ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH NINH THUẬN
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 17/2017/QĐ-UBND
|
Ninh Thuận, ngày 27
tháng 02 năm 2017
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN HÀNH ĐỀ ÁN CƠ
CẤU LẠI NGÀNH NÔNG NGHIỆP TỈNH NINH THUẬN GẮN VỚI ỨNG PHÓ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN
NĂM 2020 VÀ TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH
NINH THUẬN
Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương
ngày 19 tháng 6 năm 2015;
Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật ngày 22 tháng 6 năm 2015;
Thực hiện Quyết định số 1222/QĐ-TTg ngày 22
tháng 7 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Thuận đến năm 2020;
Thực hiện Quyết định 899/QĐ-TTg ngày 10
tháng 6 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông
nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững;
Thực hiện Quyết định số 2139/QĐ-TTg ngày 05
tháng 12 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược quốc gia về biến
đổi khí hậu;
Thực hiện Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16
tháng 8 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc
gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020;
Thực hiện Quyết định số 1384/QĐ-BNN-KH ngày
18 tháng 6 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban
hành Chương trình hành động thực hiện Đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo
hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững” theo Quyết định số 899/QĐ-TTg
ngày 10 tháng 6 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ;
Thực hiện Quyết định số 819/QĐ-BNN-KHCN
ngày 14 tháng 3 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
về Kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu ngành nông nghiệp và
phát triển nông thôn giai đoạn 2016 - 2020;
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu
Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII nhiệm kỳ 2015 - 2020 và Nghị quyết số
09-NQ/TU ngày 11 tháng 11 năm 2016 của Ban chấp hành Tỉnh ủy về tái cơ
cấu ngành nông nghiệp gắn với ứng phó biến đổi khí hậu đến năm 2020
và tầm nhìn 2030;
Căn cứ Nghị quyết số 73/2016/NQ-HĐND
ngày 19 tháng 12 năm 2016 của Hội đồng nhân dân tỉnh khóa X kỳ họp thứ
3 về cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với ứng phó biến đổi khí hậu
đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030;
Theo đề nghị của Giám đốc Sở Nông nghiệp và
PTNT tại Tờ trình số 20/TTr-SNNPTNT ngày 03 tháng 02 năm 2017.
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành
kèm theo Quyết định này Đề án Cơ cấu lại ngành nông nghiệp tỉnh Ninh
Thuận gắn với ứng phó với biến đổi khí hậu đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030.
Điều 2. Quyết định
này có hiệu lực kể từ ngày 09 tháng 3 năm 2017.
Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh;
Giám đốc các sở, thủ trưởng các ban, ngành thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, Chủ tịch
Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố và thủ trưởng các cơ quan, đơn vị có liên
quan căn cứ Quyết định thi hành./.
|
TM. ỦY BAN
NHÂN DÂN
CHỦ TỊCH
Lưu
Xuân Vĩnh
|
ĐỀ ÁN
CƠ CẤU LẠI NGÀNH NÔNG NGHIỆP TỈNH NINH THUẬN
GẮN VỚI ỨNG PHÓ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN ĂN 2020 VÀ TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
(Ban hành kèm theo Quyết định số 17/2017/QĐ-UBND ngày 27 tháng 02 năm
2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận)
Phần thứ nhất
SỰ CẦN THIẾT, CĂN CỨ PHÁP LÝ VÀ PHẠM VI ĐỀ ÁN
I.
Sự cần thiết
Ngành nông nghiệp có vai trò rất quan
trọng trong phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Ngành nông nghiệp đóng góp
34,9% tổng GDP, tạo công ăn việc làm và thu nhập cho 63,8% dân cư và 44,8% lực
lượng lao động, góp phần xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an ninh lương thực và ổn
định chính trị, xã hội.
Mặc dù là tỉnh có điều kiện tự nhiên
không thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, trong hơn 20 năm qua kể từ khi tái
lập tỉnh vào năm 1992, tỉnh Ninh Thuận đã rất nỗ lực để phát triển nông nghiệp
và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, toàn diện trên các lĩnh vực trồng
trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp, diêm nghiệp, và phát triển nông thôn,
Tốc độ tăng trưởng nông, lâm nghiệp và thủy sản của tỉnh luôn duy trì cao hơn
so với mức bình quân của cả nước trong một thời gian dài; cơ cấu sản xuất
chuyển dịch theo hướng tích cực. Bước đầu hình thành các vùng sản xuất sản phẩm
hàng hóa nông nghiệp chủ lực tập trung theo quy hoạch với những ngành hàng có
lợi thế như: thủy sản và con giống thủy sản, sản xuất giống cây lương thực, cây
ăn quả. Xuất hiện nhiều mô hình liên kết với doanh nghiệp từ sản xuất đến tiêu
thụ theo chuỗi giá trị trong một số ngành hàng như giống thủy sản và giống cây
trồng. Kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất từng bước được củng cố; khoa học, công
nghệ và cơ giới được áp dụng trong sản xuất, bảo quản, chế biến. Thu nhập và
đời sống của người dân nông thôn ngày càng cải thiện.
Tuy nhiên, ngành nông nghiệp vẫn còn tồn tại
một số hạn chế như: Hình thức tổ chức sản xuất thiếu tập trung, chưa hình thành
vùng sản xuất hàng hóa quy mô lớn; chất lượng sản phẩm thiếu tính ổn định; vai
trò của doanh nghiệp trong đầu tư liên kết, hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm còn yếu, chưa hình thành các chuỗi giá trị trong sản xuất; chuyển dịch
cơ cấu nội ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản còn chậm; vệ sinh an toàn thực
phẩm chưa đảm bảo, bảo quản sau thu hoạch và chế biến còn hạn chế; tình trạng ô
nhiễm môi trường trong sản xuất nông nghiệp có xu hướng tăng lên; năng lực
thích ứng với hạn hán, lũ lụt và hoang mạc hóa còn hạn chế trong khi tác động
của biến đổi khí hậu diễn ra trên diện rộng, gay gắt trong những năm gần đây,
ảnh hưởng nghiêm trọng tới sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản. Bên cạnh đó,
thu nhập và đời sống của người dân nông thôn còn gặp nhiều khó khăn.
Những hạn chế trên ảnh hưởng tới hiệu quả, khả
năng cạnh tranh và tính bền vững của ngành nông nghiệp. Tăng trưởng nông nghiệp
đang có xu hướng suy giảm và không ổn định; giai đoạn 2005 - 2009, tăng trưởng
nông, lâm, thủy sản (NLTS) đạt 11,6%; giai đoạn 2011 - 2015, tăng trưởng giảm
xuống còn 3,0%. Tính
cạnh tranh của một số ngành hàng NLTS bị suy giảm như lúa, ngô, cây công
nghiệp, lâm nghiệp và khai thác thủy sản; thu nhập và đời sống của người dân
nông thôn còn gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, tình trạng hạn hán,
hoang mạc hóa diễn ra trên diện rộng dưới tác động của biến đổi khí hậu trong
những năm gần đây gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sản xuất NLTS.
Để giải quyết thách thức trên, nhu cầu tái cơ
cấu ngành nông nghiệp cũng trở nên vô cùng cấp thiết đối với Ninh Thuận. Trong
đó, cần thiết phải điều chỉnh, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, con nuôi,
thời vụ, tái cơ cấu lại đầu tư, tổ chức sản xuất, cơ sở hạ tầng,... để nâng cao
giá trị gia tăng, tăng cường năng lực cạnh tranh, đồng thời ứng phó kịp thời
với biến đổi khí hậu. Đặc biệt, việc chuyển đổi đất lúa một vụ, hiệu quả thấp
sang cây trồng khác hiệu quả hơn, tiết kiệm nước, ứng dụng công nghệ tưới tiết
kiệm nước để hạn chế thiệt hại do hạn hán, đa dạng hóa sản phẩm đáp ứng nhu cầu
thị trường, tăng hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho nông dân là yêu cầu bức
thiết của sản xuất nông nghiệp hiện nay.
Để đáp ứng yêu cầu trước tình hình mới và
tiếp tục thực hiện Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 01 tháng 6 năm 2013 của Thủ
tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng
cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, Chương trình Mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 và Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế
- xã hội của tỉnh đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 và các Chương trình, quy
hoạch, kế hoạch tái cơ cấu của tỉnh; Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIII ban hành
Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 11 tháng 11 năm 2016 về tái cơ cấu ngành nông
nghiệp gắn với thích ứng biến đổi khí hậu đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm
2030; HĐND
tỉnh khóa X ban hành Nghị quyết số 73/2016/NQ-HĐND ngày 19 tháng 12 năm 2016 về
cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với ứng phó biến đổi khí hậu đến năm 2020 và
tầm nhìn đến năm 2030
Nhằm tiếp tục tạo động lực mạnh mẽ cho phát
triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn một cách toàn diện theo hướng hiện đại,
đưa Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, Hội đồng nhân dân tỉnh vào thực
tiễn cuộc sống; Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành “Đề án cơ cấu lại ngành nông
nghiệp gắn với ứng phó với biến đổi khí hậu đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030”.
II.
Căn cứ xây dựng đề án
- Quyết định số 1222/QĐ-TTg ngày 22
tháng 7 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Thuận đến năm 2020;
- Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10
tháng 6 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông
nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững;
- Quyết định số 2139/QĐ-TTg ngày 05
tháng 12 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược quốc gia về biến
đổi khí hậu;
- Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16
tháng 8 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu
Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020;
- Quyết định số 1384/QĐ-BNN-KH ngày 18
tháng 6 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành
Chương trình hành động thực hiện Đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng
nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững” theo Quyết định số 899/QĐ-TTg
ngày 10 tháng 6 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ;
- Quyết định số 819/QĐ-BNN-KHCN ngày
14 tháng 3 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về Kế
hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu ngành nông nghiệp và phát triển
nông thôn giai đoạn 2016 - 2020;
- Nghị quyết Đại hội đại biểu
Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII nhiệm kỳ 2015 - 2020 và Nghị quyết số
09-NQ/TU ngày 11 tháng 11 năm 2016 của Ban chấp hành Tỉnh ủy về tái cơ
cấu ngành nông nghiệp gắn với ứng phó biến đổi khí hậu đến năm 2020
và tầm nhìn 2030;
- Nghị quyết số 73/2016/NQ-HĐND
ngày 19 tháng 12 năm 2016 của Hội đồng nhân dân tỉnh khóa X kỳ họp thứ
3 về cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với ứng phó biến đổi khí hậu
đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
III.
Phạm vi của đề án
Đề án tập trung vào phân tích và đề xuất
các định hướng chính cho tái cơ cấu ngành nông nghiệp, làm cơ sở triển khai các
chương trình hành động lớn của tỉnh. Đề án không nghiên cứu chi tiết các cân
đối hoặc phân bổ nguồn lực cho phát triển nông nghiệp, nông thôn như các báo
cáo quy hoạch hay kế hoạch phát triển mà tỉnh Ninh Thuận đã ban hành và triển
khai thực hiện. Như vậy, Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp Ninh Thuận là đề án
khung, đề án mở và sẽ liên tục được cập nhật sau từng giai đoạn. Để triển
khai đề án này cần tiếp tục nghiên cứu và đề xuất các đề án và kế hoạch chi
tiết cho việc thực hiện trong từng giai đoạn.
Phần thứ 2
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, XÃ HỘI NINH THUẬN
I.
Điều kiện tự nhiên
1. Vị trí địa lý
Ninh Thuận thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ,
phía Bắc giáp tỉnh Khánh Hoà, phía Nam giáp tỉnh Bình Thuận, phía Tây giáp tỉnh
Lâm Đồng và phía Đông giáp biển Đông.
Ninh Thuận có vị trí địa lý thuận lợi cho
phát triển kinh tế - xã hội; nằm trên trục giao thông kết nối với Tây Nguyên,
Đông Nam Bộ và cả nước. Tỉnh có quốc lộ 1A (thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang),
quốc lộ 27 (đi Đà Lạt) và đường sắt Thống Nhất (Hà Nội - thành phố Hồ Chí Minh)
chạy qua. Ngoài ra, Ninh Thuận còn nằm cách sân bay quốc tế Cam Ranh (Khánh Hoà)
khoảng 60 km.
2. Địa hình
Địa hình của tỉnh Ninh Thuận có 3 dạng chính
là núi, đồi gò bán sơn địa và đồng bằng ven biển.
Đồi núi chiếm hơn 63,2% diện tích tự nhiên
toàn tỉnh, chủ yếu là núi thấp, dốc từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam. Địa
hình này phù hợp để phát triển thủy điện quy mô nhỏ kết hợp với thủy lợi; phát
triển du lịch lịch sử, leo núi, cắm trại.
Đồi gò bán sơn địa chiếm 14,4%, có địa hình
lượn sóng xen lẫn các đồi thấp. Đây là vùng có nhiều điều kiện để phát triển
sản xuất nông, lâm kết hợp.
Đồng bằng ven biển chiếm 22,4%, có địa hình
bằng phẳng, ven biển có các đồi cát, cồn cát. Điều kiện địa hình ven biển phù
hợp phát triển sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và sản xuất muối.
3. Khí hậu
Ninh Thuận có khí hậu khô hạn nhất cả nước,
điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình với đặc trưng là khô, nóng, gió
nhiều, bốc hơi mạnh từ 670 - 1.827 mm. Nhiệt độ trung bình năm 27oC,
khí hậu chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 9 - 11; mùa khô từ tháng 12 - 8
năm sau. Lượng mưa trung bình năm 700 - 800 mm ở thành phố Phan Rang - Tháp
Chàm và tăng dần theo độ cao trên 1.100 mm ở vùng miền núi. Độ ẩm không khí từ
75 - 77%, năng lực bức xạ lớn 160 Kcl/m2, tổng nhiệt lượng 9.500 -
10.000oC, nhiệt độ nước biển trung bình 28 - 29oC; độ mặn
trung bình 32,5 - 33 ppt.
Tuy vậy, khí hậu khô hạn cũng tạo điều kiện
thích hợp cho sự phát triển của một số ngành hàng NLTS đặc thù như nho, táo,
tỏi, bò, dê, cừu, giống cây lương thực (lúa, ngô) và muối.
4. Tài nguyên thiên nhiên
4.1. Đất đai
Hiện trạng đến 31/12/2014, tổng quỹ đất của
tỉnh có hơn 335,5 nghìn ha. Trong đó, đất nông nghiệp chiếm 83,24%; đất phi
nông nghiệp chiếm 9,08%; đất chưa sử dụng chiếm 7,68%, chủ yếu là đất núi đá
không có rừng cây, đất đồi núi và đất bằng chưa sử dụng.
Chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng diện tích
đất tự nhiên của tỉnh là nhóm đất đỏ vàng, khá giàu dinh dưỡng nhưng phân bố
chủ yếu trên địa hình núi cao, độ dốc lớn, tầng đất mỏng, địa hình rất phức tạp
(chiếm 48,5% diện tích tự nhiên). Nhóm đất đỏ và đất xám nâu bán khô hạn chiếm
28,5%
diện
tích đất tự nhiên (chiếm tỷ trọng lớn thứ 2 trong tổng diện tích đất tự nhiên)
là nhóm đất nghèo dinh dưỡng, nằm trên vùng cao, địa hình phức tạp, khả năng
cung cấp nước tưới rất hạn chế. Diện tích đất phù sa, đất dốc tụ có chất
lượng khá tốt, thích hợp với nhiều cây trồng chỉ có 25,3 ngàn ha, chiếm 7,6%
tổng diện tích đất tự nhiên của toàn tỉnh.
4.2. Nước
Nguồn nước phân bổ không đều, tập trung chủ
yếu ở khu vực phía Bắc và trung tâm tỉnh. Tài nguyên nước mặt và nước ngầm của
tỉnh rất hạn chế, lượng mưa ít nhưng lượng bốc hơi lớn. Nguồn nước ngầm chỉ
bằng 1/3 mức bình quân cả nước.
a) Nguồn nước mặt
Tổng các lưu vực sông của tỉnh Ninh thuận khá
lớn, theo thống kê tổng lưu vực các sông chính là 3.600km2, với tổng
chiều dài 430km. Trong đó, có trên 70% sông suối trong tỉnh thuộc loại suối nhỏ
(diện tích lưu vực nhỏ dưới 100km2) và gần 76% sông suối có chiều
dài dưới 25km.
Hai hệ thống sông chính của tỉnh gồm:
- Hệ thống sông Cái và các sông nhánh bao
gồm: sông Ma Lâm, sông Sắt, sông Ông, sông Chu ở vùng trung lưu (huyện Ninh
Sơn), sông Lu, sông Quao ở vùng hạ lưu (huyện Ninh Phước);
- Hệ thống các sông suối nhỏ: phân bố ở phía
Bắc và phía Nam tỉnh như sông Quán Thẻ (huyện Ninh Phước), sông Trâu, suối Bà
Râu (huyện Ninh Hải).
Nhìn chung hệ thống sông suối ngắn và dốc, độ
dốc bình quân lưu vực từ 7 - 15%, mật độ sông từ 0,16 - 0,6km/km2.
Nguồn nước phân bố không đều theo thời gian và không gian, tập trung chủ yếu ở
khu vực trung tâm, còn vùng phía Nam, phía Bắc và vùng ven biển thiếu nước
nghiêm trọng. Ngoài hệ thống sông ngòi tỉnh cũng có các hệ thống hồ, đầm chứa
nước khác như Đầm Nại, nguồn nước trong đầm gồm nước biển và nước ngọt từ các
kênh mương dẫn vào đầm;
- Nguồn nước mặn từ vịnh Phan Rang là nơi
trực tiếp trao đổi nước mặn với Đầm Nại thông qua một con lạch dài khoảng 2km.
Lượng nước trao đổi giữa đầm với vịnh Phan Rang phụ thuộc lớn vào chế độ thủy triều;
- Nguồn nước ngọt: Đầm Nại nhận nước ngọt từ
các kênh mương: Đông Nha, Mương Mê, Ngòi Quạ, Đồng Lớn, Gò Thao, Mương Tháo,
T5, Lê Đình Chinh,...
b) Nguồn nước ngầm
Xét về điều kiện địa chất, thủy văn, tiềm
năng nước ngầm của tỉnh Ninh Thuận rất thấp so với các nơi khác (chỉ bằng 1/3
so với mức bình quân cả nước), bị nhiễm mặn, thiếu nước cho sản xuất và sinh
hoạt vùng ven biển.
Trữ lượng khai thác nước tối đa ở lưu vực
sông Cái là 29.756m3/ngày tương đương 10,86 triệu m3/năm.
Do hạn chế về sử dụng nước mưa và nước mặt đặc biệt trong mùa khô kéo dài nhu
cầu nước cho tỉnh Ninh Thuận là vấn đề ưu tiên cần xử lý.
4.3. Biển
Bờ biển dài 105km với vùng đặc quyền kinh tế
24.480km2, lãnh hải nội thủy rộng khoảng 1.800km2, nằm
trong vùng nước trồi, có các cửa ra biển là Đông Hải, Cà Ná, Ninh Chữ, Vĩnh Hy.
Tại vùng nước trồi, các chất dinh dưỡng và thực vật phù du xuất hiện nơi bề mặt
được tiếp xúc với bức xạ mặt trời, sẽ kích hoạt quá trình quang hợp, tạo thức
ăn phong phú cho động vật biển. Đây là điều kiện thuận lợi cho phát triển nuôi
trồng thủy sản, đặc biệt là giống thủy sản.
Vùng biển và ven bờ biển có điều kiện rất
thuận lợi để phát triển khai thác và đánh bắt hải sản, nuôi trồng thủy sản
(nuôi mặn, lợ, giống thủy sản), sản xuất muối. Ngư trường Ninh Thuận có thể
khai thác quanh năm, được xác định là một trong 4 ngư trường trọng điểm của cả
nước.
Toàn tỉnh có khoảng 3.000 - 4.000 ha diện
tích mặt nước lợ, mặn gồm các đầm, vịnh; thích hợp cho nuôi trồng thủy sản tập
trung như Đầm Nại, An Hải, Sơn Hải, Phú Thọ; phát triển loại hình nuôi lồng, bè
ở các đầm vịnh ven biển như đầm Vĩnh Hy có độ sâu ổn định từ 1 - 5m, có thể
nuôi các loại hải sản có giá trị kinh tế cao như: Tôm hùm, cá mú, rong sụn,
nhuyễn thể. Thêm nữa, nhờ nhiệt độ ổn định từ 28 - 30oC, độ mặn cao
và ổn định từ 32 - 35oC, môi trường biển sạch nên đáp ứng điều kiện
sản xuất giống tập trung quy mô lớn.
Diện tích đất có khả năng mở rộng để sản xuất
muối từ 4.000 - 5.000 ha, sản lượng 400 - 500 nghìn tấn, tập trung ở vùng Đầm
Vua - Nhơn Hải, Trí Hải, Khánh Hải, Cà Ná, Quán Thẻ.
II.
Tình hình phát triển kinh tế, xã hội
1. Tình hình phát triển kinh tế
1.1. Tốc độ tăng trưởng
Ninh Thuận đã duy trì được tốc độ tăng trưởng
kinh tế và khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản cao hơn so với cả nước trong
giai đoạn 2011 - 2015. Trong giai đoạn này, tăng trưởng GDP của Ninh Thuận (theo
giá so sánh 2010) đạt 8,7%; cao hơn 1,5 lần so với tốc độ tăng trưởng 5,8% của
cả nước trong cùng giai đoạn. Trong đó, khu vực NLTS tăng trưởng 3,0%; cao hơn
1,1 lần so với tốc độ tăng trưởng 2,8% của cả nước.
Khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đạt
tăng trưởng lần lượt 11,9% và 10,8%, cao hơn so tốc độ tăng trưởng lần lượt
7,1% và 6,5% của cả nước. Tuy nhiên, tăng trưởng đang có xu hướng suy
giảm và không ổn định, giai đoạn 2005 - 2009, tăng trưởng kinh tế và NLTS đạt
lần lượt 13,3% và 11,6%; giai đoạn 2011 - 2015, tăng trưởng giảm còn lần lượt
8,7% và 3,0%.
1.2. Cơ cấu kinh tế
Tổng GDP của Ninh Thuận (theo giá hiện hành)
năm 2015 đạt 17.227,7 tỷ đồng, trong đó: Khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng cao
nhất (37,9% GDP); đứng thứ hai là khu vực NLTS chiếm 34,9% GDP; khu vực công
nghiệp và xây dựng đóng góp 20,1% GDP; còn lại là thuế nhập khẩu khoảng 7% GDP.
Trong cơ cấu GDP của cả nước, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm
17% GDP; đứng đầu là khu vực dịch vụ, chiếm 39,7% GDP; thứ đến là khu vực công
nghiệp và xây dựng, chiếm 33,2% GDP.
Quy mô nền kinh tế của Ninh Thuận so với các
tỉnh trong khu vực còn thấp. Nếu tính về số tuyệt đối, GDP của Ninh Thuận chỉ
bằng 36,1% bình quân toàn vùng, GDP bình quân đầu người năm 2014 là 26,8 triệu
đồng/người, chỉ bằng khoảng 60% mức bình quân của Việt Nam. Cơ cấu kinh tế của
tỉnh vẫn lệ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp, tỷ trọng của khu vực NLTS (34,9%) trong cơ cấu
kinh tế của Ninh Thuận cao gấp hơn 2 lần so với mức bình quân cả nước (17%).
Chuyển dịch cơ cấu GDP trong giai đoạn
2011-2015 diễn ra theo hướng tích cực nhưng khu vực NLTS vẫn còn chiếm tỷ trọng
lớn, NLTS giảm 6,1% từ 41% năm 2011 còn 34,9% năm 2015. Công nghiệp và xây dựng
tăng 0,8% từ 18,7% lên 20,1%; dịch vụ tăng 3,3% từ 34,6% lên 37,9%.
Các nguồn lợi thế kinh tế của tỉnh chủ yếu
tồn tại dưới dạng các nguồn tài nguyên tự nhiên, có tiềm năng trong phát triển
các dự án trọng điểm về công nghiệp năng lượng, NLTS và diêm nghiệp.
2. Nguồn nhân lực
2.1. Dân số
Ninh Thuận có quy mô dân số tương đối nhỏ so
với các tỉnh thuộc Duyên Hải Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ. Dân số trung bình
tỉnh Ninh Thuận năm 2015 đạt 595.850 người. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm nhẹ
từ 1,21% năm 2011 còn 1,17% năm 2015; tỷ lệ dân số đô thị trong tổng dân số
chung tăng nhẹ từ 36,10% năm 2011 lên 36,21% năm 2015. Điều này phản ánh tốc độ
đô thị hóa của Ninh Thuận diễn ra tương đối chậm.
Mật độ dân số trung bình toàn tỉnh năm 2015
là 177,6 người/km2, dân số phân bố không đồng đều, tập trung chủ yếu
ở thành phố, thị trấn, đồng bằng ven biển, gần các trục đường giao thông. Vùng
miền núi đất rộng, người thưa, mật độ dân số khoảng 25 người/km2.
2.2. Lao động
Dân số trong độ tuổi lao động năm 2015 có
343.084 người, chiếm 57,6% tổng dân số; lao động đang làm việc trong nền kinh
tế đã tăng từ 302.967 người năm 2011 lên 330.122 người năm 2015.
Cơ cấu sử dụng lao động theo hướng tăng dần
lao động tham gia vào các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, trong tỷ trọng lao
động hoạt động trong các ngành kinh tế quốc dân thì tỷ lệ lao động trong khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm dần từ 46,6% năm 2011 còn 44,8% năm 2015;
chuyển dịch lao động sang khu vực phi nông nghiệp tăng dần từ 53,4% năm 2011
lên 55,2% năm 2015.
Lao động qua đào tạo bình quân 2011 - 2015
đạt 43,9%, trong đó lao động qua đào tạo nghề là 25,9%; lực lượng lao động chưa
qua đào tạo chủ yếu lao động khu vực nông, lâm và thủy sản.
3. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
3.1. Giao thông
Mật
độ đường của tỉnh Ninh Thuận còn thấp so với trung bình cả nước, bình quân là
0,24km/km2 và 1,61km/1.000 dân. Tuy nhiên, hạ tầng giao thông của
tỉnh đang được hoàn thiện nhanh chóng trong thời gian gần đây; toàn tỉnh hiện
có 1.200 km đường giao thông các loại, tăng gấp 4 lần so với thời điểm mới tái
lập tỉnh. Dự án nâng cấp Quốc lộ 1A qua địa bàn Ninh Thuận và tuyến đường ven
biển Bình Tiên - Cà Ná đã hoàn thành làm tăng tính kết nối giao thông và mang lại
nhiều lợi ích cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh như mở ra hướng liên kết
vùng trong phát triển kinh tế.
Mạng lưới đường đô thị đang được nâng cấp, mở
rộng, nhất là ở thành phố Phan Rang - Tháp Chàm; 100% số xã trong toàn tỉnh có
đường ô tô có thể đến trung tâm xã và có thể lưu thông quanh năm.
Hệ thống cảng bao gồm cảng cá Đông Hải với
cầu tàu dài 265m, Cà Ná dài 200 m, Ninh Chữ dài 120m và Bến cá Mỹ Tân. Đây là
những nơi trú đậu cho tàu thuyền đánh cá trong và ngoài tỉnh vào trú bão an
toàn, có khả năng neo đậu trên 3.000 tàu cá, có quy mô công suất trên 600 CV.
3.2. Thủy lợi
Hệ thống thủy lợi của tỉnh Ninh Thuận bao gồm
có các công trình hồ chứa, công trình tưới bằng đập dâng và công trình tưới
bằng trạm bơm:
- Các công trình hồ chứa: trên địa bàn tỉnh
có hơn 21 hồ chứa đã hoàn thành đưa vào sử dụng với tổng dung tích hồ là 215,81
triệu m3, góp phần nâng tổng số diện tích được chủ động tưới toàn
tỉnh đạt 34.791 ha, đạt tỷ lệ 49,7%;
- Các công trình tưới có sử dụng lượng nước
xả của nhà máy thủy điện Đa Nhim: đây là một tập hợp hệ thống các công trình
thủy lợi bao gồm có hồ Đơn Dương và nhà máy thủy điện Đa Nhim, Đập 19-5, hệ
thống Đập Krông Pha và hệ thống đập Nha Trinh - Lâm Cấm. Tổng lượng nước xả của
nhà máy thủy điện Đa Nhim xuống sông Ông với tần suất xả 75% là 471 triệu m3.
Đây là một lượng nước rất quý sử dụng để tưới và dùng cho các nhu cầu khác của
tỉnh Ninh Thuận, nhất là vùng đồng bằng ven biển. Hệ thống thủy lợi đập dâng
19-5 có năng lực tưới thiết kế là 350 ha, phục vụ tưới cho 300 ha thuộc xã Lâm
Sơn, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận. Hệ thống thủy lợi Krông Pha có năng lực
tưới thiết kế cho 3.200 ha, diện tích tưới thực tế của hệ thống này năm 2013 là
2.528 ha, trong đó tưới lúa là 1.576 ha, tưới màu các loại là 952 ha. Hệ thống
đập Nha Trinh Lâm Cấm có năng lực tưới thiết kế là 12.800 ha. Năm 2013 tổng
diện tích tưới của hệ thống Nha Trinh - Lâm Cấm là 11.570 ha đạt 90% diện tích
thiết kế; trong đó tưới lúa là 8.070 ha, tưới màu là 3.187 ha và cấp nước phục
vụ nuôi trồng thủy sản là 313 ha;
- Các công trình tưới bằng đập dâng: ngoài
các hệ thống thủy lợi đập 19/5, đập Krông Pha và đập Nha Trinh - Lâm Cấm sử
dụng nguồn nước xả qua nhà máy thủy điện Đa Nhim, trên địa bàn tỉnh Ninh thuận
còn có 57 đập dâng xây dựng trên các nhánh sông suối nhỏ cấp nước tưới cho
1.334 ha.
Ngoài ra, trên hệ thống Nha Trinh - Lâm Cấm
còn có các công trình cấp nước sinh hoạt cho nhân dân như nhà máy nước Phan
Rang - Tháp Chàm cấp cho thành phố Phan Rang - Tháp Chàm và thị trấn Khánh Hải
thuộc huyện Ninh Hải công suất 52.000 m3/ngày; nhà máy nước Phước
Nam công suất 10.000 m3/ngày cấp cho các xã Phước Nam, Phước Ninh,
Phước Minh, Phước Diêm và Cà Ná thuộc huyện Thuận Nam. Tổng diện tích tưới theo
thiết kế của các công trình đập dâng này (không bao gồm các hệ thống 19/5,
Krông Pha, và Nha Trinh - Lâm Cấm) là 7,705 ha, trong đó diện tích tưới thực tế
là 6.338 ha;
- Các công trình tưới bằng trạm bơm: trong hệ
thống thủy nông Nha Trinh - Lâm Cấm có một số khu cao cục bộ không thể tưới tự
chảy được mà phải dùng bơm. Đến nay số trạm bơm lấy nước từ kênh là 9 trạm với
diện tích tưới thiết kế là 1.257 ha, diện tích thực tưới năm cao nhất đạt 1.207
ha.
3.3. Khu, cụm công nghiệp
Ninh Thuận có 4 khu công nghiệp (KCN) và 7
cụm công nghiệp (CCN). Tổng diện tích các khu và cụm công nghiệp theo quy hoạch
đến năm 2020 là 1.908,9 ha. Các khu công nghiệp bao gồm: Phước Nam (370 ha), Du
Long (407 ha), Cà Ná (827,2 ha) và Thành Hải (77,9 ha). Các cụm công nghiệp bao
gồm: Hiếu Thiện (50 ha), Tháp Chàm (23,5 ha), Quảng Sơn (50,2 ha), Tri Hải (25
ha), chế biến thủy sản (17 ha), Phước Tiến (40 ha), Titan (21 ha).
Các dự án chế biến thực phẩm, nông lâm sản;
chế biến các sản phẩm sau muối, sản phẩm tiểu thủ công nghiệp và làng nghề
truyền thống, hàng tiêu dùng được khuyến khích phát triển ở KCN Thành Hải, KCN
Du Long, KCN Cà Ná, KCN Phước Nam, CCN Phước Tiến, CCN Quảng Sơn, CCN Tri
Hải.Chế biến thủy sản sẽ khuyến khích phát triển ở CCN chế biến thủy sản tại xã
Phước Minh, huyện Thuận Nam.
3.4. Làng nghề
Ninh Thuận có 3 làng nghề đã được công nhận ở
thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, gồm làng gốm Bàu Trúc ở làng Bàu Trúc,
các làng Dệt thổ cẩm Chăm ở làng Mỹ Nghiệp và làng Chung Mỹ.
Ninh Thuận đang tiếp tục hỗ trợ xây dựng,
phát triển để hình thành các làng nghề dệt chiếu cói An Thạnh; chế biến nước
mắm Lạc Sơn 2 - Cà Ná; chế biến hải sản Mỹ Tân - Thanh Hải; thủ công mỹ nghệ từ
hạt cây rừng thôn Cầu Gãy - Vĩnh Hải; sản xuất chổi Lâm Hoà - Lâm Sơn; đan lát
sản phẩm mỹ nghệ thôn Ma Nai - Phước Thành và thôn Tập Lá - Phước Chiến.
3.5. Chợ, siêu thị, trung tâm thương mại
Ninh Thuận có 101 chợ, trong đó: 01 chợ hạng
1, 08 chợ hạng 2 và 92 chợ hạng 3. Chợ Phan Rang nằm ở thành phố Phan Rang - Tháp
Chàm là chợ hạng 1 duy nhất trong tỉnh; công tác chuyển đổi mô hình quản lý chợ
sang doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh, khai thác, quản lý chợ còn nhiều khó
khăn và chưa thực hiện được do hiệu quả kinh doanh, khai thác chợ chưa cao,
chưa thu hút các thành phần kinh tế tham gia cộng thêm với nhiều tiểu thương ở
một số chợ dự kiến chuyển đổi mô hình quản lý chưa hoàn toàn đồng thuận.
Ngoài các chợ truyền thống, Ninh Thuận có 01
siêu thị của Coop-Mart, 01 siêu thị sách Thành Nghĩa và 01 trung tâm thương mại
Maximark Phan Rang.
Phần thứ ba
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH NÔNG NGHIỆP TỈNH NINH THUẬN
I.
