CHÍNH
PHỦ
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------
|
Số:
24/2009/NĐ-CP
|
Hà
Nội, ngày 05 tháng 3 năm 2009
|
NGHỊ ĐỊNH
QUY ĐỊNH CHI TIẾT VÀ BIỆN PHÁP THI HÀNH LUẬT BAN HÀNH VĂN BẢN
QUY PHẠM PHÁP LUẬT
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ
ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 03 tháng 6 năm 2008;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp,
NGHỊ ĐỊNH:
Chương I
LẬP CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG
LUẬT, PHÁP LỆNH, CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG NGHỊ ĐỊNH
Mục 1. LẬP ĐỀ
NGHỊ CỦA CHÍNH PHỦ VỀ CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG LUẬT, PHÁP LỆNH
Điều 1.
Tập hợp kiến nghị xây dựng luật, pháp lệnh của cơ quan, tổ chức, cá nhân
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thể gửi kiến nghị xây dựng luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
của Ủy ban thường vụ Quốc hội (sau đây gọi chung là luật, pháp lệnh) đến bộ, cơ
quan ngang bộ quản lý ngành, lĩnh vực bằng văn bản hoặc thông qua Trang thông
tin điện tử của các cơ quan này. Trong trường hợp không xác định được địa chỉ cụ
thể thì cơ quan, tổ chức, cá nhân gửi kiến nghị đến Bộ Tư pháp; Bộ Tư pháp có
trách nhiệm gửi kiến nghị đến bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan.
2. Kiến nghị xây dựng luật, pháp
lệnh của cơ quan, tổ chức, cá nhân phải nêu rõ sự cần thiết ban hành văn bản, dự
kiến những nội dung chính của văn bản.
3. Cơ quan
nhận kiến nghị xây dựng luật, pháp lệnh có trách nhiệm tập hợp, phân tích, xử
lý kiến nghị để chuẩn bị đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của cơ quan mình.
Điều 2.
Trách nhiệm của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong việc lập đề
nghị xây dựng luật, pháp lệnh
1. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ lập đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh thuộc ngành, lĩnh vực do
mình phụ trách gửi Bộ Tư pháp để tổng hợp, trình Chính phủ.
Trong các trường hợp quy định tại
Điều 53 Nghị định này, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có thể đề
nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ, bãi bỏ nội dung trong nhiều luật, pháp
lệnh.
2. Văn bản được đề nghị ban hành
phải dựa trên các căn cứ sau đây:
a) Căn cứ vào kết quả nghiên cứu,
tổng kết lý luận và thực tiễn;
b) Đáp ứng yêu cầu quản lý nhà
nước, giải quyết các vấn đề của xã hội và các vấn đề đó cần thiết phải điều chỉnh
bằng văn bản quy phạm pháp luật;
c) Bảo đảm thực hiện các quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân;
d) Phải được đánh giá tác động
sơ bộ các chính sách cơ bản và nội dung chính của văn bản;
đ) Phù hợp với chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng, Nhà nước;
e) Phù hợp với nội dung cam kết
trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc có kế hoạch trở thành
thành viên;
g) Các điều kiện bảo đảm thi
hành văn bản phải được xác định rõ;
h) Việc ban hành văn bản phải bảo
đảm tính khả thi.
Điều 3.
Trách nhiệm của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong việc chuẩn
bị đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh
1. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm giao cho đơn vị thuộc cơ quan
mình chuẩn bị đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm hoặc của cả nhiệm kỳ Quốc
hội thuộc lĩnh vực được phân công phụ trách.
Đơn vị chuẩn bị đề nghị xây dựng
luật, pháp lệnh có nhiệm vụ sau đây:
a) Tổ chức lấy ý kiến các đơn vị
liên quan về đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh; đăng tải bản thuyết minh về đề
nghị xây dựng luật, pháp lệnh và báo cáo đánh giá tác động sơ bộ của văn bản
trên Trang thông tin điện tử của cơ quan mình trong thời gian ít nhất là 20
(hai mươi) ngày để các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến;
b) Chủ trì, phối hợp với các đơn
vị liên quan nghiên cứu, hoàn thiện hồ sơ đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh trên
cơ sở các ý kiến góp ý; gửi hồ sơ đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh đến tổ chức
pháp chế để tổng hợp.
