án chế biến
khoáng sản, gồm 04 dự án chế biến sâu chì
kẽm, 02 dự án chế biến quặng sắt, 01 dự án chế biến đá vôi trắng, cụ thể như
sau:
- Dự án nhà máy điện phân chì kẽm Bắc
Kạn, công suất 30.000 tấn kẽm chì/năm tại xã Ngọc Phái, huyện Chợ Đồn của Công
ty TNHH Ngọc Linh được cấp Giấy chứng nhận đầu tư từ năm 2007, nhưng tiến độ thực
hiện dự án rất chậm (đã điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư 07 lần), đến nay dự
án vẫn chưa đi vào hoạt động sản xuất, theo báo cáo của Chủ đầu tư dự kiến đến
tháng 7/2017 Nhà máy mới có thể hoàn thành công tác xây dựng, đưa dây chuyền
thiêu kết quặng, dây chuyền xử lý thu hồi axit sunfuarric
của Nhà máy đi vào hoạt động, còn các hạng mục khác tiếp tục hoàn thiện.
- Nhà máy luyện chì, công suất 5.000
tấn chì kim loại/năm tại xã Bằng Lãng, huyện Chợ Đồn của
Công ty cổ phần Khoáng
sản Bắc Kạn được đầu tư cải tạo năm 2015. Từ năm 2015 đến tháng 3/2016 sản xuất
được 2.320 tấn chì kim loại, từ tháng 4/2016 Nhà máy dừng
sản xuất do Công ty chưa chủ động trong việc vận hành nhà máy khi không được sử
dụng chuyên gia người nước ngoài (do Nhà máy nằm trong vùng CT229).
- Nhà máy tuyển luyện chì công suất
5.000 tấn/năm tại xã Thượng Quan, huyện Ngân Sơn của Công ty cổ phần Khoáng sản Na Rì Hamico được
xây dựng năm 2011 đến tháng 6/2012 hoàn thành và đưa vào sản xuất; năm 2012-
2013 sản xuất được 2.810 tấn chì kim loại, từ năm 2014 đến
nay Nhà máy dừng hoạt động sản xuất do năng lực tài chính
của công ty hạn chế, thiếu nguyên liệu và thiết bị, công
nghệ không phù hợp phải sửa chữa, cải tạo lại. Hiện nay Công ty đang khôi phục
lại hoạt động sản xuất, dự kiến tháng 8/2017 sẽ hoạt động.
- Xưởng tận thu, chế biến kim loại
công suất 1.500 tấn chì/năm tại xã Đức Vân, huyện Ngân Sơn của DNTN Cao Bắc được xây dựng từ năm 2009 đến năm 2012 đi vào sản xuất;
năm 2012-2014 sản xuất được 871,4 tấn tinh bột chì. Từ năm 2015 đến tháng
5/2017, xưởng dừng hoạt động do khó khăn về đường vận chuyển nguyên liệu, không
có đủ nguyên liệu sản xuất và giá bán tinh bột chì thấp hơn chi phí sản xuất;
tháng 6/2017 đã khôi phục hoạt động trở lại.
- Nhà máy luyện gang Bắc Kạn công suất
40.000 tấn gang và 60.000 tấn xỉ giàu mangan/năm tại xã Cẩm
Giàng, huyện Bạch Thông của Công ty Cổ phần Khoáng
sản Tây Giang Bắc Kạn được tái cơ cấu từ tháng 01/2015. Đến năm 2016 sản xuất
được 14.730 tấn gang thỏi, 13.645 tấn xỉ giầu mangan, 1.000 tấn bột kẽm và 40 tấn chì thỏi và từ tháng 12/2016 đến
nay Nhà máy dừng hoạt động sản xuất do Nhà máy phải cải tạo một số thiết bị để phù hợp với sử dụng nguyên liệu quặng sắt - mangan
nghèo có thành phần silic cao và đáp ứng các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường.
- Nhà máy sắt xốp Bắc Kạn, công suất
100.000 tấn sắt xốp/năm tại KCN Thanh Bình của Công ty Cổ
phần Vật tư và Thiết bị toàn bộ được xây dựng từ năm 2010; từ quý III/2013 Nhà
máy chính thức đi vào hoạt động sản xuất với 1/3 môđun; đến năm 2015 Nhà máy sản
xuất được tổng số 28.661,5 tấn sản phẩm sắt xốp. Từ năm 2016 đến nay Nhà máy dừng
sản xuất do chi phí sản xuất cao hơn giá thành sản phẩm.
- Nhà máy chế biến Canxi cacbonat
công suất 54.000 tấn sản phẩm/năm tại Thị trấn Phủ Thông, huyện Bạch Thông của
Công ty cổ phần Phiabjoóc được xây dựng từ năm 2009, đến tháng 6/2013
nhà máy đi vào hoạt động (nguyên liệu cho nhà máy là mỏ đá vôi trắng Nà Hai, xã
Quảng Khê, huyện Ba Bể); từ 2015 đến nay Nhà máy dừng hoạt động sản xuất do:
Khó khăn trong công tác vận chuyển nguyên liệu từ mỏ Nà Hai đến Nhà máy; Công ty
có sự thay đổi Hội đồng thành viên góp vốn và đang thực hiện cơ cấu lại tổ chức
nhân sự.