Tổng quan chung
1. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu nông, lâm nghiệp và thủy
sản
Nông nghiệp và thủy sản là hai ngành có đóng
góp chủ yếu cho giá trị sản xuất. Năm 2015, giá trị sản xuất khu vực NLTS (theo
giá hiện hành) đạt 12.431,2 tỷ đồng; trong đó, giá trị sản xuất nông nghiệp
đứng đầu, đạt 6.430,3 tỷ đồng, chiếm 51,7% tổng giá trị sản xuất toàn ngành;
thủy sản đạt 5.965,9 tỷ đồng, chiếm 48% và lâm nghiệp đạt 35 tỷ đồng, chiếm
0,3%.
Thủy sản đang giữ vai trò đầu tầu tăng
trưởng. Trong giai đoạn 2011 - 2015, tăng trưởng giá trị sản xuất khu vực NLTS
(theo giá so sánh 2010) đạt 3,3% hàng năm; trong đó, tăng trưởng giá trị sản
xuất nông nghiệp đạt 1,8%, lâm nghiệp -10,2% và thủy sản đạt 5,1%.
Chuyển dịch cơ cấu trong giai đoạn 2011 - 2015
diễn ra theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, lâm nghiệp; tăng tỷ trọng
ngành thủy sản. Đóng góp của nông nghiệp trong giá trị sản xuất của khu vực
NLTS (theo giá hiện hành) đã giảm 1,5% từ 53,2% xuống 51,7%. Tương tự, lâm
nghiệp giảm giảm 0,2% từ 0,5% còn 0,3%; ngược lại, thủy sản tăng 1,6% từ 46,4%
lên 48%.
2. Nguồn lực cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
2.1. Vốn đầu tư
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn của
tỉnh Ninh Thuận năm 2015 (theo giá hiện hành) là 7.004,5 tỷ đồng; trong đó đầu
tư cho khu vực NLTS là 778,4 tỷ đồng, chiếm 11,11% tổng vốn đầu tư.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội (bao gồm vốn đầu
tư cho khu vực NLTS), chủ yếu là vốn từ địa phương (91,7%); trong đó vốn khu
vực Nhà nước chiếm 50,5% (gồm: Vốn ngân sách Nhà nước 24,1%, vốn huy động khác
19,6%, vốn vay 6,7% và vốn tự có doanh nghiệp Nhà nước 0,14%), vốn khu vực
ngoài Nhà nước 48,1% (gồm: vốn doanh nghiệp 25,5% và vốn dân cư 22,6%), vốn khu
vực đầu tư trực tiếp ngoài chiếm ít (1,4%).
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho khu vực NLTS
của tỉnh bình quân giai đoạn 2011 - 15 thấp hơn 1,6 lần so với cả nước. Giá trị
sản xuất (theo giá so sánh 2010) tạo ra trên 1 đồng vốn đầu tư vào khu vực NLTS
của tỉnh là 10,47 đồng trong khi mức trung bình của cả nước là 16,46 đồng.
2.2. Đất nông nghiệp
Theo số liệu tổng kiểm kê diện tích đất đai
đến ngày 31 tháng 12 năm 2014, tổng diện tích đất nông nghiệp của tỉnh Ninh
Thuận là 279.303,63 ha, chiếm 83,2% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong tổng
diện tích đất nông nghiệp, đất sản xuất nông nghiệp chiếm 30%, đất lâm nghiệp
chiếm 67,7%, đất nuôi trồng thủy sản chiếm 0,7%, đất làm muối chiếm 1,4% và đất
nông nghiệp khác chiếm 0,2%.
Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp của tỉnh
bình quân giai đoạn 2011-15 cũng tương đương so với cả nước; giá trị sản xuất
(theo giá so sánh 2010) tạo ra trên 1 ha đất nông nghiệp của tỉnh là 29,59
triệu đồng, trong khi mức trung bình của cả nước là 28,94 triệu đồng.
2.3. Lao động NLTS
Số lượng lao động tham gia vào sản xuất NLTS
đã tăng dần từ 134.780 người năm 2011 đến 155.893 người năm 2015.
Năng suất lao động NLTS của tỉnh bình quân
giai đoạn 2011 - 2015 cao hơn 1,7 lần so với cả nước. Giá trị sản xuất (theo
giá so sánh 2010) tạo ra bởi 1 lao động NLTS của tỉnh là 55,67 triệu đồng so
với mức 31,85 triệu đồng trung bình của cả nước.
3. Các thành phần kinh tế nông thôn và liên kết
3.1. Kinh tế hộ
Kinh tế hộ vẫn đóng vai trò chủ đạo trong sản
xuất NLTS. Theo tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2011, Ninh
Thuận có 87.972 hộ nông thôn, trong đó: 58.501 hộ NLTS (66,5%), 8.709 hộ công
nghiệp và xây dựng (9,9%), 16.891 hộ dịch vụ (19,2%) và 3.871 hộ khác (4,4%).
Các hộ nông thôn sử dụng đến 97% diện tích đất sản xuất nông nghiệp, 94% diện
tích đất nuôi trồng thủy sản, 43% diện tích đất làm muối.
Đa số hộ NLTS có quy mô sản xuất nhỏ, trong tổng
số hộ, 88,4% số lao động từ 1 - 3 người; 91,5% sử dụng diện tích đất sản xuất
nông, lâm nghiệp và thủy sản nhỏ hơn 2 ha.
3.2. Kinh tế trang trại
Mặc dù còn một số hạn chế, kinh tế trang trại
đang từng bước phát triển. Số lượng trang trại đã tăng từ 45 năm 2011 lên 67
năm 2015. Trong số 67 trang trại hiện nay, có 39 trang trại chăn nuôi, 16 trang
trại nuôi trồng thủy sản, 10 trang trại trồng cây hàng năm và 2 trang trại
trồng cây lâu năm.
Theo địa bàn, số lượng các trang trại phân bố
ở huyện Ninh Sơn (29), Thuận Nam (16), Bác Ái (12), Ninh Phước (5), Thuận Bắc
(3), và thành phố Phan Rang - Tháp Chàm (2).
3.3. Kinh tế hợp tác
Kinh tế hợp tác đang ngày càng đóng vai trò
quan trọng trong sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản. Năm 2015, Ninh Thuận có
52 hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và 1 hợp tác
xã ngư nghiệp; tổng số thành viên của các hợp tác xã là 16.769 người. Bên cạnh
hợp tác xã, tỉnh cũng có 1.040 tổ hợp tác, nhóm cùng sở thích, trong đó: nông
nghiệp có 193 tổ hợp tác, diêm nghiệp có 2 tổ hợp tác và 220 nhóm cùng sở
thích, thủy sản có 549 tổ hợp tác, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp có 76 tổ hợp
tác; tổng số thành viên của các tổ hợp tác, nhóm cùng sở thích lên đến hơn
11.000 hộ gia đình.
Tuy kinh tế hợp tác có phát triển nhưng hình
thức và chất lượng chưa cao, hoạt động của hợp tác xã phần lớn tập trung vào
việc cung cấp đầu vào, việc tổ chức sản xuất và phát triển thị trường còn hạn
chế.
3.4. Doanh nghiệp
Số lượng doanh nghiệp trong ngành NLTS tăng
nhanh từ 70 năm 2011 đến 184 năm 2015. Trong số 184 doanh nghiệp hiện nay, có
161 doanh nghiệp khai thác, nuôi trồng thủy sản (87,5%), 9 doanh nghiệp nông
nghiệp (10,3%) và 4 doanh nghiệp lâm nghiệp (2,2%).
Số lượng doanh nghiệp hoạt động trong những
ngành công nghiệp phụ trợ và liên quan đến NLTS có biến động nhưng không lớn
trong cùng giai đoạn. Số lượng doanh nghiệp trong các ngành này hiện nay như
sau: Doanh nghiệp sản xuất, chế biến thực phẩm (30), doanh nghiệp sản xuất đồ
uống (6), doanh nghiệp chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tre, nứa (15),
doanh nghiệp sản xuất đồ nội thất (12), doanh nghiệp sản xuất giấy và các sản
phẩm từ giấy (1), doanh nghiệp dịch vụ ăn uống (23).
Đại đa số doanh nghiệp nông, lâm nghiệp và
thủy sản có quy mô nhỏ và vừa. Về lao động, 68,5% có dưới 10 lao động, 30,4% có
từ 10 đến dưới 200 lao động, chỉ 1,1% có 200 đến dưới 300 lao động. Về vốn,
89,7% có dưới 10 tỷ đồng, 8,2% có từ 10 đến dưới 50 tỷ đồng, 1,1% có từ 50 đến
dưới 200 tỷ đồng, chỉ 1% có trên 200 tỷ đồng.
3.5. Liên kết sản xuất - tiêu thụ
Đối với liên kết ngang, số lượng giữa các hộ
gia đình, cá nhân cung cấp dịch vụ nông nghiệp; sản xuất nông, lâm nghiệp và
thủy sản, sản xuất tiểu thủ công nghiệp liên kết với nhau để hình thành các
hình thức kinh tế hợp tác như hợp tác xã, tổ hợp tác, nhóm sở thích ngày càng
tăng lên.
Đối với liên kết dọc, đã hình thành liên kết
giữa doanh nghiệp sản xuất, chế biến, kinh doanh nông sản với các hợp tác xã,
tổ hợp tác, nhóm cùng sở thích và hộ nông dân trong các một số mặt hàng, ví dụ
như mía đường, thuốc lá, sắn, nho, dê cừu, tôm thương phẩm, giống cây trồng,
rau an toàn, táo. Hình thức liên kết thông qua hợp đồng nông sản, trong đó,
doanh nghiệp cam kết bao tiêu sản phẩm đầu ra, hỗ trợ vốn đầu tư, kỹ thuật; hợp
tác xã, tổ hợp tác, nhóm cùng sở thích, hộ nông dân cam kết sản xuất theo đúng
yêu cầu số lượng và chất lượng của doanh nghiệp.
Tuy liên kết giữa sản xuất với tiêu thụ trong
chuỗi giá trị nông, lâm nghiệp và thủy sản đã có những bước phát triển đáng ghi
nhận nhưng việc liên kết, hình thành chuỗi sản xuất, tiêu thụ, tiếp thị và xây
dựng thương hiệu cho nông sản còn hạn chế. Tỷ lệ sản phẩm được tiêu thụ thông
qua hợp đồng chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ; những vướng mắc trong thúc đẩy liên kết
chủ yếu là do quy mô sản xuất nhỏ, manh mún nên khó thu hút doanh nghiệp đầu tư
xây dựng liên kết. Ngoài ra, việc đảm bảo thực thi hợp đồng giữa các bên còn
hạn chế (rất khó xử phạt khi các bên phá vỡ hợp đồng); trình độ sản xuất của hộ
nông dân còn hạn chế nên sản phẩm còn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của hợp đồng;
hợp tác xã, tổ hợp tác chưa thực sự là đầu mối hiệu quả cho hoạt động liên kết
với doanh nghiệp.
II.
Nông nghiệp
Trồng trọt đóng góp chủ yếu vào giá trị sản
xuất ngành nông nghiệp, đứng sau là chăn nuôi. Năm 2015, giá trị sản xuất ngành
nông nghiệp (theo giá hiện hành) đạt 6.430,3 tỷ đồng; trong đó, giá trị sản
xuất tiểu ngành trồng trọt đứng đầu, đạt 4.210,5 tỷ đồng, chiếm 65,5% tổng giá
trị sản xuất toàn ngành; chăn nuôi đạt 1.942,7 tỷ đồng, chiếm 30,2%; dịch vụ và
hoạt động khác đạt 277,1 tỷ đồng, chiếm 4,3%. Tiểu ngành trồng trọt dẫn dắt
tăng trưởng ngành nông nghiệp; trong giai đoạn 2011 - 2015, tăng trưởng giá trị
sản xuất ngành nông nghiệp (theo giá so sánh 2010) đạt 1,8% hàng năm, trong đó
tăng trưởng giá trị sản xuất tiểu ngành trồng trọt đạt 3,1%, chăn nuôi -0,9%,
dịch vụ và hoạt động khác đạt 0,2%.
Chuyển dịch cơ cấu trong giai đoạn 2011-2015
diễn ra theo hướng giảm tỷ trọng của chăn nuôi, dịch vụ và hoạt động khác; tăng
tỷ trọng của trồng trọt. Đóng góp của chăn nuôi trong giá trị sản xuất ngành nông
nghiệp (theo giá hiện hành) đã giảm 0,7% từ 30,9% xuống 30,2%. Tương tự, dịch
vụ và hoạt động khác giảm 0,5% từ 4,8% còn 4,3%. Ngược lại, trồng trọt tăng
1,3% từ 64,2% lên 65,5%.
1. Trồng trọt
Cây lương thực, cây ăn quả và cây rau đậu
đóng góp đến 87% giá trị sản xuất tiểu ngành trồng trọt. Năm 2015, giá trị sản
xuất tiểu ngành trồng trọt (theo giá hiện hành) đạt 4.210,5 tỷ đồng. Trong đó,
giá trị sản xuất cây lương thực có hạt đứng đầu, đạt 1.569,4 tỷ đồng, chiếm
37,3% tổng giá trị sản xuất tiểu ngành trồng trọt; thứ đến là cây ăn quả, đạt
1.333,8 tỷ đồng, chiếm 31,7%; cây rau đậu đạt 740,2 tỷ đồng, chiếm 17,6%; cây
công nghiệp hàng năm đạt 173,3 tỷ đồng, chiếm 4,1%; cuối cùng là cây công
nghiệp lâu năm đạt 36,8 tỷ đồng, chiếm 0,9%.
Cây ăn quả và cây rau đậu góp phần dẫn dắt
tăng trưởng của tiểu ngành trồng trọt, bù đắp cho sự suy giảm của cây lương
thực. Trong giai đoạn 2011 - 2015, tăng trưởng giá trị sản xuất tiểu ngành
trồng trọt (theo giá so sánh 2010) đạt 3,1% hàng năm; trong đó, tăng trưởng giá
trị sản xuất cây lương thực có hạt -1,1%, cây ăn quả đạt 18,1%, cây rau, đậu
8%, cây công nghiệp hàng năm -2 % và cây công nghiệp lâu năm 0,2%.
Chuyển dịch cơ cấu trong giai đoạn 2011 - 2015
diễn ra theo hướng giảm tỷ trọng của cây lương thực, cây công nghiệp; tăng tỷ
trọng của cây ăn quả, cây rau đậu. Đóng góp của cây lương thực trong giá trị
sản xuất tiểu ngành trồng trọt (theo giá hiện hành) đã giảm 18,3% từ 55,6% còn
37,3%. Cây công nghiệp (hàng năm và lâu năm) giảm 1,6% từ 6,6% xuống 5%. Ngược
lại, cây ăn quả tăng 18,6% từ 13,1% lên 31,9%; cây rau đậu tăng 4,6% từ 13% lên
17,6%.
Thách thức chính đối với phát triển ngành
trồng trọt bao gồm: (i) Tình trạng khô hạn kéo dài dẫn tới suy giảm diện tích
và năng suất của nhiều loại cây trồng. Năng suất nhiều loại cây trồng như cây
lương thực và cây công nghiệp còn thấp so với mức bình quân của cả nước; (ii)
Tình trạng đất đai manh mún, quy mô nhỏ hạn chế phát triển sản xuất quy mô lớn,
áp dụng khoa học kỹ thuật và thu hút đầu tư của doanh nghiệp vào liên kết sản xuất
- tiêu thụ; (iii) Chưa chủ động được giống cây trồng có chất lượng đối với một
số cây trồng chủ lực như nho và táo; (iv) Hệ thống thủy lợi còn nhiều hạn chế.
Nhiều vùng sản xuất vẫn chưa được tưới tiêu chủ động; (v) Quỹ đất trồng trọt
ngày càng thu hẹp do biến đổi khí hậu (tình trạng thiếu nước tưới và sa mạc hóa);
sự phát triển của công nghiệp - dịch vụ và quá trình đô thị hóa.
1.1. Cây lương thực
Cây lương thực bao gồm lúa và ngô, sử dụng
làm lương thực (lúa thương phẩm, ngô nếp thương phẩm), thức ăn chăn nuôi (ngô
lai thương phẩm), làm giống (lúa giống, ngô giống). Ngoài ra, phụ phẩm từ trồng
lúa, ngô như rơm rạ, thân ngô cũng được sử dụng để làm thức ăn chăn nuôi.
Diện tích lúa cả năm đạt 37.258 ha, năng suất
đạt 6 tấn/ha, sản lượng đạt 224.608 tấn năm 2015. Trong giai đoạn 2011 - 2015,
diện tích lúa giảm 1% hàng năm nhưng nhờ năng suất tăng 1,9% hàng năm nên sản
lượng vẫn duy trì mức tăng 0,9% hàng năm. Cây lúa trồng tập trung ở các huyện
Ninh Phước, Ninh Sơn, Ninh Hải.
Diện tích ngô cả năm đạt 11.755 ha, năng suất
đạt 4,1 tấn/ha, sản lượng đạt 48.680 tấn trong năm 2015. Trong giai đoạn 2011-
2015, diện tích ngô giảm 7,1% hàng năm nhưng nhờ năng suất tăng 3,7% hàng năm
nên sản lượng chỉ giảm 3,7% hàng năm. Cây ngô được trồng tập trung ở các huyện
Ninh Sơn, Bác Ái, Ninh Phước, Thuận Bắc.
Chuỗi giá trị lúa, ngô giống có sự liên kết
chặt chẽ giữa nông dân và doanh nghiệp. Chuỗi giá trị lúa giống có sự tham gia
của: (i) Các doanh nghiệp giống cây trồng tự sản xuất giống; (ii) Doanh nghiệp
giống cây trồng liên kết với hộ nông dân để cùng sản xuất. Các doanh nghiệp
tham gia sản xuất giống lớn gồm Công ty Cổ phần Giống Nha Hố, Công ty Cổ phần
Giống Đông Nam, Công ty Cổ phần Chăn nuôi CP Việt Nam. Trong khi đó, chuỗi giá
trị lúa, ngô thương phẩm có liên kết rất lỏng lẻo giữa các tác nhân, hệ thống
sản xuất phần lớn chỉ có sự tham gia của nông dân quy mô nhỏ.
Tình hình hạn hán gay gắt diễn ra trong năm
2015 đã dẫn đến suy giảm diện tích gieo trồng lúa, ngô (13% - 16%), năng suất
suy giảm (1% - 4%), sản lượng suy giảm (16% - 17%) so với năm 2014. Đây chính
là nguyên nhân kéo giảm tăng trưởng của cây lúa, ngô trong giai đoạn 5 năm vừa
qua.
Ninh Thuận không có lợi thế so sánh đối với
sản xuất lúa thương phẩm (so với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng
sông Hồng) và ngô thương phẩm (so với các tỉnh Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu
Long). Nguyên nhân là do: (i) Khí hậu khô hạn không thuận lợi cho sản xuất lúa,
ngô thương phẩm; (ii) Hệ thống thủy lợi còn hạn chế. Nhiều vùng vẫn chưa
được tưới tiêu chủ động, nhất là các khu vực miền núi, khu vực tưới bằng các
công trình thủy lợi nhỏ và những vùng trũng thấp thường bị ngập lụt vào mùa
mưa; (iii) Quy mô sản xuất nhỏ, manh mún: 27,3% số hộ trồng lúa có quy mô nhỏ
hơn 0,2 ha; 48,88% có quy mô từ 0,2 đến dưới 0,5 ha; 22,45% có quy mô từ 0,5
đến dưới 2 ha và chỉ 1,64% có quy mô lớn hơn 2 ha.
Tuy nhiên, Ninh Thuận có lợi thế so sánh cao
trong sản xuất lúa, ngô giống (so với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Đồng
bằng sông Hồng, Tây Nguyên, và Đông Nam Bộ). Khí hậu khô hạn rất thích hợp với
sản xuất lúa, ngô giống nhờ hạn chế dịch bệnh; hiện đã có các doanh nghiệp sản
xuất giống cây trồng mạnh và liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp với hợp tác
xã, hộ nông dân trong sản xuất giống.
1.2. Cây có củ
Cây có củ bao gồm sắn (mì) và khoai lang,
trong đó sắn chiếm gần 98% diện tích thu hoạch và sản lượng cây có củ.
Năm 2015, diện tích gieo trồng mới sắn đạt
2.801 tấn, diện tích thu hoạch đạt 3.232 tấn, năng suất đạt 22,8 tấn/ha và sản
lượng sắn thu hoạch đạt 73.690 tấn. Trong giai đoạn 2011 - 2015, diện tích gieo
trồng mới sắn giảm 2,2% hàng năm nhưng diện tích thu hoạch tăng 6,9% hàng năm
cộng với năng suất tăng 1,4% hàng năm đã giúp sản lượng sắn tăng 8,4% hàng năm.
Cây sắn được trồng tập trung ở các huyện Ninh Sơn, Bác Ái.
Thị trường tiêu thụ sắn chủ yếu là trong
tỉnh, trong đó có 1 công ty thu mua sắn chế biến tinh bột mì (Fodocev) và một
số cơ sở thu mua sắn để sắt lát, phơi khô làm nguyên liệu chế biến thức ăn chăn
nuôi.
Ninh Thuận có ít lợi thế xét về điều kiện tự
nhiên và sự phát triển của ngành chế biến trong phát triển ngành hàng sắn so
với các tỉnh Tây Nguyên, Đông Nam Bộ. Tình hình hạn hán gay gắt diễn ra trong
năm 2015 đã dẫn đến suy giảm diện tích gieo trồng mới sắn 13%, diện tích thu
hoạch giảm 1,9%, năng suất suy giảm 2,4%, sản lượng suy giảm 4,2% so với năm
2014.
1.3. Cây ăn quả
Các cây ăn quả chủ yếu của Ninh Thuận bao gồm
nho, táo, xoài, vải, chôm chôm, cam, quýt, nhãn. Trong đó, nho, táo đã chiếm
đến 80% diện tích gieo trồng và thu hoạch hiện có; 90% tổng sản lượng cây ăn
quả. Nho và táo sử dụng chủ yếu để ăn tươi, ngoài ra cũng chế biến thành các
sản phẩm như rượu nho, mật nho; nho, táo sấy. Thân, lá nho, táo khi cắt tỉa
cành cũng được tận dụng làm thức ăn cho dê, cừu; thị trường tiêu thụ nho, táo
chủ yếu là trong nước.
Năm 2015, diện tích gieo trồng nho, táo đạt
lần lượt 1.226 ha và 950 ha; diện tích thu hoạch đạt lần lượt 997 ha và 901 ha;
sản lượng đạt lần lượt 30.078 tấn và 39.943 tấn. Trong giai đoạn 2011 - 2015,
diện tích gieo trồng nho tăng 16,7%, trong khi táo giảm 0,9%; diện tích thu
hoạch nho, táo đều tăng lần lượt 14,6% và 6,7%; sản lượng nho, táo tăng lần
lượt 20,7% và 20,2%.
Cây nho, táo được trồng tập trung ở các huyện
Ninh Phước, Ninh Hải và thành phố Phan Rang - Tháp Chàm. Diện tích trồng nho,
táo tập trung nhiều ở các huyện đồng bằng ven biển có điều kiện thủy lợi tốt,
ít bị ngập úng cộng với diện tích cho thu hoạch tăng đã giảm bớt tác động của
hạn hán đến sản lượng của hai loại cây này trong năm 2015 so với năm 2014.
Hình thức canh tác nho, táo chỉ có một loại
là trồng theo dàn lưới, sử dụng cả cho nho đỏ (Red Cardinal), nho xanh
(NH-0148) và táo. Hộ trồng nho, táo có thể dễ dàng chuyển đổi hai loại cây
trồng này cho nhau. Cây nho, táo được trồng chủ yếu bởi các hộ dân với quy mô
dao động 0,1 - 3 ha; hiện nay, chưa có doanh nghiệp tham gia trồng nho, táo.
Sản xuất, chế biến nho có hai công ty chế
biến rượu nho lớn là Công ty Vang nho Thăng Long và Công ty Thực phẩm Lâm Đồng.
Ngoài ra, có các cơ sở sản xuất nhỏ dưới dạng hộ gia đình và doanh nghiệp tư
nhân cũng tham gia chế biến các sản phẩm từ nho. Số lượng doanh nghiệp tư nhân
khoảng vài chục, các hộ sản xuất khoảng 200 hộ. Tuy nhiên, hiện nay khoảng 70%
nho Ninh Thuận vẫn là để ăn tươi, chưa có doanh nghiệp tham gia sản xuất, chế
biến táo; chủ yếu các hộ gia đình có sấy táo nhưng chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong
tổng sản lượng sản xuất.
Ninh Thuận có lợi thế so sánh cao đối với
trồng nho, táo so với các tỉnh khác trong cả nước; nho và táo là những sản phẩm
đặc thù của Ninh Thuận, cây nho phù hợp với điều kiện khí hậu thời tiết của
tỉnh và khu vực phía bắc tỉnh Bình Thuận; diện tích gieo trồng nho vùng Nam
Trung Bộ, chiếm tới 99,8% tổng sản lượng nho cả nước thì trong đó sản lượng nho
từ Ninh Thuận đã chiếm tới 97%. Tương tự, giống táo xanh đã được nhân giống và
trồng ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ như Bến Tre, Tiền Giang, Long An, Vĩnh Long và
sau đó phổ biến đến các tỉnh Nam Trung Bộ mà đặc biệt nhiều nhất ở tỉnh Ninh
Thuận nhờ phù hợp với đặc tính chịu hạn khá tốt, thích hợp tại những khu vực
khô cằn, nắng nhiều.
Sức ép cạnh tranh đối với nho, táo Ninh Thuận
chủ yếu đến từ nho, táo nhập khẩu. Tuy nhiên, nho vẫn đang cạnh tranh tốt với
các sản phẩm nho nhập khẩu do giá nho Ninh Thuận chỉ bằng ½ so với nho nhập từ
Mỹ, Úc. Nho Trung Quốc có mức giá tương đương nhưng gặp phải rào cản lớn về
nhận thức của người tiêu dùng Việt Nam hiện nay đối với vệ sinh an toàn thực
phẩm của các sản phẩm từ Trung Quốc. Táo Ninh Thuận cũng không cạnh tranh trực
tiếp với các giống táo quả to nhập khẩu từ Mỹ, Australia, New Zealand, Canada,
Trung Quốc.
Ngoài ra, tỉnh cũng đã xây dựng được các chỉ
dẫn địa lý, thương hiệu tập thể “Nho Ninh Thuận” và “Táo Ninh Thuận”. Nho Việt
Nam đã gắn chặt với Ninh Thuận trong nhận thức của người tiêu dùng.
1.4. Cây rau, đậu các loại, hoa cây cảnh
Trong nhóm cây rau, đậu các loại và hoa cây
cảnh, diện tích trồng rau, đậu các loại chiếm hơn 99%, hoa cây cảnh chiếm chưa
đầy 1%. Các loại rau, đậu được trồng phổ biến như rau lấy lá (rau muống, cải,
v.v.), rau lấy quả (dưa hấu, dưa chuột, ớt, cà chua,...), rau lấy củ, rễ hoặc
thân (cà rốt, hành tỏi,...), trong đó có hành tỏi là một trong những cây rau
nổi bật của Ninh Thuận. Cây rau, đậu các loại được trồng tập trung ở các huyện
Ninh Phước, Ninh Sơn và thành phố Phan Rang - Tháp Chàm.
Năm 2015, diện tích gieo trồng rau, đậu các
loại đạt 11.015 ha, năng suất rau đạt 11,4 tấn/ha, sản lượng đạt 125.512 tấn.
Trong giai đoạn 2011 - 2015, diện tích trồng rau đã giảm 6% hàng năm nhưng năng
suất tăng 22,4% hàng năm đưa sản lượng tăng 15,1% hàng năm. Hạn hán gay gắt
trong năm 2015 đã làm diện tích trồng rau giảm 8% so với năm 2014, tuy nhiên
năng suất tăng 13,8% đã giúp sản lượng tăng 4%.
Cây rau được trồng theo phương pháp thâm
canh, một số mô hình đã áp dụng trồng rau theo tiêu chuẩn VietGAP, tuy nhiên
còn ở quy mô nhỏ. Về tổ chức sản xuất, các hộ nông dân sản xuất nhỏ đóng vai
trò chính trong trồng rau, đậu; bên cạnh đó, có một số hợp tác xã tham gia sản
xuất rau sạch.
Ninh Thuận không có lợi thế so sánh đối với
các loại rau, đậu thích hợp với khí hậu ôn đới (so với Lâm Đồng ở Tây Nguyên
hay các tỉnh Tây Bắc) nhưng có lợi thế so sánh cao với các loại rau, đậu nhiệt
đới. Điều kiện khí hậu khô hạn của Ninh Thuận không phù hợp với nhiều loại rau
vốn thường đòi hỏi khí hậu ôn hòa, mát mẻ, nguồn nước dồi dào. Tuy nhiên, có
một số loại rau - gia vị phù hợp với điều kiện khô hạn này như cây hành, tỏi.
Đặc biệt, cây hành, tỏi được cho là có dược tính cao nhờ hàm lượng allicin,
glucogen,aliin, fitonxit, các vitamin và các nguyên tố vi lượng cao gấp nhiều
lần tỏi thông thường, dưới tác động của khí hậu khô hạn, khắc nghiệt. Tuy chưa
nổi bật như tỏi Lý Sơn (Quảng Ngãi) nhưng tỏi cũng là loại rau đặc sản của Ninh
Thuận bắt đầu được người tiêu dùng biết đến. Tỉnh cũng đã xây dựng nhãn hiệu
tập thể “Tỏi Phan Rang”.
1.5. Cây công nghiệp hàng năm
Cây công nghiệp hàng năm bao gồm mía, thuốc
lá, cây lấy sợi và cây có hạt chứa dầu; trong đó, cây mía chiếm 67% diện tích,
99% sản lượng.
Cây mía được trồng thâm canh ở các huyện Ninh
Sơn và Bác Ái, diện tích trồng mía năm 2015 đạt 2.972 ha, năng suất đạt 51,8
tấn/ha, sản lượng đạt 160.940 tấn. Trong giai đoạn 2011 - 2015, diện tích trồng
mía tăng 3% hàng năm, năng suất lại giảm 0,9% hàng năm, sản lượng tăng 7,1%
hàng năm. Hiện nay, có hai doanh nghiệp tham gia sản xuất, chế biến các sản
phẩm từ mía đường là Công ty CP đường Biên Hoà Phan Rang và Công ty mía đường
Ninh Hoà. Hai công ty này liên kết với các hộ trồng mía, bao gồm cả các hộ quy
mô sản xuất nhỏ và quy mô lớn đến 50 - 70 ha.
Cây thuốc lá được trồng thâm canh ở các huyện
Ninh Sơn, Ninh Phước, diện tích gieo trồng thuốc lá năm 2015 đạt 373 ha, năng
suất đạt 2,6 tấn/ha, sản lượng đạt 842 tấn. Trong giai đoạn 2011 - 2015, diện
tích trồng thuốc lá giảm 14,4% hàng năm, năng suất giảm 2,7% hàng năm, sản
lượng giảm 16,7% hàng năm. Cây thuốc lá được trồng để cung cấp nguyên liệu cho
Công ty Hồng Việt và một công ty nhỏ tham gia sản xuất, chế biến thuốc lá. Tuy
nhiên, các công ty này có số lượng ít vì phải được cấp phép đặc biệt mới được
tham gia vào ngành kinh doanh này. Hai công ty cũng liên kết với các hộ trồng
thuốc lá, chủ yếu là hộ sản xuất quy mô nhỏ.
Cây có hạt chứa dầu chủ yếu là đậu tương,
lạc, vừng được trồng cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh. Cây có hạt chứa
dầu được trồng tập trung ở các huyện Ninh Sơn, Ninh Phước. Diện tích trồng cây
có hạt chứa dầu năm 2015 đạt 1.064 ha, năng suất bình quân đạt 0,9 tấn/ha, sản
lượng đạt 966 tấn. Trong giai đoạn 2011 - 2015, diện tích trồng cây có hạt chứa
dầu tăng 3,9% hàng năm, năng suất tăng 12,4% hàng năm, sản lượng tăng 16,6% hàng
năm.
Ninh Thuận có ít lợi thế so sánh xét về điều
kiện tự nhiên và sự phát triển của ngành chế biến đối với mía, thuốc lá, đặc
biệt là so với một số tỉnh có truyền thống về trồng và chế biến mía đường (Thanh
Hóa, Nghệ An, Phú Yên, Khánh Hòa, Gia Lai, Dak Lak, Tây Ninh, Đồng Nai) hay
thuốc lá (Lạng Sơn, Cao Bằng, Gia Lai, Tây Ninh). Hạn hán gay gắt trong năm
2015 đã ảnh hưởng tiêu cực đến diện tích, năng suất, sản lượng của mía, thuốc
lá, cây có hạt chứa dầu so với năm 2014. Diện tích trồng mía giảm 1,4%, năng
suất giảm 7,9%, sản lượng giảm 2,9%; diện tích trồng thuốc lá giảm 11,4%, năng
suất giảm 0,6%, sản lượng giảm 22,1%. Diện tích trồng cây có hạt chứa dầu giảm
20,4% nhưng năng suất tăng 0,4% đã giúp sản lượng duy trì mức tăng 4,6% (cả
giai đoạn 5 năm tăng bình quân 16,6% hàng năm).
1.6. Cây công nghiệp lâu năm
Cây công nghiệp lâu năm bao gồm có điều, cà
phê, hồ tiêu. Trong đó, cây điều chiếm 82% diện tích gieo trồng, 99% diện tích
thu hoạch, và 94% sản lượng cây công nghiệp lâu năm.
Cây điều được trồng tập trung ở các huyện Bác
Ái, Thuận Bắc, Ninh Sơn. Cây điều vốn được trồng với mục đích phủ xanh đất
trống theo phương pháp quảng canh là chủ yếu. Diện tích gieo trồng điều năm
2015 đạt 3.923 ha, diện tích thu hoạch đạt 2.957 ha, sản lượng thu hoạch đạt
1.196 tấn. Trong giai đoạn 2011-15, diện tích gieo trồng điều tăng trưởng 0,9%
hàng năm, diện tích thu hoạch giảm 3,1% hàng năm, sản lượng giảm 4,2% hàng năm.