2. Tổ chức
pháp chế có trách nhiệm giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
a) Lập dự thảo đề nghị xây dựng
luật, pháp lệnh hàng năm và của cả nhiệm kỳ Quốc hội liên quan đến ngành, lĩnh
vực do cơ quan mình phụ trách trên cơ sở đề nghị của các đơn vị trực thuộc, kiến
nghị của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và phải dựa trên các căn cứ đối với đề
nghị xây dựng luật, pháp lệnh quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định này;
b) Trong trường hợp cần thiết, đề
nghị Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ tổ chức cuộc
họp với các đơn vị thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có sự
tham gia của đại diện Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ
để cho ý kiến về đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh;
c) Chủ trì, phối hợp với các cơ
quan, đơn vị có liên quan chỉnh lý, hoàn thiện hồ sơ đề nghị xây dựng luật,
pháp lệnh để trình Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ xem xét, quyết định.
3. Bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị xây dựng
luật, pháp lệnh hàng năm đến Bộ Tài chính để lấy ý kiến về tính hợp lý của nguồn
tài chính dự kiến, đến Bộ Nội vụ để lấy ý kiến về tính hợp lý của nguồn nhân lực
dự kiến.
Điều 4.
Hồ sơ đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ gửi Bộ Tư pháp
1. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ gửi Bộ Tư pháp hồ sơ đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh theo nhiệm
kỳ của Quốc hội chậm nhất vào ngày 01 tháng 3 năm đầu tiên của nhiệm kỳ Quốc hội.
Hồ sơ bao gồm:
a) Thuyết minh về đề nghị xây dựng
luật, pháp lệnh.
Bản thuyết minh về đề nghị xây dựng
luật, pháp lệnh phải nêu rõ tên văn bản và sự cần thiết ban hành văn bản; đối
tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản; nội dung chính của văn bản; chính sách
cơ bản của văn bản và mục tiêu của chính sách; các giải pháp để thực hiện chính
sách; các tác động tích cực, tiêu cực của chính sách; dự kiến nguồn lực, điều
kiện bảo đảm cho việc soạn thảo văn bản; dự kiến cơ quan chủ trì soạn thảo và
thời gian trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội;
b) Báo cáo đánh giá tác động sơ
bộ của văn bản.
2. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ gửi Bộ Tư pháp hồ sơ đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm
trên cơ sở chương trình của cả nhiệm kỳ Quốc hội chậm nhất là 105 (một trăm
linh năm) ngày, trước ngày 01 tháng 3 của năm trước năm dự kiến trình Quốc hội,
Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Hồ sơ bao gồm:
a) Bản thuyết minh về đề nghị
xây dựng luật, pháp lệnh.
Bản thuyết minh về đề nghị xây dựng
luật, pháp lệnh phải nêu rõ sự cần thiết ban hành luật, pháp lệnh; quan điểm chỉ
đạo việc soạn thảo và quá trình đã chuẩn bị cho việc soạn thảo; chính sách cơ bản
của văn bản và mục tiêu của chính sách; các tác động tích cực, tiêu cực của
chính sách và các giải pháp để thực hiện chính sách;
b) Bản tổng hợp ý kiến của các
cơ quan, tổ chức, cá nhân;
c) Ý kiến của Bộ Tài chính về
tính hợp lý của nguồn tài chính dự kiến, ý kiến của Bộ Nội vụ về tính hợp lý của
nguồn nhân lực dự kiến;
d) Đề cương chi tiết của dự thảo
văn bản.
3. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ gửi Bộ Tư pháp hồ sơ đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm
mà chưa có trong chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của cả nhiệm kỳ Quốc hội,
chậm nhất là 105 (một trăm linh năm) ngày, trước ngày 01 tháng 3 của năm trước
năm dự kiến trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Hồ sơ bao gồm:
a) Bản thuyết minh về đề nghị
xây dựng luật, pháp lệnh.
Bản thuyết minh về đề nghị xây dựng
luật, pháp lệnh phải nêu rõ tên văn bản và sự cần thiết ban hành văn bản; quan
điểm chỉ đạo việc soạn thảo; chính sách cơ bản của văn bản và mục tiêu của
chính sách; đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản; nội dung chính của văn bản;
các giải pháp để thực hiện chính sách; các tác động tích cực, tiêu cực của
chính sách; dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo văn bản; dự
kiến cơ quan chủ trì soạn thảo và thời gian trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc
hội; tiến độ đã chuẩn bị cho việc soạn thảo;
b) Báo cáo đánh giá tác động sơ
bộ của văn bản;
c) Ý kiến của Bộ Tài chính về
tính hợp lý của nguồn tài chính dự kiến, Bộ Nội vụ về tính hợp lý của nguồn
nhân lực dự kiến;
d) Đề cương chi tiết của dự thảo
văn bản.
Điều 5.
