TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỐI CAO - VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO - BỘ TƯ PHÁP
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP
|
Hà Nội, ngày 06
tháng 01 năm 2016
|
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
HƯỚNG
DẪN THI HÀNH MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Căn cứ Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật số 17/2008/QH12;
Căn cứ Luật hôn
nhân và gia đình số 52/2014/QH13;
Căn cứ Luật tổ chức
Tòa án nhân dân số 62/2014/QH13;
Căn cứ Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân số 63/2014/QH13;
Căn cứ Nghị định số 22/2013/NĐ-CP
ngày 13 tháng 3 năm 2013 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp;
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Thông tư liên tịch hướng
dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân
và gia đình số 52/2014/QH13 (sau đây viết tắt là Luật hôn nhân và gia đình) như sau:
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Thông tư liên tịch này hướng dẫn thi hành quy định
về xử lý việc kết hôn trái pháp luật, thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng
bị vô hiệu và nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn tại các điều 11, 50 và 59 của Luật hôn nhân và gia đình.
Điều 2. Căn cứ hủy việc kết hôn
trái pháp luật
Khi giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật,
Tòa án phải căn cứ vào điều kiện kết hôn quy định tại Điều 8 của
Luật hôn nhân và gia đình để xem xét, quyết định xử lý việc kết hôn trái
pháp luật và lưu ý một số điểm như sau:
1. “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi
trở lên” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 của Luật hôn
nhân và gia đình là trường hợp nam đã
đủ hai mươi tuổi, nữ đã đủ mười tám tuổi trở lên và được xác định theo ngày,
tháng, năm sinh.
Trường hợp không xác định được ngày sinh, tháng
sinh thì thực hiện như sau:
a) Nếu xác định được năm sinh nhưng không xác định
được tháng sinh thì tháng sinh được xác định là tháng một của năm sinh;
b) Nếu xác định được năm sinh, tháng sinh nhưng
không xác định được ngày sinh thì ngày sinh được xác định là ngày mùng một của
tháng sinh.
Ví dụ: Chị B sinh ngày 10-01-1997, đến ngày
08-01-2015 chị B đăng ký kết hôn với anh A tại Ủy
ban nhân dân xã X. Tại thời điểm đăng ký kết hôn chị B chưa đủ 18 tuổi
(ngày chị B đủ 18 tuổi là ngày 10-01-2015), như vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì chị
B đã đủ tuổi kết hôn, tuy nhiên vì ngày chị B đăng ký kết hôn Luật hôn nhân và gia đình đã có hiệu lực (ngày
01-01-2015) nên chị B đã vi phạm điều kiện về tuổi kết hôn quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 của Luật
hôn nhân và gia đình.
2. “Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định”
quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 của Luật hôn nhân và gia
đình là trường hợp nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau hoàn toàn tự do
theo ý chí của họ.
3. “Lừa dối kết hôn” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 5 của Luật hôn nhân và gia đình là hành vi
cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch và dẫn
đến việc đồng ý kết hôn; nếu không có hành vi này thì bên bị lừa dối đã không đồng
ý kết hôn.
4. “Người đang có vợ hoặc có chồng” quy định
tại điểm c khoản 2 Điều 5 của Luật hôn nhân và gia đình là
người thuộc một trong các trường hợp sau
đây:
a) Người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định
của pháp luật về hôn nhân và gia đình nhưng chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ
(chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết;
b) Người xác lập quan hệ vợ chồng
với người khác trước ngày 03-01-1987 mà chưa đăng ký kết hôn và chưa ly hôn hoặc
không có sự kiện vợ (chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố
là đã chết;
c) Người đã kết hôn với người khác vi phạm điều kiện
kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia
đình nhưng đã được Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân bằng bản án, quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng)
của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết.
5. Việc xác định thời điểm “cả hai bên kết hôn
đã có đủ các điều kiện kết hôn” quy định tại khoản 2 Điều
11 của Luật hôn nhân và gia đình phải căn cứ vào các quy định của pháp luật.
Tòa án yêu cầu đương sự xác định và cung cấp các tài liệu, chứng cứ để xác định
thời điểm cả hai bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình.
Ví dụ 1: Trường hợp kết hôn khi một bên bị
cưỡng ép kết hôn hoặc bị lừa dối kết hôn là vi phạm điều kiện kết hôn quy định
tại điểm d khoản 1 Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình.