1.7. Cây trồng khác
Ngoài các cây hàng năm và lâu năm đề cập ở
trên, một số loại cây trồng khác cũng có tiềm năng phát triển như cây lô hội
(nha đam), cây măng tây và một số cây trồng mới khác.
Cây lô hội là cây dược liệu, trồng được quanh
năm, khai thác 12 lần/năm. Cây lô hội chịu được thời tiết khắc nghiệt, sinh
trưởng mạnh ở vùng đất cát, đất pha cát ven biển. Cây lô hội không những đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng ở địa phương mà còn được tiêu thụ cả ở Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh, vùng lân cận và xuất khẩu. Hiện nay, Ninh Thuận có Công ty cổ phần Thực
phẩm Cánh Đồng Việt thu mua và chế biến lô hội, công suất 3.600 tấn/năm thành
phẩm.
Lô hội được trồng tập trung ở thành phố Phan
Rang - Tháp Chàm (343ha), các huyện Ninh Phước (37ha), Thuận Bắc (2ha). Diện
tích tích trồng lô hội năm 2015 đạt 387ha, năng suất 39 tấn/ha/tháng, sản lượng
đạt 181.116 tấn/ha/năm. Tuy nhiên, diện tích trồng lô hội có mức dao động hàng
năm lớn từ 200 - 400ha, năng suất không ổn định dao động từ 35 - 39
tấn/ha/tháng.
2.
Chăn nuôi
Trong chăn nuôi, giá trị sản xuất phân bổ khá
đồng đều giữa các loại vật nuôi. Năm 2015, giá trị sản xuất tiểu ngành chăn
nuôi (theo giá hiện hành) đạt 1.942,7 tỷ đồng. Trong đó, giá trị sản xuất chăn
nuôi lợn đạt 578,4 tỷ đồng, chiếm 29,8%; chăn nuôi gia cầm đạt 490,4 tỷ đồng,
chiếm 25,2%; chăn nuôi trâu, bò đạt 450 tỷ đồng, chiếm 23,2% và chăn nuôi vật
nuôi khác (dê, cừu) đạt 423,9 tỷ đồng, chiếm 21,8%.
Duy nhất chăn nuôi lợn duy trì tăng trưởng,
chăn nuôi gia cầm, trâu, bò, dê, cừu đều suy giảm. Trong giai đoạn 2011 - 2015,
tăng trưởng giá trị sản xuất tiểu ngành chăn nuôi (theo giá so sánh 2010) giảm
0,9% hàng năm; trong đó, tăng trưởng giá trị sản xuất chăn nuôi lợn đạt 5,2%,
chăn nuôi gia cầm -1,9%, chăn nuôi trâu, bò -3,7% và chăn nuôi vật nuôi khác
(dê, cừu) -3,6%.
Chuyển dịch cơ cấu trong giai đoạn 2011 - 2015
diễn ra theo hướng giảm tỷ trọng của chăn nuôi gia cầm, lợn; tăng tỷ trọng của
chăn nuôi trâu, bò, dê, cừu. Đóng góp của của chăn nuôi gia cầm trong giá trị
sản xuất của tiểu ngành chăn nuôi (theo giá hiện hành) đã giảm 5,8% từ 31%
xuống 25,2%; chăn nuôi lợn đã giảm 0,4% từ 30,2% còn 29,8%. Trái lại, chăn nuôi
trâu, bò tăng 3,3% từ 19,9% lên 23,2%, chăn nuôi dê, cừu tăng 2,9% từ 18,9% lên
21,8%.
Ninh Thuận là địa phương có thế mạnh phát
triển đàn dê, cừu chiếm trên 10% cả nước và trên 33% so với vùng Bắc trung bộ
và Duyên hải Miền Trung. Trong đó, đàn cừu là đặc thù của tỉnh, chiếm 100% tổng
đàn cừu cả nước. Theo đó, các vật nuôi của tỉnh có lợi thế so sánh gồm bò, dê,
cừu. Ở Việt Nam, cừu chỉ được nuôi ở tỉnh duy nhất là Ninh Thuận; về dê, tuy
chưa nổi tiếng tiếng như dê Ninh Bình nhưng dê Ninh Thuận cũng có chất lượng
ngon và bắt đầu được người tiêu dùng tại các khu vực lân cận biết đến. Về bò,
địa phương phát triển được đàn bò vàng có chất lượng thịt ngon, đồng thời giống
bò vàng địa phương có khả năng chống chịu rất tốt với điều kiện khô hạn. Ninh
Thuận có điều kiện tự nhiên, khí hậu rất thuận lợi cho chăn nuôi bò thịt, dê,
cừu; địa hình đồi núi và đồi gò bán sơn địa chiếm gần 78% diện tích tự nhiên
toàn tỉnh rất thích hợp cho hoạt động chăn thả gia súc. Bên cạnh đó, khí hậu
khô, nóng gần như quanh năm cũng tạo thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển
của các loại gia súc này.
Hiện nay, khó khăn chính trong phát triển
ngành chăn nuôi của Ninh Thuận là tình trạng hạn hán kéo dài dẫn đến thiếu thức
ăn xanh và nước uống cho đàn gia súc. Tình trạng gia súc chết do thiếu thức ăn
xanh và nước uống đã xảy ra trên diện rộng. Năm 2015, tổng đàn gia súc bị chết
do khô hạn là 2.515 con, trong đó trâu bò 239 con, dê, cừu 2.276 con; phải di
chuyển 17.778 con từ những vùng hạn nặng đến những vùng dọc sông, suối. Ngoài
ra, đa số hộ chăn nuôi ở Ninh Thuận có quy mô nhỏ, gây khó khăn trong cơ giới hóa
và ứng dụng khoa học công nghệ trong chăn nuôi, nhiều hộ chăn nuôi thiếu kỹ
thuật, thiếu thị trường.
2.1. Lợn
Năm 2015, tổng đàn lợn đạt 81.306 con, sản
lượng thịt lợn hơi xuất chuồng đạt 10.555 tấn. Trong giai đoạn 2011 - 2015, đàn
lợn tăng trưởng 8,7% hàng năm; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng tăng 4,1%
hàng năm. Chăn nuôi lợn tập trung ở các huyện Ninh Phước, Bác Ái và Ninh Hải.
Các giống lợn được chăn nuôi ở Ninh Thuận bao
gồm lợn lai và lợn bản địa, trong đó chủ yếu là chăn nuôi lợn lai. Chăn nuôi
lợn lai theo phương pháp thâm canh, sử dụng toàn bộ thức ăn hỗn hợp, chuồng
trại khép kín; chăn nuôi lợn bản địa chủ yếu sử dụng phương pháp quảng canh
hoặc bán thâm canh, tận dụng các sản phẩm trồng trọt (lá khoai, sắn, thân
chuối,...) kết hợp với thức ăn hỗn hợp, chăn thả hoàn toàn hoặc kết hợp chăn
thả với nuôi nhốt.
Đối với chăn nuôi lợn lai, vai trò của doanh
nghiệp hiện nay khá lớn, ước tính tổng đàn lợn chăn nuôi theo hình thức liên
kết giữa doanh nghiệp (Công ty CP Việt Nam) và hộ chăn nuôi nhỏ chiếm khoảng
50% tổng đàn; đối với chăn nuôi lợn bản địa, các hộ chăn nuôi nhỏ tham gia là
chủ yếu.
2.2. Gia cầm
Năm 2015, tổng đàn gia cầm đạt 1.353 nghìn
con, trong đó gà 873 nghìn con và vịt, ngan, ngỗng 480 nghìn con; sản lượng
thịt gia cầm giết bán đạt 3.708 tấn, trong đó thịt gà 2.107 tấn. Trong giai
đoạn 2011 - 2015, tổng đàn gia cầm giảm 6,2% hàng năm, trong đó tổng đàn gà vẫn
tăng 2,9% hàng năm nhưng tổng đàn vịt, ngan, ngỗng giảm 16,1% hàng năm; sản
lượng thịt gia cầm giết bán giảm 4,5% hàng năm, trong đó gà giảm 5,6% hàng năm.
Chăn nuôi gia cầm tập trung ở các huyện Ninh Phước, Thuận Nam, Ninh Hải và
thành phố Phan Rang - Tháp Chàm. Về tổ chức sản xuất, các hộ chăn nuôi quy mô
nhỏ vẫn đóng vai trò chủ yếu trong chăn nuôi gia cầm.
Hạn hán gay gắt năm 2015 đã có ảnh hưởng tiêu
cực rõ rệt đến tổng đàn gia cầm, nguyên nhân tổng đàn thủy cầm (vịt, ngan,
ngỗng) giảm bởi thiếu diện tích mặt nước; tổng đàn chăn nuôi gia cầm đã giảm
14,7%, trong đó đàn thủy cầm giảm 34,7% so với năm 2014. Đáng lưu ý, sản lượng
thịt gia cầm xuất chuồng đều giảm rất mạnh trong năm 2015 lên đến 21,1%, trong
đó sản lượng thịt gà xuất chuồng giảm đến 29,9% trong khi tổng đàn gà vẫn tăng
2,5% so với 2014.
2.3. Trâu, bò
Năm 2015, tổng đàn trâu, bò đạt 95.353 con,
trong đó bò 91.700 con và trâu 3.653 con; sản lượng thịt trâu, bò hơi xuất
chuồng đạt 5.284 tấn, trong đó thịt bò 5.057 tấn và thịt trâu 227 tấn. Trong
giai đoạn 2011 - 2015, tổng đàn trâu, bò đã giảm 3,4% hàng năm, trong đó bò
giảm 3,4% hàng năm và trâu giảm 3,6% hàng năm. Tương tự, sản lượng thịt trâu,
bò hơi xuất chuồng giảm 9,4% hàng năm, trong đó thịt bò giảm 9,7% hàng năm,
thịt trâu giảm 0,5% hàng năm. Chăn nuôi trâu, bò tập trung ở các huyện Bác Ái,
Ninh Phước, Thuận Bắc.
Hình thức chăn nuôi trâu, bò chủ yếu là chăn
nuôi quảng canh, nguồn thức ăn dựa chủ yếu vào đồng cỏ kết hợp với phụ phẩm từ
trồng trọt như rơm rạ, thân ngô. Hiện nay, chăn nuôi trâu, bò bắt đầu sử dụng
thức ăn tổng hợp để vỗ béo những cũng còn khá hạn chế; các hộ chăn nuôi quy mô
nhỏ vẫn đóng vai trò chủ yếu trong chăn nuôi trâu, bò.
Hạn hán gay gắt năm 2015 có ảnh hưởng tiêu
cực đến sự phát triển của đàn trâu, bò. Tuy tổng đàn trâu, bò vẫn tăng 8,1% so
với năm 2014 nhờ tăng trưởng đàn bò 8,6% nhưng sản lượng thịt trâu, bò hơi xuất
chuồng đều giảm mạnh lần lượt 23,7% và 5,7%. Nguyên nhân chính là do ảnh hưởng
của khô hạn kéo dài nên lượng thức ăn và nước uống không đủ để phát triển đàn
trâu, bò thịt dẫn đến số lượng bò xuất chuồng giảm.
2.4. Dê, cừu
Năm 2015, tổng đàn chăn nuôi dê, cừu đạt
178.165 con, trong đó dê 82.633 con và cừu 95.532 con. Trong giai đoạn 2011 - 2015,
tăng trưởng tổng đàn dê, cừu đạt 5,9% hàng năm, trong đó dê tăng trưởng 8,7%
hàng năm và cừu tăng trưởng 3,7% hàng năm.
Chăn nuôi dê, cừu hoàn toàn theo phương pháp
quảng canh, sử dụng đồng cỏ, bụi cây tự nhiên kết hợp với phụ phẩm trồng trọt
như thân, cành, lá nho, táo; các hộ chăn nuôi quy mô nhỏ vẫn đóng vai trò chủ
yếu trong chăn nuôi dê, cừu. Chăn nuôi dê, cừu tập trung ở các huyện Ninh
Phước, Thuận Nam, Ninh Hải.
2.5. Giết mổ: tỉnh hiện có 07 lò giết mổ gia
súc, gia cầm theo phương thức bán công nghiệp và 66 điểm giết mổ gia súc, gia
cầm theo phương thức thủ công. Tỷ lệ gia súc, gia cầm giết mổ có kiểm soát
khoảng 70%, còn lại 30% chưa được kiểm soát.
2.6. Thức ăn chăn nuôi
Nguồn cỏ tự nhiên và các phụ phẩm của ngành
trồng trọt hàng năm chỉ đáp ứng được 34 - 35% nhu cầu thức ăn chăn nuôi cho đàn
gia súc có sừng của tỉnh; trong đó, nguồn cỏ tự nhiên đáp ứng được 23 - 24% nhu
cầu. Nguồn cỏ tự nhiên chủ yếu dựa vào diện tích đất lâm nghiệp, ước khoảng 35 -
40 nghìn ha. Nguồn phụ phẩm ngành trồng trọt đáp ứng được 11 - 12% nhu cầu,
nguồn phụ phẩm trồng trọt chủ yếu là rơm, rạ, thân, cành, lá của lúa, ngô, nho,
táo có thể tận dụng làm thức ăn cho gia súc có sừng. Nhu cầu về đồng cỏ để phát
triển chăn nuôi gia súc có sừng của tỉnh Ninh Thuận rất lớn, tuy tỉnh đã có quy
hoạch đồng cỏ cho phát triển chăn nuôi nhưng việc thực hiện vẫn còn gặp nhiều
khó khăn về vốn, đất canh tác, thiếu nước khô hạn kéo dài.
III.
Lâm nghiệp
Khai thác gỗ và lâm sản khác vẫn đóng vai trò
chính trong giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp. Năm 2015, giá trị sản xuất ngành
lâm nghiệp (theo giá hiện hành) đạt 35 tỷ đồng; trong đó, giá trị sản xuất của
hoạt động khai thác gỗ và lâm sản khác đạt 27 tỷ đồng, chiếm 77,1%; giá trị sản
xuất của hoạt động trồng và chăm sóc rừng đạt 6,1 tỷ đồng, chiếm 17,4%; thu
nhặt sản phẩm từ rừng không phải gỗ và lâm sản khác đạt 1,8 tỷ đồng, chiếm 5,1%;
dịch vụ lâm nghiệp đạt 0,1 tỷ đồng, chiếm 0,3%.
Khai thác gỗ, lâm sản khác, trồng và chăm sóc
rừng suy giảm, thu nhặt sản phẩm từ rừng và dịch vụ lâm nghiệp tăng trưởng.
Trong giai đoạn 2011 - 2015, tăng trưởng giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp
(theo giá so sánh 2010) giảm 10,2% hàng năm. Trong đó, tăng trưởng giá trị sản
xuất khai thác gỗ và lâm sản khác giảm 12,4%; trồng và chăm sóc rừng giảm 3,9%;
thu nhặt sản phẩm từ rừng không phải gỗ và lâm sản khác đạt 2,2%; dịch vụ lâm
nghiệp không tăng trưởng.
Chuyển dịch cơ cấu ngành lâm nghiệp trong
giai đoạn 2011 - 2015 diễn ra theo hướng giảm tỷ trọng của khai thác gỗ và lâm
sản khác, trồng và chăm sóc rừng; tăng tỷ trọng của thu nhặt sản phẩm từ rừng
không phải gỗ và lâm sản khác, dịch vụ lâm nghiệp. Đóng góp của của khai thác
gỗ và lâm sản khác trong giá trị sản xuất của ngành lâm nghiệp (theo giá hiện
hành) đã giảm 1,6% (từ 78,7% xuống 77,1%); trồng và chăm sóc rừng giảm 0,2% (từ
17,6% xuống 17,4%). Ngược lại, thu nhặt sản phẩm từ rừng không phải gỗ và lâm sản
khác đã tăng 1,7% (từ 3,5% lên 5,1%); dịch vụ lâm nghiệp tăng 0,1% (từ 0,2% lên
0,3%).
Ngành lâm nghiệp hiện đang gặp nhiều khó
khăn, thách thức cản trở sự phát triển của ngành. Công tác quy hoạch còn có sự
chồng chéo giữa các quy hoạch ngành là những cản trở chính ảnh hưởng trực tiếp
đến công tác bảo vệ và phát triển rừng. Sự phối hợp giữa các ngành liên quan
đến sử dụng đất lâm nghiệp ở nhiều nơi còn chưa chặt chẽ. Suất đầu tư cho công
tác trồng rừng còn thấp, do vậy độ che phủ rừng không được đảm bảo, người dân
chưa thực sự gắn bó với việc trồng rừng. Diện tích đất lâm nghiệp ở một số nơi
vẫn bị suy giảm do chuyển mục đích sử dụng đất lâm nghiệp sang các mục đích sử
dụng khác, lấn chiếm đất lâm nghiệp trái phép để sản xuất nông nghiệp. Xác định
các đối tượng rừng đưa vào khoanh nuôi còn chưa đúng nên kết quả thực hiện diện
khoanh nuôi nhiều nhưng chưa thực sự hiệu quả; thực hiện cải tạo rừng đã làm
đúng quy định nhưng tiến độ còn chậm. Chính sách hưởng lợi từ rừng theo Quyết
định số 178/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ còn nhiều bất cập, khó thực
hiện nên chậm triển khai vào thực tiễn; công tác nghiên cứu và bố trí cơ cấu
giống trồng rừng tập trung chủ yếu các loài cây mọc nhanh, chưa phát triển các
loại cây lâu năm, cây gỗ quý. Một số cơ chế chính sách như thuê môi trường
rừng, quản lý rừng đa mục tiêu, định giá rừng, còn chậm được triển khai.
1. Khai thác gỗ và lâm sản khác
Gỗ và lâm sản khác ngoài gỗ bao gồm có gỗ
rừng tự nhiên, gỗ rừng trồng, củi, tre, song mây và măng tươi. Gỗ được sử dụng
chủ yếu để làm củi, dăm gỗ, cọc chống xây dựng, ván bóc, gỗ xẻ. Các sản phẩm sơ
chế này lại được sử dụng để làm ván MDF, đồ nội thất, đóng tàu thuyền, sử dụng
trong các công trình xây dựng. Ước tính 80% gỗ sử dụng để phục vụ cho các nhu
cầu dân dụng và các công trình xây dựng, đóng tàu; 20% sử dụng làm đồ nội thất
như bàn, ghế, tủ, … và hàng thủ công mỹ nghệ. Tre và song mây chủ yếu sử dụng
làm hàng thủ công mỹ nghệ, măng tươi được chế biến làm thực phẩm.
Thị trường tiêu thụ đối với các sản phẩm gỗ
và lâm sản khác này chủ yếu ở trong tỉnh, sản lượng gỗ khai thác từ rừng chưa
đủ để đáp ứng nhu cầu trong tỉnh. Trước năm 2015, 50% nguyên liệu gỗ cung ứng
cho các doanh nghiệp/cơ sở kinh doanh, chế biến gỗ trong tỉnh đến từ khai thác
rừng tự nhiên. Hiện nay, khoảng 90% nguyên liệu gỗ cung ứng nhập từ các tỉnh
ngoài do Ninh Thuận thực hiện chính sách đóng của rừng tự nhiên. Nguyên nhân
chính là diện tích rừng trồng mới chỉ chiếm 6,4% tổng diện tích rừng hiện có,
còn lại diện tích rừng tự nhiên.
Năm 2015, Ninh Thuận có 445 doanh nghiệp/cơ
sở kinh doanh, chế biến gỗ; tập trung ở huyện Ninh Sơn, thành phố Phan Rang - Tháp
Chàm.
Năm 2015, sản lượng gỗ khai thác đạt 1.424m3,
củi đạt 33.850 ste, tre đạt 231 nghìn cây, song mây đạt 2 tấn, măng tươi đạt
259 tấn. Trong giai đoạn 2011 - 15, sản lượng khai thác giảm ở hầu hết các hạng
mục: gỗ giảm 32,5% hàng năm, tre giảm 9,7%, măng tươi giảm 13,3%, củi giảm
6,7%, song mây không thay đổi.
Chính sách đóng cửa rừng tự nhiên đã làm giảm
sản lượng gỗ khai thác rõ rệt trong năm 2015 so với 2014. Sản lượng khai thác
gỗ đã giảm 84%.
2. Trồng và chăm sóc rừng
Diện tích rừng hiện có mới chỉ che phủ được
86% diện tích đất lâm nghiệp. Tổng diện tích đất lâm nghiệp là 189.117,48 ha,
trong đó diện tích đất rừng sản xuất 37.467,33 ha (17%); đất rừng phòng hộ
114.371,32 (60%) và đất rừng đặc dụng 42.278,83 ha (22%). Tổng diện tích rừng
hiện có là 162.005 ha, trong đó rừng tự nhiên 152.336 ha và rừng trồng 9.669
ha.
Diện tích rừng trồng được chăm sóc chỉ chiếm
7% trong tổng diện tích rừng trồng hiện có, chủ yếu là diện tích rừng trồng của
khu vực ngoài Nhà nước (hộ gia đình, cá nhân, tổ chức kinh tế tư nhân). Năm
2015, tổng diện tích rừng trồng được chăm sóc là 654 ha, trong đó khu vực ngoài
Nhà nước 71%, Nhà nước 29%. Diện tích rừng trồng được chăm sóc tập trung ở các
huyện Bác Ái, Ninh Sơn, Thuận Bắc, Thuận Nam.
Diện tích rừng trồng mới tập trung chủ yếu là
rừng phòng hộ, rừng trồng chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Trong giai đoạn 2011 - 2015,
tổng diện tích rừng trồng mới tập trung là 2.332 ha, trong đó, rừng phòng hộ
trồng mới tập trung 2.029 ha (87%) và rừng sản xuất trồng mới tập trung 303 ha
(13%). Nhà nước đóng vai trò chính, chiếm 54% tổng diện tích trồng mới, thành
phần kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 37%, vốn đầu tư nước ngoài 9%. Các loại
cây chủ yếu được trồng là điều, neem, keo, trôm, cóc hành, mít.
Diện tích rừng trồng được giao khoán, bảo vệ
toàn bộ thực hiện bởi Nhà nước, đạt 54.704 ha (2015).
Khí hậu khô hạn khiến trồng rừng gặp rất
nhiều khó khăn do ít mưa, cây rừng trồng thiếu nước để sinh trưởng và phát
triển.
3. Thu nhặt sản phẩm từ rừng
Các sản phẩm từ rừng khác bao gồm có mủ trôm,
mật ong rừng, nấm linh chi,... Các sản phẩm này đều là những đặc sản rừng có
tiếng của tỉnh và được cung cấp ra cả nước. Trữ lượng của nguồn lợi này phụ
thuộc hoàn toàn vào tự nhiên nên cần được bảo vệ, quản lý, khai thác một cách
bền vững.
IV.
Thủy sản
Hoạt động khai thác và nuôi trồng thủy sản
đều duy trì tăng trưởng ở mức cao hơn so với các tiểu ngành khác. Trong giai
đoạn 2011 - 2015, tăng trưởng giá trị sản xuất ngành thủy sản (theo giá so sánh
2010) đạt 5,1% hàng năm; trong đó, hoạt động khai thác hải sản tăng trưởng
5,5%; nuôi trồng thủy sản tăng trưởng 4,2%.
Chuyển dịch cơ cấu trong giai đoạn 2011 - 2015
diễn ra theo hướng giảm tỷ trọng của khai thác hải sản, tăng tỷ trọng của nuôi
trồng thủy sản. Đóng góp của khai thác trong giá trị sản xuất của ngành thủy
sản (theo giá hiện hành) đã giảm 4,1% từ 67,9% xuống 63,9%; ngược lại, nuôi
trồng đã tăng 4,1% (từ 32,1% lên 36,2%).
Khai thác hải sản đóng vai trò chính trong
giá trị sản xuất ngành thủy sản. Năm 2015, giá trị sản xuất ngành thủy sản
(theo giá hiện hành) đạt 5.965,9 tỷ đồng; trong đó, giá trị sản xuất của hoạt
động khai thác hải sản đạt 3.809 tỷ đồng, chiếm 63,9%; hoạt động nuôi trồng
thủy sản đạt 2.156,9 tỷ đồng, chiếm 36,2%.
1. Nuôi trồng thủy sản
Thủy sản nuôi trồng bao gồm có tôm (tôm sú,
tôm thẻ chân trắng), cá, và một số loại thủy sản khác. Trong đó, diện tích nuôi
tôm chiếm đến 71%, cá 12%, các loại thủy sản khác 16%. Thủy sản nuôi trồng cung
ứng nguyên liệu cho các nhà máy chế biến thủy sản trên địa bàn tỉnh và xuất
khẩu; đa số diện tích nuôi trồng thủy sản là nước lợ, mặn; nuôi nước lợ chiếm
71%, nước mặn 18%, còn lại 11% nuôi nước ngọt. Diện tích nuôi trồng thủy sản
tập trung ở các huyện Ninh Hải, Thuận Nam, Ninh Phước.
Hệ thống canh tác thủy sản bao gồm có nuôi
thâm canh, nuôi bán thâm canh, nuôi quảng canh và quảng canh cải tiến. Trong
đó, nuôi thâm canh chiếm 75% diện tích nuôi trồng thủy sản, nuôi quảng canh và
quảng canh cải tiến chiếm 21% và nuôi bán thâm canh chiếm 3%.
Năm 2015, diện tích nuôi trồng thủy sản đạt
1.154 ha, sản lượng nuôi trồng đạt 10.114 tấn. Trong giai đoạn 2011 - 2015,
diện tích nuôi trồng tăng 0,7% hàng năm nhưng sản lượng nuôi trồng giảm 1,5%
hàng năm; thị trường xuất khẩu tôm, cá gặp khó khăn, giá giảm mạnh đã khiến
diện tích nuôi tôm, cá giảm lần lượt 14% và 3%, dẫn đến sản lượng nuôi trồng
giảm 23% trong năm 2015 so với 2014. Đây là nguyên nhân chính kéo giảm tăng
trưởng sản lượng nuôi trồng trong cả giai đoạn 5 năm.
Đối với nuôi tôm thương phẩm, các hộ gia đình
riêng lẻ vẫn đóng vai trò chủ đạo trong nuôi trồng. Toàn tỉnh chỉ có 02 doanh
nghiệp hoạt động nuôi tôm thương phẩm với tổng diện tích 18 ha. Phương pháp
nuôi đang có sự chuyển dịch theo hướng nuôi tôm công nghệ cao trên cát (ao lót
bạt), ứng dụng các mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng bền vững theo tiêu chuẩn
GAP, VietGAP; nuôi tôm theo công nghệ Biofloc/Semi-Biofloc, mô hình nuôi “CPF
Turbo Program”; ứng dụng các quy trình kỹ thuật nuôi tôm theo hướng an toàn, bền
vững và hiệu quả.
Đối với sản xuất tôm giống, con tôm giống ở
Ninh Thuận vẫn liên tục phát triển và hiện nay được đánh giá là trung tâm sản
xuất tôm giống lớn và chất lượng cao của cả nước, đặc biệt là sản xuất giống
tôm thẻ chân trắng. Toàn tỉnh có khoảng 300 ha sản xuất tôm giống, với sản
lượng 19,5 tỷ tôm giống, trong đó giống tôm thẻ 15 tỷ con (chiếm 77% sản lượng
tôm giống của tỉnh năm 2015). Hoạt động sản xuất tôm giống của tỉnh đa số là
các doanh nghiệp lớn và nhỏ, chỉ có một phần nhỏ là các hộ sản xuất. Hiện có
450 đơn vị sản xuất tôm giống, trong đó 250 đơn vị sản xuất tôm sú và 200 đơn
vị sản xuất tôm thẻ chân trắng. Hàng năm Ninh Thuận cung cấp ra thị trường
khoảng 20 tỷ tôm giống (chiếm 30% nhu cầu tôm giống cả nước) với chất lượng cao
(tỷ lệ sống đạt trên 80%).
Thách thức chính để phát triển nuôi trồng
thủy sản ở Ninh Thuận là cơ sở hạ tầng vùng nuôi chưa được đầu tư đồng bộ, đặc
biệt là hệ thống cung cấp và thoát nước thải; hệ thống thủy lợi nhiều nơi vẫn
sử dụng hệ thống thủy lợi nông nghiệp; một số vùng nuôi vẫn chưa có hệ thống
lưới điện không đáp ứng yêu cầu phục vụ sản xuất. Bên cạnh đó, lao động nuôi
trồng thủy sản phần lớn chưa qua đào tạo còn lớn; các hoạt động phát triển nuôi
trồng thủy sản tự phát, ý thức phòng chống dịch bệnh, hiểu biết về chủng loại
và chất lượng thuốc thú y của người nuôi còn hạn chế.
2. Khai thác hải sản
Đối với khai thác hải sản, sản lượng khai
thác hải sản năm 2015 đạt 75.572 tấn, tăng 19.496 tấn so với năm 2011, tăng
trưởng 7,7% hàng năm. Tổng công suất tàu khai thác hải sản năm 2015 đạt 229.592
CV, tăng 28.834 CV so năm 2011, tăng trưởng 3,4% hàng năm.
Khai thác hải sản của Ninh Thuận có sự dịch
chuyển cơ cấu theo hướng tăng cường lực khai thác xa bờ, giảm cường lực khai
thác gần bờ. Số lượng tàu khai thác hải sản năm 2015 đạt 2.281 chiếc, trong đó
có 808 chiếc có công suất từ 90 CV trở lên, tương đương 35% tổng số tàu khai
thác; công suất bình quân/tàu của tỉnh Ninh Thuận là 101 CV/tàu, thấp hơn số
trung bình của vùng Nam Trung Bộ (116 CV/tàu) nhưng đã cao hơn của cả nước (103
CV/tàu).
Hiện tại, Ninh Thuận có 1 hợp tác xã và 98 Tổ
Đoàn kết với 468 tàu cá tham gia.
Thách thức trong phát triển khai thác hải sản
của Ninh Thuận là nguồn lợi thủy sản ven bờ suy giảm do nhiều tàu công suất lớn
cả ở trong và ngoài tỉnh vẫn hoạt động khai thác hải sản ở vùng biển ven bờ.
Năng lực tàu thuyền cho khai thác xa bờ càng hạn chế; hệ thống cơ sở hạ tầng
cho nghề cá, nhất là cho phát triển nghề cá xa bờ trong thời gian tới (tàu từ
400 CV trở lên) còn nhiều bất cập. Việc phân cấp quản lý tàu thuyền và hoạt
động khai thác ven bờ cho cấp huyện nhưng chưa kèm theo điều kiện về nhân lực,
trang thiết bị, kinh phí, gây nhiều hạn chế, khó khăn cho công tác quản lý.
3. Chế biến, xuất khẩu thủy sản
Các sản phẩm chế biến thủy sản của Ninh Thuận
chủ yếu bao gồm nước mắm và các loại mắm, cá khô; được tiêu thụ nội địa và xuất
khẩu. Mặt hàng xuất khẩu thủy sản chủ lực của Ninh Thuận là tôm đông lạnh và
hải sản khô; tôm đông lạnh chủ yếu xuất khẩu sang Nhật; mặt hàng hải sản khô
(cá cơm, cá nục) xuất khẩu sang Trung Quốc và Nga. Ninh Thuận hiện có 4 doanh
nghiệp tham gia chế biến, xuất khẩu thủy sản đông lạnh; công suất chế biến thực
tế các sản phẩm đông lạnh khoảng trên 20.000 tấn sản phẩm/năm. Ngoài ra, trên
địa bàn tỉnh còn nhiều cơ sở chế biến nhỏ, chế biến hàng khô, nước mắm và các
loại mắm khác. Các cơ sở chế biến nhỏ mang tính chất hộ gia đình thường chế
biến hàng khô tiêu thụ nội địa hoặc gia công hàng khô xuất khẩu cho các doanh
nghiệp; hệ thống chế biến xuất khẩu thủy sản của tỉnh Ninh Thuận chưa đủ công
suất chế biến so với sản lượng thủy sản nguyên liệu của tỉnh. Ngoài ra, sản
phẩm thủy sản chế biến còn đơn điệu, chưa có giá trị gia tăng cao, chưa có
thương hiệu.
Năm 2015, giá trị kim ngạch xuất khẩu cả tỉnh
ước đạt 60 triệu USD, bằng 80% kế hoạch, tăng 33,8% so cùng kỳ, trong đó xuất
khẩu thủy sản tăng mạnh, ước đạt 40 triệu USD (chiếm 67% giá trị kim ngạch xuất
khẩu của tỉnh, chiếm 0,6% giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước).
V.
Diêm nghiệp
Ninh Thuận dẫn đầu cả nước về diện tích và
sản lượng muối, chiếm 20% tổng diện tích sản xuất muối cả nước và 34% tổng sản
lượng muối cả nước. Đường bờ biển dài 105 km với khí hậu khô, nóng, gió nhiều,
bốc hơi mạnh là điều kiện lý tưởng cho sản xuất muối. Năng suất muối bình quân
chung của Ninh Thuận cao hơn 1,7 lần so với cả nước (168 tấn/ha so với 99
tấn/ha).
Tổng diện tích và sản lượng muối của tỉnh
Ninh Thuận năm 2015 đạt lần lượt 3.028 ha và 509.092 tấn. Các vùng sản xuất
muối của Ninh Thuận tập trung tại thôn Quán Thẻ (xã Phước Minh, huyện Thuận
Nam) với trên 2.500 ha; các xã Tri Hải với trên 700 ha, xã Nhơn Hải gần 300 ha,
xã Phương Hải 92 ha, xã Khánh Hải 32 ha (huyện Ninh Hải).
Cơ cấu ngành chủ yếu là muối sản xuất công
nghiệp, chiếm 61,1% sản lượng và 80% diện tích sản xuất của cả tỉnh. Ninh Thuận
có 7 doanh nghiệp chế biến muối tinh và muối iốt với tổng công suất thiết kế
170.000 tấn sản phẩm/năm; tuy nhiên, đa số các doanh nghiệp có công nghệ chế
biến muối đơn giản, chủ yếu theo quy trình chế biến cơ giới - bán thủ công. Tổng
sản lượng muối tinh và muối iốt của năm 2015 của Ninh Thuận đạt 83.725 tấn,
trong đó Công ty cổ phần sản xuất và chế biến muối BIM (thuộc Công ty TNHH Hạ
Long)- doanh nghiệp áp dụng quy trình sản xuất - chế biến muối tinh công nghiệp
hiện đại sản xuất được 42.949 tấn. Hiện nay, có 3 doanh nghiệp đang triển khai
đầu tư xây dựng nhà máy chế biến muối tinh và các sản phẩm liên quan với tổng
công suất thiết kế là 275.000 tấn/năm.