Đánh giá chung: Hoạt động khai thác,
chế biến khoáng sản của tỉnh đã có những
chuyển biến nhất định, công tác quản lý nhà nước về hoạt động khoáng sản từng bước được nâng cao, hệ thống văn
bản pháp luật ngày càng được hoàn thiện, đáp ứng ngày càng tốt hơn cho công tác
quản lý. Công tác lập, điều chỉnh, phê duyệt quy hoạch thăm dò, khai thác, chế
biến và sử dụng khoáng sản được lập chi
tiết, sát với thực tế; Công tác thẩm định, cấp phép hoạt động khoáng sản được thực hiện đúng trình tự theo quy
định của pháp luật, gắn khai thác với chế biến. Công tác thanh tra, kiểm tra,
kiểm soát từng bước được tăng cường nhằm đưa hoạt động khoáng sản đảm bảo theo đúng quy định pháp luật. Các doanh nghiệp
được cấp phép hoạt động khoáng sản cơ bản
đã chấp hành các quy định của Luật Khoáng
sản và các pháp luật có liên quan; nhiều doanh nghiệp đã thực hiện chính sách đền
bù, hỗ trợ, bảo vệ quyền lợi của nhân dân nơi có khoáng
sản được khai thác thông qua việc tuyển dụng lao động tại địa phương, năm 2016,
các đơn vị khai thác khoáng sản đã sử dụng
1.288 lao động, trong đó chủ yếu là lao động tại địa phương nơi có mỏ được khai
thác; một số đã đóng góp, hỗ trợ địa phương nâng cấp, sửa chữa, xây dựng cơ sở
hạ tầng; các mỏ hoạt động khai thác thực hiện ký quỹ cải tạo phục hồi môi trường với tổng số tiền trên 16,5 tỷ đồng. Tuy nhiên,
trong quá trình hoạt động, một số đơn vị hoạt động chưa đạt hiệu quả, việc chấp hành các quy định pháp luật còn hạn chế, còn nợ ngân sách nhà nước. Đối
với chế biến sâu khoáng
sản của tỉnh, có 6/7 nhà máy đã xây dựng xong và đi vào hoạt động, nhưng các
nhà máy nêu trên đều hoạt động cầm chừng, không ổn định, vì vậy không đạt được
mục tiêu chế biến sâu, gia tăng giá trị khoáng
sản.
3. Tồn tại, hạn chế, nguyên nhân
3.1. Tồn tại, hạn chế
- Chất lượng quy hoạch thăm dò, khai
thác và sử dụng khoáng sản còn hạn chế,
tính khả thi chưa cao; việc rà soát điều chỉnh quy hoạch cũng như việc kiểm
tra, giám sát chưa được thực hiện thường xuyên; quy hoạch khoáng sản và các quy hoạch liên quan còn những
nội dung thiếu đồng bộ, chưa hợp lý, chưa phát
huy được sản phẩm có tiềm năng, thế mạnh của
tỉnh.
- Công tác phối hợp giữa các cơ quan
Trung ương trong việc cấp phép đối với các mỏ khai thác khoáng sản thuộc thẩm quyền
của Bộ Tài nguyên và Môi trường chưa chặt chẽ nên sau cấp phép có doanh nghiệp
chưa tiến hành hoạt động, kéo dài thời gian thực hiện dự án (Mỏ chì kẽm Lũng
Váng, Bằng Lãng, Chợ Đồn).
Một số giấy phép khai thác khoáng sản được cấp theo Luật khoáng sản 1996 và Luật sửa đổi bổ sung 2005, nhất
là các loại khoáng sản không phải VLXDTT
(trong đó có 07 giấy phép khai thác khoáng sản chì kẽm) thì: Trữ lượng tài nguyên khoáng sản căn cứ vào kết quả tài liệu điều tra
đánh giá tiềm năng để cấp phép, chưa thăm dò cụ thể, nên các mỏ khi tiến hành
khai thác đều có sai số lớn về trữ lượng tài nguyên; chưa quy định tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản
theo trữ lượng tài nguyên mỏ, nên các đơn vị tổng hợp, báo
cáo trữ lượng tài nguyên lớn hơn thực tế; việc cấp mỏ khoáng sản chưa buộc phải gắn với chế biến sâu khoáng sản; sau khi được cấp phép khai thác, một
số doanh nghiệp hoạt động không đạt hiệu quả kinh tế theo dự án đầu tư đã lập.
- Công tác phối hợp quản lý về sản lượng
khai thác, vận chuyển, chế biến tiêu thụ khoáng
sản sau cấp phép khai thác của các ngành chuyên môn còn hạn chế, thiếu đồng bộ,
chặt chẽ, không có cơ chế kiểm soát sản lượng cụ thể, nhất là hoạt động vận
chuyển, tiêu thụ khoáng sản, việc kê khai
thuế của các doanh nghiệp; tình trạng vận chuyển khoáng
sản quá tải không được kiểm soát chặt chẽ; nguồn thu ngân
sách từ hoạt động khai thác khoáng sản
chưa tương xứng với tiềm năng, sản lượng khai thác. Công tác tham mưu của các
cơ quan chuyên môn về khoáng sản còn hạn
chế.
- Việc chấp hành các quy định nghĩa vụ
tài chính đối với nhà nước của hầu hết các doanh nghiệp chưa nghiêm túc, tự
giác; một số doanh nghiệp được cấp phép khai thác nhưng chưa thực hiện đúng quy
định của pháp luật thuế nhất là trong kê khai nộp thuế; không nộp đầy đủ kịp thời
các khoản ngân sách nhà nước theo quy định.
- Việc thực hiện các quy định trong
quá trình tổ chức khai thác khoáng sản
như: Công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động; việc lập bản đồ hiện trạng,
kiểm kê trữ lượng mỏ, lập báo cáo định kỳ; thực hiện lập thiết kế mỏ, lập kế hoạch
khai thác hàng năm; thực hiện các nội dung của báo cáo đánh giá tác động môi
trường, bản cam kết bảo vệ môi trường; lập trình thẩm định phê duyệt dự án cải
tạo phục hồi môi trường, ký quỹ bảo vệ môi trường..., của
một số doanh nghiệp chưa được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ và đúng quy định. Hoạt
động khai thác, chế biến khoáng
sản một số nơi còn gây ô nhiễm môi
trường, gây sụt lún đất, mất nước... ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân
dân. Một số doanh nghiệp chưa tự giác thực hiện đóng cửa mỏ; việc lập, hoàn thiện
hồ sơ đóng cửa mỏ còn kéo dài thời gian; một số doanh nghiệp khai thác không
đúng nội dung giấy phép được cấp.
- Một số doanh nghiệp tiến hành xây dựng
nhà máy chế biến kéo dài, chậm đưa dự án vào hoạt động; công tác kiểm tra, rà
soát các dự án hoạt động khoáng sản, chế
biến khoáng sản của cơ quan chuyên môn
còn thiếu hiệu quả; tình trạng kéo dài thời gian xây dựng, chậm đưa dự án vào hoạt động, không đáp ứng tiến độ như chứng
nhận đầu tư nhưng chưa có giải pháp giải quyết cụ thể (như nhà máy điện phân
chì kẽm của Công ty TNHH Ngọc Linh).