Tuy nhiên, nếu sau khi bị cưỡng ép kết hôn hoặc bị lừa dối kết hôn mà bên bị cưỡng
ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn đã biết nhưng đã thông cảm, tiếp tục chung sống
hòa thuận thì thời điểm đủ điều kiện kết hôn là thời điểm đương sự biết mình bị
cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn nhưng vẫn tiếp tục sống chung như vợ chồng.
Ví dụ 2: Ngày 15-01-2005, chị B kết hôn với
anh A. Đến ngày 15-01-2010, chị B lại kết hôn với anh C. Ngày 25-01-2012, Tòa
án có quyết định tuyên bố anh A chết. Ngày 12-6-2015, Tòa án mở phiên họp giải
quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật giữa chị B và anh C. Tại phiên họp,
chị B và anh C đều yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì chị B và anh C phải
cung cấp Quyết định của Tòa án tuyên bố anh A đã chết để xác định thời điểm chị
B và anh C đủ điều kiện kết hôn. Trong trường hợp
này, thời điểm chị B và anh C có đủ điều kiện kết hôn là thời điểm mà Tòa án
xác định anh A chết được ghi trong quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Điều 3. Thụ lý, giải quyết đơn
yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân quy định tại Điều 10 của Luật hôn nhân và gia đình có quyền yêu cầu Tòa án
hủy việc kết hôn trái pháp luật. Kèm theo đơn yêu cầu, người yêu cầu phải nộp
Giấy chứng nhận kết hôn đối với cá nhân quy định tại khoản 1 Điều
10 của Luật hôn nhân và gia đình hoặc giấy tờ, tài liệu khác chứng minh đã
đăng ký kết hôn; tài liệu, chứng cứ chứng minh việc kết hôn vi phạm điều kiện kết
hôn quy định tại Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình.
Trường hợp vợ chồng có đăng ký kết hôn nhưng không
cung cấp được Giấy chứng nhận kết hôn do bị thất lạc thì phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân đã cấp Giấy chứng nhận kết hôn.
2. Tòa án thụ lý, giải quyết yêu cầu hủy việc kết
hôn trái pháp luật theo quy định tại khoản 6 Điều 3 và Điều 11
của Luật hôn nhân và gia đình khi việc kết hôn đó đã được đăng ký tại đúng
cơ quan có thẩm quyền. Cơ quan có thẩm quyền
đăng ký kết hôn được xác định theo quy định của pháp luật về hộ tịch, pháp luật
về hôn nhân và gia đình.
Trường hợp nam, nữ đăng ký kết hôn tại đúng cơ quan
có thẩm quyền đăng ký kết hôn mà yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật
thì thực hiện theo hướng dẫn tại Điều 4 của Thông tư liên tịch
này.
Trường hợp việc kết hôn được đăng ký tại không đúng
cơ quan có thẩm quyền hoặc trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng
nhưng không có đăng ký kết hôn mà có yêu cầu Tòa án giải quyết thì thực hiện
theo hướng dẫn tại khoản 3 và khoản 4 Điều này.
3. Trường hợp nam, nữ có đăng ký kết hôn nhưng việc
kết hôn đăng ký tại không đúng cơ quan có thẩm quyền (không phân biệt có vi phạm
điều kiện kết hôn hay không) mà có yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật
hoặc yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng Điều 9 của Luật hôn nhân
và gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa họ đồng thời hủy
Giấy chứng nhận kết hôn và thông báo cho cơ quan hộ tịch đã đăng ký kết hôn để
xử lý theo quy định tại Điều 13 của Luật hôn nhân và gia đình.
Nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết về quyền, nghĩa vụ đối với con; tài sản, nghĩa
vụ và hợp đồng giữa các bên thì giải quyết
theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật hôn nhân và gia
đình.
4. Trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng
mà không có đăng ký kết hôn (không phân biệt có vi phạm điều kiện kết hôn hay
không) và có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc yêu cầu ly hôn thì
Tòa án thụ lý, giải quyết và áp dụng Điều 9 và Điều 14 của Luật
hôn nhân và gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa họ. Nếu
có yêu cầu Tòa án giải quyết về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con; quan hệ tài sản,
nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật hôn nhân và gia đình.