Với năng lực sản xuất muối công nghiệp hiện
tại, Ninh Thuận vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường muối công nghiệp của
Việt Nam (sử dụng trong ngành công nghiệp hóa chất và y tế) do công nghệ sản
xuất và bảo quản hạn chế, đây là thị trường còn nhiều tiềm năng và rộng mở. Tuy
nhiên, một số doanh nghiệp muối còn gặp khó khăn trong thực hiện đầu tư sản
xuất kinh doanh muối (giải phóng mặt bằng, quyết định giao quyền sử dụng đất,
v.v).
Về sản xuất muối thủ công ở quy mô hộ gia
đình, đa số hộ sản xuất muối có quy mô đồng muối nhỏ, manh mún, áp dụng phương
pháp sản xuất muối thủ công nên chất lượng và hiệu quả sản xuất muối thấp; khả
năng đầu tư hạ tầng và áp dụng cơ giới hóa, áp dụng công nghệ sản xuất muối
tiên tiến của hộ còn hạn chế. Trong khi đó, thị trường muối thủ công của Việt
Nam (sử dụng làm muối ăn trong các hộ gia đình, làm nước mắm thủ công) đã ở
trong tình trạng bão hòa, cộng với nguồn cung dồi dào mỗi khi thời tiết thuận
lợi, đã gây sức ép giảm giá bán. Ninh Thuận chưa thực hiện liên kết sản xuất
giữa doanh nghiệp sản xuất, chế biến muối với các tổ hợp tác và hộ sản xuất
muối.
VI.
Thành tựu, hạn chế trong phát triển ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản và nông
thôn mới giai đoạn 2011 - 2015
1. Thành tựu:
1.1. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu:
Tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp đạt và
duy trì ở mức cao so với bình quân của cả nước, cơ cấu kinh tế nội
ngành được chuyển dịch theo hướng tích cực:
- Tăng trưởng GDP của khu vực NLTS trong giai
đoạn 5 năm 2010 - 2014 đạt cao hơn so với mức bình quân của cả nước. Giá trị
sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản (theo giá so sánh 2010) tăng bình quân
3,2% hàng năm, chiếm 37,2% giá trị sản xuất trong nền kinh tế toàn tỉnh (theo
giá hiện hành);
- Cơ cấu giá trị sản xuất của khu vực nông,
lâm nghiệp và thủy sản chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng của ngành
thủy sản. Trong từng tiểu ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản cũng chuyển
dịch tích cực. Năng suất lao động nông nghiệp đạt cao hơn so với mức bình quân
của cả nước1;
1.2. Về công tác quy hoạch:
Tỉnh đã hoàn thành phê duyệt các quy hoạch,
chương trình, đề án, dự án lớn về phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn
làm cơ sở để quản lý, chỉ đạo phát triển sản xuất, bao gồm:
- Quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển
rừng đến 2020;
- Quy hoạch chi tiết nuôi trồng thủy sản đến
2020;
- Quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao;
- Quy hoạch đồng cỏ và vùng chăn nuôi gia súc
có sừng tỉnh Ninh Thuận đến năm 2020;
- Quy hoạch vùng sản xuất rau an toàn tỉnh
Ninh Thuận đến năm 2020;
- Quy hoạch các làng nghề nuôi chim yến tỉnh
Ninh Thuận đến năm 2020;
- Chỉ thị về nâng cao chất lượng và hiệu quả
quản lý Nhà nước đối với công tác quy hoạch theo Quyết định số 1615/QĐ-TTg ngày
17 tháng 9 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ;
- Đề án tổ chức lại nghề khai thác hải sản
đến năm 2020;
- Đề án phát triển chế biến thủy sản đến năm
2020;
- Đề án tăng cường năng lực hệ thống khuyến
nông, khuyến lâm, khuyến ngư, thú y, bảo vệ thực vật và các dịch vụ nông nghiệp
khác ở nông thôn;
- Đề án tăng cường năng lực hệ thống thanh
tra chuyên ngành của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
- Đề án xây dựng và tăng cường năng lực của
Trung tâm Kiểm nghiệm chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm đối với vật tư, sản
phẩm nông, lâm, thủy sản và diêm nghiệp.
1.3. Lĩnh vực trồng trọt:
Thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu kinh
tế trong nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao năng
suất, chất lượng và hiệu quả gắn với thực hiện đề án tái cơ cấu ngành nông
nghiệp đạt kết quả bước đầu. Những năm qua, tỉnh đã tập trung chỉ đạo, triển
khai đồng bộ các giải pháp thực hiện có hiệu quả chương trình chuyển đổi cơ cấu
cây trồng và chương trình giống, phát huy hiệu quả các công trình thủy lợi đã
đầu tư, nhiều mô hình mới có hiệu quả trong sản xuất được nhân rộng, đã thúc
đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển trên cả 3 mặt: Diện tích, năng suất và giá
trị sản xuất bình quân ha đất; diện tích gieo trồng giai đoạn 2011-2015 tăng
bình quân 1,3% hàng năm; năng suất một số cây trồng chính tăng khá; giá trị sản
xuất trên 1 ha đất canh tác tăng nhanh, đến năm 2015, đạt 85 triệu đồng/ha,
tăng 28 triệu đồng/ha so với năm 2010. Bước đầu đã hình thành một số vùng
chuyên canh cây công nghiệp ngắn ngày phục vụ chế biến như sắn (khoai mì) 3.232
ha, mía 2.972 ha ở Ninh Sơn, Bác Ái và vùng sản xuất tập trung cây lúa 2 vụ quy
mô trên 12 nghìn ha ở huyện Ninh Phước, Ninh Hải. Một số cây ăn quả đặc thù như
nho đạt sản lượng trên 30 nghìn tấn/997 ha, cây táo đạt sản lượng gần 40 nghìn
tấn/900 ha, tập trung ở huyện Ninh Phước, Ninh Hải và thành phố Phan Rang - Tháp
Chàm.
Định hướng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao
đang được các nhà đầu tư quan tâm, đăng ký đầu tư và đang triển khai 1 dự án
trang trại tập trung quy mô lớn phát triển một số cây trồng đặc sản ứng dụng
giống mới, có năng suất và giá trị kinh tế cao, gắn với phát triển công nghiệp
chế biến và thị trường tiêu thụ, góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông
nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng, tăng trưởng, tăng giá trị gia tăng.
1.4. Lĩnh vực chăn nuôi: phát triển ngành chăn nuôi theo hướng
trang trại tập trung gắn với quy hoạch đồng cỏ, bảo đảm thức ăn chăn nuôi, thực
hiện tốt công tác phòng, chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm. Hiện nay,
trên địa bàn tỉnh có 50 trang trại chăn nuôi tập trung, chiếm 13,3% tổng đàn
gia súc, quy mô đàn gia súc tăng bình quân 3,5% hàng năm; đàn gia cầm đạt trên
1,4 triệu con; mô hình nuôi vỗ béo có hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng đàn
gia súc. Tỷ lệ sind hóa đàn bò đạt 38,7%; tỷ lệ đàn dê, cừu được lai tạo giống
mới đạt 80%.
1.5. Lĩnh vực lâm nghiệp:
Chủ trương phát triển rừng kinh tế được tập
trung chỉ đạo triển khai đạt một số kết quả bước đầu. Từ nguồn vốn Chương trình
bảo vệ và phát triển rừng và nguồn vốn huy động khác, tổng vốn trên 144 tỷ
đồng, trong 5 năm trồng mới được 3.954ha rừng các loại, trong đó trồng rừng
phòng hộ đặc dụng ước được 2.179 ha, các loài cây chủ yếu là điều, neem, keo,
trôm, mít có tác dụng tăng độ che phủ, tạo thu nhập cho người dân.
Công tác bảo vệ và phát triển rừng được tăng
cường; nâng độ che phủ rừng đến năm 2015 đạt 44,1%.
1.6. Lĩnh vực thủy sản:
Thủy sản phát triển khá toàn diện và tăng trưởng
khá, giá trị sản xuất thủy sản trong 5 năm 2011 - 2015 (theo giá so sánh 2010)
tăng bình quân 5,1% hàng năm. Cơ cấu nội ngành có bước chuyển dịch tích cực
theo hướng tăng sản xuất giống thủy sản, khai thác hải sản, góp phần nâng cao
chất lượng tăng trưởng và phát triển bền vững.
Chủ trương xây dựng Ninh Thuận thành trung
tâm sản xuất tôm giống có chất lượng cao của cả nước được thực hiện có kết quả,
đạt được mục tiêu và phát huy được lợi thế, quy mô sản xuất giống tiếp tục được
mở rộng. Sản lượng năm 2015 ước đạt 19,6 tỷ con giống, tăng gấp 1,3 lần so
2010.
Tập trung triển khai lại Đề án tổ chức lại
nghề khai thác đạt kết quả bước đầu, năng lực tàu thuyền tiếp tục tăng theo
hướng đầu tư, đóng mới tàu có công suất lớn, đầu tư trang thiết bị hiện đại để
vươn khơi gắn với bảo vệ quốc phòng-an ninh trên biển. Năng lực tàu cá trong 5
năm tăng nhanh, tăng thêm 193 chiếc/97.193 CV, nâng tổng số tàu cá toàn tỉnh
lên 2.735 chiếc/276.318 CV, trong đó cơ cấu tàu có công suất lớn trên 90 CV là
936 chiếc, chiếm 34,2% số lượng và 84% công suất. Mô hình hợp tác sản xuất trên
biển được phát huy hiệu quả; sản lượng khai thác năm 2015 đạt khoảng 76 nghìn
tấn, tăng bình quân 7,7% hàng năm.
Tập trung phát triển nuôi tôm thương phẩm
theo hướng công nghiệp ở vùng quy hoạch, dịch bệnh trong nuôi tôm được kiểm
soát chặt chẽ. Một số quy trình nuôi mới cho năng suất cao được nhân rộng; sản
lượng tôm thương phẩm năm 2015 đạt 7.073 tấn, đã từng bước đáp ứng được nhu cầu
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến.
1.7. Chương trình xây dựng nông thôn mới:
Chương trình xây dựng nông thôn mới đạt được
một số kết quả tích cực. Tính đến 31 tháng 12 năm 2015, Ninh Thuận có 11 xã đạt
chuẩn 19 tiêu chí nông thôn mới, chiếm 24,4% tổng số xã cao hơn mức bình quân
của cả nước là 17% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; số tiêu chí nông thôn mới
bình quân mỗi xã đạt được là 12,4 tiêu chí. Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành
đồng bộ, kịp thời một số cơ chế, chính sách tạo hành lang pháp lý thuận lợi
trong triển khai thực hiện chương trình. Đã hoàn thành công tác quy hoạch chung
và xây dựng Đề án nông thôn mới cho 47/47 xã trong chương trình và lập 3 loại
quy hoạch chi tiết cho 11 xã điểm giai đoạn đến năm 2015. Huy động và lồng ghép
các nguồn lực để đầu tư kết cấu hạ tầng, trọng tâm là đầu tư giao thông nông
thôn, thủy lợi, hệ thống kênh mương. Cùng với nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, tỉnh đã huy động từ
nguồn vay tín dụng của Nhà nước, nguồn vận động của các doanh nghiệp, đóng góp
từ cộng đồng dân cư để đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất kinh doanh,
cải tạo nhà ở, vệ sinh môi trường với tổng kinh phí hơn 5.115 tỷ đồng. Ưu tiên
đầu tư cứng hóa hơn 116,7km đường liên thôn, 8 km kênh mương cấp 2,3 ở 11 xã
điểm. Một số nơi bước đầu đã tạo được khí thế phấn khởi, đồng thuận cao trong
xây dựng nguồn lực cộng đồng để xây dựng nông thôn mới. Công tác chuyển giao
khoa học kỹ thuật, nhân rộng các mô hình sản xuất mới, đào tạo nghề được quan
tâm thực hiện đạt kết quả tốt. Đã hỗ trợ xây dựng 6 mô hình sản xuất lúa “1 phải
5 giảm”, mô hình VietGAP trên cây nho, mô hình sản xuất rau an toàn, mô hình
tưới nước tiết kiệm, mô hình chăn nuôi gắn với xây dựng hầm biogas, mô hình máy
dò ngang, đào tạo dạy nghề cho 10.024 lao động nông thôn và 1.650 cán bộ công
chức xây dựng nông thôn mới từ tỉnh đến thôn, xã. Mô hình mới trong triển khai
các dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn gắn với chương trình xây dựng nông
thôn mới do các tổ chức quốc tế, nhà đầu tư nước ngoài tài trợ (Tổ chức KOICA,
tập đoàn CJ - Hàn Quốc) sẽ tạo thêm nguồn lực để thực hiện chương trình.
1.8. Đầu tư phát triển hạ tầng nông nghiệp, nông thôn và
phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai:
Đối với các công trình thủy lợi và phòng
chống, giảm nhẹ thiên tai, thực hiện chủ trương ưu tiên đầu tư các công trình
thủy lợi theo hướng đa mục tiêu, nâng cao năng lực tưới, chuyển dịch cơ cấu cây
trồng, nâng cao giá trị sản xuất bình quân trên 1 ha, cung cấp nước cho nhân
dân, gia súc các vùng khô hạn và có khả năng cắt lũ trong mùa mưa, trong giai
đoạn 2011-2015, tỉnh đã ưu tiên các nguồn vốn đầu tư hoàn thành 8 công trình
thủy lợi quy mô lớn như hồ Lanh Ra, hồ Sông Biêu, hồ Bà Râu, 5 hồ chứa thuộc hệ
thống thủy lợi nhỏ và vừa với tổng dung tích 66,5 triệu m3; nâng
tổng dung tích các hồ chứa đến nay đạt 215,8 triệu m3. Đầu tư đồng
bộ 200 km kênh mương cấp I, II và III để phát huy hiệu quả các hồ đập sau đầu
tư; tăng thêm diện tích tưới 5.579 ha, nâng tổng số diện tích được chủ động
tưới toàn tỉnh đạt 34.791 ha, tương đương tỷ lệ 49,7%. Đầu tư trên 294 tỷ đồng
triển khai 15 công trình giảm nhẹ thiên tai; 23 km đê, kè chống sạt lở ở vùng
xung yếu, ven biển, ven sông, đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản cho nhân dân
trong mùa mưa bão.
Chương trình Mục tiêu quốc gia về nước sạch
và vệ sinh môi trường nông thôn đạt kết quả tích cực. Đầu tư trên 445 tỷ
đồng/28 công trình, tăng thêm công suất 8.795 m3/ngày-đêm, đảm bảo
cấp nước sinh hoạt cho 51.300 người, đạt tỷ lệ 87% (năm 2010 là 79%). Môi
trường nông thôn có bước cải thiện; tỷ lệ hộ gia đình có công trình hợp vệ sinh
đạt 70% (năm 2010 là 57%).
Đối với hạ tầng nghề cá, tỉnh đã nâng cấp, mở
rộng 3 cảng cá (Đông Hải, Ninh Chữ, Cà Ná) và 1 bến cá Mỹ Tân với khả năng neo
đậu trên 3.000 tàu cá có công suất trên 600 CV, tạo điều kiện thuận lợi cho các
tàu cá địa phương vào cập cảng bốc dỡ hàng hóa tiếp nhận các dịch vụ, neo đậu
tránh trú bão an toàn. Đồng thời xúc tiến đầu tư, nâng cấp, mở rộng cảng cá
Ninh Chữ kết hợp làm cảng hàng hóa, đáp ứng nhu cầu vận tải hàng hóa bằng đường
biển, nhất là sản phẩm có quy mô lớn như muối công nghiệp, ximăng, sắt thép,
nhập khẩu xăng, dầu.
2. Hạn chế và nguyên nhân
2.1. Hạn chế
a) Tăng trưởng chưa bền vững và chuyển dịch
cơ cấu còn chậm
- Tăng trưởng toàn ngành nông,
lâm, thủy sản còn thiếu bền vững: tăng trưởng đang có xu hướng suy giảm và
không ổn định; giai đoạn 2005 - 2009, tăng trưởng NLTS đạt bình quân 11,6% hàng
năm; giai đoạn 2011 - 2015, tăng trưởng giảm xuống còn 3,0%;
- Chuyển dịch cơ cấu giá trị toàn ngành nông,
lâm nghiệp và thủy sản còn chậm. Trong cơ cấu giá trị toàn ngành, tỷ trọng của
thủy sản còn thấp so với tiềm năng; trong cơ cấu giá trị nông nghiệp, tỷ trọng
của chăn nuôi còn thấp; trong cơ cấu giá trị trồng trọt, tỷ trọng của cây ăn
quả, cây công nghiệp còn thấp.
b) Khả năng cạnh tranh còn thấp
- Năng suất cây trồng, vật nuôi còn thấp so
với các vùng lân cận và mức bình quân của cả nước. Tính cạnh tranh của một số
ngành hàng NLTS còn thấp như lúa, ngô, cây công nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng
và khai thác thủy sản;
- Giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị thấp,
thị trường tiêu thụ sản phẩm nông sản chưa ổn định.
c) Tổ chức sản xuất còn hạn chế
- Kinh tế hộ vẫn đóng vai trò chủ đạo trong
sản xuất nông, lâm, thủy sản; doanh nghiệp nông nghiệp còn hạn chế và tập trung
chủ yếu vào hoạt động nuôi trồng thủy sản. Trong số 184 doanh nghiệp hiện nay,
có 161 doanh nghiệp khai thác, nuôi trồng thủy sản (87,5%), 9 doanh nghiệp nông
nghiệp (10,3%) và 4 doanh nghiệp lâm nghiệp (2,2%). Đại đa số doanh nghiệp
nông, lâm nghiệp và thủy sản có quy mô nhỏ và vừa; trong đó, về quy mô lao động
có 68,5% doanh nghiệp có dưới 10 lao động, 30,4% có từ 10 đến dưới 200 lao
động, chỉ 1,1% có 200 đến dưới 300 lao động; về quy mô vốn, có 89,7% số doanh
nghiệp có dưới 10 tỷ đồng, 8,2% có từ 10 đến dưới 50 tỷ đồng, 1,1% có từ 50 đến
dưới 200 tỷ đồng, chỉ 1% có trên 200 tỷ đồng;
- Liên kết, hình thành chuỗi sản xuất, tiêu
thụ, tiếp thị và xây dựng thương hiệu cho nông sản còn hạn chế;
- Quy mô sản xuất nhỏ, phân tán, không tạo ra
sản phẩm có quy mô hàng hóa lớn, chất lượng không đồng đều, khó thu hút công
nghiệp chế biến và đầu tư của doanh nghiệp.
d) Cơ sở hạ tầng và công nghiệp - dịch vụ hỗ
trợ còn nhiều bất cập, vệ sinh an toàn thực phẩm chưa đảm bảo
- Công nghiệp chế biến nông, lâm, ngành nghề,
dịch vụ, thương mại nông thôn phát triển chậm; sản phẩm của hộ nông dân, hợp
tác xã đang chủ yếu ở dạng thô, sơ chế, tiêu thụ gặp nhiều khó khăn, giá trị
gia tăng thấp;
- Cơ sở hạ tầng, đặc biệt thủy lợi còn hạn
chế; một số công trình thủy lợi như hồ Sông Than, hồ Kiền Kiền, Ô Căm, Tân
Giang 2, hồ Đa May, … phải giãn tiến độ sang giai đoạn sau. Mặc dù khả năng
liên thông hồ chứa đã được cải thiện trong thời gian gần đây nhưng vẫn còn
nhiều hạn chế; diện tích chủ động tưới trong hệ thống thủy lợi là 34,791 ha
tương đương 50% diện tích được chủ động tưới trong hệ thống thủy lợi;
- Vệ sinh an toàn thực phẩm chưa đảm bảo; bảo
quản sau thu hoạch và chế biến còn hạn chế; tỷ lệ sản phẩm được công nhận đạt
các tiêu chuẩn về sản xuất nông nghiệp tốt (GAP) còn thấp.
đ) Đời sống người dân nông thôn còn gặp
nhiều khó khăn
- Thu nhập của người dân ở khu vực nông thôn
tại Ninh Thuận còn thấp so với mức bình quân của cả nước.2 Đời sống
của người nông dân còn thấp, đặc biệt tại một số vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng còn cao3;
- Tỷ lệ đói còn cao so với mức bình quân của
cả nước, kết quả giảm nghèo chưa bền vững4; tỷ lệ hộ
nghèo và tái nghèo ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
miền núi, vùng sâu, vùng xa còn cao.
e) Chương trình nông thôn mới còn gặp nhiều
khó khăn
- Chương trình nông thôn mới còn gặp khó khăn
trong công tác huy động nguồn vốn để triển khai thực hiện. Phát triển cơ sở hạ
tầng trong Chương trình nông thôn mới chưa gắn kết chặt chẽ với phát triển
chuỗi giá trị ngành hàng nông sản và vùng chuyên canh các ngành hàng có lợi thế;
- Chương trình nông thôn mới chưa thực sự gắn
kết với phát triển chuỗi giá trị và xây dựng vùng chuyên canh các ngành hàng
nông sản; làng nghề nông thôn phát triển chậm, chưa thu hút nhiều lao động phi
nông nghiệp; kinh tế hợp tác ở nông thôn có phát triển nhưng hình thức và chất
lượng chưa cao.
g) Vệ sinh môi trường chưa đảm bảo, tình
trạng ô nhiễm môi trường ngày càng tăng
- Vệ sinh môi trường ở nông thôn còn hạn chế
đặc biệt trong thu gom rác và xử lý nước thải; tình trạng ô nhiễm môi trường
trong sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng;
- Hiệu quả trồng rừng, bảo vệ rừng còn thấp,
tài nguyên rừng bị suy giảm.
2.2. Nguyên nhân hạn chế
2.2.1. Nguyên nhân khách quan:
- Xuất phát điểm nông nghiệp thấp; sản xuất
nhỏ, lẻ; quy mô ngành nông nghiệp nhỏ và quy mô đất đai hạn hẹp hạn chế hình
thành vùng chuyên canh quy mô lớn và thu hút đầu tư của doanh nghiệp để phát
triển cụm liên kết sản xuất, chế biến, thị trường;
- Ngân sách tỉnh còn gặp nhiều khó khăn, đầu
tư công cho phát triển nông nghiệp, nông thôn; thích ứng và giảm thiểu biến đổi
khí hậu còn hạn chế;
- Khả năng thu hút đầu tư nói chung và cho
nông nghiệp, nông thôn nói riêng bị hạn chế do tác động của tình hình suy thoái
kinh tế thế giới và trong nước;
- Biến đổi khí hậu ngày càng rõ nét (hạn hán,
lụt,...), tần suất dày, diện rộng, mức độ ngày càng nghiêm trọng, gây thiệt hại
lớn cho sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân;
- Dịch bệnh nguy hiểm trên cây trồng, vật nuôi
và nuôi trồng thủy sản diễn biến phức tạp (lở mồm long móng gia súc, tai xanh ở
lợn, cúm gia cầm, đốm trắng, hội chứng gan tụy trên tôm nuôi).
2.2.2. Nguyên nhân chủ quan:
- Phát triển nông nghiệp của Ninh Thuận tập
trung nhiều vào kinh tế hộ nhỏ lẻ, phục vụ mục tiêu xóa đói giảm nghèo nên quy
mô sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản vẫn nhỏ bé, áp dụng công nghệ cao
còn hạn chế, thiếu bền vững;
- Nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền,
các ngành, các địa phương về phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới
còn hạn chế, có tư tưởng trông chờ từ nguồn ngân sách Nhà nước, ngân sách cấp
trên, chưa có sự chủ động huy động nguồn lực, đầu tư có hệ thống;
- Công tác tuyên truyền, chuyển đổi nhận
thức, tổ chức lại sản xuất - tiêu thụ, phát triển các hình thức hợp tác, liên
kết cho người sản xuất chưa được các cấp, các ngành quan tâm. Một số cơ chế
chính sách cho nông nghiệp, nông thôn còn bất cập, công tác triển khai thực
hiện chưa đạt kết quả cao;
- Phát triển nông
nghiệp dàn trải, đầu tư Nhà nước chưa tập trung vào các điểm tạo đột phá cho
nông nghiệp phát triển, vào các ngành hàng chủ lực, có lợi thế để tạo ra sự bứt
phá mạnh;
- Đầu tư hỗ trợ phát triển nông nghiệp
tập trung nhiều vào kỹ thuật, hạ tầng như thủy lợi mà chưa chú trọng hỗ trợ về
thể chế và tổ chức sản xuất; thiếu chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế trang
trại, kinh tế hợp tác, liên kết nông dân - doanh nghiệp chưa gắn với phát triển
theo chuỗi liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm;
- Môi trường kinh doanh và đầu tư của
tỉnh tuy có được cải thiện nhưng còn thấp so với cả nước; năm 2015 chỉ số năng
lực cạnh tranh của tỉnh xếp thứ 42/63 so với các tỉnh thành phố của cả nước;
vai trò của doanh nghiệp nông nghiệp chưa được chú trọng và tạo điều kiện hỗ
trợ phát triển;
- Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm
(VSATTP) trong các chuỗi ngành hàng chưa được chú trọng;
- Chưa chú trọng đầu tư cho khoa học
và công nghệ (KHCN), áp dụng các công nghệ mới thích ứng với điều kiện khí hậu
khô hạn cho phát triển nông nghiệp;
- Trong công tác chỉ đạo điều hành của các
cấp ủy đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể cấp cơ sở còn thiếu đồng bộ,
nhất là trong phối hợp thực hiện xây dựng nông thôn mới.
Phần thứ 4
ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Biến đổi khí
hậu đã và đang tác động trực tiếp đến đời sống kinh tế - xã hội và môi trường
toàn cầu. Trong những năm gần đây nhiều nơi trên thế giới đã phải gánh chịu
những thiên tai đặc biệt nguy hiểm như hạn hán, nắng nóng, bão, lũ lụt, với tần
suất, quy mô và cường độ ngày càng tăng đã gây thiệt hại lớn về tính mạng con
người và tài sản, tác động xấu đến môi trường, hệ sinh thái và các nguồn tài
nguyên.
Ninh Thuận là
một tỉnh thuộc khu vực Nam Trung Bộ, với diện tích tự nhiên 3.358 km2 dân số gần 597.000 người
(2015); mật độ dân số trung bình 170 người/km2, phân bố không đều,
tập trung chủ yếu vùng đồng bằng ven biển. Trong thời gian qua, với việc phát
huy sức mạnh từ nội lực và sự hỗ trợ to lớn, quý báu của Trung ương và các nhà
tài trợ quốc tế, Tỉnh có những bước phát triển trên tất cả các mặt của đời sống
kinh tế - xã hội. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội và đời sống đại bộ phận nhân dân ngày càng được cải
thiện.
Tuy nhiên, do
đặc thù về vị trí địa lý và địa hình, Ninh Thuận thường xuyên chịu ảnh hưởng
của thiên tai và Biến đổi khí hậu. Trong những thập kỷ gần đây, Ninh Thuận chịu
ảnh hưởng lớn của các hiện tượng thời tiết cực đoan như hạn hán, hoang mạc hóa,
khô nóng, bão, mưa lớn gây lũ, ngập lụt... Biến đổi khí hậu đã tác động xấu đến
chất lượng nguồn nước, làm suy giảm nguồn nước của các sông, gây xâm nhập mặn ở
một số vùng cửa sông, ven biển, đồng thời mưa lớn kết hợp với nhiệt độ tăng cao
làm tăng nguy cơ sạt lở đất và gây áp lực lớn lên các hồ chứa.
I.
Kịch bản về khí hậu:
1. Kịch bản nhiệt độ trung bình năm vào cuối thế kỷ:
- RCP4.5 (kịch bản phát thải thấp): tăng khoảng
1,8oC, với cận dưới là 1,2oC và cận trên là 2,7oC
(ứng với phân vị 10% và 90%);
- RCP8.5 (kịch bản phát thải cao): tăng khoảng
3,4oC, với cận dưới là 2,6oC và cận trên là 4,5oC;
Về nhiệt độ, theo kịch bản phát
thải trung bình (B2) thì nhiệt độ trung bình tại Ninh Thuận ở tất cả
các mùa đều có xu hướng tăng, nhất là trong mùa hè. Theo dõi
thay đổi của nhiệt độ trung bình, tại Ninh Thuận trong giai đoạn 2011 - 2015,
khu vực ven biển và vùng phía tây của tỉnh có xu hướng nóng lên; xu
hướng tăng cao nhất là trong năm 2015 cao hơn hẳn các năm trước đó trong
giai đoạn 2011 - 2015. Mặc dù sự thay đổi của nhiệt độ trung
bình không rõ rệt nhưng có sự biến động lớn giữa các năm nhưng nếu
nhìn vào phân bố nhiệt độ trung bình giữa các tháng trong năm so sánh
giữa hai năm 2011 và 2015 cho thấy khá rõ xu thế lạnh hơn trong 2 tháng
đầu năm (mùa đông), các tháng còn lại nền nhiệt cao hơn, nhất là đầu
mùa hạ (tháng 5 - 6).
2. Kịch bản lượng mưa trung bình năm vào cuối thế kỷ:
- RCP4.5 (kịch bản phát thải thấp): tăng khoảng
10 - 12%, với cận dưới là -1,9% và cận trên là 29,3% (ứng với phân vị 20% và
80%);
- RCP8.5 (kịch bản phát thải cao): tăng khoảng
5 - 10%, với cận dưới là -3,8% và cận trên là 21,2%.
Về lượng mưa, cũng giống như yếu tố nhiệt
độ, lượng mưa phân bố không đều giữa các tháng trong năm tạo ra các
cực trị lớn, mùa mưa thì mưa lớn, trong khi mùa khô kéo dài và hầu
như không mưa. Thay đổi theo phân bố không gian lượng mưa năm 2010 so với năm
2000 cho thấy, lượng giảm ở phía Đông và tăng ở khu vực phía Tây; khu vực ven
biển thuộc thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, huyện Ninh Hải, huyện Ninh Phước
lượng mưa giảm với mức giảm từ 200mm - 600mm, trong khi khu vực phía Tây thuộc
huyện Ninh Sơn lượng mưa tăng cao nhất lên đến 400mm.
3. Kịch bản nước biển dâng vào cuối thế kỷ:
- RCP4.5 (kịch bản phát thải thấp): mực nước
biển dâng khoảng 54 cm, với cận dưới là 33 cm và cận trên là 78 cm (ứng với
phân vị 5% và 95%);
- RCP8.5 (kịch bản phát thải cao): mực nước
biển dâng khoảng 74 cm, với cận dưới là 48 và cận trên là 105 cm (ứng với phân
vị 5% và 95%).
Theo các kịch bản biến đổi khí hậu đến năm
2020 và tầm nhìn đến năm 2030 của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì hai nhân tố
quan trọng nhất sẽ tác động trực tiếp đến sản xuất NLTS tại Ninh Thuận là nhiệt
độ và lượng mưa, riêng nhân tố nước biển dâng có tác động nhưng không lớn, nhất
là trong giai đoạn đến năm 2020.
II.
Xu thế biến đổi của khí hậu và nước biển dâng thời kỳ 1986 - 2014 (biểu hiện của
biến đổi khí hậu Ninh Thuận):
- Nhiệt độ trung bình năm có xu thế
tăng 0,03oC/thập kỷ;
- Lượng mưa năm có xu thế tăng 38
mm/thập kỷ; lượng mưa một ngày lớn nhất (Rx1day) năm có xu thế tăng khoảng 17,3
mm/thập kỷ;
- Mực nước biển trung bình Ninh Thuận
có xu thế tăng khoảng 5,1 mm/năm.
III.
Những tác động của biến đổi khí hậu:
1. Tác động đến tài nguyên đất:
Tác động của biến đổi khí hậu đến Ninh
Thuận biểu hiệu cụ thể là tài nguyên đất bị thoái hóa và diện tích hoang mạc hóa
ngày càng tăng. Theo thống
kê sơ bộ tổng diện tích đất hoang mạc ở Ninh Thuận là 41.021ha, chiếm 12,21%
tổng diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh và hiện nay hoang mạc hóa tiếp tục có
chiều hướng gia tăng.
Bảng 1. Diện tích
đất hoang mạc hóa
STT
|
Dạng hoang mạc
|
Năm 2008 (ha)
|
Năm 2014 (ha)
|
1
|
Hoang mạc cát
|
4.878
|
9.103
|
2
|
Hoang mạc đá
|
3.457
|
21.468
|
3
|
Hoang mạc muối
|
11.867
|
6.407
|
4
|
Hoang mạc đất cằn
|
20.124
|
4.043
|
Tổng cộng
|
40.326
|
41.021
|
So với diện tích
đất tự nhiên
|
(12,0%)
|
(12,21%)
|
2.
Tác động biến đổi khí hậu đến thời tiết:
- Vào mùa khô (từ tháng 12 năm trước đến
tháng 8 năm sau), đặc biệt xuất hiện nhiều ngày nắng nóng hơn trung bình nhiều
năm (tổng số có 82 ngày nắng nóng). Không có bão, áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng
đến thời tiết Ninh Thuận; dòng chảy mùa khô trên các sông suối khu vực trong
tỉnh chịu ảnh hưởng của hạn hán, các sông suối nhỏ đã bị tắt dòng từ giữa tháng
01. Trên sông cái Phan Rang mực nước duy trì ở mức ít biến đổi và duy trì ở mức
thấp, mưa ít trong mùa khô; do vậy đã xảy ra khô hạn diện dộng trên địa bàn
tỉnh Ninh Thuận. Trong mùa khô, không hoặc ít xuất hiện lũ tiểu mãn, tình trạng
khô hạn diễn ra gay gắt ở hầu khắp các địa bàn trong tỉnh, cộng với tác
động của Biến
đổi khí hậu (BĐKH) làm tình
trạng hạn hán thiếu nước thường xuyên xảy ra, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản
xuất và các hoạt động dân sinh kinh tế của địa phương. Khô hạn và sự thiếu hụt
nguồn nước sẽ làm năng suất nông nghiệp giảm sút; các giống cây trồng ưa nước
sẽ không cho năng suất và bị các loài ưa khô hạn thay thế, dẫn đến khủng hoảng
các hệ sinh thái nông nghiệp bản địa. Diễn biến hạn hán trong những năm qua
ngày một nặng nề và phức tạp hơn, điển hình như năm 1993; 2004 - 2005 và hiện
nay (2014 - 2016) hạn hán được lập lại gần như theo quy luật cứ khoảng 10 năm
lại xảy ra. Thiệt hại do hạn hán:
+ Năm 1993: tổng giá trị thiệt
hại ước khoảng 95 tỷ đồng;
+ Năm 2004 - 2005: tổng giá
trị thiệt hại ước khoảng 165 tỷ đồng, gồm: trồng trọt 96,648 tỷ đồng; chăn nuôi
45,530 tỷ đồng; thủy sản và các ngành khác 23,337 tỷ đồng;
+ Năm 2014 đến tháng 4/2016: tổng giá
trị thiệt hại ước khoảng 1.347,217 tỷ đồng gồm: trồng
trọt 834,317 tỷ đồng; chăn nuôi 512,9 tỷ
đồng,
có
43.935khẩu/8.916 hộ, tại 24 thôn/12 xã thiếu nước, cần được sự hỗ trợ nguồn
nước sinh hoạt hàng ngày;
Hình 1. Biểu đồ mưa trung bình nhiều năm Trạm Tân Mỹ và Phan Rang
Nhận xét: vào các năm 1982 - 1983;
1991 - 1992; 2004 - 2006; 2014 - 2016 khi lượng mưa năm nhỏ hơn lượng mưa trung
bình nhiều năm là Ninh Thuận có hạn hán lớn.