- Công tác thanh tra, kiểm tra các đơn vị hoạt động khoáng sản
chưa toàn diện, đạt hiệu quả chưa cao; chưa phát hiện được hết các vi phạm của
doanh nghiệp, nhất là kê khai sản lượng và vận chuyển tiêu thụ; chưa xử lý
nghiêm các hành vi vi phạm, công tác theo dõi khắc phục vi phạm chưa quan tâm
thường xuyên.
- Công tác đấu giá quyền khai thác khoáng sản: Chưa tổ chức thực hiện được công tác
đấu giá quyền khai thác khoáng sản theo
quy định của Luật Khoáng sản.
- Các nhà máy chế biến sâu trên địa
bàn không hoạt động, hoặc hoạt động không hiệu quả; các xưởng tuyển chỉ nâng cao hàm lượng khoáng sản đến
tinh quặng, do vậy tinh quặng phải vận chuyển ra ngoài tỉnh
chế biến, dẫn đến hạ tầng giao thông hư hỏng, ảnh hưởng xấu đến môi trường, giá
trị khoáng sản thấp.
3.2. Nguyên nhân
- Trách nhiệm tham mưu của cơ quan
chuyên môn:
+ Chất lượng công tác tham mưu về quy
hoạch khoáng sản, phát triển công nghiệp
còn hạn chế, chưa có tầm chiến lược, chưa phát huy được hiệu quả kinh tế xã hội.
+ Công tác chỉ đạo thực hiện quản lý
nhà nước về khoáng sản chưa được toàn diện,
việc ban hành một số quy định về quản lý khoáng
sản thuộc thẩm quyền của tỉnh chưa kịp thời, chưa đáp ứng yêu cầu công tác quản
lý.
+ Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm
soát, phối hợp của các ngành, các cấp đối với các hoạt động khoáng sản chưa thường xuyên, quyết liệt, nặng về
văn bản hành chính, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý.
+ Chưa ban hành được Quy định đấu giá
quyền khai thác của tỉnh; chưa lựa chọn được các điểm mỏ có tiềm năng để
tổ chức đấu giá.
- Trách nhiệm của các địa phương:
+ Một số địa phương chưa thực sự quyết
liệt trong công tác kiểm tra, giám sát hoạt động khoáng
sản, vận chuyển khoáng sản trên địa bàn.
+ Chế độ thông tin, báo cáo và sự phối
hợp giữa các cấp chính quyền (tỉnh, huyện, xã); giữa các
ngành chức năng ở mỗi cấp, giữa các doanh nghiệp và cơ quan quản lý chưa chặt
chẽ, chưa có hiệu quả.
+ Lực lượng cán bộ chuyên ngành quản
lý khoáng sản từ cấp tỉnh đến huyện, xã
còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, chưa tương xứng với yêu cầu của
công tác quản lý ngày càng cao.
- Trách nhiệm của các cơ quan phối hợp
trong công tác quản lý hoạt động khoáng sản:
+ Công tác tham mưu, phối hợp của các
ngành chức năng trong quản lý hoạt động khoáng
sản chưa chủ động, thiếu quyết liệt và chưa đề xuất được kịp thời những giải
pháp để khắc phục những tồn tại hạn chế trong công tác quản lý khoáng sản; nhất là công tác thu ngân sách từ hoạt
động khoáng sản của cơ quan chuyên môn và
các ngành.
+ Công tác thẩm định, lựa chọn các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh còn hạn chế; công tác quản
lý sau chấp thuận chủ trương, đăng ký đầu tư chưa được chú trọng, chưa thường
xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các dự án đầu tư, chế tài xử lý chậm do
đó đã có một số dự án lớn triển khai chậm tiến độ hoặc không triển khai, làm ảnh
hưởng đến việc thu hút các dự án đầu tư khác.
- Đối với các doanh nghiệp:
+ Công tác định hướng, quy hoạch nguồn
nguyên liệu cho các nhà máy hoạt động chưa được doanh nghiệp chú trọng, dẫn đến các nhà máy không đảm bảo được nguồn nguyên liệu ổn định cho sản xuất.
+ Nhiều doanh nghiệp năng lực tài
chính yếu chưa đáp ứng yêu cầu của hoạt động khoáng
sản, dẫn đến tình trạng không tự giác, chưa nghiêm túc chấp hành các nghĩa vụ
theo quy định của pháp luật, đặc biệt nghĩa vụ tài chính; chưa nghiêm túc trong
kê khai sản lượng khai thác, trong vận chuyển khoáng
sản.
+ Còn nhiều đơn vị khai thác, chế biến
khoáng sản sử dụng các thiết bị, máy móc
lạc hậu, dây chuyền công nghệ không đồng bộ, dẫn đến hiệu quả của các hoạt động
khai thác, chế biến khoáng sản còn hạn chế,
lãng phí tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường; chưa làm chủ được công nghệ, còn
phụ thuộc vào chuyên gia nước ngoài, khi không có chuyên gia thì không vận hành
được thiết bị, dây chuyền sản xuất hoặc vận hành không hiệu quả.
+ Do tác động của cuộc khủng hoảng
tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu;
giá xăng dầu, điện, vật tư, nguyên liệu đầu vào, thuế, phí... tăng cao ảnh hưởng
đến hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
- Chính sách pháp luật về khoáng sản còn nhiều tồn tại, bất cập:
+ Sự thay đổi về một số cơ chế, chính
sách, luật định của nhà nước đã có tác động trực tiếp đến phần lớn các dự án khoáng sản đang triển khai đầu tư, như: Luật Đầu
tư năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Xây dựng năm 2014, Luật Đất đai
năm 2013...
+ Nhiều mỏ khoáng sản được cấp phép theo quy định của Luật Khoáng sản năm 1996, Luật sửa đổi, bổ sung năm
2005, không được thực hiện thăm dò, chưa đánh giá trữ lượng nên không có căn cứ
pháp lý trong quản lý trữ lượng, sản lượng khoáng sản khai
thác.
+ Chính sách pháp luật về khoáng sản còn những nội dung bất cập, chưa hợp
lý: Một số quy định của pháp luật về khoáng
sản chưa có hướng dẫn cụ thể gây khó khăn trong công tác quản lý và tổ chức thực
hiện tại địa phương (như công tác hoàn trả tiền chi phí điều tra, thăm dò khoáng sản; công tác tính thu tiền cấp quyền
khai thác khoáng sản theo Nghị định số
203/2013/NĐ-CP); các biện pháp xử lý, chế tài chưa đủ mạnh
để bắt buộc tổ chức, cá nhân hoạt động
khoáng sản phải thực hiện nghiêm chỉnh
các quy định của pháp luật.