Điều 4. Xử lý yêu cầu hủy việc
kết hôn trái pháp luật
1. Khi xem xét, giải quyết yêu cầu có liên quan đến
việc hủy kết hôn trái pháp luật, Tòa án phải căn cứ vào yêu cầu của đương sự và
điều kiện kết hôn, điều kiện công nhận quan hệ hôn nhân quy định tại Điều 8 và Điều 11 của Luật hôn nhân và gia đình để quyết định.
2. Trường hợp tại thời điểm kết hôn, hai bên kết
hôn không có đủ điều kiện kết hôn nhưng sau đó có đủ điều kiện kết hôn quy định
tại Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình thì Tòa án xử lý
như sau:
a) Nếu hai bên kết hôn cùng yêu cầu Tòa án công nhận
quan hệ hôn nhân thì Tòa án quyết định công nhận quan hệ hôn nhân đó kể từ thời
điểm các bên kết hôn có đủ điều kiện kết hôn.
Ví dụ 1: Anh A sinh ngày 25-01-1996, chị B
sinh ngày 10-01-1995. Ngày 08-01-2015, anh A và chị B đăng ký kết hôn. Ngày
25-9-2016, Tòa án mở phiên họp giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Tại phiên họp, anh A và chị B đều yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân, nếu xét
thấy đã đủ các điều kiện kết hôn khác thì Tòa án xem xét công nhận quan hệ hôn
nhân của anh A và chị B kể từ thời điểm cả anh A và chị B đủ tuổi kết hôn, tức
là kể từ ngày 25-01-2016.
Ví dụ 2: Anh A và chị B đăng ký kết hôn hợp pháp ngày 05-7-2009 và chưa ly hôn. Ngày
10-5-2012, anh A lại kết hôn với chị C. Ngày 12-6-2014, chị B chết. Ngày
15-5-2015, Tòa án mở phiên họp giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật
giữa anh A và chị C. Tại phiên họp, anh A và chị C đều yêu cầu công nhận quan hệ
hôn nhân, nếu xét thấy đã đủ các điều kiện kết hôn khác thì Tòa án xem xét công
nhận quan hệ hôn nhân của anh A và chị C kể từ
thời điểm chị B chết, tức là ngày 12-6-2014.
Ví dụ 3: Ngày 27-5-2009, chị A bị Tòa án tuyên
bố mất năng lực hành vi dân sự. Ngày 30-9-2009, chị A kết hôn với anh B. Ngày
12-8-2012, Tòa án quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố chị A mất năng lực hành
vi dân sự. Ngày 12-02-2015, Tòa án mở phiên họp giải quyết yêu cầu hủy việc kết
hôn trái pháp luật. Tại phiên họp, chị A và anh B đều yêu cầu công nhận quan hệ
hôn nhân, nếu xét thấy đã đủ các điều kiện kết hôn khác thì Tòa án xem xét công
nhận quan hệ hôn nhân của chị A và anh B kể từ
thời điểm chị A không còn bị mất năng lực
hành vi dân sự theo quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
b) Nếu một hoặc hai bên yêu cầu hủy việc kết hôn
trái pháp luật hoặc có một bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân hoặc có một
bên yêu cầu ly hôn còn bên kia không có yêu cầu thì Tòa án quyết định hủy việc
kết hôn trái pháp luật. Trường hợp có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu Tòa án giải
quyết thì quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con; quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng
giữa các bên từ thời điểm kết hôn đến thời
điểm hủy việc kết hôn trái pháp luật được
giải quyết theo quy định tại Điều 12 của Luật hôn nhân và gia
đình.
c) Trường hợp hai bên cùng yêu cầu Tòa án cho ly
hôn hoặc có một bên yêu cầu ly hôn còn bên kia yêu cầu công nhận quan hệ hôn
nhân thì Tòa án giải quyết cho ly hôn. Trường hợp này, quyền, nghĩa vụ của cha,
mẹ, con từ thời điểm kết hôn đến thời điểm
ly hôn được giải quyết theo quy định về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con khi ly
hôn; quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên từ thời điểm kết hôn đến trước thời điểm đủ điều kiện kết
hôn được giải quyết theo quy định tại Điều 16 của Luật hôn nhân
và gia đình; quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên từ thời điểm
đủ điều kiện kết hôn đến thời điểm ly hôn được giải quyết theo quy định tại Điều 59 của Luật hôn nhân và gia đình.