- Vào mùa mưa
(từ tháng 9 đến tháng 11), khu vực ven biển mới có mưa diện dộng. Lượng mưa các
năm 2014 - 2016 có ít số ngày mưa to, lượng mưa vùng ven biển ở mức 805,1mm,
thấp hơn trung bình nhiều năm 150mm (đạt 84% so với trung bình nhiều năm); vùng
núi ở mức 893,7mm, thấp hơn trung bình nhiều năm 262mm (đạt 77% so với TBNN).
Nhìn chung các khu vực trong tỉnh lượng mưa chỉ đạt 60 - 85% so với trung bình
nhiều năm; ngoài thách thức về hạn hán nói trên, vấn đề lũ lụt cũng rất nghiêm
trọng bởi sự tập trung những trận mưa lớn bất thường. Với đường bờ biển dài
105km nên khi mưa lớn xảy ra kết hợp với triều cường, bão và áp thấp nhiệt đới,
làm cho lũ trở nên trầm trọng hơn. Ngoài ra, còn có một số yếu tố khác ảnh
hưởng đến khả năng xuất hiện lũ lớn như lưu vực sông, mật độ che phủ của rừng, …
Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu dẫn đến số trận lũ lụt trong năm, xảy ra tần
suất ngày càng cao, mức độ diễn biến lũ ngày càng phức tạp. Vào những thập niên
1980, số trận lũ xảy ra trên địa bàn Ninh Thuận là 2,8/trận lũ/năm (lũ trên mức
báo động I). Những năm gần đây, số trận lũ đã tăng vọt lên trung bình là 5,2
trận/năm; tính chất lũ ngày càng nguy hiểm, thiệt hại do lũ ngày càng tăng;
thiệt hại do lũ, lụt gây ra trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận những năm gần đây như
sau:
Bảng 2. Mức thiệt
hại do lũ, lụt trên địa bàn tỉnh những năm gần đây
STT
|
Thiệt hại
|
Đơn vị
|
1998
|
1999
|
2000
|
2003
|
2010
|
1
|
Số người chết
|
người
|
|
1
|
11
|
15
|
3
|
2
|
Số nhà bị ngập
|
nhà
|
1454
|
876
|
5542
|
23.000
|
5152
|
3
|
Số thuyền bị chìm
|
thuyền
|
5
|
|
5
|
22
|
12
|
4
|
Diện tích nông nghiệp bị ngập lụt
|
ha
|
8762
|
3.083
|
6187
|
16.517
|
12.947
|
5
|
Lúa
|
ha
|
5026
|
2.241
|
3.988
|
11.460
|
7746
|
6
|
Hoa màu khác
|
ha
|
3736
|
842
|
2.199
|
4.886
|
4489
|
7
|
Số súc vật bị chết
|
con
|
1.085
|
550
|
27.000
|
42.951
|
>10.000
|
8
|
Hệ thống thủy lợi bị hư hại
|
công trình
|
18
|
4
|
7
|
50
|
1 hồ bị vỡ
|
9
|
Đường sá bị hư hại
|
công trình
|
85
|
8
|
25
|
170
|
40 km
|
10
|
Thủy sản bị ảnh hưởng
|
ha
|
|
10
|
2.185
|
1.059
|
Toàn bộ diện tích
nuôi tôm
|
11
|
Tổn thất kinh tế
|
Tỷ đồng
|
52,17
|
7,1
|
122,4
|
191
|
>800
|
- Ảnh hưởng do xâm nhập mặn: do tính chất lãnh
thổ trải dài dọc theo đường bờ biển nên tỉnh Ninh Thuận chịu ảnh hưởng khá mạnh
của tiến trình xâm nhập mặn; ảnh hưởng đến hầu hết các sông, kênh trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là vào năm khô hạn, lượng mưa ít và lưu lượng dòng chảy từ các sông
đổ về vào mùa kiệt nhỏ. Tuy nhiên, nhờ có một phần địa hình là đồi núi dốc nên
mặn không ảnh hưởng quá sâu vào khu vực phía trên địa bàn tỉnh. Theo các số
liệu quan trắc độ mặn trên dòng sông Cái (Phan Rang) năm 2010 - 2016, mức độ
xâm nhập mặn có chiều hướng gia tăng và xâm nhập mặn đã tiến sâu vào đất liền
khoảng 7km (cầu Đạo Long 2); tuy nhiên, xâm nhập mặn ảnh hưởng đến nước ngầm là
hết sức trầm trọng. Là tỉnh thiếu nước, nên đa số người dân các xã ven biển đều
sử dụng nước dưới đất để sinh hoạt và tưới tiêu, do sức ép gia tăng dân số cùng
với việc mở rộng sản xuất, việc khai thác nước ngầm gia tăng, đồng nghĩa với
xâm nhập mặn. Vào những năm hạn hán kéo dài như hạn năm 2004 - 2006 và 2014 - 2016
lượng nước mặt bổ cập không có làm trầm trọng thêm hiện tượng này, khiến nhiều
vùng thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng.
3. Tác động đến tài nguyên nước:
Có thể nói biến đổi khí hậu ảnh hưởng
cả trực tiếp và gián tiếp đến nguồn tài nguyên nước mà hệ quả của nó gây tiêu
cực đến tất cả các ngành kinh tế quốc dân cũng như đời sống sinh hoạt của con
người. Nguồn nước mặt khan hiếm trong mùa khô gây hạn hán và quá dư thừa trong
mùa mưa gây lũ lụt; nguồn nước ngầm bị suy giảm dẫn đến cạn kiệt do khai thác
quá mức và thiếu nguồn bổ sung. Cụ thể:
- Đối với tài nguyên nước mặt: Ninh
Thuận là vùng đất cuối dãy Trường Sơn với nhiều dãy núi vươn ra biển Đông (diện
tích tự nhiên 3.358,3 km2 tự nhiên), có địa hình thấp dần từ Tây
Bắc xuống Đông Nam, vùng núi chiếm 63,2%, trung du chiếm 14,4%, đồng bằng ven
biển chiếm 22,4%. Với vùng khí hậu đặc trưng khô nóng, gió nhiều, bốc hơi mạnh
nên lượng nước mặt được đánh giá là khan hiếm nhất trong cả nước (modul dòng
chảy 20
l/s/km2, trong khi giá trị này trung bình cả nước là 35 l/s/km2,
khu vực ven biển thậm chí chỉ 5 l/s/km2), lượng mưa hàng năm
thấp (trung bình 800 mm/năm). Tổng lượng nước đến của tỉnh khoảng 2,3 tỷ khối
năm, nhưng phân bố không đều theo thời gian, ba tháng mùa mưa (từ tháng 9 đến
tháng 11) lượng nước đến chiếm 76,4%, còn chín tháng mùa khô (từ tháng 12 đến
tháng 8 năm sau) chỉ có 24,6% lượng nước đến và phân bố không đều theo không
gian, khu vực phía Tây và Tây Bắc có lượng mưa từ 1000 - 1600 mm/năm, khu vực
phía Nam, Đông Nam và đồng bằng Phan Rang có lượng mưa chỉ từ 300 - 800mm/năm.
Đồng thời, do địa hình ngắn, dốc, thảm thực vật nghèo nàn nên phần lớn lượng
nước mặt trong mùa mưa đều đổ ra biển. Vì vậy, số lượng nước mặt trong tỉnh
càng bị hạn chế;
- Đối với tài nguyên nước dưới
đất:
số
lượng nước
dưới đất khu
vực tỉnh Ninh Thuận cũng thuộc loại nghèo, tầng chứa nước mỏng, mực nước tĩnh
nông, trữ
lượng khai thác tiềm năng nước dưới đất tỉnh Ninh Thuận là 435.100 m3/ngày
(xét về tổng thể thì hiện nay, nước dưới đất tỉnh Ninh Thuận không đáp ứng được
cho cung cấp nước sinh hoạt tập trung, nhất là về mùa khô). Thiếu hụt
nguồn nước cho sản xuất và sinh hoạt dẫn đến việc khai thác quá mức và không
thể kiểm soát môi trường của việc khai thác nước ngầm. Hiện tượng
nhiễm mặn và ô nhiễm nước ngầm gia tăng.
4. Tác động của biến đổi khí hậu đến các ngành nông, lâm,
thủy sản
4.1. Trồng trọt
Diện tích đất nông nghiệp bao gồm các loại
đất trồng cây hàng năm, cây lâu năm, đất chăn nuôi, cây công nghiệp lâu năm,
cây ăn quả, đất trồng lúa các loại. Sự biến đổi dị thường của khí hậu tất yếu
sẽ ảnh hưởng rất mạnh đến sản xuất nông nghiệp, nhất là trồng trọt, sản lượng
lương thực sẽ bị giảm sút. Biến đổi khí hậu gây nguy cơ thu hẹp diện tích nông
nghiệp do nước dâng, nước sông bị nhiễm mặn, diện tích trồng trọt sẽ bị thu
hẹp, thiếu đất canh tác. Thay đổi nhiệt độ khiến dịch bệnh xảy ra nhiều trên
các loại cây trồng.
Ở Ninh Thuận, nguy cơ hạn hán gây ra hiện
tượng khô cằn, sa mạc hóa làm diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp nhất
là các cây trồng có nhu cầu về nước cao; năng suất cây trồng cũng bị ảnh hưởng
tiêu cực. Thiên tai, bão, lũ sẽ làm gia tăng hiện tượng sói mòn, rửa trôi, sạt
lở, ảnh hưởng tới tài nguyên đất.
a) Cây lương thực, cây có củ: do ảnh hưởng
của hạn hán nên diện tích gieo trồng trong cả 3 mùa vụ của tỉnh Ninh Thuận năm
2015 đều giảm so với cùng kỳ năm 2014, tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm
70.250 ha, đạt 88,2% so với kế hoạch, bằng 88,21% so với cùng kỳ năm 2014,
trong đó:
- Nhóm cây lương thực: diện tích gieo trồng
giảm 13,76% so với năm 2014, trong đó lúa giảm 13,01%, bắp giảm 15,59%; hạn hán
đã làm giảm năng suất lúa của tỉnh 1,42%;
- Nhóm cây lấy củ: diện tích gieo trồng giảm
13,3% so với cùng kỳ năm 2014, trong đó cây khoai mì giảm 1,9% về diện tích thu
hoạch, sản lượng giảm 4,2%; cây khoai lang giảm 17% diện tích gieo trồng so với
cùng kỳ năm trước.
b) Cây mía: diện tích năm 2015 giảm 4,3% so
với năm 2014, diện tích cho thu hoạch tăng 5,4% so với cùng kỳ năm 2014 nhưng
hầu hết diện tích mía chủ yếu tưới bằng nước trời nên năng suất giảm mạnh do
ảnh hưởng hạn hán, giảm 44,8 tạ/ha so với cùng kỳ năm trước; sản lượng mía giảm
3% so với năm 2014. Do hạn hán kéo dài nên nông dân đã chuyển dịch cơ cấu cây
trồng sang nhóm cây cho hạt có dầu và các cây trồng cạn khác (đậu phộng, nho),
đậu phộng tăng 21,8%, nho tăng 9% so với cùng kỳ.
4.2. Chăn nuôi
Biến đổi khí hậu làm giảm sức đề kháng, phát
sinh dịch bệnh, giảm khả năng sinh sản vật nuôi, giảm nguồn thức ăn, giảm năng
suất vật nuôi.
Tác động của biến đổi khí hậu làm cho một số
loài vật nuôi bị giảm sức đề kháng do biên độ dao động của nhiệt độ, độ ẩm và
các yếu tố ngoại cảnh khác. Sự thay đổi các yếu tố khí hậu và thời tiết có thể
làm nảy sinh một số bệnh mới đối với chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy cầm và có
thể phát triển thành dịch hay đại dịch.
Các hiện tượng thời tiết cực đoan ảnh hưởng
đáng kể đến khả năng sinh sản của vật nuôi, đặc biệt là khi thời tiết nắng nóng
và hạn hán như điều kiện ở Ninh Thuận. Tỷ lệ mắc bệnh và vector truyền bệnh là
hai nhân tố chịu nhiều ảnh hưởng do biến đổi khí hậu, vật nuôi có thể bị ảnh
hưởng stress nhiệt lạnh chịu dưới tác động mạnh của thời tiết nóng nắng hay
những đợt lạnh kéo dài.
Biến đổi khí hậu cũng gây nhiều ảnh hưởng đến
nguồn thức ăn của vật nuôi, phần lớn các vùng của Ninh Thuận sẽ bị thiếu thức
ăn xanh do phân bố lượng mưa không đều nhất là vào mùa khô, tình trạng hạn hán
và nắng nóng kéo dài.
Tác động của biến đổi khí hậu đến năng suất
vật nuôi: biến đổi khí hậu làm thay đổi yếu tố mùa vụ gây ảnh hưởng đến tỷ lệ
sinh sản, khả năng tiết sữa, tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ chết và sự xuất hiện các
bệnh dịch mới với sự biến đổi của nhiệt độ.
a) Gia súc: mặc dù bị ảnh hưởng bởi hạn hán
nhưng tổng đàn gia súc vẫn tăng trưởng là nhờ trong 6 tháng cuối năm 2015 đã có
mưa rải rác ở một số khu vực nên đã hồi sinh đồng cỏ tự nhiên mọc trở lại sau
gần nửa năm chống chọi với tình hình nóng hạn, thiếu nguồn nước lẫn nguồn thức
ăn. Với đàn heo, do việc nuôi heo ít ảnh hưởng bởi nắng nóng nên người chăn
nuôi vẫn được duy trì.
b) Gia cầm: nắng hạn kéo dài đã kéo dài thời
gian nuôi và hạn chế mở rộng đàn, nhất là nuôi vịt chạy đồng, đã dẫn đến giảm
cả số lượng đàn và sản lượng gia cầm giết thịt.
4.3. Lâm nghiệp
Biến đổi khí hậu làm thay đổi số lượng và
chất lượng hệ sinh thái rừng, làm giảm đa dạng sinh học dẫn đến khả năng điều
tiết nguồn nước, điều hòa khí hậu, chống xói mòn, … của rừng bị suy giảm.
Nhiệt độ và lượng bốc hơi tăng cùng với hạn
hán kéo dài sẽ làm thay đổi thành phần, sự phân bố và khả năng sinh trưởng của
các loài thực vật và động vật rừng. Diện tích cây rừng bị suy giảm mạnh, nhiều
loài cây nhiệt đới ưa sáng sẽ di cư lên các vĩ độ cao hơn và các loài cây á
nhiệt đới sẽ mất dần; số lượng quần thể các loài động thực vật rừng quý hiếm sẽ
ngày càng suy kiệt và nguy cơ tuyệt chủng tăng.
Nhiệt độ tăng và hạn hán kéo dài sẽ làm tăng
nguy cơ cháy rừng nhất là rừng phi lao chắn cát ven biển, vừa gây thiệt hại tài
nguyên sinh vật, vừa tăng lượng phát thải khí nhà kính. Biến đổi khí hậu làm
phát sinh thêm một số loài sâu, bệnh hại rừng.
Nước biển dâng làm giảm diện tích rừng ngập
mặn hiện có, tác động xấu đến diện tích và hệ sinh thái rừng ven biển, tăng
nguy cơ cháy rừng trong các thập kỷ tới.
Mực nước biển dâng làm cho rừng ngập mặn sẽ
phải chuyển dịch vào trong cửa sông, nếu thích nghi được thì tồn tại còn ngược
lại sẽ bị tiêu diệt. Suy thoái rừng ngập mặn sẽ kéo theo nguy cơ xói lở bờ
biển, tăng mức độ phá hủy đối với vùng ven biển do bão, và sóng biển.
4.4. Thủy sản
Nhiệt độ đóng vai trò quan trọng cho quá
trình sinh trưởng và phát triển của sinh vật nói chung và các loài thủy sản nói
riêng. Nhiệt độ tăng gây ra hiện tượng phân tầng nhiệt độ rõ rệt trong thủy vực
nước đứng, ảnh hưởng đến quá trình sinh sống của sinh vật, nguồn thủy hải sản
bị phân tán, các loài cá cận nhiệt đới có giá trị kinh tế cao bị giảm đi hoặc
mất hẳn.
Các tỉnh miền Trung và Ninh Thuận nói riêng,
hiện tượng nắng nóng đã làm cho nhiệt độ nước tăng lên quá mức chịu đựng của
nhiều loài sinh vật, trong đó có các loài nuôi. Nhiệt độ nước tăng cao làm cho
các loài nuôi chết hàng loạt, đặc biệt nghiêm trọng đối với các ao hồ có độ sâu
nhỏ; sự tăng nhiệt độ có thể làm suy giảm sản lượng thủy sản trong các ao hồ.
Sự suy giảm hàm lượng oxy trong nước ảnh
hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của loài nuôi, điều này dễ nhận thấy qua
hiện tượng phù dưỡng ở vùng nuôi như cá nổi đầu vào buổi sáng trong các ao nuôi
hoặc thủy triều đỏ (tảo chết hàng hoạt) ở các vùng ven biển.
Thay đổi nhiệt độ còn là điều kiện phát sinh
của nhiều loài dịch bệnh xảy ra cho các loài nuôi, nhiệt độ tăng cao làm cho
sức khỏe của các loài nuôi giảm, môi trường nước xấu đi, là điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển của các loài vi sinh vật gây hại. Trong những năm gần đây do
môi trường nuôi bị suy thoái kết hợp với sự thay đổi của thời tiết đã gây ra
hiện tượng tôm sú chết hàng loạt các vùng nuôi tôm Đầm Nại (Ninh Hải), An Hải
(Ninh Phước), Phước Dinh (Thuận Nam) và tôm thẻ chân trắng chết ở huyện Vạn
Ninh gây thiệt hại lớn cho các hộ nuôi tôm hùm lồng tại địa phương. Tình trạng
hạn hán xảy ra trong thời gian vừa qua (2015 và các tháng đầu năm 2016) cũng
ảnh hưởng lớn đến nuôi trồng thủy sản của tỉnh. Năm 2015 tổng diện tích nuôi
trồng thủy sản 1.307 ha, đạt 61,51% kế hoạch, bằng 75,64% so với năm 2014 một
phần là do tác động của hạn hán ảnh hưởng đến vùng nuôi tôm Đầm Nại, một phần
do ảnh hưởng giá tôm thương phẩm giảm mạnh, không đảm bảo lợi nhuận cho người
nuôi.
Bão và áp thấp nhiệt đới còn ảnh hưởng đến hệ
sinh thái của vùng nuôi, cần thời gian dài mới có thể phục hồi. Ngoài ra, bão
và áp thấp nhiệt đới cường độ mạnh và lượng mưa lớn làm cho nồng độ muối giảm
đi trong một thời gian ngắn dẫn đến sinh vật nước lợ và ven bờ, đặc biệt là
nhuyễn thể hai vỏ (nghêu, ngao, sò,...) bị chết hàng loạt gây thiệt hại về kinh
tế cho cộng đồng cư dân sống chủ yếu dựa vào hoạt động nuôi trồng thủy sản.
Thiệt hại kinh tế cho cơ sở hạ tầng và dịch
vụ nghề cá, khu tránh trú bão, khu neo đậu tàu thuyền, khu dịch vụ hậu cần nghề
cá bị phá hủy, tàu thuyền bị chìm,... Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, các cảng
cá, khu tránh trú bão, neo đậu tàu thuyền sẽ chịu tác động dẫn đến thiệt hại về
vật chất và đòi hỏi có đầu tư thích hợp với các diễn biến của biến đổi khí hậu.
4.5. Diêm nghiệp
Biến đổi khí hậu dẫn đến việc xuất hiện ngày
càng nhiều những hiện tượng thời tiết bất thường như mưa, bão trái mùa, lũ lụt
triều cường, …với tần suất và cường độ ngày càng lớn hơn là những yếu tố có tác
động xấu đến sản xuất muối. Một mặt các hiện tượng thời tiết bất thường này làm
giảm hiệu quả sản xuất của diêm dân, làm giảm chất lượng muối do bị lẫn phù sa,
tăng chi phí sản xuất, … nhưng mặt khác làm cho cơ sở hạ tầng đồng muối, nhất
là hệ thống đê, kè, cống, mương… bị tàn phá, xuống cấp ngày càng nặng nề hơn,
dẫn đến giảm khả năng sản xuất của các đồng muối, do vậy làm ảnh hưởng đến đời
sống của diêm dân.
Theo thống kê năm 2009, Ninh thuận là tỉnh có
diện tích sản xuất muối đứng thứ 2 cả nước (chiếm 10,22%) sau Bạc Liêu nhưng
lại là tỉnh có sản lượng muối lớn nhất năm 2015 với quy mô diện tích đồng muối
của toàn tỉnh lên đến 3.028ha và sản lượng muối thu hoạch lên đến 509.092 tấn
(khoảng 34% tổng sản lượng muối toàn quốc), tuy nhiên muối Ninh thuận chủ yếu
được sản xuất từ khu Công nghiệp Quán Thẻ, việc tích nước mặn trên cao kết hợp
với nắng hạn kéo dài đã gây ra các vấn đề nghiêm trọng về nhiễm mặn cho môi
trường đang cần có các giải pháp xử lý thỏa đáng.
4.6. Thủy lợi
Do tác động của biến đổi khí hậu, các cơn bão
có xu hương mạnh lên về cường độ, di chuyển dịch về phía nam và đến muộn với
các đường di chuyển dị thường hơn. Bão là nguyên nhân gây thiệt hại cho các hệ
thống đê sông, đê biển, úng lụt ngày càng nghiêm trọng và nước mặn tràn sâu vào
đất liền.
Tình trạng hạn hán, thiếu nước mùa khô diễn
ra ngày càng phổ biến, việc khai thác, sử dụng nước không phù hợp với khả năng
thực tế của nguồn nước. Lũ quét, tố và lốc tàn phá nhà cửa, cây cối, công trình
thủy lợi ngày càng khốc liệt; nước mặn ngày càng xâm nhập sâu vào đất liền,
đồng ruộng làm cho nhiều công trình thủy lợi không còn hoạt động bình thường,
ảnh hưởng đến nhiều công trình tưới tiêu. Đợt hạn hán kéo dài trong năm
2014-2015 và các tháng đầu năm 2016 đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống
các công trình thủy lợi của tỉnh Ninh thuận. Phần hạ tầng các công trình thủy
lợi bị phơi trong điều kiện nắng nóng và khô hạn kéo dài làm các công trình
xuống cấp nhanh ảnh hưởng lớn đến năng lực tưới tiêu của hệ thống.
Mưa lớn kéo dài làm cho các hồ chứa, đập
dâng, trạm bơm bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó còn làm tăng trượt lở đất, xói mòn sẽ
làm tăng lượng phù sa và làm lắng đọng lòng hồ, giảm dung tích hữu ích của hồ
chứa. Trữ lượng nước ngầm giảm, mực nước ngầm bị hạ thấp dần, khả năng khai
thác của các giếng nước ngầm cũng bị giảm sút không đáp ứng được yêu cầu sinh
hoạt và tưới tiêu.
Phần thứ 5
QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ ĐỊNH HƯỚNG TÁI CƠ CẤU NGÀNH NÔNG
NGHIỆP GẮN VỚI ỨNG PHÓ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
I. Thời cơ và thách
thức:
1.
Thời cơ:
- Định hướng tái cơ cấu nền kinh tế và tái cơ
cấu nông nghiệp của cả nước tạo động lực từ bên ngoài, thúc đẩy quá trình tái
cơ cấu ngành nông nghiệp của Ninh Thuận hướng tới nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng, sức cạnh tranh và phát triển bền vững;
- Quyết tâm của địa phương trong phát triển
nông nghiệp, theo đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản được xác định là một
trong ba trụ cột trong phát triển kinh tế - xã hội của Ninh Thuận đến năm 2020.
Đồng thời, sự phát triển của hai trụ cột kinh tế còn lại là du lịch và năng
lượng (điện gió, điện mặt trời) tạo điều kiện chuyển dịch lao động ra khỏi khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản;
- Trung ương và các nhà tài trợ quốc tế cam
kết hỗ trợ nhiều hơn cho Ninh Thuận trong phát triển nông nghiệp, nông thôn và
thích ứng với biến đổi khí hậu. Đặc biệt, Ninh Thuận được lựa chọn là một trong
7 tỉnh thực hiện thí điểm đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Ngoài ra, chủ
trương phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo tại Ninh Thuận cho phép
tỉnh có thể đề xuất cơ chế đặc thù và ưu tiên đầu tư công cho phát triển nông
nghiệp, nông thôn;
- Tăng trưởng kinh tế thế giới và Việt Nam dù
còn nhiều khó khăn nhưng đang trên đà phục hồi sẽ cải thiện thu nhập, thúc đẩy
nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt là các sản phẩm Ninh Thuận
có thế mạnh như trái cây, thủy sản, thịt;
- Cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao
thông đang dần được hoàn thiện như dự án nâng cấp quốc lộ 1A và tuyến đường ven
biển qua địa bàn Ninh Thuận đã hoàn thành, tăng tính kết nối giao thông và mang
lại nhiều lợi ích cho phát triển kinh tế - xã hội5;
- Sự phát triển của khoa học và công nghệ cho
phép giảm thiểu sự phụ thuộc vào các điều kiện tự nhiên, như vấn đề khô hạn
trong sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản;
- Điều kiện khí hậu khô hạn kéo dài của Ninh
Thuận với độ ẩm không khí thấp, năng lượng bức xạ lớn, độ mặn trung bình cao
tạo điều kiện thuận lợi và lợi thế so sánh cho sự phát triển của một số ngành
hàng NLTS đặc thù như nho, táo, tỏi, bò, dê, cừu, giống cây lương thực (lúa,
ngô,...), giống thủy sản6 và muối.
2.
Thách thức:
- Tác động của biến đổi khí hậu đã dẫn đến
nhiệt độ gia tăng, mùa đông ấm ở miền Bắc; hạn hán xảy ra trên diện rộng, đặc
biệt các tỉnh Bắc Trung Bộ, Duyên hải Miền Trung và Tây Nguyên; nhiễm mặn ở
Đồng bằng Sông Cửu Long. Trong đó, Ninh Thuận đã và đang chịu ảnh hưởng nặng nề
của hạn hán dẫn đến sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản gặp nhiều khó khăn do
tình trạng thiếu nước cho cây trồng và vật nuôi, ảnh hưởng tiêu cực đến sự sinh
trưởng và phát triển của các loại thủy sản nuôi trồng;
- Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào
kinh tế thế giới với những hiệp định tự do thương mại thế hệ mới như TPP, Việt
Nam - EU, … được dự báo sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh mạnh mẽ từ hàng nhập khẩu
đối với hầu hết các mặt hàng mà Ninh Thuận đang có lợi thế cạnh tranh như: bò,
dê, cừu, nho, táo, … Ngoài ra, tỉnh Ninh Thuận còn chịu sức ép cạnh tranh từ
các địa phương trong nước có các sản phẩm chủ lực tương tự;
- Thị trường trong nước và xuất khẩu
có giá cả bất ổn, cạnh tranh ngày càng gay gắt, đặc biệt đối với thủy sản,
ngành hàng chủ lực của Ninh Thuận, ảnh hưởng tiêu cực đến giá trị sản xuất nông
nghiệp và thu nhập của người nông dân;
- Cạnh tranh trong thu hút đầu tư của
doanh nghiệp vào nông nghiệp với các tỉnh lân cận như Lâm Đồng và các tỉnh Đông
Nam Bộ ngày càng gay gắt;
- Cạnh tranh về nguồn lực và tài
nguyên giữa khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản với khu vực công nghiệp, dịch
vụ và đô thị hóa. Quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa đã thu hẹp diện tích
đất sản xuất nông nghiệp, cạnh tranh về vốn, lao động và tài nguyên nước với
ngành nông nghiệp;
- Cạnh tranh trong thu hút nguồn nhân
lực chất lượng cao gồm chuyên gia, trí thức về công tác tại tỉnh, huyện và cơ
sở.
II.
Quan điểm:
- Tái cơ cấu ngành
nông nghiệp là một bộ phận quan trọng của tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế,
phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và định hướng phát triển chung
của tỉnh. Tái cơ cấu ngành nông nghiệp phải gắn với phát triển ngành năng lượng
tái tạo, du lịch và Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới theo
hướng phát triển nhanh bền vững cả về chiều rộng và chiều sâu;
- Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng ưu
tiên nguồn lực đầu tư phát triển các ngành hàng Ninh Thuận có lợi thế, đặc thù,
gắn với thích ứng với biến đổi khí hậu, coi trọng tính hiệu quả và đẩy mạnh ứng
dụng khoa học công nghệ; đồng thời khuyến khích phát triển nông nghiệp hữu cơ ở
những vùng, cây trồng, vật nuôi có điều kiện;
- Tái cơ cấu ngành nông nghiệp phải chú trọng
đến người nghèo, vùng dân tộc thiểu số, nhóm bị tác động tiêu cực do biến đổi
khí hậu và thị trường;
- Tái cơ cấu ngành nông nghiệp cần sự tham gia
của toàn bộ hệ thống chính trị, là một quá trình khó khăn và lâu dài, cần được
thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm để điều chỉnh phù hợp với thực tế.
III.
Mục tiêu:
1.
Mục tiêu chung:
- Khai thác tốt nhất các lợi thế của vùng
tiểu khí hậu khô hạn, để phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững cả về kinh
tế, xã hội, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu;
- Thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực để tăng khả năng cạnh tranh thông qua sự khác biệt và đa dạng hóa sản phẩm,
ứng dụng công nghệ cao, tăng năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng, đáp ứng
tốt hơn nhu cầu thị trường;
- Nâng cao thu nhập và cải thiện điều kiện
sống cho cư dân nông thôn, xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại.
2.
Các chỉ tiêu chủ yếu7:
- Đến năm 2020: tốc độ tăng giá trị gia tăng
khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản cao hơn giai đoạn trước, đạt bình quân 6 -
7%/năm, tốc độ tăng giá trị sản xuất đạt 7 - 8%/năm. Từng bước ứng dụng
công nghệ cao để chuyển dịch cơ cấu, phấn đấu nông, lâm nghiệp
chiếm 49%
(trong nông nghiệp trồng trọt chiếm 68%, chăn nuôi 28,2%, dịch vụ 3,8%, lâm
nghiệp 0,3%),
thủy sản 51%8. Thu hút 2-3 doanh nghiệp quy mô lớn
đầu tư ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp; nâng giá trị sản xuất/ha đất
nông nghiệp chủ động nước tăng ít nhất 1,5 lần, có 50% số xã và 1 - 2 huyện đạt
tiêu chí nông thôn mới. Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn tăng 1,8
lần so với năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo nông thôn giảm 2%/năm. Trồng rừng
mới đạt 3.580 ha (trong đó rừng phòng hộ: 1.660 ha và rừng sản xuất: 1.920 ha)
và chăm sóc rừng trồng đạt 4.122 ha; dân cư nông thôn được sử dụng nước sinh
hoạt hợp vệ sinh đạt 95%;
- Đến năm 2030: tốc độ tăng giá trị gia tăng
ngành nông, lâm, thủy sản cao hơn giai đoạn 2016 - 2020 trên cơ sở ứng dụng
rộng rãi công nghệ cao để phát triển nền nông nghiệp thông minh, thích ứng cao
với biến đổi khí hậu. Hình thành các chuỗi giá trị sản phẩm chủ lực, có tính
đặc thù địa phương với vai trò đầu tàu là các doanh nghiệp lớn liên kết với các
tổ chức hợp tác của nông dân. Phấn đấu nâng thu nhập bình quân đầu người khu
vực nông thôn tăng gấp 3 lần vào năm 2020. Xây dựng nông thôn mới hiện đại theo
hướng bền vững.
IV.
Các khâu đột phá:
- Một là, thu hút đầu tư công, đầu tư của các
nhà tài trợ, đầu tư của doanh nghiệp tư nhân để phát triển hạ tầng nông nghiệp,
nông thôn, nâng cao năng lực thích ứng để hạn chế tác động biến đổi khí hậu;
trong đó chú trọng cơ cấu lại ngành thủy lợi theo hướng ứng dụng công nghệ tưới
tiết kiệm, liên thông các hồ chứa, liên thông các hệ thống tưới để nâng cao
hiệu quả sử dụng nguồn nước;
- Hai là, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa
học công nghệ mới, công nghệ cao gắn với đào tạo nghề cho nông dân trong sản
xuất, chế biến, bảo quản; thu hút, khuyến khích đầu tư của các doanh nghiệp vào
các khu, vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao cho các sản phẩm đặc thù của
tỉnh gắn với các cụm liên kết ngành hàng theo chuỗi giá trị;
- Ba là, tổ chức lại sản xuất theo hướng thu
hút đầu tư của doanh nghiệp tư nhân làm hạt nhân trung tâm, liên kết với các tổ
chức hợp tác của nông dân trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ;
- Bốn là, nâng cao nhận thức, tư tưởng, tích
cực tham gia có hiệu quả trong việc thực hiện Nghị quyết và các chủ trương,
chính sách về tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với ứng phó biến đổi khí hậu đến
năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 cho cán bộ các sở, ban, ngành, đoàn thể, các
cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương các cấp, đến cộng đồng và người dân, nhất
là người dân khu vực nông thôn, tạo sự thống nhất, chỉ đạo tập trung góp phần
thực hiện có hiệu quả chủ trương tái cơ cấu ngành nông nghiệp trên địa bàn
tỉnh.