PHẦN THỨ HAI
MỤC TIÊU, NỘI
DUNG NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ QUY HOẠCH, THĂM DÒ, KHAI THÁC, CHẾ BIẾN, VẬN CHUYỂN
VÀ TIÊU THỤ KHOÁNG SẢN
I. MỤC TIÊU
1. Mục tiêu chung
- Nâng cao hiệu quả công tác quản lý
nhà nước về khoáng sản nhằm đảm bảo sản
lượng khoáng sản khai thác, vận chuyển,
chế biến tiêu thụ trên địa bàn phải được quản lý chặt chẽ theo đúng quy định của
pháp luật, không để thất thoát tài
nguyên, thất thu ngân sách.
- Kết cấu hạ tầng, đời sống nhân dân,
môi trường tại các khu vực có hoạt động khoáng
sản phải được cải thiện, ổn định.
- Kêu gọi các nhà đầu tư có năng lực
đầu tư vào thăm dò, khai thác,chế biến sâu khoáng
sản, đảm bảo các loại khoáng sản tiềm năng phải được chế biến sâu trên địa bàn tỉnh, gia tăng giá trị khoáng sản.
2. Mục tiêu cụ thể (đến năm 2020)
- Hoạt động khoáng sản trên địa bàn tỉnh phải đảm bảo được kiểm soát chặt chẽ
theo quy định của pháp luật; thu, nộp ngân sách đầy đủ; không vi phạm về bảo vệ
môi trường.
- Tiềm năng khoáng sản quặng chì kẽm được thăm dò, đánh giá đầy đủ, trữ lượng
được huy động tối đa phục vụ cho các nhà máy chế biến sâu tại tỉnh.
- Ít nhất có 03
nhà máy chế biến sâu chì kẽm sản xuất ra sản phẩm và hoạt động ổn định.
- Phấn đấu đến năm 2020, thu ngân sách từ hoạt động khoáng
sản đạt trên 200 tỷ đồng/năm; giải quyết việc làm cho khoảng 3.000 lao động; tái đầu tư cho cơ sở hạ tầng từ nguồn thu khoáng sản.
II. NỘI DUNG
1. Giải pháp quản lý
1.1. Về quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản
- Nâng cao chất lượng lập và quản lý
quy hoạch từ bước lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch đến triển khai thực hiện.
Kịp thời công bố, công khai quy hoạch, xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện
quy hoạch.
- Tập trung quản lý quy hoạch đi vào
chiều sâu, các mỏ khoáng sản được cấp gắn
với địa điểm chế biến cụ thể, ưu tiên cho các nhà máy, cơ sở chế biến sâu trên địa bàn tỉnh, nhằm gia tăng giá trị khoáng sản; khai thác sử dụng hợp lý, tiết kiệm
tài nguyên khoáng sản.
- Thường xuyên rà soát, kịp thời phát
hiện các vướng mắc, bất hợp lý để khắc phục, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch cho
phù hợp từng giai đoạn; kiểm tra, đôn đốc, giám sát việc
thực hiện quy hoạch khoáng sản.
1.2. Công tác cấp phép
- Nâng cao chất lượng các Hội đồng thẩm
định liên quan đến các hoạt động khoáng sản:
Đề án, báo cáo thăm dò khoáng sản, công
tác bảo vệ môi trường trong hoạt động khoáng
sản; nâng cao chất lượng thẩm tra, thẩm định các dự án đầu tư, thiết kế cơ sở, thiết kế kỹ thuật thi công. Đánh giá trữ
lượng, hàm lượng khoáng sản chính xác trước
khi cấp phép khai thác.
- Chỉ thực hiện việc cấp phép khai
thác khoáng sản khi doanh nghiệp có cơ sở
chế biến hoặc phục vụ cho cơ sở chế biến trên địa bàn tỉnh
(trừ khi các cơ sở chế biến không sử dụng sản phẩm); lựa chọn đơn vị có đủ năng
lực đảm bảo hoạt động có hiệu quả sau khi cấp phép.
- Xem xét thu hồi
hoặc không gia hạn giấy phép đối với những doanh nghiệp
trong quá trình khai thác không chấp hành các quy định pháp luật, nghĩa vụ tài
chính đối với ngân sách nhà nước.
- Kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường
khi cấp phép khai thác khoáng sản thì đơn
vị được cấp phép phải tổ chức chế biến trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn hoặc cung cấp
nguyên liệu cho nhà máy trên địa bàn tỉnh (Mỏ chì kẽm Chợ
Điền cần xây dựng nhà máy chế biến sâu trên địa bàn tỉnh).
1.3. Quản lý sản
lượng khai thác của các doanh nghiệp được cấp
phép khai thác khoáng sản
- Đối với các doanh nghiệp được cấp
phép khai thác khoáng sản phải thực hiện
các quy định của Nghị định số 158/2016/NĐ-CP ngày 29/11/2016:
+ Yêu cầu phải lắp đặt trạm cân điện
tử và camera giám sát tại mỏ, tín hiệu, dữ liệu được tích hợp và thông suốt với
trung tâm quản lý của cơ quan nhà nước; các xe vận chuyển quặng ra khỏi mỏ phải
có hóa đơn xuất hàng để kiểm soát trên đường vận chuyển.
+ Lập các loại sổ, tài liệu, chứng từ theo dõi hoạt động của đơn vị gồm chứng từ theo dõi về kỹ thuật
và chứng từ về tài chính chứng minh sản lượng khoáng sản đã khai thác.
+ Yêu cầu lập bản đồ hiện trạng, bản
vẽ mặt cắt hiện trạng theo đúng quy định tại Thông tư số 02/2013/TT-BTNMT ngày
01/3/2013 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định việc lập bản đồ hiện trạng, bản vẽ mặt cắt hiện trạng khu vực được phép khai thác
khoáng sản; thống kê, kiểm kê trữ lượng khoáng sản; bản đồ
hiện trạng, bản vẽ mặt cắt hiện trạng được, cập nhật thông tin tối thiểu 06
tháng 01 lần; bản file mềm gửi về Sở Tài nguyên và Môi trường để quản lý theo
dõi; bản đồ hiện trạng, bản vẽ mặt cắt hiện trạng là một trong những căn cứ để xác định trữ lượng khoáng sản đã khai thác hàng năm.