3. Trường hợp hai bên đã đăng ký kết hôn nhưng tại
thời điểm Tòa án giải quyết hai bên kết hôn vẫn không có đủ các điều kiện kết
hôn quy định tại Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình thì
thực hiện như sau:
a) Nếu có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật
thì Tòa án quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật;
b) Nếu một hoặc cả hai bên yêu cầu ly hôn hoặc yêu
cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án bác yêu cầu của họ và quyết định hủy
việc kết hôn trái pháp luật.
Trường hợp quyết định theo hướng dẫn tại điểm a và
điểm b khoản này thì Tòa án áp dụng quy định tại Điều 12 của Luật
hôn nhân và gia đình để giải quyết hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn
trái pháp luật.
4. Khi xử lý yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật,
Tòa án phải căn cứ vào quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình có hiệu lực
tại thời điểm xác lập quan hệ hôn nhân để xác định việc kết hôn có trái pháp luật
hay không. Trình tự, thủ tục giải quyết
yêu cầu xử lý việc kết hôn trái pháp luật
được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân
và gia đình và pháp luật tố tụng dân sự có hiệu lực tại thời điểm giải quyết. Đối với yêu cầu hủy việc kết
hôn trái pháp luật thuộc trường hợp cán bộ và bộ đội miền Nam tập kết ra miền Bắc
từ năm 1954, đã có vợ, có chồng ở miền Nam mà lấy vợ, lấy chồng ở miền Bắc thì
vẫn xử lý theo Thông tư số 60/TATC ngày
22-02-1978 của Tòa án nhân dân tối cao “Hướng dẫn giải quyết các trường hợp cán
bộ, bộ đội trong Nam tập kết ra Bắc mà lấy vợ, lấy chồng khác”.
Điều 5. Thủ tục xem xét thỏa
thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân sau đây, theo quy định
của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thỏa thuận về
chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu do thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ
chồng thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật
hôn nhân và gia đình:
a) Vợ, chồng hoặc vợ chồng đã thỏa thuận về chế độ
tài sản;
b) Người bị xâm phạm, người giám hộ của người bị
xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp do có thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng.
2. Trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu Tòa án
tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu được thực hiện
theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
3. Trường hợp Tòa án đang giải quyết vụ việc dân sự
có liên quan đến nội dung thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng mà có yêu cầu
Tòa án xem xét thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng vô hiệu thì Tòa án phải
xem xét, quyết định nội dung thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng liên
quan đến tài sản tranh chấp có bị vô hiệu hay không. Trường hợp thỏa thuận về
chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu một phần hoặc toàn bộ thì Tòa án phải
tuyên thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng vô hiệu một phần hoặc toàn bộ
trong bản án, quyết định để làm cơ sở giải quyết quyền, nghĩa vụ của các bên.
Ví dụ: Anh A và chị B trước khi kết hôn có lập
văn bản thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng, trong văn bản xác định
quyền sử dụng đất là tài sản riêng của anh A trước khi kết hôn (trên thực tế đã
thế chấp cho Ngân hàng C) sẽ là tài sản chung của vợ chồng sau khi kết hôn. Do
đến hạn anh A không trả được nợ nên Ngân hàng C yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm
là quyền sử dụng đất nhưng anh A không đồng ý và cho rằng đây là tài sản chung
của vợ chồng mà không phải tài sản riêng của anh. Ngân hàng C đã khởi kiện ra
Tòa án yêu cầu anh A trả nợ, yêu cầu hủy văn bản thỏa thuận chế độ tài sản của
vợ chồng anh A và yêu cầu xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của anh
A. Trường hợp này Tòa án phải xác định thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ
chồng anh A bị vô hiệu vì vi phạm nghiêm trọng quyền của ngân hàng C đối với
tài sản đã được anh A thế chấp.
Điều 6. Xác định thỏa thuận về
chế độ tài sản của vợ chồng vô hiệu
1. Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng có thể
bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ hoặc vô hiệu một phần.
a) Trường hợp
thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ
thì chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được áp dụng.
b) Trường hợp thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ
chồng bị tuyên bố vô hiệu một phần thì các nội dung không bị vô hiệu vẫn được
áp dụng; đối với phần nội dung bị vô hiệu thì các quy định tương ứng về chế độ
tài sản của vợ chồng theo luật định được áp dụng.