V. Định hướng tái cơ
cấu nông, lâm nghiệp và thủy sản:
1.
Trồng trọt:
1.1. Định hướng tổng thể:
1.1.1. Ưu tiên:
- Chuyển dịch cơ cấu theo hướng theo hướng
tăng tỷ trọng của cây ăn quả, cây công nghiệp và cây rau đậu; giảm tỷ trọng cây
lương thực. Chú trọng phát triển các ngành hàng có lợi thế cạnh tranh cao và
trung bình (nho, táo, tỏi, nha đam, măng tây, mía, sắn; giống lúa, ngô); nâng
cao chất lượng, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, xây dựng thương hiệu, gắn
kết với tiêu thụ và từng bước mở rộng thị trường cho xuất khẩu;
- Chuyển đổi đất lúa kém hiệu quả sang phát
triển các cây trồng chống chịu khô hạn, cây trồng phục vụ phát triển chăn nuôi.
Ứng dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước, trước mắt đối với các cây trồng chủ lực
(nho, táo, rau, mía) để hạn chế thiệt hại do hạn hán. Phấn đấu chuyển đổi trên
8 ngàn ha đất trồng lúa kém hiệu quả thuộc khu vực tưới các hồ thủy lợi nội
tỉnh, trong đó chuyển đổi khoảng 2.000 ha trong giai đoạn 2016 - 20209.
Đến năm 2020, diện tích đất trồng lúa 18.633 ha, trong đó
đất chuyên trồng lúa nước 15.900 ha, sản lượng khoảng 275 ngàn tấn. Mở rộng diện tích
trồng bắp luân canh trên đất lúa, trên đất chuyển đổi từ đất lúa kém hiệu quả và các cây
hoa màu khác, diện tích gieo trồng bắp đạt 25 ngàn ha, sản
lượng đạt 100 ngàn tấn
vào năm 2020. Phát triển diện tích nho, táo đạt qui mô 3.200 ha, sản lượng
khoảng 50 ngàn tấn nho, 55 ngàn tấn táo. Mở rộng diện tích trồng mía đạt qui mô
5.000 ha, sản lượng 300 ngàn tấn, đầu tư theo hướng thâm canh, cơ giới hóa,
tưới tiết kiệm; ổn định diện tích cây sắn 2.500 -3.000 ha, sản lượng 60 ngàn
tấn và sẽ chuyển đổi sang cây trồng khác có hiệu quả cao hơn khi giải quyết
được thủy lợi. Đầu tư phát triển một số vùng sản xuất nông nghiệp theo hướng
ứng dụng công nghệ cao, an toàn vệ sinh thực phẩm như các vùng rau, quả, các
vùng nho, táo ứng dụng công nghệ cao ven thành phố Phan Rang - Tháp
Chàm, huyện
Ninh
Hải, Ninh Phước, Ninh Sơn. Phát triển các cây trồng mới gắn ứng dụng công nghệ
cao, có thị trường tiềm năng như cây măng tây đạt 500 ha, cây nha đam đạt 500
ha vào năm 2020.
1.1.2. Quy hoạch vùng chuyên canh và xây dựng
chuỗi giá trị ngành hàng
- Hình thành các vùng chuyên canh, sản xuất
hàng hóa tập trung, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ cao và công nghệ thích
ứng với biến đổi khí hậu gắn với công nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Các
vùng chuyên canh gồm:
+ Lúa tập trung ở các huyện Ninh Sơn, Ninh
Phước, Ninh Hải; đến năm 2020, diện tích gieo trồng lúa cả năm đạt 48.500 ha;
+ Ngô tập trung ở các huyện Ninh Sơn, Bác Ái,
Ninh Phước, Thuận Bắc; đến 2020, diện tích gieo trồng ngô đạt 25.000 ha;
+ Sản xuất giống cây trồng (lúa, ngô, …) tập
trung ở các huyện Ninh Phước, Ninh Hải, Ninh Sơn và thành phố Phan Rang - Tháp
Chàm;
+ Nho tập trung ở các huyện Ninh Phước (Phước
Sơn, Phước Vinh, Phước Thuận), Ninh Hải, Ninh Sơn (xã Nhơn Sơn), thành phố Phan
Rang - Tháp Chàm, Thuận Nam; đến năm 2020, diện tích trồng nho đạt 2.000ha;
+ Táo tập trung ở huyện Ninh Phước (Phước
Thuận, Phước Hậu, Phước Dân, An Hải); Ninh Hải (Xuân Hải, Vĩnh Hải, Nhơn Hải),
Ninh Sơn (Nhơn Sơn), thành phố Phan Rang - Tháp Chàm (Đô Vinh, Văn Hải, Mỹ Hải,
Thành Hải); đến năm 2020, diện tích trồng táo đạt 1.200 ha;
+ Tỏi, hành tập trung ở các huyện Ninh Hải
(Vĩnh Hải, Thanh Hải, Nhơn Hải), Ninh Phước (An Hải), Thuận Bắc và thành phố
Phan Rang - Tháp Chàm (Văn Hải); đến năm 2020, diện tích gieo trồng tỏi, hành đạt
450 ha;
+ Rau, đậu: đến năm 2020, diện tích gieo
trồng rau, đậu các loại khoảng 11.000 ha; các vùng chuyên canh tập trung ở ven
thành phố, thị trấn, vùng đất cát ven biển;
+ Cây công nghiệp ngắn ngày: sắn, mía tập
trung ở huyện Ninh Sơn, Bác Ái; đến năm 2020, diện tích trồng sắn đạt 2.500 -
3.000 ha; mía đạt 5.000 ha. Thuốc lá tập trung ở các huyện Ninh Sơn, Ninh
Phước; đến 2020, diện tích trồng thuốc lá đạt 1.000 ha. Điều tập trung ở các
huyện Thuận Bắc, Bác Ái, Ninh Sơn; đến 2020, diện tích trồng điều đạt 3.500 ha;
+ Cây trồng mới: đến năm 2020, diện tích
trồng cây măng tây đạt 500 ha, tăng 324 ha so 2015, tập trung ở các huyện Ninh
Phước (200 ha), Ninh Hải (100 ha), Ninh Sơn (50 ha), Thuận Bắc (50 ha), Thuận
Nam (50 ha) và thành phố Phan Rang-Tháp Chàm (50 ha). Diện tích trồng cây nha
đam đạt 500 ha, tập trung ở các huyện Ninh Phước (200 ha), thành phố Phan
Rang-Tháp Chàm (200 ha), Ninh Hải (50 ha), Ninh Sơn (25 ha), Thuận Bắc (25 ha).
- Xây dựng chuỗi giá trị ngành hàng, phát
triển liên kết giữa sản xuất - chế biến - tiêu thụ đối với các cây trồng có lợi
thế.
1.1.2. Phát triển và ứng dụng khoa học công
nghệ:
- Để biến vùng đất thiếu nước, khô hạn thành
vùng sản xuất trồng trọt có giá trị gia tăng cao, cần đẩy nhanh ứng dụng công
nghệ cao vào sản xuất, trong đó công nghệ trung tâm là tưới nước tiết kiệm và
phát triển, ứng dụng các giống cây trồng mới chịu hạn, chịu nóng theo các quy
trình canh tác tổng hợp “giảm vật tư đầu vào, tăng chất lượng và giá trị sản
phẩm tạo ra (quản lý dinh dưỡng tổng hợp - ICM, quản lý dịch hại tổng hợp -
IPM, 1 phải 5 giảm ở canh tác lúa, qui trình VietGAP, Global GAP, qui trình
nông sản hữu cơ);
- Nghiên cứu chuyển đổi hệ thống cây trồng,
thử nghiệm các loài cây trồng mới để thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu
của Ninh Thuận. Chú trọng mở rộng diện tích được cơ giới hóa trong khâu thu
hoạch, đặc biệt thu hoạch lúa, phát triển ứng dụng công nghệ sau thu hoạch như
sơ chế, bảo quản, chế biến; ứng dụng bản đồ số hóa trong quản lý cây trồng;
- Các doanh nghiệp hoặc trang trại có thể ứng
dụng công nghệ cao đồng bộ, các nông hộ có liên kết theo vùng ứng dụng công
nghệ cao ở mức độ phù hợp.
1.2. Định hướng nhóm ngành hàng:
1.2.1. Cây ăn quả:
- Mở rộng diện tích trồng cây ăn quả, ưu tiên
trồng nho, táo phù hợp với quy hoạch theo nhu cầu thị trường. Phát triển vùng
sản xuất nho, táo sản xuất theo quy trình chất lượng, vệ sinh an toàn thực
phẩm;
- Hỗ trợ các hợp tác xã sản xuất nho, táo tìm
kiếm và phát
triển thị trường, đẩy mạnh tiêu thụ nho, táo tại các hệ thống siêu thị tại các
thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; đẩy mạnh quảng bá chỉ dẫn địa
lý nho và nhãn hiệu tập thể táo Ninh Thuận;
- Đổi mới tổ chức sản xuất theo hướng ưu tiên
phát triển các mô hình trang trại, hợp tác xã trồng nho, táo. Khuyến khích, hỗ
trợ hộ sản xuất nho, táo hình thành các hợp tác xã. Phát triển liên kết sản
xuất - tiêu thụ
giữa các hộ sản xuất, trang trại, hợp tác xã với doanh nghiệp chế biến, hệ
thống siêu thị. Thu hút đầu tư và hỗ trợ doanh nghiệp thu mua, bảo quản, chế
biến và kinh doanh nho, táo;
- Gắn hoạt động phát triển du lịch nông
nghiệp của tỉnh với các vườn nho, táo nhằm quảng bá chất lượng, thương hiệu
cũng như tiêu thụ nho, táo tại chỗ của khách du lịch;
- Áp dụng mô hình tưới nước tiết kiệm, ưu
tiên sử dụng phân hữu cơ (để cải thiện năng suất, chất lượng), quản lý sử dụng
thuốc bảo vệ thực vật (giảm số lần phun, giảm chi phí sản xuất), canh tác nho,
táo hữu cơ sinh học, áp dụng quy trình canh tác VietGAP; xây dựng mô hình trồng
nho nhà lưới để tránh tổn thất trong mùa mưa.
1.2.2. Cây rau, đậu, gia vị:
- Duy trì ổn định diện tích trồng rau, đậu,
cây gia vị các loại; rà soát, chuyển đổi một phần diện tích đất lúa nước kém
hiệu quả sang phát triển rau, đậu, cây gia vị các loại. Mở rộng vùng trồng rau
an toàn,
tỏi làm nguyên liệu cho sản xuất, chế biến dược phẩm như tỏi đen theo nhu cầu
thị trường;
- Khuyến khích thành lập tổ hợp tác/hợp tác
xã sản xuất rau an toàn, tỏi; nâng cao năng lực về quản lý, tổ chức sản xuất và
tiếp thị sản phẩm cho các tổ, nhóm, hợp tác xã trồng rau an toàn, tỏi; hỗ trợ
các hợp tác xã tìm kiếm thị trường, liên kết kết sản xuất - tiêu
thụ sản phẩm;
- Tăng cường quản lý, kiểm soát chất lượng,
vệ sinh an toàn thực phẩm sản phẩm đối với các sản phẩm rau, gia vị;
- Áp dụng các biện pháp kỹ thuật giúp cải
thiện hiệu quả sản xuất rau, gia vị, đậu gồm xây dựng và áp dụng quy trình
trồng rau an toàn (hiện đã có quy trình cho 11 loại rau), áp dụng tưới tiết
kiệm nước, riêng hành, tỏi trồng theo tiêu chuẩn VietGAP. Tăng cường tập huấn
kỹ thuật sản xuất rau theo tiêu chuẩn, đảm bảo VSATTP cho người sản xuất và hợp
tác xã;
- Ngoài phát triển các vùng chuyên canh rau,
phát triển mô hình trồng rau đa dạng trong vườn nhà hộ nông thôn để bổ sinh
vitamin, cải thiện dinh dưỡng, góp phần giảm thiểu tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng.
1.2.3. Cây lương thực:
- Ưu tiên phát triển giống cây lương thực
(giống lúa, giống ngô), mở rộng diện tích giống cây lương thực phù hợp với quy
hoạch theo nhu cầu thị trường. Đổi mới tổ chức sản xuất giống cây lương thực
theo hướng các trang trại, hợp tác xã liên kết sản xuất, tiêu thụ với các doanh
nghiệp/trung tâm giống cây trồng. Thu hút các doanh nghiệp, viện nghiên cứu
giống cây trồng tham gia nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh giống cây trồng trên
địa bàn tỉnh; xây dựng và nhân rộng mô hình cánh đồng lớn trong sản xuất giống
cây lương thực;
- Chuyển đổi diện tích lúa thương phẩm kém
hiệu quả, thiếu nước tưới sang trồng có hiệu quả cao hơn, tiết kiệm nước như
cây ngô, rau, đậu;
- Tổ chức sản xuất lúa, ngô thương phẩm ở quy
mô hộ gia đình phục vụ cho mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực. Áp dụng các
loại giống lúa, ngô mới, năng suất cao, thích nghi với điều kiện khô hạn, phù
hợp với nhu cầu thị trường; bón phân đúng liều lượng kết hợp phòng trừ sâu
bệnh; tưới nước tiết kiệm. Đẩy mạnh áp dụng các mô hình 1P5G, IPM, ICRM, SRI
cho sản xuất lúa để giảm chi phí, tăng hiệu quả sản xuất.
1.2.4. Cây công nghiệp:
- Tổ chức sản xuất theo hướng hộ sản xuất nhỏ
liên kết với doanh nghiệp sản xuất, chế biến;
- Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật (giống,
canh tác, tưới nước tiết kiệm) để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm; phát
triển hợp lý công nghiệp chế biến.
1.2.5. Cây có củ:
- Giảm diện tích gieo trồng sắn tại các khu
vực kém hiệu quả, chuyển đổi diện tích trồng sắn không hiệu quả sang các cây
trồng mới hoặc cây trồng làm thức ăn chăn nuôi;
- Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật (giống,
canh tác, tưới nước tiết kiệm) để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm;
- Tổ chức sản xuất theo hướng hộ sản xuất,
trang trại liên kết theo hợp đồng nông sản với doanh nghiệp chế biến tinh bột;
- Phát triển hợp lý công nghiệp chế biến tinh
bột.
1.2.6. Cây trồng mới:
- Nghiên cứu, phát triển diện tích trồng một
số cây trồng mới, có tiềm năng kinh tế cao như măng tây, nha đam;
- Áp dụng quy trình kỹ thuật trồng phù hợp để
nâng cao năng suất, chất lượng;
- Tổ chức sản xuất theo hướng hộ sản xuất
liên kết với doanh nghiệp chế biến nha đam, măng tây.
2.
Chăn nuôi:
2.1. Định hướng tổng thể:
2.1.1. Ưu tiên:
- Chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng tỷ
trọng chăn nuôi bò, dê, cừu; ổn định đàn heo và gia cầm theo hướng nâng
cao chất lượng, áp dụng giống mới năng suất cao, tỷ lệ sind hóa đàn bò đạt 50%;
đàn dê, cừu lai giống mới đạt 90%; tỷ lệ nạc hóa đàn heo 90%;
- Từng bước chuyển từ chăn nuôi quảng canh sang
chăn nuôi tập trung, gắn với thu hút đầu tư của doanh nghiệp và chuyển đổi diện
tích lúa sang cây trồng cạn, cỏ chăn nuôi chất lượng cao, hình thành các vùng
chăn nuôi tập trung, chuyên canh, an toàn dịch bệnh, tổ chức chăn nuôi khép
kín các khâu trong chuỗi giá trị từ cung ứng đầu vào đến sản xuất, chế biến và
tiêu thụ sản phẩm;
- Ưu tiên phát triển các con nuôi có lợi thế đến năm 2020 tổng đàn
trâu, bò đạt 144.000 ngàn con, dê cừu đạt 255 ngàn con, phát triển
đàn heo theo hướng các trang trại công nghiệp đạt quy mô tổng đàn 110 ngàn con.
Ổn định tổng đàn gia cầm theo hướng chăn nuôi công nghiệp đạt qui mô 2 triệu
con; thu hút các dự án đầu tư chăn nuôi bò thịt cao sản, dê thịt, dê sữa qui mô
lớn từ 20 - 30 ngàn con/trang trại tại các vùng tưới các hồ thủy lợi nội tỉnh
gắn với việc chuyển đổi đất lúa sang trồng cỏ chất lượng cao, các hộ nông dân
là vệ tinh hoặc cho doanh nghiệp thuê đất lâu dài.
2.1.2. Quy hoạch vùng chăn nuôi:
- Hình thành các vùng chăn nuôi tập trung,
chuyên canh, có quy mô trung bình, hiện đại gắn với công nghiệp chế biến và
tiêu thụ sản phẩm gồm:
+ Trâu, bò: chăn nuôi trâu, bò tập trung ở
các xã miền núi và vùng gò đồi thấp, xa các khu dân cư, xa khu công nghiệp
thuộc 5 huyện Thuận Bắc, Bác Ái, Ninh Phước, Thuận Nam và Ninh Sơn; trong đó,
vùng liên kết chăn nuôi giết mổ tập trung ưu tiên đầu tư tại các huyện Ninh
Phước và Ninh Sơn; đến 2020, tổng đàn trâu, bò đạt 144.000 con; trong đó trâu
4.000 con; bò 140.000 con;
+ Dê, cừu: chăn nuôi dê ở vùng miền núi, vùng
đồ gò thấp thuộc các huyện Thuận Nam (Cà Ná, Phước Diêm), Ninh Sơn (Mỹ Sơn, Hòa
Sơn); chăn nuôi cừu ở các vùng đồng bằng và đồi gò tiếp giáp vùng đồng bằng,
tại các huyện Ninh Phước (Phước Hữu), Thuận Nam (Văn Lâm), Ninh Hải (Xuân Hải),
Ninh Sơn (Mỹ Sơn), Bác Ái (Phước Trung). Vùng chuyên canh liên kết chăn nuôi giết
mổ dê, cừu tập trung ưu tiên đầu tư tại Ninh Phước và Thuận Nam. Đến 2020, tổng
đàn dê, cừu đạt 255.000 con; trong đó, dê 100.000 con, cừu 155.000 con;
+ Heo: chăn nuôi heo ở các huyện Ninh Phước,
Bác Ái, Ninh Sơn, Thuận Bắc; đến 2020, tổng đàn heo đạt 115.000 con;
+ Gia cầm: chăn nuôi gia cầm tập trung ở các
huyện Ninh Phước, Thuận Nam, Ninh Hải; đến 2020, tổng đàn gia cầm đạt 2.100.000
con.
2.1.3. Phát triển và ứng dụng khoa học công
nghệ: nhập các giống vật nuôi (cừu, dê, bò) để cải thiện năng suất, chất lượng
đàn, chọn tạo giống có năng suất, chất lượng cao; phương thức chăn nuôi thích
hợp tạo thịt có chất lượng cao, đặc sản; ứng dụng tiêu chuẩn và quy trình vệ
sinh an toàn cho chế biến và giết mổ theo quy chuẩn ngành; hệ thống giám sát,
phòng ngừa, kiểm soát dịch bệnh.
2.1.4. Cơ sở hạ tầng: phát triển đồng cỏ chăn
nuôi gia súc có sừng tập trung chủ yếu trên địa bàn các huyện Bác Ái, Thuận
Bắc, Thuận Nam, Ninh Sơn.
2.1.5. Kiểm soát dịch bệnh và vệ sinh an toàn
thực phẩm: tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý dịch bệnh trong chăn nuôi; an
toàn vệ sinh thực phẩm trong giết mổ.
2.2. Định hướng nhóm ngành hàng:
2.2.1 Bò, dê, cừu
- Rà soát, xây dựng vùng sản xuất tập trung
bò, dê, cừu gắn với an toàn dịch bệnh. Thu hút doanh nghiệp đầu tư phát triển
vùng chăn nuôi an toàn dịch bệnh, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị;
- Chuyển dần từ chăn nuôi quảng canh nông hộ
sang chăn nuôi tập trung; từ quy mô hộ sang quy mô trang trại phù hợp với điều
kiện của từng địa phương. Tăng cường kiểm soát, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, an
toàn sinh học, giảm thiểu ô nhiễm môi trường và hoang mạc hóa do chăn nuôi;
- Cải tạo, nâng cao chất lượng giống bò, dê,
cừu; hỗ trợ, khuyến khích hộ sản xuất hộ sản xuất nhỏ, trang trại liên kết với
doanh nghiệp sản xuất, chế biến;
- Chăn nuôi gia súc tập trung cải thiện kỹ
thuật chăn nuôi, xây dựng thương hiệu đối với dê, cừu. Các biện pháp kỹ thuật
để cải thiện hiệu quả chăn nuôi gia súc bao gồm tiêm phòng bệnh thường xuyên,
cải thiện chất lượng con giống, cải thiện khẩu phần ăn;
- Phát triển đồng cỏ chăn nuôi cho gia súc có
sừng kể cả đối với chăn nuôi quy mô trang trại và quy mô hộ gia đình.
2.2.2 Các vật nuôi khác
- Phát triển chăn nuôi quy mô hộ để tự cung
ứng thịt, cải thiện dinh dưỡng, góp phần giảm thiểu tỉ lệ trẻ em suy dinh
dưỡng;
- Thu hút đầu tư của doanh nghiệp phát triển
chăn nuôi quy mô trang trại và xây dựng chuỗi giá trị khép kín từ cung ứng đầu
vào, sản xuất, chế biến, tiêu thụ đối với heo, gia cầm;
- Tập trung vào nâng cao chất lượng, áp dụng
giống mới năng suất cao; đồng thời, chú trọng duy trì hợp lý giống bản địa đối
với heo, gia cầm.
3.
Thủy sản:
3.1. Định hướng tổng thể:
3.1.1 Ưu tiên:
- Chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng tỷ trọng
của sản xuất giống, khai thác hải sản xa bờ;
- Phát triển nuôi trồng
thủy sản theo hướng đầu tư thâm canh tăng năng suất, tăng hiệu quả, đảm bảo vệ
sinh an toàn và cân bằng sinh thái môi trường; mở rộng nuôi trồng trên biển.
Từng bước tổ chức lại sản xuất theo hướng nâng cao trình độ công nghệ nuôi, cấu
trúc lại hệ thống ao đìa thành các khu vực chuyên ứng dụng công nghệ cao và các
khu vực nuôi sinh thái bền vững. Diện tích nuôi đạt 2.350 ha, sản lượng nuôi 18
- 20 ngàn tấn vào 2020; trong đó tôm trên 1.000 ha, sản lượng tôm nuôi là 12
ngàn tấn. Quy hoạch lại và
đầu tư cơ sở hạ tầng vùng sản xuất giống; khuyến khích các cơ sở sản xuất nhỏ
liên kết hình thành các tập đoàn đầu tư công nghệ hiện đại, giữ vững vị thế là
trung tâm giống chất lượng cao của cả nước, sản lượng đạt 36 tỷ con vào 2020.
Tiếp tục quy hoạch lại và
đầu tư hoàn thiện hạ tầng các vùng sản xuất giống tập trung và vùng nuôi thủy
sản thương phẩm An Hải, Sơn Hải; đầu tư giai đoạn II dự án đầu tư cơ sở hạ tầng
(CSHT) và cấp thoát nước đầm Nại; đầu tư mới hạ tầng vùng sản xuất giống Nhơn
Hải, tạo điều kiện cho các các doanh nghiệp đầu tư mở rộng qui mô, hoàn thiện
cơ sở vật chất kỹ thuật để ứng dụng công nghệ cao;
- Đẩy mạnh khai thác xa
bờ, chuyển đổi cơ cấu sang các nghề lưới vây, nghề câu, nghề chụp, lưới rê để khai thác
các sản phẩm vùng khơi có giá trị kinh tế cao, gắn với bảo vệ an ninh - quốc phòng.
Tiếp tục thực hiện Đề án tổ chức lại nghề khai thác hải sản gắn với thực hiện
các chính sách phát triển thủy sản; khuyến khích đầu tư tàu thuyền công suất
lớn, khai thác xa bờ. Đến 2020 tổng số tàu thuyền khoảng 2.900 chiếc, có tổng công
suất 380 ngàn CV, khai thác đạt 75 - 80 ngàn tấn hải sản/năm; đầu tư các cảng
cá, bến cá, khu neo đậu tránh trú bão theo quy hoạch được Chính phủ phê duyệt:
Đông Hải, Ninh Chữ, Cà Ná, các bến cá Mỹ Tân, Sơn Hải để phát triển khai thác
đánh bắt xa bờ theo hướng đầu tư đồng bộ hạ tầng, dịch vụ đóng sửa chữa tàu
thuyền, phát triển dịch vụ cung cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm.
3.1.2. Quy hoạch vùng nuôi trồng thủy sản:
a) Đối với nuôi mặn, lợ:
- Khôi phục ổn định từ 1.200 - 1.300 ha nuôi
tôm ở đầm Nại, đầm Sơn Hải và vùng nuôi trên cát An Hải;
- Đối với khu vực đầm Nại: tập trung phát
triển 2 đối tượng nuôi chủ lực là tôm sú và tôm chân trắng. Tại một số diện
tích nuôi tôm không hiệu quả, khó khăn về nguồn nước ngọt chuyển đổi nuôi các
đối tượng hải đặc sản như hàu, cua, ghẹ, ốc hương, cá lợ mặn;
- Đối với khu vực đầm Sơn Hải: chỉ nuôi và
phát triển đối tượng tôm chân trắng; củng cố và mở rộng hoạt động của vùng nuôi
tôm an toàn Sơn Hải do Ủy ban nhân dân xã thành lập vào năm 2012;
- Đối với vùng nuôi trên cát xã An Hải (Ninh
Phước) - xã Phước Dinh (Thuận Nam): xác định đối tượng chính là tôm chân trắng;
đây là nơi tập trung các hộ nuôi có quy mô diện tích lớn và khả năng tài chính
nên có điều kiện phát triển thành lập khu nuôi tôm công nghệ cao của tỉnh.
Ngoài ra, phát triển nuôi ốc hương thương phẩm khoảng 20 ha theo hình thức luân
canh đa dạng đối tượng nuôi.
b) Đối với nuôi biển:
- Đối tượng nuôi chính là tôm hùm, bao gồm
ương tôm hùm giống và nuôi tôm hùm thương phẩm tại vùng quy hoạch C1, C2 tại
vịnh Phan Rang. Bổ sung đối tượng cá bớp theo hình thức nuôi lồng bè tại vùng
C1, C2 vịnh Phan Rang; ở đầm Nại nuôi hàu và trồng rong sụn, vùng biển xã Phước
Dinh trồng rong sụn. Ngoài ra, phát triển đa dạng các đối tượng khác như cá
chim, cá mú,...
- Chú trọng phát triển nuôi lồng bè trên
biển, trong đó tập trung các đối tượng giá trị cao: tôm hùm, cá bớp lồng bè,
rong sụn nhằm giảm tải sức tải môi trường, phát triển đa dạng đối tượng nuôi và
hình thức nuôi.
c) Đối với nuôi nước ngọt: duy trì các đối
tượng nuôi truyền thống góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo sinh kế bền vững; tập
trung phát triển thâm canh các đối tượng có giá trị kinh tế cao, dễ mở rộng thị
trường tiêu thụ (ba ba, cá lóc, cá lăng, cá trê lai, ếch, …).
d) Đối với sản xuất giống thủy sản: xác định
đối tượng chủ lực là tôm sú giống và tôm chân trắng giống tại 02 khu vực sản
xuất giống thủy sản tập trung ở xã An Hải (Ninh Phước) và xã Nhơn Hải (Ninh
Hải). Đồng thời, mở rộng thêm 130 ha khu sản xuất giống tập trung xã An Hải từ
diện tích của dự án nuôi trồng thủy sản chuyển sang sản xuất giống thủy sản,
nâng quy mô khu sản xuất giống thủy sản tập trung xã An Hải lên 255 ha.
3.1.3. Phát triển và ứng dụng khoa học công
nghệ:
- Đối với sản xuất giống và nuôi trồng thủy
sản, chú trọng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất giống, nuôi
thâm canh công nghiệp, công nghệ cao. Lựa chọn để du nhập các công nghệ mới
hiện đại trong nuôi trồng thủy sản và sản xuất giống thủy sản phù hợp với điều
kiện Ninh Thuận; xây dựng vùng nuôi an toàn và hiệu quả;
- Đối với khai thác hải sản, từng bước nâng
cao công nghệ khai thác và bảo quản của tàu thuyền hướng tới khai thác các đối
tượng có giá trị kinh tế cao, thị trường tiêu thụ tốt. Đầu tư tăng cường năng
lực thiết bị, công nghệ bảo quản chế biến các sản phẩm tiêu thụ trong nước và
xuất khẩu có giá trị gia tăng cao, tiện lợi trong sử dụng phù hợp với thị hiếu
người tiêu dùng.
3.1.4. Cơ sở hạ tầng:
- Đối với sản xuất giống và nuôi trồng thủy
sản, đầu tư nâng cấp hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi cấp nước mặn, ngọt, xử lý
nước thải, v.v. cho khu vực nuôi tôm đầm Nại, đầm Sơn Hải và khu nuôi tôm trên
cát xã An Hải;
- Đối với khai thác hải sản, tập trung đầu tư
cơ sở hạ tầng nghề cá đồng bộ theo hướng xây dựng Ninh Thuận trở thành trung
tâm dịch vụ, hậu cần nghề cá của khu vực. Đầu tư cơ sở hạ tầng đáp ứng nhu cầu
ra, vào, neo đậu, tránh trú bão của tàu có công suất 1.000 - 1.200 CV.
3.2. Định hướng nhóm ngành hàng:
3.3.1. Tôm giống:
- Ưu tiên sự tham gia của doanh nghiệp quy mô
lớn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư bài bản, quy mô nhằm xây dựng
thương hiệu tôm giống Ninh Thuận cho thị trường nội địa. Phát triển liên kết
trực tiếp sản xuất - tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
giống với các trại nuôi tôm thương phẩm thông qua hợp đồng nông sản;
- Xây dựng và phát triển thương hiệu cho con
tôm giống Ninh Thuận, nhấn mạnh vào chất lượng con giống;
- Chú trọng môi trường và cảnh báo dịch bệnh:
tăng cường hoạt động của hệ thống cơ quan chức năng về quản lý nước thải, chất
thải, giám sát môi trường để sản xuất giống. Thành lập trung tâm phân tích,
quản lý, giám sát môi trường các vùng sản xuất giống tập trung ở xã An Hải và
xã Nhơn Hải. Các trại sản xuất giống phải có khu xử lý, qui trình nước thải và
giải pháp xử lý chất thải rắn được đưa vào quy định; xây dựng quy chế để cơ
quan phân tích, quản lý, giám sát môi trường có thể thực hiện tốt chức năng
giám sát, kiểm tra, xử phạt;
- Công nghệ sản xuất giống: các doanh
nghiệp nước ngoài được khuyến khích phổ biến các công nghệ mới hỗ trợ các cơ sở
nhỏ, nhất là công nghệ xử lý nước thải, góp phần bảo vệ môi trường chung. Hàng
năm nguồn kinh phí nghiên cứu khoa học của tỉnh được ưu tiên sử dụng, các nguồn
từ Trung ương được tranh thủ huy động để thực hiện các đề tài nghiên cứu ứng
dụng công nghệ mới trong sản xuất tôm giống và kiểm soát dịch bệnh, an toàn môi
trường;
- Kiểm soát chất lượng con giống: kiện toàn
các đơn vị chức năng trong tỉnh, phối hợp với các cơ quan chức năng Nhà nước
(Cục Thú y) quản lý chặt chẽ 100% tôm bố mẹ, kể cả trứng và ấu trùng Nauplius
nhập ngoại, nhập từ các tỉnh khác để đảm bảo các sản phẩm trên sạch bệnh. Tất
cả các cơ sở sản xuất giống tôm tại Ninh Thuận không làm nhiệm vụ ương dèo,
phải sản xuất từ tôm bố mẹ hoặc ương từ Nauplius. Các cơ sở sản xuất tôm thẻ
hay tôm sú không sản xuất 2 đối tượng trong cùng 1 trại cùng 1 thời điểm, đề
phòng dịch bệnh lây chéo (dịch bệnh Taura) ngay từ tôm bố mẹ, ấu trùng và tôm
giống;
- Tôm giống bố mẹ: tôm bố mẹ sẽ từng bước ưu
tiên sử dụng tôm bố mẹ sản xuất trong nước, kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn đẩy nhanh các Dự án nghiên cứu sản xuất gia hóa tôm bố mẹ; đầu
tư nâng cấp Trung tâm giống Hải sản cấp I của tỉnh đủ điều kiện và năng lực
tiếp nhận sản phẩm tôm bố mẹ gia hóa, nuôi vỗ cung cấp cho các cơ sở sản xuất.
Khuyến khích các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nước ngoài trên địa bàn tỉnh
kết hợp với các Viện nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, II và III tiếp nhận,
khảo nghiệm và tiêu thụ tôm thẻ chân trắng bố mẹ được gia hóa, sản xuất tại
Việt Nam nhằm chủ động khâu then chốt ban đầu;
- Định hướng phát triển chuỗi ngành hàng khép
kín từ khâu sản xuất giống đến khâu tiêu thụ tại các trại nuôi tôm thương phẩm;
- Hai khu An Hải và Nhơn Hải sẽ được tổ chức
thành 2 khu sản xuất tôm giống tập trung với đối tượng 90% là tôm thẻ chân
trắng. Các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, manh mún sẽ được tổ chức lại thành các tổ hợp
tác/hợp tác xã với quy mô và năng lực tài chính lớn hơn để đầu tư đồng bộ;
- Kiện toàn Hiệp hội tôm giống, vận động và
có biện pháp để 100% các cơ sở sản xuất tôm giống tham gia Hiệp hội; các cơ sở
sản xuất phải tự kiểm tra đảm bảo chất lượng tôm giống do mình sản xuất nhưng
phải được tự kiểm soát bằng Quy chế của Hiệp hội và của các cơ quan chức năng
nhằm đảm bảo uy tín chung cho sản phẩm chủ lực của tỉnh.