- Mọi khoáng
sản khi phát hiện vận chuyển không có giấy tờ hợp pháp, sẽ tịch thu ngay khoáng
sản đó, giao cho cơ quan chức năng tổ chức bán đấu giá nộp ngân sách nhà nước
theo quy định. Các doanh nghiệp thực hiện ký cam kết vận chuyển khoáng sản đúng tải trọng theo quy định.
1.4. Kiểm tra,
giám sát chặt chẽ công tác thăm dò, phê duyệt trữ lượng khoáng sản
Thẩm định báo cáo kết quả thăm dò
chính xác và phê duyệt trữ lượng, làm cơ sở cho việc lập dự
án đầu tư khai thác, tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản.
Tăng cường kiểm tra giám sát quá
trình thi công thăm dò theo giấy phép của các đơn vị được cấp phép.
1.5. Rà soát, đánh giá hiệu quả
các giấy phép khai thác đã cấp; các dự án đầu tư chế
biến khoáng sản
- Thực hiện hoặc đề xuất cơ quan cấp
phép đình chỉ, thu hồi các giấy phép không hoạt động hoặc không hiệu quả, nợ
ngân sách kéo dài, vi phạm các quy định pháp luật nhà nước.
- Các dự án khoáng sản, chế biến khoáng
sản đã được cấp chứng nhận đầu tư, nhưng hoạt động không hiệu quả, kéo dài thời
gian xây dựng, chậm đưa dự án vào hoạt động, không đáp ứng tiến độ theo chứng
nhận đầu tư, kiến nghị xem xét thu hồi chứng nhận đầu tư; xem xét chuyển đổi dự
án cho đơn vị khác có năng lực để đầu tư xây dựng nhà máy chế biến khoáng sản.
1.6. Công tác bảo vệ môi trường
Các dự án thăm dò, khai thác, chế biến
khoáng sản phải thực hiện nghiêm túc theo
quy định của Luật bảo vệ môi trường từ khâu lập hồ sơ, thẩm định, phê duyệt báo
cáo đánh giá tác động môi trường, kế hoạch bảo vệ môi trường;
xây dựng các công trình bảo vệ môi trường; trong quá trình hoạt động đảm bảo
các biện pháp bảo vệ môi trường, các thông số diễn biến về
môi trường trong hoạt động khoáng sản phải
được quan trắc, cập nhật đầy đủ, xử lý kịp thời, hiệu quả.
Nâng cao chất lượng công tác thẩm định
Báo cáo đánh giá tác động môi trường, Báo cáo đánh giá tác động môi trường chiến
lược.
Thực hiện các giải pháp có hiệu quả
nhằm kiểm tra, giám sát việc chấp hành công tác bảo vệ môi trường đối với các
đơn vị hoạt động trong lĩnh vực khoáng sản;
xử lý nghiêm các đơn vị vi phạm quy định về bảo vệ môi trường.
1.7. Xem xét việc ấn định thuế;
tổ chức thực hiện thu tiền cấp quyền khai thác khoáng
sản và các khoản thuế, phí, lệ phí trong lĩnh vực khoáng sản, đảm bảo đúng quy định
Thực hiện thu tiền cấp quyền khai
thác khoáng sản và các khoản thuế, phí, lệ
phí trong lĩnh vực khoáng sản và xử lý vi
phạm kịp thời, đúng quy định. Theo dõi, đôn đốc các đơn vị thực hiện đúng cam kết
nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước. Nếu doanh nghiệp không thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ tài chính theo quy định thì không xem xét đề nghị gia hạn sau khi giấy
phép hết hạn hoặc thu hồi giấy phép theo quy định tại Điểm
c, Khoản 1, Điều 58, Luật Khoáng sản.
Nghiên cứu đề xuất
các điểm mỏ khoáng sản có tiềm năng để
đưa vào đấu giá quyền khai thác khoáng sản;
ban hành quy định đấu giá quyền khai thác khoáng
sản trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn; triển khai việc đấu giá quyền khai thác khoáng sản. Đề xuất với
Trung ương cho cơ chế đặc thù, điều chỉnh tỷ lệ trích tiền cấp quyền khai thác
khoáng sản cho Bắc Kạn đối với mỏ do Bộ
Tài nguyên và Môi trường cấp.
1.8. Thu hút đầu tư
Thu hút các nhà đầu tư có năng lực để
đầu tư trong lĩnh vực khoáng sản, nhất là
chế biến sâu tại tỉnh nhằm gia tăng giá trị khoáng
sản, phát huy lợi thế tiềm năng khoáng sản
của địa phương. Đồng thời, hạn chế vận chuyển khoáng sản để bảo vệ công trình hạ tầng giao
thông.
2. Công tác thanh tra, kiểm tra,
kiểm soát
- Các cơ quan chức năng phải phối hợp
lập Kế hoạch thanh tra, kiểm tra định kỳ không quá 01 lần/năm đối với doanh
nghiệp, nhằm đảm bảo tính thống nhất, không chồng chéo, trùng lặp để không cản trở đến hoạt động bình thường của doanh nghiệp; nội dung
thanh tra, kiểm tra phải được giới hạn trong phạm vi quản lý nhà nước được
giao; cơ quan chức năng chỉ ban hành quyết định thanh tra, kiểm tra đột xuất đối
với doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm; không mở rộng phạm
vi thanh tra, kiểm tra vượt quá nội dung ngoài quyết định đã được duyệt.
- Công tác thanh tra, kiểm tra, giám
sát cần đảm bảo mục tiêu phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện và xử lý vi phạm kịp
thời, đồng thời hỗ trợ hướng dẫn các doanh nghiệp tuân thủ các quy định pháp luật.
Đối với những đơn vị vi phạm nhiều lần, cố tình không thực
hiện hoặc thực hiện không đầy đủ quy định của pháp luật trong hoạt động khoáng sản cần kiên quyết kịp thời xử lý theo luật
định, đặc biệt là tình trạng vận chuyển khoáng sản, chuyển nhượng mỏ
trái phép trên địa bàn.