2. Tòa án quyết định tuyên bố thỏa thuận về chế độ
tài sản của vợ chồng bị vô hiệu khi thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật hôn nhân và gia đình và lưu ý một số
trường hợp sau đây:
a) Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô
hiệu do vi phạm quyền được bảo đảm chỗ ở của vợ, chồng quy định tại Điều 31 và điểm b khoản 1 Điều
50 của Luật hôn nhân và gia đình là trường hợp
thỏa thuận đó cho phép một bên được quyền định đoạt nhà ở là nơi ở duy nhất của
vợ chồng dẫn đến vợ, chồng không có chỗ ở hoặc không bảo đảm chỗ ở tối thiểu về
diện tích, điều kiện sinh hoạt, an toàn, vệ sinh môi trường theo quy định của
pháp luật về nhà ở.
b) Nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ
chồng bị vô hiệu do vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa
kế và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và các thành viên khác
của gia đình quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 của Luật hôn
nhân và gia đình là trường hợp thỏa thuận đó nhằm trốn tránh nghĩa vụ cấp
dưỡng quy định từ Điều 110 đến Điều 115 của Luật hôn nhân và
gia đình hoặc để tước bỏ quyền thừa kế của những người thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung di chúc theo quy định của Bộ
luật dân sự hoặc vi phạm các quyền, lợi ích hợp pháp của cha, mẹ, con và
các thành viên khác của gia đình đã được Luật
hôn nhân và gia đình và pháp luật khác có liên quan quy định.
Ví dụ 1: Ông A đang có nghĩa vụ cấp dưỡng
cho anh B. Sau đó ông A kết hôn với bà C và thỏa thuận chuyển giao toàn bộ tài
sản của mình cho bà C, do đó, không còn tài sản để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
cho anh B. Trong trường hợp này thỏa thuận về tài sản giữa ông A và bà C bị vô
hiệu.
Ví dụ 2: Anh A có con đã thành niên nhưng
không có khả năng lao động. Sau đó, anh A kết hôn với chị B. Anh A và chị B đã
thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng, trong đó có nội dung toàn bộ
tài sản của anh A sẽ do chị B thừa hưởng khi anh A chết. Trong trường hợp này,
nội dung thỏa thuận về chế độ tài sản giữa anh A và chị B bị vô hiệu đối với phần
tài sản của anh A mà người con bị mất năng lực hành vi dân sự được thừa kế theo
quy định của pháp luật.
Điều 7. Nguyên tắc giải quyết
tài sản của vợ chồng khi ly hôn
1. Vợ chồng khi ly hôn có quyền tự thỏa thuận với
nhau về toàn bộ các vấn đề, trong đó có cả việc phân chia tài sản. Trường hợp vợ
chồng không thỏa thuận được mà có yêu cầu thì Tòa án phải xem xét, quyết định
việc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận hay theo luật định,
tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án xử lý như sau:
a) Trường hợp không có văn bản thỏa thuận về chế độ
tài sản của vợ chồng hoặc văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa
án tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định
để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn;
b) Trường hợp có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản
của vợ chồng và văn bản này không bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng
các nội dung của văn bản thỏa thuận để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Đối
với những vấn đề không được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng
hoặc bị vô hiệu thì áp dụng các quy định tương ứng tại các khoản
2, 3, 4, 5 Điều 59 và các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật hôn nhân và gia
đình để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
2. Khi giải quyết ly hôn nếu có yêu cầu tuyên bố thỏa
thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu thì Tòa án xem xét, giải quyết
đồng thời với yêu cầu chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
3. Khi chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn, Tòa án phải xác định vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ về tài sản
với người thứ ba hay không để đưa người thứ ba vào tham gia tố tụng với tư cách
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp
vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba mà họ có yêu cầu giải
quyết thì Tòa án phải giải quyết khi chia tài sản chung của vợ chồng. Trường hợp
vợ chồng có nghĩa vụ với người thứ ba mà người thứ ba không yêu cầu giải quyết
thì Tòa án hướng dẫn họ để giải quyết bằng vụ án khác.