3.2.2. Khai thác hải sản:
- Đến năm 2020, tổng số tàu thuyền 2.900
chiếc, tổng công suất 380.000 CV, trong đó số lượng tàu công suất lớn từ 90 CV
trở lên đạt 1.200 chiếc; sản lượng khai thác hải sản đạt 75.000 tấn;
- Ngành khai thác hải sản sẽ tiếp tục cung
cấp nguồn hải sản tươi/đông lạnh cho thị trường tiêu thụ nội địa và nguyên liệu
cho chế biến thủy sản. Xuất khẩu hải sản đông lạnh, khô sẽ tập trung vào phân
khúc thị trường yêu cầu sản phẩm chất lượng cao như Nhật, Mỹ; đồng thời tiếp
tục xuất khẩu hải sản khô vào phân khúc thị trường yêu cầu sản phẩm chất lượng
trung bình như Trung Quốc..., sản phẩm hải sản tiêu thụ nội địa sẽ vẫn tiếp tục
giữ vững phân khúc thị trường yêu cầu chất lượng sản phẩm trung bình (bán tại
các chợ), từng bước tiến tới cung cấp cho phân khúc thị trường yêu cầu chất
lượng cao (bán tại các hệ thống siêu thị);
- Khoảng 40% tàu cá khai thác hải sản trên
biển hoạt động theo các mô hình liên kết; trong đó 90% tàu cá đánh bắt ở vùng
khơi tổ chức sản xuất gắn với tàu dịch vụ hậu cần trên biển; 100% tàu cá khai
thác ở vùng khơi được cung cấp bản tin dự báo ngư trường;
- Giảm tổn thất sau thu hoạch xuống dưới 10%;
áp dụng rộng rãi hệ thống truy xuất nguồn gốc thủy sản khai thác; giảm số tàu
cá bị thiệt hại do thiên tai, rủi ro trên biển;
- Tiếp tục phát triển các tổ đoàn kết đánh
bắt trên biển, tiến tới thành lập các Hợp tác xã dịch vụ và khai thác hải sản
giải quyết tốt khâu dịch vụ hậu cần nghề cá trên biển để giảm chi phí vận
chuyển, bảo quản, tăng chất lượng sản phẩm, góp phần đảm bảo an toàn nghề cá.
Phấn đấu có từ 70 - 75% số tàu cá có công suất từ 90 CV trở lên là thành viên
các tổ, đội ngư dân đoàn kết đánh bắt trên biển hay các hợp tác xã.
3.2.3. Nuôi trồng thủy sản:
- Đến 2020, diện tích nuôi trồng thủy sản đạt
2.350 ha; trong đó nuôi tôm đạt 1.000 ha; sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt
18.620 tấn, trong đó tôm 12.000 tấn; sản lượng con giống đạt hơn 36 tỷ con;
- Đối với các sản phẩm có thị trường tiêu thụ
ổn định như tôm sú, tôm chân trắng tiếp tục củng cố các thị trường hiện tại,
tiếp tục tìm kiếm mở rộng thị trường mới. Đối với các sản phẩm cá và thủy sản
đặc sản, ngoài các thị trường tiêu thụ truyền thống (chủ yếu là nội địa trong
tỉnh và một số tỉnh lân cận) cần xúc tiến mở rộng thị trường tiêu thụ nội địa ở
các thành phố lớn, khu công nghiệp, siêu thị thông qua đầu mối trung gian là
hiệp hội, hợp tác xã nghề nghiệp;
- Đối với nuôi mặn, lợ: tập trung phát triển
2 đối tượng nuôi chủ lực là tôm sú và tôm thẻ chân trắng theo hình thức thâm
canh hoặc bán thâm canh, trong đó mật độ nuôi tôm sú dao động 10 - 20 con/m2,
tôm thẻ chân trắng 100 - 150 con/m2; chuyển đổi các vùng nuôi quảng
canh truyền thống sang áp dụng các mô hình nuôi sinh thái, nuôi ghép đa đối
tượng như tôm sú và cá rô phi, tôm sú và cua ghẹ; mật độ dao động 50 - 70 con/m2
(đối với tôm thẻ) và 10 - 15 con/m2 (đối với tôm sú) kết hợp trồng
rừng ngập mặn nhằm tạo sinh cảnh và cải thiện môi trường vùng nuôi;
- Đối với nuôi biển: tập trung phát triển
nuôi lồng bè, trong đó tập trung các đối tượng giá trị cao như: tôm hùm, cá mú,
cá bớp ốc hương, rong sụn, v.v. nhằm giảm tải sức tải môi trường, phát triển đa
dạng đối tượng nuôi và hình thức nuôi;
- Đối với sản xuất giống thủy sản: tập trung
áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao chất lượng tôm
giống đáp ứng nhu cầu thị trường. Ngoài ra phát triển đa
dạng đối tượng sản xuất giống với ốc hương, tu hài, cá biển, hàu...
- Tổ chức lại các cơ sở nuôi trồng thủy sản
nhỏ lẻ theo hình thức hợp tác, liên kết thành các tổ hợp tác, tổ chức cộng đồng
hoặc hợp tác xã, tăng cường sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất, cung
ứng dịch vụ và tiêu thụ sản phẩm:
+ Đối với vùng nuôi Đầm Nại: khuyến khích các
hộ nuôi lớn thuê hoặc mua lại đất của các hộ nhỏ lẻ, hình thành các cơ sở nuôi
có quy mô lớn, đủ điều kiện thiết kế vùng nuôi đúng tiêu chuẩn. Củng cố và phát
triển tổ cộng đồng nuôi trồng thủy sản tại khu đầm Nại, giúp các hộ nuôi liên
kết lại với nhau, nắm vững thông tin thị trường, tình hình sản xuất; tại đầm
Nại duy trì ít nhất 04 tổ cộng đồng nuôi tôm tại 04 xã hoạt động nuôi tôm phát
triển: Tân Hải, Hộ Hải, Phương Hải và thị trấn Khánh Hải;
+ Đối với vùng nuôi tôm trên cát An Hải - Từ
Thiện (xã Phước Dinh): Khuyến khích các doanh nghiệp lớn mua lại hoặc cho các
hộ nuôi nhỏ lẻ cùng góp vốn hình thành các trang trại nuôi lớn, áp dụng công
nghệ tiên tiến như VietGAP, mô hình ao ương, mô hình nuôi trong nhà kính hướng
đến tăng năng suất, hạn chế dịch bệnh và bền vững với môi trường, dần hình
thành vùng nuôi tập trung công nghệ cao của tỉnh. Hình thành 01 hợp tác xã hoạt
động có hiệu quả, tạo sản phẩm có khối lượng lớn, đồng nhất chất lượng kết nối
thị trường;
+ Đối với vùng nuôi tôm công nghiệp Sơn Hải: khuyến
khích, kêu gọi doanh nghiệp đầu tư xây dựng vùng nuôi tôm chân trắng tập trung
ứng dụng công nghệ cao đối với 47 ha chưa xây dựng phía Tây của đầm Sơn Hải;
+ Đối với vùng sản xuất giống tập trung An
Hải và Nhơn Hải: ưu tiên nguồn lực để đầu tư, sắp xếp, bố trí các cơ sở sản
xuất tôm giống, hải đặc sản theo quy hoạch; dần dần xóa bỏ các khu sản xuất
giống không nằm trong quy hoạch không đủ điều kiện sản xuất như Cà Ná, khu vực
giáp biển Bình Sơn. Rà soát đất đai tại các khu sản xuất giống thủy sản tập
trung, đối với những diện tích chưa được đưa vào sử dụng, tiến hành thu hồi và
cấp cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu, nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai.
Khuyến khích các cá thể nhỏ liên kết với nhau thành lập công ty lớn, tập trung
nguồn vốn, con người để đầu tư ứng dụng các nghiên cứu vào sản xuất giống thủy
sản;
+ Đối với vùng nuôi lồng bè trên biển: đến
năm 2020 triển khai chính sách giao khoán, cho thuê diện tích mặt nước tại các
vùng quy hoạch cho các hộ dân có đủ điều kiện. Tiến đến cắm mốc và đánh số lồng
bè nuôi, khuyến khích các doanh nghiệp lớn, có đủ điều kiện đầu tư ứng dụng mô
hình nuôi mới phát triển nuôi các đối tượng có giá trị kinh tế cao trên biển
như: tôm hùm, cá bớp, cá mú, cá chim với công nghệ nuôi hiện đại;
+ Đối với vùng nuôi nước ngọt: khuyến khích
tổ chức sản xuất quy mô trang trại hoặc gia trại liên kết, tạo ra các sản phẩm
có quy mô sản xuất hàng hóa.
- Tăng cường ứng dụng, chuyển giao các tiến
bộ khoa học kỹ thuật về sản xuất giống tôm, nuôi tôm thâm canh, công nghiệp,
công nghệ cao. Ứng dụng rộng rãi quy phạm thực hành nuôi trồng thủy sản tốt
(VietGAP), nuôi trồng thủy sản có chứng nhận, đẩy mạnh liên kết sản xuất theo
chuỗi giá trị từ ao nuôi đến bàn ăn, truy nguyên nguồn gốc trong nuôi trồng
thủy sản.
4.
Lâm nghiệp:
4.1. Định hướng tổng thể:
4.1.1. Ưu tiên:
- Thiết lập, quản lý, bảo vệ và phát triển
bền vững 202.484 ha rừng và đất rừng vào năm 2020; trong đó rừng đặc dụng
41.811 ha, rừng phòng hộ 116.462 ha, rừng sản xuất 39.611 ha và rừng ngoài quy
hoạch 3 loại rừng 4.600 ha gắn với việc tổ chức lại các đơn vị lâm nghiệp do Nhà
nước thành lập;
- Chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng tỷ trọng
trồng và chăm sóc rừng, dịch vụ lâm nghiệp; phấn đấu nâng độ che phủ rừng đạt
50% vào năm 2020 bằng nhiều giải pháp như khoanh nuôi tái sinh, bảo vệ và trồng
rừng phòng hộ, rừng sản xuất;
- Bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng tại hai
Vườn quốc gia gắn với phát triển du lịch sinh thái, bảo vệ và phát triển các
giá trị văn hóa, lịch sử. Trồng rừng phòng hộ, đặc dụng tại các khu vực xung
yếu ven biển, các khu rừng đầu nguồn các hồ, đập thủy lợi với các loại cây
trồng bản địa và cây đã thích nghi như cây neem, cây trôm. Phát triển rừng sản
xuất theo hình thức Nhà nước hỗ trợ một phần với các đối tượng cây trồng mới
ứng dụng công nghệ mô, hom cho năng suất cao gắn với phát triển chăn nuôi dưới
tán rừng, phát triển theo mô hình nông, lâm kết hợp để hạn chế tác động tiêu
cực của hạn hán; từng bước phát triển công nghiệp chế biến gỗ rừng trồng. Đối
với lâm sản ngoài gỗ, trước mắt hướng tới phát triển các loại sản phẩm lâm sản
ngoài gỗ như mủ trôm, lá và quả neem, các cây dược liệu khác.
4.1.2. Phát triển và ứng dụng khoa học công
nghệ:
- Tăng cường nghiên cứu và ứng dụng công nghệ
sinh học vào sản xuất lâm nghiệp, trước mắt là ứng dụng công nghệ nuôi cấy mô
trong sản xuất giống cây trồng có năng suất cao, chịu hạn tốt, giá trị kinh tế
cao, phòng hộ bền vững; nghiên cứu phục hồi rừng bằng các loài cây bản địa có
giá trị, bổ sung loài mới vào các rừng tự nhiên ở các khu rừng phòng hộ, đặc
dụng;
- Tăng cường công tác điều tra cơ bản về rừng
để đánh giá đúng diễn thế rừng, đất đai; tài nguyên động, thực vật; ứng dụng
công nghệ thông tin trong điều tra rừng, quản lý tài nguyên rừng;
- Nghiên cứu xây dựng các mô hình sản xuất
lâm, nông kết hợp.
4.2. Định hướng nhóm ngành hàng:
- Trong giai đoạn 2016 - 2020, tổng diện tích
rừng trồng mới tập trung đạt 7.586 ha, bảo vệ rừng đạt 195.000 ha, khoanh nuôi
rừng tái sinh đạt 17.000 ha;
- Trước mắt hướng tới phát triển các loại sản
phẩm lâm sản ngoài gỗ như mủ trôm, cây dược liệu,... song song với việc tìm thị
trường đầu ra cho sản phẩm cây neem (lá và quả):
+ Mủ trôm: thị trường đầu ra tại thành phố Hồ
Chí Minh, nội tỉnh và hướng ra thị trường Hà Nội;
+ Neem (lá và quả): hướng tới xuất khẩu sang
Nhật Bản, Hàn Quốc;
+ Cây dược liệu (trồng xen canh dưới tán
rừng): thị trường đầu ra nội tỉnh và một số tỉnh lân cận và thành phố Hồ Chí
Minh.
- Từng bước xây dựng vùng nguyên liệu gỗ rừng
trồng; tổ chức sản xuất theo hướng hộ gia đình, cá nhân tham gia bảo vệ, khoanh
nuôi, tái sinh, và trồng rừng bên cạnh các ban quản lý rừng, công ty lâm
nghiệp.
5.
Diêm nghiệp:
5.1. Ưu tiên:
- Sản xuất muối công nghiệp đến 2020
ổn định diện tích 3.460 ha, sản lượng khoảng 450 ngàn tấn; đầu tư xây dựng các
nhà máy chế biến muối và các sản phẩm sau muối với trang thiết bị và công nghệ
sản xuất hiện đại trở thành trung tâm sản xuất, chế biến muối và hóa chất từ
muối hiện đại gắn với bảo vệ môi trường, giải quyết, xử lý có hiệu quả diện
tích bị nhiễm mặn, không cho lan ra diện rộng. Phát triển các cơ sở chế biến
muối hiện có trên cơ sở đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm;
- Ổn định vùng sản xuất muối diêm dân,
muối thực phẩm sạch phát triển tập trung tại huyện Ninh Hải 480 ha; xây dựng
chuỗi ngành hàng theo hướng tăng cường liên kết giữa hộ sản xuất với các doanh
nghiệp sản xuất, chế biến muối và thị trường thông qua tổ hợp tác/hợp tác xã.
Tăng cường áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất muối với các công nghệ phủ
bạt ô kết tinh, phương pháp trải bạt trên nền ô kết tinh, công nghệ tuyển rửa
muối ngay sau thu hoạch. Từng bước đầu tư cơ giới hóa ở các đồng muối tập trung
có đủ điều kiện thực hiện cơ giới hóa.
5.2. Quy hoạch vùng sản xuất:
- Quy hoạch phát triển sản xuất muối tập
trung tại hai vùng chuyên canh sản xuất và chế biến muối tại huyện Thuận Nam
(Phước Diêm, Phước Minh) và huyện Ninh Hải (Khánh Hải, Tri Hải, Nhơn Hải và
Phương Hải);
- Vùng sản xuất muối công nghiệp, diện tích
muối công nghiệp chất lượng cao tập trung tại huyện Thuận Nam 2.150 ha, trong
đó xã Phước Minh là 2.125 ha; huyện Ninh Hải 1.310 ha, trong đó xã Tri Hải là
995 ha. Ưu tiên các doanh nghiệp lớn, có uy tín trong nước và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài xây dựng và phát triển cơ sở sản xuất và chế biến muối
gắn với thị trường tiêu thụ muối công nghiệp của các doanh nghiệp, tập đoàn chế
biến thực phẩm, hóa chất, y tế sử dụng muối nguyên liệu và các siêu thị;
- Vùng sản xuất muối diêm dân, muối thực phẩm
sạch nhiều vi lượng phát triển tập trung tại huyện Ninh Hải 480 ha. Sản phẩm
muối thủ công gắn với thị trường tiêu thụ muối của các chợ, cơ sở chế biến và
bảo quản nông sản, các doanh nghiệp chế biến muối thực phẩm chất lượng cao và
các nhà nhập khẩu. Xây dựng chuỗi ngành hàng theo hướng tăng cường liên kết
giữa hộ sản xuất với các doanh nghiệp sản xuất, chế biến muối và thị trường
thông qua tổ hợp tác/hợp tác xã.
5.3. Nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ:
- Tăng cường áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong
sản xuất muối: Công nghệ phủ bạt ô kết tinh, phương pháp trải bạt trên nền ô
kết tinh, công nghệ tuyển rửa muối ngay sau thu hoạch;
- Từng bước đầu tư cơ giới hóa ở các đồng
muối tập trung có đủ điều kiện thực hiện cơ giới hóa (quy mô diện tích, áp dụng
công nghệ phủ bạt, độ dày lớp muối,...).
5.4. Tổ chức sản xuất:
- Đối với muối công nghiệp, ưu tiên phát
triển doanh nghiệp sản xuất quy mô lớn, sản xuất tập trung, áp dụng cơ giới hóa,
cơ sở hạ tầng đồng bộ và công nghệ hiện đại;
- Đối với sản xuất muối thủ công, ưu tiên
phát triển mô hình hợp tác xã/tổ nhóm liên kết ngang giữa các hộ gia đình để để
tăng quy mô sản xuất, áp dụng cơ giới hóa, tăng khả năng tiếp cận thị trường.
Tư vấn hướng dẫn tổ chức các hộ lại thành hợp tác xã hoặc tổ nhóm nông dân. Hỗ
trợ hợp tác xã hoặc tổ nhóm nông dân tiếp cận tín dụng, áp dụng cơ giới hóa,
công nghệ sản xuất tiên tiến;
6. Thủy lợi:
- Rà soát, điều chỉnh Quy hoạch thủy lợi đến
năm 2020 và tầm nhìn 2030 theo hướng tính toán cân bằng lại nguồn nước thích ứng
với biến đổi khí hậu để đảm bảo nhu cầu dùng nước trong giai đoạn tới của các
ngành nông nghiệp, công nghiệp, du lịch và các ngành kinh tế khác;
- Điều chỉnh nhu cầu dùng nước của ngành nông
nghiệp bằng các giải pháp:
+ Xây dựng đề án và tập
trung nguồn lực để chuyển đổi trên 8 ngàn ha đất lúa
kém hiệu quả sang cây trồng sử dụng ít nước, cây trồng cạn như rau màu, cây
công nghiệp, cây ăn quả sang trồng cây có hiệu quả hơn, gắn với việc áp dụng công
nghệ mới (nhất là công nghệ tưới tiết kiệm), đổi mới kỹ thuật canh tác, tổ chức
lại sản xuất theo cánh đồng lớn, liên kết giữa doanh nghiệp với các tổ
chức của nông dân trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm;
+ Ứng dụng các giải pháp và xây dựng chính
sách sử dụng tiết kiệm tài nguyên nước: Ứng dụng và ban hành chính sách khuyến
khích, hỗ trợ nhân rộng công nghệ tưới tiết kiệm nước. Phấn đấu đến năm 2020 có
50% diện tích nho, táo và sản xuất rau, củ, cỏ chăn nuôi, được áp dụng tưới nhỏ
giọt hoặc phun mưa; trên 50% diện tích sản xuất lúa được áp dụng công nghệ “1
phải 5 giảm”. Ứng dụng và nhân rộng các giải pháp chống bốc hơi nước để giảm
tưới nước, giảm làm cỏ cho cây trồng;
+ Nghiên cứu quy hoạch, xây dựng các công
trình liên thông các hồ chứa, liên thông các hệ thống tưới để tăng hiệu quả sử
dụng nguồn nước:
Trong giai đoạn đến 2020 tập trung hoàn thành
hồ sông Than, hồ sông Cái và đập Tân Mỹ, đập hạ lưu sông Dinh; đầu tư các hệ
thống kênh mương cấp 2, cấp 3 tại các khu vực tưới hồ chứa đang và sẽ xây dựng
đưa năng lực tưới đạt 60% diện tích đất nông nghiệp.
Liên thông các hồ chứa bằng đường ống để đưa
vào quy hoạch xây dựng trong giai đoạn đến năm 2020 và đến năm 2030, đó là: Kết
nối liên thông đưa nước từ hồ Sông Cái - Đập Tân Mỹ về các khu vực phía Bắc
tỉnh như hồ Thành Sơn, Bà Râu, Sông Trâu, Ông Kinh; kết nối liên thông lưu vực
hồ Cho Mo với lưu vực suối Ngang hồ Phước Trung; kết nối liên thông hồ Tân
Giang về hồ Sông Biêu và hồ Suối Lớn; kết nối liên thông hồ Sông Than về hồ
Lanh Ra, Tà Ranh, Bầu Zôn, Suối Lớn, CK7.
Quy hoạch, xây dựng các tuyến công trình liên
thông hệ thống tưới như kết nối hệ thống tưới Tân Mỹ với các hệ thống tưới phía
Bắc tỉnh, kết nối hệ thống tưới hồ Sông Than với hệ thống tưới các tiểu vùng
lưu vực sông Quao và sông Lu.
Phần thứ 6
GIẢI PHÁP VÀ CHÍNH SÁCH THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
I. Quy hoạch:
- Rà soát, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất để xây dựng các vùng chuyên canh sản xuất, phát triển ngành các ngành
hàng có lợi thế;
- Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch nông
thôn mới gắn với phát triển vùng chuyên canh và xây dựng chuỗi giá trị các
ngành hàng;
- Xây dựng quy hoạch khu, vùng nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao gắn với xây dựng các chuỗi giá trị ngành nông nghiệp tỉnh
đến năm 2020, định hướng đến năm 2030;
- Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá
việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch.
II. Huy động vốn đầu
tư
- Tiếp tục đổi mới phương thức huy động và
phân bổ, sử dụng nguồn vốn có hiệu quả, triển khai đồng bộ nhiều giải pháp để
huy động nguồn vốn. Chú trọng thu hút đầu tư tư nhân cho đầu tư phát triển nông
nghiệp;
- Phát triển các hình thức liên kết công tư
để nâng cao hiệu quả đầu tư công đồng thời thu hút đầu tư tư nhân trong phát
triển cơ sở hạ tầng, cụm công nghiệp dịch vụ, khoa học công nghệ tại các vùng
chuyên canh, phát triển chuỗi giá trị ngành hàng nông sản chủ lực, đặc thù của
tỉnh;
- Tranh thủ tối đa sự hỗ trợ của Trung ương,
của các nhà tài trợ cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao năng lực
ứng phó với biến đổi khí hậu;
- Tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào phát triển các chuỗi giá trị ngành hàng nông sản, phát triển nông
nghiệp công nghệ cao, nâng cao khả năng cạnh tranh, gia tăng giá trị.
III. Đầu tư công:
- Đổi mới về hình thức huy động, thu
hút đầu tư công thông qua các hình thức liên kết công tư để nâng cao
hiệu quả đầu tư công;
- Tập trung, ưu tiên đầu tư công cho phát
triển hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp cho vùng chuyên canh các ngành hàng
có lợi thế (giống thủy sản; nho, táo, tỏi; bò, dê, cừu; giống cây trồng) và các
ngành hàng mới có tiềm năng (nha đam, măng tây);
- Ưu tiên đầu tư công hỗ trợ ứng dụng công
nghệ cao, công nghệ tiết kiệm nước, công nghệ sạch, thân thiện môi trường vào
sản xuất nông nghiệp;
- Ưu tiên hỗ trợ giảm tổn thất sau thu hoạch
cho các ngành hàng có lợi thế; đầu tư công cho sản xuất và ứng dụng dụng giống
cây trồng, vật nuôi chịu hạn, năng suất cao;
- Ưu tiên đầu tư công cho hỗ trợ ứng phó với
biến đổi khí hậu bao gồm chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; phát triển, ứng
dụng khoa học và công nghệ thích ứng và chống chịu khí hậu khô hạn, các biện
pháp giảm nhẹ ảnh hưởng của biến đổi khí hậu; quản lý rủi ro, phát triển hạ
tầng thủy lợi, đảm bảo an ninh nguồn nước, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả;
nhân rộng các mô hình tổ hợp tác dùng nước (PIM) gắn với Công ty TNHH
MTV Khai thác công trình thủy lợi để nâng cao hiệu quả sử dụng nước.
IV. Đổi mới cung cấp
dịch vụ công:
- Đào tạo nâng cao năng lực cho cán bộ
nông nghiệp cơ sở (xã, thôn), nghiên cứu tổ chức lại bộ máy hỗ trợ phát triển
nông nghiệp cấp xã (khuyến nông, bảo vệ thực vật, thú y, …);
- Xã hội hóa dịch vụ công nông nghiệp:
giao một phần phần dịch vụ công nông nghiệp cho HTX, tư nhân như dịch vụ thú y,
bảo vệ thực vật, cung cấp vật tư đầu vào cho sản xuất, khuyến nông,...
- Nhà nước tập trung vào những dịch vụ
công mới để hỗ trợ doanh nghiệp (phát triển thị trường, xúc tiến thương mại,
quản lý chất lượng, phòng chống rủi ro, bảo vệ môi trường, …);
- Ưu tiên cung cấp dịch vụ công cho
các ngành hàng có lợi thế, vùng chuyên canh.
V. Đổi mới thể chế:
- Thúc đẩy cải cách hành chính, đơn giản hóa thủ
tục hành chính, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), tạo hành
lang pháp lý và điều kiện thuận lợi cho đầu tư tư nhân vào nông nghiệp;
- Phát triển các hình thức hợp tác công tư
trong phát triển nông nghiệp, nông thôn, ưu tiên áp dụng các hình thức hợp tác
công tư cho các lĩnh vực: Phát triển chuỗi giá trị nông sản; hạ tầng sản xuất,
thương mại, đời sống, phòng chống thiên tai và bảo vệ môi trường; dịch vụ tư
vấn, phát triển sản xuất, kinh doanh, đời sống, phòng chống thiên tai và bảo vệ
môi trường;
- Sắp xếp, đổi mới hai Công ty TNHH MTV lâm
nghiệp Ninh Sơn và Tân Tiến theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số
507/TTg-ĐMDN ngày 29 tháng 3 năm 2016 về việc phương án tổng thể sắp xếp, đổi
mới công ty lâm nghiệp thuộc tỉnh Ninh Thuận;
- Cải thiện hoạt động của hợp tác xã: tăng
cường năng lực cho hợp tác xã để thực hiện tốt các chức năng cung cấp dịch
vụ nông nghiệp, đầu vào, chế biến nông sản và tiếp cận thị trường cho các xã
viên;
- Nghiên cứu, thí điểm thành lập liên
hiệp hợp tác xã thủy lợi gắn với công ty thủy nông để cung ứng và thu phí dịch
vụ thủy lợi.
VI. Cơ chế, chính
sách:
Tiếp tục rà soát, điều chỉnh, bổ sung các cơ
chế, chính sách hiện có, đảm bảo kịp thời, phù hợp tình hình thực tế địa phương
và nghiên cứu ban hành các nhóm chính sách để tập trung cho các khâu đột phá,
góp phần thực hiện có hiệu quả tái cơ cấu ngành nông nghiệp.
1.
Chính sách đất đai:
- Rà soát, điều chỉnh quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất để xây dựng các vùng chuyên canh sản xuất các ngành hàng có
lợi thế: giống thủy sản; giống cây trồng; nho, táo; tỏi; bò, dê, cừu và các cây
trồng mới có tiềm năng (nha đam, măng tây). Hỗ trợ các xã kinh phí để rà soát,
điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp;
- Đảm bảo quỹ đất ổn định để thu hút
đầu tư vào các vùng chuyên canh; đối với các hộ gia đình, cá nhân đầu tư phát
triển kinh tế trang trại, tạo điều kiện thuận lợi về giao đất, cho thuê đất,
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài theo pháp luật; ban hành
chính sách miễn giảm thuế về đất đai trong thời gian xây dựng cơ bản. Khuyến
khích, hỗ trợ người dân góp vốn bằng đất với doanh nghiệp để tạo quỹ đất hình
thành vùng sản xuất quy mô lớn, phát triển doanh nghiệp nông nghiệp;
- Có chính sách khuyến khích tích tụ,
tập trung ruộng đất nhằm phát triển các vùng chuyên canh quy mô lớn với hình
thức đa dạng, phù hợp với quy hoạch của từng vùng và đặc điểm của sản phẩm. Hỗ
trợ tiếp cận tín dụng trung hạn, dài hạn và đơn giản các thủ tục, tạo điều kiện
cho các hộ nông dân sản xuất giỏi tích tụ ruộng đất;
- Ban hành chính sách hỗ trợ cho các hộ gia
đình khi thực hiện chuyển đổi đất lúa nước thiếu nước tưới, hiệu quả thấp
sang cây trồng khác hiệu quả hơn, tiết kiệm nước.
2.
Thu hút đầu tư tư nhân:
- Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư; rà
soát, sửa đổi, bổ sung Quyết định số 52/2015/QĐ-UBND ngày 17 tháng 8 năm 2015
của Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành quy định một số chính sách đặc thù
khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn
tỉnh Ninh Thuận để khuyến khích, thu hút đầu tư tư nhân vào sản xuất
nông nghiệp, chế biến sâu;
- Xây dựng, ban hành chương trình thu
hút đầu tư doanh nghiệp vào phát triển các khu, vùng nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao; vùng chuyên canh; phát triển chế biến nông, lâm, thủy sản;
- Xây dựng cơ chế đối
thoại thường xuyên giữa doanh nghiệp và các cơ quan quản lý Nhà nước, các cơ
quan Nhà nước phải đồng hành cùng doanh nghiệp, tập trung giải quyết các khó
khăn vướng mắc của doanh nghiệp; rà soát lại quy hoạch làng nghề để thu hút
doanh nghiệp vừa và nhỏ vào phát triển làng nghề;
- Tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào phát triển các chuỗi giá trị ngành hàng nông sản, phát triển
nông nghiệp công nghệ cao, nâng cao khả năng cạnh tranh, gia tăng giá trị.
3.
Phát triển nguồn nhân lực:
- Ban hành hoặc cụ thể hóa chính sách hỗ trợ
doanh nghiệp đào tạo nông dân trên cơ sở hợp đồng liên kết giữa doanh nghiệp và
các tổ chức hợp tác của nông dân (THT, HTX);
- Tổ chức tập huấn các kỹ thuật và giải pháp
thích ứng với biến đổi khí hậu trong ngành nông nghiệp cho nông dân;
- Tăng cường đào tạo các ngành nghề phi nông
nghiệp và hỗ trợ tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu lao động trong toàn tỉnh. Ưu
tiên đào tạo nghề và chuyển dịch cơ cấu lao động cho các vùng bị ảnh hưởng do
biến đổi khí hậu; chú trọng đào tạo theo các đề án, dự án, mô hình sản xuất
nông nghiệp hiệu quả trên địa bàn;
- Tổ chức tập huấn nâng cao năng lực về kỹ
năng quản lý, kỹ năng mềm cho đội ngũ cán bộ của các sở, ban, ngành, địa phương
về các lĩnh vực dịch vụ công, quản lý Nhà nước, ứng phó biến đổi khí hậu; có
chính sách thu hút tri thức trẻ về công tác tại địa bàn nông thôn;
- Khuyến khích hỗ trợ các doanh nghiệp đào tạo
nghề gắn với sử dụng lao động tại doanh nghiệp ở địa bàn nông thôn.
4.
Nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ:
- Tăng ngân sách cho hoạt động nghiên
cứu, chuyển giao khoa học công nghệ cho các lĩnh vực ưu tiên như công nghệ cao,
công nghệ tiết kiệm nước;
- Ban hành chính sách hỗ trợ ứng dụng công
nghệ tiết kiệm nước, trước mắt đối với các cây trồng chủ lực như nho, táo, nha
đam, măng tây xanh, rau củ; rà soát sửa đổi, ban hành chính sách hỗ trợ nhân
rộng các mô hình ứng dụng khoa công nghệ có hiệu quả gắn với Chương trình mục
tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
5. Phát triển liên kết với doanh nghiệp, phát
triển kinh tế hợp tác, phát triển trang trại:
- Nghiên cứu ban hành (hoặc cụ thể hóa) chính
sách khuyến khích phát triển liên kết giữa các hộ nông dân để hình thành các
hợp tác xã, tổ hợp tác và liên kết giữa hộ nông dân, trang trại, tổ hợp tác,
hợp tác xã với doanh nghiệp sản xuất, chế biến theo Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg
ngày 25 tháng 10 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ; chính sách khuyến
khích, hỗ trợ người dân góp vốn bằng đất với doanh nghiệp để tạo quỹ đất hình
thành vùng sản xuất quy mô lớn, phát triển doanh nghiệp nông nghiệp;
- Xây dựng chính sách ưu đãi cho phát triển
kinh tế trang trại, kinh tế hợp tác, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào ngành nông
nghiệp, nhất là doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh
thích ứng với biến đổi khí hậu. Huy động hỗ trợ của Nhà nước và nhà tài trợ để
hình thành quỹ phát triển kinh tế trang trại;
- Khuyến khích phát triển liên kết ngang giữa
các hộ nông dân để hình thành các hình thức kinh tế hợp tác (hợp tác xã, tổ hợp
tác) và liên kết dọc giữa hộ nông dân, trang trại, tổ hợp tác, hợp tác xã với
doanh nghiệp sản xuất, chế biến;
- Đối với các hộ gia đình, cá nhân đầu tư
phát triển kinh tế trang trại, tạo điều kiện thuận lợi về giao đất, cho thuê đất,
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài theo pháp luật; ban hành
chính sách miễn giảm thuế về đất đai trong thời gian xây dựng cơ bản;
- Khuyến khích, hỗ trợ người dân góp vốn
bằng đất với doanh nghiệp để tạo quỹ đất hình thành vùng sản xuất quy mô lớn,
phát triển doanh nghiệp nông nghiệp;
- Nhân rộng mô hình liên kết nông dân -
doanh nghiệp,
sản xuất theo mô
hình “cánh
đồng lớn” và đối tác công tư PPP cho các ngành hàng có lợi thế.