- Các ngành chức năng có giải pháp hữu
hiệu để đôn đốc các doanh nghiệp thực hiện dứt điểm các khoản nợ tiền cấp quyền,
thuế, phí quá hạn đối với ngân sách nhà nước. Trường hợp cố tình không chấp
hành thì thực hiện các biện pháp cưỡng chế theo quy định, kiên quyết xử lý các
đơn vị chưa thực hiện việc hoàn thổ, đóng cửa mỏ theo quy
định.
- Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm Luật
Khoáng sản, Luật Bảo vệ môi trường, Luật
Đất đai đối với các đối tượng hoạt động trong lĩnh vực khoáng sản, tài nguyên môi trường.
3. Nâng cao năng lực và trách nhiệm
quản lý chuyên ngành về khoáng sản từ cấp
tỉnh đến cấp xã
- Các sở, ngành, đơn vị địa phương chủ
động quan tâm bố trí cán bộ công chức có trình độ, năng lực phù hợp, đáp ứng
yêu cầu khi tham gia thực hiện nhiệm vụ; đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý khoáng sản.
- Xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan đơn vị, địa phương khi để xảy ra sai phạm
trong quản lý hoạt động khoáng sản theo
quy định.
4. Hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động khoáng sản
trên địa bàn tỉnh
Các ngành, địa phương cần hỗ trợ, tạo
điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp hoạt động khoáng sản thuê đất, sử dụng đất đai; sử dụng tài nguyên nước, sử
dụng hạ tầng kỹ thuật để phục vụ khai thác, chế biến khoáng sản.
Trước mắt, các ngành các cấp cần tập
trung tìm hiểu, tháo gỡ khó khăn, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho các
doanh nghiệp có nhà máy chế biến đang dừng hoạt động trên
địa bàn tỉnh: về nguyên liệu, vận chuyển khoáng sản, chế độ thu nộp ngân sách ... nhằm sớm
đưa các nhà máy này hoạt động trở lại.
Thực hiện cơ chế
một cửa liên thông, một cửa điện tử để đơn giản hóa thủ tục
và rút ngắn thời gian cấp chứng nhận đầu tư, cấp phép xây dựng và giải quyết
các thủ tục hành chính về thuế, tiền thu phí, lệ phí; liên thông trong thực hiện
thủ tục hành chính về đất đai với các thủ tục xác định nghĩa vụ tài chính đối với
đất đai.
Hàng năm, tổ chức đối thoại với các
doanh nghiệp ít nhất 01 lần, nhằm đánh giá tình hình hoạt động của doanh nghiệp,
hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn để doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định,
phát triển.
PHẦN THỨ BA
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Trách nhiệm của các Sở, ngành
1.1. Sở Tài nguyên và Môi trường
- Hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện
các quy định của nhà nước về khoáng sản;
chủ trì Đoàn kiểm tra liên ngành thành lập theo Quyết định của UBND tỉnh, kiểm
tra các đơn vị hoạt động khoáng sản; kiểm
tra các địa phương trong công tác tổ chức thực hiện quản lý khoáng sản trên địa bàn.
- Chủ trì, phối hợp với cơ quan Thuế,
Công Thương, Kế hoạch và Đầu tư, chính quyền địa phương rà soát các giấy phép
khai thác khoáng sản đã cấp, tham mưu
UBND tỉnh đình chỉ, thu hồi hay kiến nghị thu hồi các giấy phép không hoạt động
hoặc hoạt động không hiệu quả, nợ ngân sách kéo dài, vi phạm quy định của pháp
luật trong hoạt động khoáng sản. Phối hợp
với các cơ quan liên quan kiểm tra cụ thể, đối chiếu các tài liệu để xác định sản
lượng đã khai thác, vận chuyển, tiêu thụ; thống kê, kiểm kê trữ lượng khoáng sản đã được phê duyệt.
- Trình Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành
theo thẩm quyền văn bản hướng dẫn thực hiện các quy định của nhà nước về khoáng sản trên địa bàn tỉnh; xây dựng kế hoạch
quản lý, bảo vệ tài nguyên khoáng sản
hàng năm của tỉnh trình UBND tỉnh phê duyệt và tổ chức thực
hiện.
- Tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng quy
hoạch thăm dò, khai thác khoáng
sản, chế biến và sử dụng khoáng sản (trừ
khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông
thường); chủ trì phối hợp các cơ quan thẩm định báo cáo kết quả thăm dò chính
xác và phê duyệt trữ lượng, làm cơ sở cho việc lập dự án đầu
tư khai thác, tính tiền cấp quyền khai thác khoáng
sản; rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch khoáng
sản; theo dõi thực hiện quy hoạch đã được phê duyệt.
- Phối hợp cơ quan liên quan, chính
quyền địa phương tăng cường kiểm tra giám sát quá trình thi công thăm dò, khai
thác theo giấy phép của các đơn vị được cấp phép. Thanh tra, kiểm tra việc chấp
hành pháp luật về khoáng sản; xử lý hoặc
kiến nghị xử lý các vi phạm pháp luật trong hoạt động khoáng sản trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật.
- Hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc
ký quỹ phục hồi môi trường, nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản của tổ chức, cá nhân được cấp giấy
phép khai thác khoáng sản.
- Tham mưu ban hành quy định đấu giá
quyền khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh
Bắc Kạn. Chủ trì phối hợp các đơn vị liên quan, nghiên cứu đề xuất các điểm mỏ
khoáng sản có tiềm năng để đưa vào đấu giá quyền khai thác khoáng sản;
lập, trình kế hoạch đấu giá quyền khai thác khoáng sản.
- Đề xuất với Trung ương cho cơ chế đặc
thù điều chỉnh tỷ lệ trích tiền cấp quyền khai thác khoáng sản cho Bắc Kạn đối với mỏ do Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp.
- Tham mưu Ban hành quy định về quản
lý nhà nước về khoáng sản trên địa bàn tỉnh
thay thế Quyết định số 556/2013/QĐ-UBND ngày 18/4/2013 của UBND tỉnh. Trong đó
quy định rõ về sự phối hợp giữa cơ các cơ quan quản lý nhà
nước cấp tỉnh và chính quyền các địa phương, trách nhiệm của từng cơ quan, đơn
vị, địa phương và nội dung phối hợp giữa các cấp, các ngành trong hoạt động
khai thác, chế biến, vận chuyển khoáng sản.