4. Trường hợp áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng
theo luật định để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn thì tài sản chung của vợ
chồng về nguyên tắc được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây để xác định
tỷ lệ tài sản mà vợ chồng được chia:
a) “Hoàn cảnh của gia đình
và của vợ, chồng” là tình trạng về năng lực pháp luật, năng lực hành vi, sức
khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly hôn của vợ, chồng
cũng như của các thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng có quyền, nghĩa vụ
về nhân thân và tài sản theo quy định của Luật
hôn nhân và gia đình. Bên gặp khó khăn hơn sau
khi ly hôn được chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia hoặc được ưu tiên nhận
loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù hợp với
hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng.
b) “Công sức đóng góp của vợ,
chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung” là sự
đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của vợ, chồng
trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc chồng
ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập
tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức đóng góp nhiều
hơn sẽ được chia nhiều hơn.
c) “Bảo vệ lợi ích chính
đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh
doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập”
là việc chia tài sản chung của vợ chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động
nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất,
kinh doanh được tiếp tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải
thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch. Việc bảo vệ lợi ích
chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và hoạt động nghề nghiệp
không được ảnh hưởng đến điều kiện sống tối thiểu của vợ, chồng và con chưa
thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự.
Ví dụ: Vợ chồng có tài sản chung là một chiếc
ô tô người chồng đang chạy xe taxi trị giá 400 triệu đồng và một cửa hàng tạp
hóa người vợ đang kinh doanh trị giá 200 triệu đồng. Khi giải quyết ly hôn và
chia tài sản chung, Tòa án phải xem xét giao cửa hàng tạp hóa cho người vợ, giao
xe ô tô cho người chồng để họ tiếp tục kinh doanh, tạo thu nhập. Người chồng nhận
được phần giá trị tài sản lớn hơn phải thanh toán cho người vợ phần giá trị là
100 triệu đồng.
d) “Lỗi của mỗi bên trong
vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng” là lỗi của vợ hoặc chồng vi phạm quyền,
nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hôn.
Ví dụ: Trường hợp người chồng có hành vi bạo
lực gia đình, không chung thủy hoặc phá tán tài sản thì khi giải quyết ly hôn
Tòa án phải xem xét yếu tố lỗi của người chồng khi chia tài sản chung của vợ chồng
để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của vợ và con chưa thành niên.
5. Giá trị tài sản chung của vợ
chồng, tài sản riêng của vợ, chồng được xác định theo giá thị trường tại thời
điểm giải quyết sơ thẩm vụ việc.
6. Khi giải quyết chia tài sản
khi ly hôn, Tòa án phải xem xét để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con
chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Ví dụ: Khi chia nhà ở là tài sản chung và là
chỗ ở duy nhất của vợ chồng, trong trường hợp không chia được bằng hiện vật thì
Tòa án xem xét và quyết định cho người vợ hoặc chồng trực tiếp nuôi con chưa
thành niên, con bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự nhận hiện vật và
thanh toán giá trị tương ứng với phần tài sản được chia cho người chồng hoặc vợ
nếu người vợ hoặc chồng có yêu cầu.
Điều 8. Hiệu lực thi hành
1. Thông tư liên tịch này có hiệu lực kể từ ngày 01
tháng 3 năm 2016.
2. Vụ việc hôn nhân và gia đình đã được Tòa án thụ
lý trước ngày Thông tư liên tịch này có hiệu lực nhưng kể từ ngày Thông tư liên
tịch này có hiệu lực mới xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì
áp dụng Thông tư liên tịch này để giải quyết.
3. Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật trước ngày Thông tư liên tịch này có hiệu lực thì không áp dụng hướng
dẫn tại Thông tư liên tịch này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Điều 9. Giải thích, sửa đổi, bổ
sung Thông tư liên tịch
Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc cần được
giải thích hoặc cần sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch thì Tòa án nhân dân, Viện
kiểm sát nhân dân các cấp, cơ quan, tổ chức, cá nhân phản ánh với Tòa án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp để giải thích, sửa đổi,
bổ sung kịp thời./.
KT. BỘ TRƯỞNG
BỘ TƯ PHÁP
THỨ TRƯỞNG
Đinh Trung Tụng
|
KT. VIỆN TRƯỞNG
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỐI CAO
PHÓ VIỆN TRƯỞNG
Nguyễn Thị Thủy Khiêm
|
KT. CHÁNH ÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỐI CAO
PHÓ CHÁNH ÁN
Tống Anh Hào
|
Nơi nhận:
- Ủy ban
pháp luật của Quốc hội;
- Ủy ban tư pháp của Quốc hội;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Văn phòng Chính phủ;
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Bộ Tư pháp;
- Công báo (02 bản);
- Lưu: VT (TANDTC, VKSNDTC, BTP).
|