6. Xúc tiến thương mại, phát triển thị trường
và quản lý chất lượng sản phẩm nông sản:
- Hỗ trợ xây dựng, quản lý và phát triển nhãn
hiệu tập thể, chỉ dẫn địa lý các ngành hàng có lợi thế. Ban hành quy định bắt
buộc về tiêu chuẩn chất lượng đối với những mặt hàng có đăng ký quyền sử dụng
nhãn hiệu tập thể, chỉ dẫn địa lý; giám sát chặt chẽ việc thực hiện quy định
này để đảm bảo uy tín, chất lượng chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể;
- Đổi mới phương thức
thực hiện xúc tiến thương mại và phát triển thị trường theo hướng các hiệp hội
ngành hàng, doanh nghiệp và hợp tác xã tổ chức thực hiện, tỉnh hỗ trợ bằng cơ
chế, chính sách;
- Ưu tiên hỗ trợ các
hợp tác xã, doanh nghiệp, ngành hàng có lợi thế trong tổ chức và tham gia
các sự kiện, hội thảo, hội chợ, các chương trình xúc tiến thương mại trên cả
nước để quảng bá các chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể của Ninh Thuận.
- Hỗ trợ các hợp tác
xã, doanh nghiệp tìm kiếm, ký kết hợp đồng trực tiếp với các chuỗi siêu thị,
doanh nghiệp chế biến;
- Tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm sản phẩm nông sản. Có
chính sách hỗ trợ nhân rộng mô hình kiểm soát, quản lý chất lượng nông sản theo
chuỗi; hỗ trợ người sản xuất, chế biến áp dụng các quy trình sản xuất đảm bảo
VSATTP như: VietGAP, HACCP,...
VII. Ứng phó hiệu quả
với biến đổi khí hậu:
1.
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi:
- Nghiên cứu điều chỉnh, chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi, con nuôi; cơ cấu giống; thời vụ; tái cơ cấu lại đầu tư, tổ
chức sản xuất, cơ sở hạ tầng,... để ứng phó kịp thời với biến đổi khí hậu. Xây
dựng chính sách khuyến khích, hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi,
mùa vụ;
- Chuyển đổi đất lúa thiếu nước tưới, hiệu
quả thấp sang cây trồng cạn gồm cây rau, đậu; cây làm thức ăn chăn nuôi; cây
công nghiệp;
- Tăng cường triển khai, nhân rộng các mô
hình sản xuất nông nghiệp thông minh thích ứng biến đổi khí hậu có hiệu quả,
phù hợp với điều kiện hạn hán, nắng nóng, mô hình chuyển đổi sản xuất sang sản
xuất các loại cây, con có khả năng chịu hạn hoặc ít sử dụng nước như: mô hình
sử dụng giống cây trồng chịu hạn; mô hình tưới tiết kiệm nước; mô hình xen
canh, luân canh có sử dụng vật liệu giữ ẩm, mô hình chuyển đổi lúa linh hoạt
sang trồng các cây trồng cạn có hiệu quả kinh tế cao như nho, táo và chăn nuôi
bò, dê, cừu, …
2.
Thủy lợi:
- Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch thủy
lợi theo mục tiêu tái cơ cấu nông nghiệp trong điều kiện biến đổi khí hậu, đặc
biệt là quy hoạch thủy lợi gắn với các vùng chuyên canh các ngành hàng có lợi
thế. Chú trọng quy hoạch thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản và cây trồng cạn;
nghiên cứu hệ thống thủy lợi đáp ứng yêu cầu chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật
nuôi, phát triển vùng chuyên canh theo quy hoạch tái cơ cấu ngành nông nghiệp.
Ưu tiên các giải pháp phi công trình trong quy hoạch, xây dựng kế hoạch phát
triển thủy lợi;
- Rà soát, bổ sung quy hoạch hệ thống hồ chứa
và công trình thủy lợi phục vụ cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất của nhân dân.
Điều tra, đánh giá hiện trạng mực nước ngầm, nước bề mặt ở các ao hồ, sông suối
nhỏ và lập quy hoạch sử dụng tiết kiệm tài nguyên nước;
- Xây dựng quy hoạch đê biển trên địa bàn
toàn tỉnh theo Quyết định số 667/QĐ-TTg ngày 27 tháng 5 năm 2009 của Thủ tướng
Chính phủ nhằm đảm bảo an toàn cho dân sinh, phát triển kinh tế - xã hội bền
vững của các địa phương ven biển, bảo vệ môi trường sinh thái vùng ven biển,
thích ứng với nguy cơ nước biển dâng và những tác động xấu của biến đổi khí
hậu, đồng thời từng bước hình thành trục giao thông ven biển phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh vùng ven biển;
- Tăng cường năng lực quản lý, đổi mới cơ chế
vận hành, nâng cao chất lượng dịch vụ trong tổ chức quản lý khai thác công
trình thủy lợi;
- Tiếp tục đầu tư các công trình hồ chứa, đặc
biệt các hồ chứa tích nước ở thượng nguồn (khu lưu vực sông Cái); hệ thống liên
thông hồ chứa; ao dự trữ nước mưa và nước ngầm; thu giữ và phát triển nguồn
nước ngầm trên vùng đất khô hạn ven biển phía Bắc và phía Nam Ninh Thuận; nhân
rộng các dự án tái tạo nguồn nước bằng kỹ thuật giữ nước mặt quy mô nhỏ, thủy
lâm kết hợp phòng, chống hoang mạc hóa có hiệu quả; xây dựng đập hạ lưu sông
Dinh để ngăn mặn;
- Tiếp tục đầu tư các kênh mương cấp I, II và
III gắn với xây dựng nông thôn mới để phát huy hiệu quả của các hồ, đập, đáp
ứng yêu cầu của tái cơ cấu nông nghiệp đặc biệt là yêu cầu chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi và áp dụng các biện pháp canh tác tiên tiến;
- Phối hợp với nhóm chuyên gia của Ngân hàng
Thế giới thực hiện đánh giá tài nguyên nước theo phương pháp tiếp cận của Ngân
hàng Thế giới (đo dòng chảy, phân tích kinh tế - tài chính cho toàn bộ hoạt
động sản xuất cho nhu cầu sử dụng nước, phân tích hệ thống nguồn nước) và điều
phối nguồn nước theo hướng đảm bảo an ninh nguồn nước, sử dụng nước tiết kiệm,
hiệu quả;
- Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án Hệ thống thủy lợi Tân Mỹ, tập trung
triển khai thực hiện các 04 dự án cấp bách (gồm: Đập hạ lưu Sông Dinh; Hệ thống
kênh cấp 2, 3 hồ Sông Biêu; Dự án Hệ thống kênh cấp 2, 3 hồ Lanh Ra; Dự án Hệ
thống cấp nước Sơn Hải). Tìm kiếm nguồn lực đầu tư xây dựng, kết nối liên thông
hồ chứa (hồ Sông Sắt - hồ Sông Trâu; hồ Cho Mo - hồ Phước Trung - Hồ Thành Sơn;
hồ Tân Giang - hồ Sông Biêu - hồ Suối Lớn; hồ Tân Giang - hồ CK7 - hồ Bầu Zôn);
- Xây dựng kế hoạch liên thông hồ chứa, trước
mắt ở phía Nam của tỉnh.
3.
Kỹ thuật:
- Xây dựng chính sách hỗ trợ áp dụng quy
trình canh tác bền vững và ứng dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước, xây dựng các
mô hình trình diễn về tưới tiên tiến, tiết kiệm nước;
- Chủ động hướng dẫn nhân dân các biện pháp
bảo vệ đàn gia súc, gia cầm trong điều kiện khô hạn; tổ chức tuyên truyền, vận
động người chăn nuôi chủ động di chuyển đàn gia súc đến những nơi có nguồn nước
khi hạn hán xảy ra (di chuyển từ các vùng khô hạn về dọc kênh Nam, kênh Bắc,
kênh Đông, kênh Tây, dọc sông Cái, sông suối trên địa bàn, vùng hồ Sông Trâu,
hồ Sông Sắt,...).Thúc đẩy mô hình chăn nuôi công nghiệp, bán công nghiệp gắn
với phát triển trồng trọt và xây dựng đồng cỏ;
- Áp dụng hệ thống quản lý kiểm soát nguy cơ
ô nhiễm đất, nước từ chất thải chăn nuôi và phát triển nguồn năng lượng tái tạo
từ chất thải của ngành chăn nuôi; nhân rộng các mô hình sản xuất khí sinh
học Biogas từ chất thải chăn nuôi giảm ô nhiễm môi trường, giảm phát
thải khí nhà kính và nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng;
- Đẩy nhanh tiến độ thực hiện Dự án Thủy lâm
kết hợp để phòng, chống hoang mạc hóa và thích ứng với biến đổi khí hậu trên
địa bàn tỉnh. Xây dựng các mô hình trồng rừng bằng loài cây đa tác dụng, vừa
phòng hộ vừa mang lại hiệu quả kinh tế; tăng cường trồng rừng phòng hộ ven
biển, đầu tư vào đất ngập nước, bổ sung đất cho các bãi biển, cải tạo các cồn
cát ven biển, trồng rừng ngập mặn.
4.
Truyền thông, nâng cao nhận thức chủ động ứng phó:
- Thực hiện tập huấn, truyền thông nâng cao
nhận thức về phòng, chống rủi ro thiên tai và biến đổi khí hậu, lồng ghép các
giải pháp thích ứng và quy hoạch, kế hoạch, chương trình hành động, chương
trình, dự án của tỉnh cho cán bộ các cấp từ các sở, ban ngành, đến cộng đồng và
người dân. Cụ thể hóa các chương trình truyền thông nâng cao nhận thức trong cập
nhật Kế hoạch hành động ứng phó biến đổi khí hậu của tỉnh giai đoạn 2016 - 2020;
- Khuyến cáo và hướng dẫn người chăn nuôi
trồng cỏ; hướng dẫn, thường xuyên tuyên truyền trên các phương tiện thông tin
đại chúng mô hình chế biến các phụ phẩm nông nghiệp để dự trữ làm thức ăn cho
đàn gia súc trong mùa khô hạn;
- Hỗ trợ tập huấn, khuyến nông và các dịch vụ
tư vấn nhằm nâng cao kỹ thuật trồng, chăm sóc và thu hoạch cho nông dân; tăng
thu nhập cho nông dân thông qua việc chia sẻ bình đẳng lợi nhuận giữa các bên
(nông dân, doanh nghiệp tiêu thụ, chế biến và xuất khẩu,...);
- Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh, Báo
Ninh Thuận tăng cường tuyên truyền phổ biến sâu, rộng các mô hình chuyển đổi cơ
cấu cây trồng, vật nuôi ứng phó thiên tai, biến đổi khí hậu trên địa bàn
tỉnh; xây dựng thành các chuyên mục, chuyên đề, sắp xếp thời lượng hợp lý tuyên
truyền để phát sóng;
- Tăng cường tuyên truyền, vận động nhân
dân, các tổ chức xã hội trồng cây xanh quanh khu vực sinh sống, trồng cây
gây rừng, có ý thức bảo vệ rừng nhằm tăng cường khả năng giữ nước,
hấp thụ cácbon.
Phần thứ bảy
TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
I. Tổ chức thực hiện:
1. Sở
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn:
a) Chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành
liên quan xây dựng kế hoạch hành động triển khai thực hiện Đề án.
b) Hàng năm tổng hợp, báo cáo đánh giá tình
hình thực hiện Đề án cho Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; đề xuất
sửa đổi, bổ sung Đề án khi cần thiết.
2.
Sở Kế hoạch và Đầu tư:
a) Tham mưu bố trí nguồn vốn để thực hiện Đề
án.
b) Chủ trì, phối hợp với Sở Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn và các sở, ban, ngành liên quan nghiên cứu, sửa đổi, bổ
sung cơ chế, chính sách thu hút vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế ngoài Nhà
nước cho nông nghiệp, nông thôn; nghiên cứu cơ chế, chính sách phát triển các
hình thức đầu tư có sự tham gia của Nhà nước và tư nhân (PPP/PPC).
3.
Sở Tài chính:
a) Rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách thuế,
phí để tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của ngành nông nghiệp,
hỗ trợ thực hiện Đề án tái cơ cấu nông nghiệp.
b) Tham mưu, đảm bảo các chính sách tài chính
cho việc thực hiện Đề án tái cơ cấu nông nghiệp.
4.
Sở Khoa học và Công nghệ:
a) Phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, các sở, ban, ngành liên quan rà soát, điều chỉnh, bổ sung các cơ
chế, chính sách có liên quan đến tăng cường năng lực nghiên cứu, ứng dụng,
chuyển giao khoa học công nghệ và tiến bộ kỹ thuật; xã hội hóa nguồn lực cho
phát triển khoa học, công nghệ, hỗ trợ ngành nông nghiệp thực hiện đề án đạt
hiệu quả.
b) Chủ trì xây dựng và quản lý chỉ dẫn địa lý
và xây dựng thương hiệu cho các nông sản chủ lực.
5.
Sở Công Thương:
a) Chủ trì, phối hợp với Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, các Sở, ban, ngành liên quan xây dựng và triển
khai các hoạt động xúc tiến thương mại; thông tin thị trường; tìm kiếm, mở rộng
thị trường tiêu thụ nông sản.
b) Đề xuất các chính sách để khuyến khích
phát triển công nghiệp chế biến nông sản.
6.
Sở Tài Nguyên và Môi trường:
a) Phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn, các huyện, thành phố rà soát, kiểm soát chặt chẽ quy hoạch và quản
lý, thực hiện quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp; đề xuất các chính sách liên
quan đến đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường tạo thuận lợi cho nông nghiệp
và phát triển nông thôn.
b) Tăng cường quản lý môi trường ở các vùng
sản xuất chuyên canh.
7.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội: phối hợp với Sở
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, tổ chức đào tạo, dạy nghề phi nông nghiệp
cho lao động nông thôn.
8.
Sở Y tế: phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn trong
kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm; triển khai thực hiện chiến lược an ninh
dinh dưỡng và vệ sinh môi trường nông thôn.
9.
Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Ninh Thuận:
a) Phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn rà soát, nghiên cứu cơ chế, chính sách tín dụng hỗ trợ ngành nông
nghiệp thực hiện Đề án tái cơ cấu nông nghiệp.
b) Phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn và các ngân hàng thương mại xây dựng và triển khai các chương trình
tín dụng để thực hiện Đề án.
10.
Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố:
a) Thông tin tuyên truyền, quán triệt mục
tiêu nội dung của Đề án; các chủ trương chính sách của tỉnh, của huyện về thực
hiện Đề án.
b) Xây dựng và tổ chức thực hiện tái cơ
cấu nông nghiệp phù hợp với điều kiện của địa phương.
11.
Đài
Phát thanh và Truyền hình tỉnh, Báo Ninh Thuận: phối hợp với Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các ngành, địa phương tổ chức tuyên
truyền tới toàn thể cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, các tổ
chức, doanh nghiệp và nhân dân về Đề án nhằm phổ biến về chủ trương, mục tiêu,
nội dung của Đề án.
II. Rủi ro và định hướng
xử lý:
1. Các sở, ban, ngành và địa phương
thiếu quyết tâm thực hiện Đề án: để thực hiện Đề án thành công, cần có sự trao
đổi, đồng thuận trong lãnh đạo tỉnh và lãnh đạo các ban, ngành, huyện, xã. Đồng
thời, cần xây dựng các chương trình vận động sâu rộng, tạo quyết tâm chính trị
trong toàn bộ hệ thống để triển khai Đề án.
2. Thiếu nguồn lực để thực hiện Đề án:
Do ngân sách khó khăn, khả năng huy
động vốn đầu tư của Trung ương và địa phương chưa đáp ứng được nhu cầu về vốn
đầu tư công để thực hiện đề án. Khu vực tư nhân có thể chưa sẵn sàng đầu tư vào
sản xuất, chế biến và kinh doanh nông sản do mức rủi ro cao về thị trường và biến
đổi khí hậu.
Để đảm bảo huy động đủ vốn đầu tư thực
hiện Đề án, tỉnh cần xây dựng các chương trình vận động vốn và các cơ chế đặc
thù của Trung ương và các nhà tài trợ quốc tế dành cho địa phương phát triển
năng lượng sạch và bị ảnh hưởng nặng nề do biến đổi khí hậu. Kiến nghị Trung
ương hỗ trợ xây dựng chương trình mang tính đột phá để thu hút đầu tư của doanh
nghiệp tư nhân về Ninh Thuận.
Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp cũng bị
cạnh tranh về nguồn lực như đất đai, lao động với phát triển công nghiệp và đô
thị. Đồng thời, tình trạng khô hạn và hoang mạc hóa cũng ảnh hưởng tới nguồn
lực đất đai để phát triển sản xuất nông nghiệp.
Ngoài ra, một số mục tiêu đòi hỏi
nguồn lực rất lớn có thể rà soát, điều chỉnh trong quá trình thực hiện đề án
cho phù hợp với tình hình.
3. Biến đổi khí hậu gia tăng: để thích
ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, cần tiếp tục nâng cấp và phát triển cơ sở
hạ tầng, đẩy mạnh thực hiện quy hoạch sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
vật nuôi theo các kịch bản biến đổi khí hậu.
4. Khó khăn trong đổi mới tổ chức sản xuất do
người dân và doanh nghiệp chưa sẵn sàng thay đổi hành vi theo hướng liên kết
hợp tác trong sản xuất kinh doanh: để đẩy mạnh đổi mới tổ chức sản xuất, cần
xây dựng các chương trình tuyên truyền, vận động sâu rộng đối với người dân và
các tổ chức cơ sở, xây dựng mô hình thí điểm về kinh tế hợp tác và liên kết
chuỗi đa dạng để rút kinh nghiệm và nhân rộng.
IV. Các chương
trình/dự án trọng điểm cần thực hiện:
- Dự án phát triển vùng sản xuất tập trung
giống thủy sản chất lượng cao;
- Đề án quy hoạch, chuyển đổi diện tích đất
lúa nước kém hiệu quả sang cây trồng cạn có hiệu quả, áp dụng quy trình canh
tác bền vững và tiết kiệm nước;
- Chương trình cải tạo và nâng cấp chất lượng
giống vật nuôi;
- Đề án phát triển cây trồng mới có tiềm
năng;
- Chương trình hỗ trợ phát triển cánh đồng
lớn trong sản xuất giống cây lương thực;
- Dự án nâng cao năng lực quản lý và sử dụng
hiệu quả nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp;
- Dự án đầu tư trồng rừng trên diện tích đất
trống bảo vệ vành đai các hồ thủy lợi, ngăn chặn bồi đắp lòng hồ, tăng độ che
phủ và giảm tỷ lệ bốc hơi nước làm ổn định nguồn nước lòng hồ để phục vụ nguồn
nước sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp;
- Dự án quy hoạch khu nông nghiệp công nghệ
cao gắn với liên kết chuỗi giá trị.
V. Kinh phí thực hiện
đề án:
1.
Tổng vốn đầu tư: tổng vốn đầu tư toàn xã hội để thực
hiện các mục tiêu của đề án cho khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản và nghề muối
theo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội10 giai đoạn 2016 - 2020
là 12.098 tỷ đồng.
2.
Nguồn vốn thực hiện:
- Vốn huy động từ ngân sách Trung ương như từ
các chương trình mục tiêu quốc gia (chương trình củng cố đê biển, chương trình
đảm bảo an toàn hồ chứa, chương trình mục tiêu xây dựng nông thôn mới, chương
trình mục tiêu nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, chương trình mục tiêu
ứng phó với biến đổi khí hậu), các chương trình xóa đói, giảm nghèo và hỗ trợ
cho các huyện nghèo, xã nghèo, miền núi, hải đảo, bãi ngang, các chương trình
khắc phục hậu quả lũ lụt, hạn hán, nguồn vốn hỗ trợ thủy lợi phí,...
- Trái phiếu chính phủ;
- Vốn huy động từ ngân sách tỉnh, ngân sách
huyện và xã;
- Vốn huy động từ các thành phần kinh tế tư
nhân (doanh nghiệp, dân cư, FDI);
- Vốn huy động từ các tổ chức quốc tế, các tổ
chức Phi Chính phủ như vốn hỗ trợ/cho vay của WB, ADB, AFD, FAO, DANIDA,
UNCEF./.
PHỤ LỤC
I. Biến đổi khí hậu:
1. Diễn biến nhiệt
độ, lượng mưa, giờ nắng giai đoạn 2011 - 2015:
Hình 2. Biến trình nhiệt độ trung bình năm
trạm Phan Rang trong giai đoạn 2011-2015
Nguồn: Niên giám thông kê Ninh Thuận, 2015
Hình 3. Nhiệt độ trung bình Ninh Thuận phân
bố giữa các tháng trong các năm 2011, 2015
Nguồn: Niên giám thông kê Ninh Thuận, 2015
Hình 4. Lượng mưa trung bình các năm 2011 - 2015
Nguồn: Niên giám thông kê Ninh Thuận, 2015
Hình 5. Phân bố lượng mưa các tháng trong năm
ở Ninh Thuận
Nguồn: Niên giám thông kê Ninh Thuận, 2015
Hình 6. Số giờ nắng bình quân các năm 2011 -
2015
Nguồn: Niên giám thông kê Ninh Thuận, 2015
2. Các kịch bản biến
đổi khí hậu:
Trong năm 2012, Việt Nam đã công bố Kịch bản
biến đổi khí hậu và nước biển dâng do Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng.
Kịch bản năm 2012 có mức độ chi tiết đến đơn vị hành chính cấp tỉnh và các khu
vực ven biển, đặc biệt đã bổ sung một số yếu tố cực trị khí hậu phục vụ cho
công tác tính toán thiết kế và quy hoạch. Theo kịch bản này, vào cuối Thế kỷ
21, kịch bản phát thải khí nhà kính ở mức trung bình, nhiệt độ tăng 2 - 30C,
riêng khu vực Hà Tĩnh đến Quảng Trị có mức độ tăng nhiệt nhanh nhất. Số ngày có
nhiệt độ cao trên 350C tăng từ 15 đến 30 ngày trên phần lớn diện tích cả nước.
Về lượng mưa, xu thế chung là lượng mưa giảm vào mùa khô và tăng vào mùa mưa.
Mức tăng lượng mưa từ 2 - 7%; điều đáng lưu ý là có thể xuất hiện ngày mưa dị
thường với lượng cao gấp đôi so với kỷ lục hiện nay. Yếu tố nước biển dâng được
các nhà khoa học tính toán khá chi tiết. Theo đó, vào cuối Thế kỷ này, mực nước
biển dâng cao nhất ở vùng từ Cà Mau đến Kiên Giang, trong khoảng 62 - 82 cm;
thấp nhất ở Móng Cái là 49 - 64 cm. Trung bình cả nước, mực nước biển dâng là
57 - 73 cm. Theo kịch bản phát thải cao, mực bước biển trung bình có thể dâng
cao 78 - 95 cm.
2.1. Nhiệt độ:
Thống kê dữ liệu cho thời kỳ 1961 - 2009 của
tỉnh Ninh Thuận từ các trạm khí tượng thủy văn: Tân Mỹ, Sông Pha, Quán Thẻ,
Nhị Hà và Phan Rang cho thấy nếu theo kịch bản phát thải trung bình
(B2) thì nhiệt độ trung bình tất cả các mùa đều có xu hướng tăng
nhất là trong mùa hè.
Hình 7. Thay đổi nhiệt độ của Ninh Thuận theo
kịch bản B2 so với giai đoạn 1980-1999
Nguồn: Kịch bản biến đổi khí hậu&nước
biển dâng, 2012, Bộ Tài Nguyên Môi Trường
2.2. Lượng mưa:
Dựa vào mức thay đổi lượng mưa năm (%) so với
thời kỳ 1980 - 1999 theo các kịch bản phát thải cho khu vực Bắc Trung Bộ và
tổng lượng mưa năm trung bình thời kỳ 1961 - 2010 trên địa bàn tỉnh Ninh
Thuận, tính toán tổng lượng mưa trung bình và mưa cho 4 mùa trong giai đoạn
2020 - 2100 với kịch bản phát thải trung bình (B2) được thể hiện trong
hình dưới đây:
Hình 8. Thay đổi lượng mưa tại Ninh Thuận
theo kịch bản phát thải TB B2 (%) so với giai đoạn 1980 - 1999
Nguồn: Kịch bản biến đổi khí hậu&nước
biển dâng, 2012, Bộ Bộ Tài Nguyên Môi Trường
Bảng
3. Kế hoạch
tổng diện tích gieo trồng trong trong giai đoạn 2016-2020
STT
|
Loại cây trồng
|
Diện tích gieo trồng (ha)
|
Thay đổi 2020 so 2015
|
Năm 2015
|
Năm 2020
|
Giá trị (ha)
|
Tỷ lệ (%)
|
Tổng cộng
|
75.414
|
100.000
|
24.586
|
32,6
|
1
|
Lúa cả năm
|
37.258
|
48.500
|
11.242
|
30,2
|
2
|
Ngô
|
11.755
|
23.000
|
11.245
|
95,7
|
3
|
Sắn
|
3.232
|
3.000
|
-232
|
-7,2
|
4
|
Mía
|
2.972
|
5.000
|
2.028
|
68,2
|
5
|
Thuốc lá
|
373
|
1.000
|
627
|
168,1
|
6
|
Nho
|
1.226
|
2.000
|
774
|
63,1
|
7
|
Táo
|
950
|
1.200
|
250
|
26,3
|
8
|
Điều
|
3.923
|
3.500
|
-423
|
-10,9
|
Bảng
4. Kế hoạch
tổng đàn gia súc, gia cầm trong giai đoạn 2016 - 2020
STT
|
Vật nuôi
|
Tổng đàn chăn nuôi (nghìn con)
|
Thay đổi năm 2020 so với năm 2015
|
Năm 2015
|
Năm 2020
|
Giá trị (nghìn con)
|
Tỷ lệ (%)
|
I
|
Tổng đàn gia súc
|
354,8
|
514
|
159,2
|
44,9
|
1
|
Gia súc có sừng
|
273,5
|
399
|
125,5
|
45,9
|
-
|
Trâu
|
3,7
|
4
|
0,3
|
8,1
|
-
|
Bò
|
91,7
|
140
|
48,3
|
52,7
|
-
|
Dê
|
82,6
|
100
|
17,4
|
21,1
|
-
|
Cừu
|
95,5
|
155
|
59,5
|
62,3
|
2
|
Tổng đàn heo
|
81,3
|
115
|
33,7
|
41,5
|
II
|
Tổng đàn gia cầm
|
1.364
|
2.100
|
736
|
53,9
|
Bảng
5. Kế hoạch
diện tích nuôi trồng thủy sản, công suất tàu cá, sản lượng thủy sản giai đoạn
2016 - 2020
STT
|
Thủy sản
|
Năm 2015
|
Năm 2020
|
Thay đổi năm 2020 so với năm 2015
|
Giá trị
|
Tỷ lệ (%)
|
1
|
Diện tích nuôi trồng thủy sản (ha)
|
1.307
|
2.354
|
1.047
|
80,1
|
|
Trong đó, nuôi tôm
|
784
|
1.100
|
316
|
40,3
|
2
|
Số tàu khai thác hải sản (chiếc)
|
2.747
|
2.900
|
153
|
5,6
|
|
Trong đó, số tàu có công suất từ 90 CV trở lên (chiếc)
|
936
|
1.200
|
264
|
28,2
|
|
Tổng công suất tàu khai thác hải sản (CV)
|
274.846
|
380.000
|
105.154
|
38,3
|
3
|
Sản lượng đánh bắt và nuôi trồng thủy sản
|
85.473
|
93.620
|
|
|
-
|
Nuôi trồng thủy sản (tấn)
|
9.203
|
18.620
|
9.417
|
102,3
|
|
Trong đó, nuôi tôm thương phẩm (tấn)
|
6.623
|
12.000
|
5.377
|
81,2
|
-
|
Khai thác hải sản (tấn)
|
76.270
|
75.000
|
-1.270
|
-1,7
|
4
|
Sản lượng tôm giống (triệu con)
|
19.598
|
21.200
|
1.602
|
8,2
|
Bảng
6. Kế hoạch
diện tích rừng trồng mới tập trung, bảo vệ rừng và khoanh nuôi rừng tái sinh
tăng thêm giai đoạn 2016 - 2020
STT
|
Hạng mục
|
Diện tích (cộng dồn 5 năm) (ha)
|
Thay đổi giai đoạn 2016 - 2020 so giai
đoạn 2011 - 2015
|
2011-2015
|
2016-2020
|
Giá trị (ha)
|
Tỷ lệ (%)
|
1
|
Trồng mới rừng tập trung
|
2.790
|
7.586
|
4.796
|
171,9
|
2
|
Bảo vệ rừng
|
113.713
|
195.000
|
81.287
|
71,5
|
3
|
Khoanh nuôi rừng tái sinh
|
1.320
|
17.000
|
15.680
|
1.187,8
|
Bảng
7. Khái toán tổng đầu
tư thực hiện đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp Ninh Thuận gắn với ứng phó biến
đổi khí hậu đến năm 2020
và tầm
nhìn đến năm 2030
Đơn vị: tỷ đồng
STT
|
Hạng mục
|
Vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước
|
Vốn đầu tư từ thành phần kinh tế tư nhân
|
Tổng cộng
|
1
|
Hồ chứa nước
|
6.200
|
0
|
6.200
|
2
|
Thủy lợi
|
4.908
|
0
|
4.908
|
3
|
Thủy sản
|
190
|
200
|
390
|
4
|
Trồng trọt và chăn nuôi
|
0
|
600
|
600
|
Tổng cộng
|
11.298
|
800
|
12.098
|
II. Nông, lâm nghiệp,
thủy sản:
Bảng
1. Dự kiến chuyển dịch
cơ cấu khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giai đoạn 2016 - 2020
Lĩnh vực
|
Giá trị sản xuất
(theo giá so sánh 2010)
|
Cơ cấu giá trị sản
xuất (theo giá so sánh 2010)
|
Tăng trưởng bình
quân
|
Năm 2015 (tỷ đồng)
|
Năm 2020 (tỷ đồng)
|
Thay đổi năm 2020
so với năm 2015 (tỷ đồng)
|
Năm 2015 (%)
|
Năm 2020 (%)
|
Thay đổi năm 2020
so với năm 2015 (%)
|
2011-2015 (%)
|
2016-2020 (%)
|
Nông, lâm nghiệp và
thủy sản
|
Tổng số
|
8,445.6
|
11,614.7
|
3,169.1
|
100.0
|
100.0
|
|
3.3
|
6.6
|
Nông nghiệp
|
4,289.8
|
5,644.8
|
1,355.0
|
50.8
|
48.6
|
-2.2
|
1.8
|
5.6
|
Lâm nghiệp
|
23.1
|
32.4
|
9.3
|
0.3
|
0.3
|
0.0
|
-10.2
|
7.0
|
Thủy sản
|
4,132.7
|
5,937.4
|
1,804.7
|
48.9
|
51.1
|
2.2
|
5.1
|
7.5
|
Nông nghiệp
|
Tổng số
|
4,289.8
|
5,644.8
|
1,355.0
|
100.0
|
100.0
|
|
1.8
|
5.6
|
Trồng trọt
|
2,971.2
|
3,838.4
|
867.2
|
69.3
|
68.0
|
-1.3
|
3.1
|
5.3
|
Chăn nuôi
|
1,163.6
|
1,594.1
|
430.5
|
27.1
|
28.2
|
1.1
|
-0.9
|
6.5
|
Dịch vụ nông nghiệp khác
|
155.0
|
203.8
|
48.8
|
3.6
|
3.6
|
0.0
|
0.2
|
5.6
|
Trồng trọt
|
Tổng số
|
2,971.2
|
3,838.4
|
867.2
|
100.0
|
100.0
|
|
3.1
|
5.3
|
Cây lương thực
|
1,331.8
|
1,595.6
|
263.8
|
44.8
|
41.6
|
-3.3
|
-1.1
|
3.7
|
Cây rau, đậu
|
479.4
|
690.9
|
211.5
|
16.1
|
18.0
|
1.9
|
8.0
|
7.6
|
Cây công nghiệp hàng năm
|
135.0
|
241.8
|
106.8
|
4.5
|
6.3
|
1.8
|
-2.0
|
12.4
|
Cây ăn quả
|
769.0
|
1,074.8
|
305.8
|
25.9
|
28.0
|
2.1
|
18.1
|
6.9
|
Cây công nghiệp lâu năm
|
26.5
|
35.3
|
8.8
|
0.9
|
0.9
|
0.0
|
0.2
|
5.9
|
Chăn nuôi
|
Tổng số
|
1,163.6
|
1,594.1
|
430.5
|
100.0
|
100.0
|
|
-0.9
|
6.5
|
Trâu, bò
|
230.0
|
391.8
|
161.8
|
19.8
|
24.6
|
4.8
|
-3.7
|
11.2
|
Lợn
|
339.1
|
420.4
|
81.3
|
29.1
|
26.4
|
-2.8
|
5.2
|
4.4
|
Gia cầm
|
356.1
|
429.1
|
73.0
|
30.6
|
26.9
|
-3.7
|
-2.0
|
3.8
|
Khác (dê, cừu)
|
238.4
|
352.6
|
114.2
|
20.5
|
22.1
|
1.6
|
-3.6
|
8.1
|
Lâm nghiệp
|
Tổng số
|
23.1
|
32.4
|
9.3
|
100.0
|
100.0
|
|
-10.2
|
7.0
|
Trồng rừng
|
5.2
|
10.0
|
4.8
|
22.5
|
30.7
|
8.2
|
-3.9
|
13.9
|
Khai thác lâm sản
|
16.6
|
21.0
|
4.4
|
71.9
|
64.7
|
-7.2
|
-12.4
|
4.8
|
Thu nhặt sản phẩm từ rừng
|
1.2
|
1.4
|
0.2
|
5.2
|
4.3
|
-0.9
|
2.2
|
2.8
|
Dịch vụ lâm nghiệp
|
0.1
|
0.1
|
0.0
|
0.4
|
0.4
|
-0.1
|
0.0
|
2.6
|
Thủy sản
|
Tổng số
|
4,132.7
|
5,937.4
|
1,804.7
|
100.0
|
100.0
|
|
5.1
|
7.5
|
Khai thác
|
2,837.8
|
4,096.8
|
1,259.0
|
68.7
|
69.0
|
0.3
|
5.5
|
7.6
|
Nuôi trồng
|
1,294.9
|
1,840.6
|
545.7
|
31.3
|
31.0
|
-0.3
|
4.2
|
7.3
|