- Rà soát, ban hành và triển khai thực
hiện các văn bản quản lý, văn bản hướng dẫn, triển khai thực hiện pháp luật về
khoáng sản (thay thế các văn bản trước
đây) theo hướng cải cách hành chính, đảm bảo phù hợp với pháp luật về khoáng sản và tình hình thực tế của tỉnh. Hàng
năm, Sở Tài nguyên và Môi trường tổ chức từ 1 đến 2 lớp tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ Tài nguyên và Môi trường cấp huyện và cấp xã.
- Theo dõi, tổng hợp, báo cáo UBND tỉnh
về tình hình thực hiện Đề án, chủ động tham mưu, đề xuất các biện pháp để
thực hiện có hiệu quả các nội dung của Đề án.
1.2. Cục Thuế tỉnh
- Xem xét ấn định thuế đối với các
doanh nghiệp đủ điều kiện; hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc chấp hành các quy
định về thuế, phí và lệ phí của các doanh nghiệp hoạt động khoáng sản. Chủ trì phối hợp các đơn vị liên
quan thực hiện thu tiền cấp quyền khai thác và các khoản thuế, phí, lệ phí
trong lĩnh vực khoáng sản đúng quy định.
Phối hợp với Sở Công Thương để yêu cầu doanh nghiệp phải nộp hết các khoản thuế, phí... vào ngân sách nhà nước
trước khi cấp giấy phép vận chuyển khoáng sản tiêu thụ.
- Chủ động phối hợp với cơ quan Tài
nguyên và Môi trường, Công Thương thường xuyên đối chiếu các tài liệu liên quan
để xác định sản lượng đã khai thác, vận chuyển, tiêu thụ,
đảm bảo sản lượng khoáng sản khai thác
khi được vận chuyển, tiêu thụ phải được kiểm soát và nộp thuế đầy đủ. Trường hợp
phát hiện vi phạm thì xử lý kịp thời theo quy định.
- Phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi
trường, Sở Kế hoạch và Đầu tư để tham mưu trình cấp có thẩm quyền xử lý đình chỉ
hoặc thu hồi giấy phép khai thác, thu hồi giấy phép đăng ký doanh nghiệp khi
doanh nghiệp vi phạm pháp luật thuế, cố tình dây dưa nợ thuế kéo dài.
1.3. Sở Công Thương
- Chủ trì kiểm tra việc sử dụng
nguyên, nhiên vật liệu phục vụ khai thác mỏ, kiểm tra các chứng từ, biên bản
nghiệm thu sản phẩm, sổ theo dõi ca hoạt động của mỏ, số lượng vật liệu nổ
công nghiệp sử dụng, nhiên liệu, điện năng tiêu thụ trên cơ sở đó
so sánh với định mức, các giai đoạn khác nhau để xác định sản lượng đã khai
thác; bản đồ, mặt cắt hiện trạng; kiểm tra việc chấp hành các quy định của nhà
nước về tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm, an toàn lao động
trong khai thác, chế biến khoáng sản theo
dự án đầu tư, thiết kế mỏ đã được thẩm định, phê duyệt. Xử
lý vi phạm theo thẩm quyền hoặc kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo
quy định của pháp luật; tham mưu cho UBND tỉnh tịch thu, xử lý khoáng sản vận chuyển trái quy định.
- Phối hợp kiểm tra giám sát quá
trình khai thác theo giấy phép của các đơn vị được cấp phép.
- Phối hợp Cục thuế và báo cáo UBND tỉnh
trước khi phê duyệt phương án vận chuyển khoáng
sản trên địa bàn tỉnh, cung cấp thông tin cho các ngành, địa phương liên quan về
phương án vận chuyển khoáng sản để
phối hợp giám sát; có giải pháp quản lý hiệu quả hoạt động vận
chuyển, tiêu thụ khoáng
sản trên địa bàn tỉnh; cùng các ngành, địa phương tăng cường kiểm tra, kiểm
soát việc vận chuyển khoáng sản, kịp thời
đình chỉ, xử lý, kiến nghị xử lý khi phát hiện doanh nghiệp vi phạm trong việc
vận chuyển khoáng sản.
- Tham mưu UBND tỉnh trong công tác
điều tiết, cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến sâu đã đầu tư trên địa
bàn tỉnh.
1.4. Sở Xây dựng
- Tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng quy
hoạch thăm dò, khai thác và sử dụng khoáng
sản làm vật liệu xây dựng thông thường; rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch;
theo dõi thực hiện quy hoạch đã được phê duyệt.
- Phối hợp kiểm tra giám sát quá
trình khai thác, sản lượng khai thác đối với các giấy phép khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường.
1.5. Sở Tài chính
- Chủ trì, thẩm định dự toán kinh phí
thực hiện Đề án quản lý khoáng sản của
các ngành lập gửi Sở Tài chính tham mưu cân đối, bố trí
nguồn kinh phí để thực hiện.
- Chủ trì phối hợp
với các ngành để tham mưu cho UBND tỉnh Ban hành Bảng giá
tính thuế tài nguyên theo quy định tại điểm 5, Điều 6, Thông tư số 152 ngày
02/10/2015 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế tài nguyên. Xem xét sửa đổi Quyết
định số 1206/2013/QĐ-UBND ngày 02/8/2013 của UBND tỉnh về
việc ban hành biểu giá tính thuế tài nguyên khoáng
sản và sản phẩm rừng tự nhiên trên địa bàn tỉnh theo hướng phân chia thêm các mức
hàm lượng khoáng sản để làm căn cứ tính
thuế.
- Tham mưu Ban hành Quy định về quản
lý, sử dụng khoản thu ngân sách từ hoạt động khoáng sản để hỗ trợ phát
triển kinh tế-xã hội tại địa phương nơi có khoáng
sản được khai thác.
1.6. Sở Kế hoạch và Đầu tư
Chủ trì phối hợp các đơn vị liên
quan, rà soát đánh giá hiệu quả các dự án khoáng
sản, chế biến khoáng sản đã được cấp chứng
nhận đầu tư, nhưng hoạt động không hiệu quả, kéo dài thời gian xây dựng, chậm đưa
dự án vào hoạt động, không đáp ứng tiến độ theo chứng nhận đầu tư, kiến nghị
xem xét thu hồi chứng nhận đầu tư theo quy định pháp luật; xem xét chuyển đổi dự
án cho đơn vị khác có năng lực để đầu tư
xây dựng nhà máy chế biến khoáng sản.
1.7. Sở Giao thông Vận tải
Chỉ đạo Thanh tra giao thông phối hợp
các ngành chức năng kiểm tra tải trọng của các phương tiện vận chuyển khoáng sản tại các điểm mỏ, kho chứa hàng, bến
bãi của các doanh nghiệp; phát hiện xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm vận
chuyển khoáng sản
không có giấy phép, vận chuyển quá tải trọng.
Đề xuất phương án bảo trì đường bộ với
các doanh nghiệp có khai thác mỏ và vận chuyển tại các tuyến đường trong phạm
vi quản lý.
1.8. Công an tỉnh
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan
chức năng làm tốt công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn và điều tra, xử lý
các loại tội phạm trong lĩnh vực khoáng sản
theo quy định của pháp luật; kiểm tra vận chuyển, lưu giữ,
sử dụng vật liệu nổ công nghiệp trong khai thác khoáng sản.
- Chỉ đạo công an huyện, thành phố phối
hợp với các ngành chức năng kiểm tra việc khai thác, mua bán, tàng trữ, vận
chuyển khoáng sản trái phép; Xử lý hoặc
kiến nghị xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm theo đúng quy định của pháp luật;
xử lý kịp thời các trường hợp khai thác khoáng
sản gây ô nhiễm môi trường.
- Phối hợp với các ngành chức năng của
tỉnh kiểm tra, kiểm soát, xử lý các trường hợp vận chuyển
khoáng sản quá khổ, quá tải, xử lý các
phương tiện vận chuyển khoáng sản trên đường
giao thông mà không có giấy tờ đầy đủ.
1.9. Các Sở, ngành: Lao động -
Thương binh và Xã hội, Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Thông tin và Truyền thông, Tư pháp,
Khoa học và Công nghệ, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh
Theo chức năng, nhiệm vụ chủ động phối
hợp thực hiện công tác quản lý nhà nước về hoạt động khoáng sản trên địa bàn tỉnh đúng theo quy định của pháp luật,
tham gia triển khai có hiệu quả Đề án này.
1.10. UBND các huyện, thành phố;
UBND các xã, phường, thị trấn
- Thực hiện chức năng quản lý nhà nước
về tài nguyên khoáng sản theo quy định
pháp luật, phối hợp chặt chẽ thực hiện công tác quản lý hoạt động khai thác, chế
biến, vận chuyển và tiêu thụ khoáng
sản trên địa bàn tỉnh đúng theo quy định pháp luật. Kiểm tra, giám sát việc chấp hành các quy định của pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân được cấp
phép hoạt động khoáng sản tại địa phương;
phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi thăm dò, khai thác, chế biến,
mua bán, vận chuyển khoáng sản trái phép
trên địa bàn theo thẩm quyền; giám sát quá trình phục hồi
môi trường khi đóng cửa mỏ.
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện
chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh về hoạt động khoáng sản trái phép trên địa bàn quản lý.
(Kèm theo 02 phụ lục về Kế hoạch thực hiện nhiệm
vụ và Danh mục các giấy phép hoạt động khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn)
2. Trách nhiệm của tổ chức, cá
nhân trong thăm dò, khai thác, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ khoáng sản:
2.1. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân
được cấp giấy phép thăm dò khoáng sản: Thực
hiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 42 Luật khoáng
sản và quy định quản lý hoạt động khoáng
sản trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.
2.2. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân
được cấp giấy phép khai thác khoáng sản:
Thực hiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 55 Luật khoáng
sản và quy định quản lý hoạt động khoáng
sản trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.
2.3. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân
trong chế biến, vận chuyển và tiêu thụ khoáng
sản:
Tổ chức, cá nhân chỉ được chế biến khoáng sản tại các nhà máy, cơ sở chế biến khoáng sản đã được cơ quan có thẩm quyền chấp
thuận chủ trương đầu tư, đồng thời đảm bảo thực hiện công tác bảo vệ môi trường
theo đúng báo cáo đánh giá tác động môi trường được phê
duyệt.
Việc vận chuyển, tiêu thụ khoáng sản thực hiện theo đúng quy định của pháp
luật; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính trong vận chuyển, tiêu thụ khoáng sản.
3. Tổ công tác được thành lập theo
Quyết định số 243/QĐ-UBND ngày 03/3/2017 của UBND tỉnh:
Có trách nhiệm nghiên cứu, đề xuất giải
pháp quản lý có hiệu quả hoạt động khoáng
sản trên địa bàn tỉnh, giúp UBND tỉnh chỉ đạo các ngành, các cấp, các cơ quan,
đơn vị có liên quan tổ chức triển khai thực hiện Đề án. Nghiên cứu, đề xuất giải pháp quản lý hiệu quả hoạt động khoáng sản trên địa bàn tỉnh, nhằm đảm bảo đạt
hiệu quả cao nhất trong hoạt động khoáng
sản, phù hợp với tình hình cụ thể của từng giai đoạn. Đồng thời nghiên cứu, phối
hợp thực hiện lồng ghép các nhiệm vụ của Đề án với Đề án nâng cao hiệu quả phát
triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2017-2020 đã được UBND tỉnh
phê duyệt tại Quyết định số 701/QĐ-UBND ngày 22/3/2017, nhằm quản lý chặt chẽ
hoạt động khoáng sản, tăng giá trị sản xuất
công nghiệp khai khoáng của tỉnh.
Các Sở, ban, ngành, địa phương có
liên quan theo chức năng, nhiệm vụ được UBND tỉnh giao, chủ động tham kịp thời
các công tác quản lý nhà nước về khoáng sản
trên địa bàn tỉnh và trong Đề án, xây dựng kế hoạch chi tiết thực hiện các nội
dung của Đề án. Định kỳ 6 tháng và 01 năm, các Sở ngành thuộc UBND tỉnh; UBND các
huyện, thành phố báo cáo kết quả thực hiện Đề án về Sở Tài nguyên và Môi trường
để tổng hợp báo cáo UBND tỉnh theo quy định./.