Nội dung thuyết minh về sự cần thiết xây dựng luật, pháp lệnh
1. Đối với đề nghị xây dựng luật,
pháp lệnh của cả nhiệm kỳ, thuyết minh về sự cần thiết xây dựng luật, pháp lệnh
phải nêu rõ:
a) Bối cảnh, thực trạng quan hệ
xã hội đòi hỏi phải có sự điều chỉnh của pháp luật; mục tiêu và các vấn đề cần
giải quyết;
b) Tổng kết, đánh giá thực trạng
của các quy định pháp luật hiện hành có liên quan đến các quan hệ xã hội cần điều
chỉnh;
c) Mục tiêu bảo đảm thực hiện
các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (nếu có);
d) Chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước về quản lý ngành, lĩnh vực có quan hệ xã hội cần điều
chỉnh (nếu có);
đ) Nội dung cam kết trong các điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc có kế hoạch trở thành thành viên
liên quan đến ngành, lĩnh vực có quan hệ xã hội cần điều chỉnh (nếu có).
2. Đối với đề nghị xây dựng luật,
pháp lệnh hàng năm, thuyết minh về sự cần thiết xây dựng văn bản phải dựa trên
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của cả nhiệm kỳ Quốc hội và nêu rõ yêu cầu
thực tiễn cần ban hành văn bản, tiến độ và kết quả của quá trình chuẩn bị xây dựng
văn bản làm cơ sở cho việc đưa luật, pháp lệnh vào chương trình hàng năm.
3. Đối với đề nghị đưa luật,
pháp lệnh vào chương trình hàng năm, nhưng chưa có trong chương trình của cả
nhiệm kỳ Quốc hội thì nội dung thuyết minh về sự cần thiết xây dựng luật, pháp
lệnh phải bao gồm các nội dung quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
Điều 6.
Tiếp nhận và lấy ý kiến về đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh
1. Bộ Tư pháp có trách nhiệm tiếp
nhận và kiểm tra hồ sơ đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
Trong trường hợp hồ sơ không bảo
đảm yêu cầu quy định tại Điều 4 Nghị định này thì trong thời hạn chậm nhất là 5
(năm) ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ, Bộ Tư pháp có văn bản đề nghị
cơ quan gửi hồ sơ hoàn thiện hồ sơ.
Cơ quan được đề nghị có trách
nhiệm hoàn thiện hồ sơ trong thời hạn chậm nhất là 10 (mười) ngày làm việc, kể
từ ngày nhận được đề nghị của Bộ Tư pháp.
2. Chậm nhất là 3 (ba) ngày làm
việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, Bộ Tư pháp có
trách nhiệm đăng tải ít nhất là 20 (hai mươi) ngày trên Trang thông tin điện tử
của Bộ Tư pháp và Trang thông tin điện tử của Chính phủ để các cơ quan, tổ chức,
cá nhân tham gia ý kiến.
Điều 7.
Thành lập Hội đồng tư vấn về đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh
Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể
thành lập các Hội đồng tư vấn giúp Bộ trưởng xem xét các đề nghị xây dựng luật,
pháp lệnh (sau đây gọi là Hội đồng tư vấn).
Hội đồng tư vấn gồm: Chủ tịch Hội
đồng là đại diện lãnh đạo Bộ Tư pháp và các thành viên là các chuyên gia, nhà
khoa học am hiểu về lĩnh vực liên quan đến văn bản được đề nghị ban hành.
Điều 8.
Lập đề nghị của Chính phủ về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
1. Trên cơ sở đề nghị xây dựng
luật, pháp lệnh của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; kết quả
đánh giá của Hội đồng tư vấn và các ý kiến góp ý của cơ quan, tổ chức, cá nhân,
Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định việc đưa các đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh
vào dự thảo đề nghị của Chính phủ về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.
2. Đề nghị của Chính phủ về
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh phải bảo đảm các yêu cầu sau đây:
a) Đáp ứng yêu cầu quản lý nhà
nước, giải quyết các vấn đề của xã hội và các vấn đề đó cần thiết phải điều chỉnh
bằng văn bản quy phạm pháp luật;
b) Đã được đánh giá tác động sơ
bộ về mục tiêu, chính sách cơ bản và nội dung chính của văn bản;
c) Phù hợp với chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước;
d) Bảo đảm về điều kiện soạn thảo
và điều kiện thi hành văn bản;
đ) Bảo đảm tính khả thi của
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm và chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh của cả nhiệm kỳ Quốc hội;
e) Bảo đảm tính đồng bộ, tính thống
nhất của hệ thống pháp luật;
g) Bảo đảm tính ưu tiên ban hành
văn bản theo quy định tại khoản 3 Điều này.
3. Việc bảo đảm tính ưu tiên
trong đề nghị của Chính phủ về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh phải dựa
trên các căn cứ sau đây:
a) Đáp ứng yêu cầu quản lý nhà
nước, giải quyết các vấn đề của xã hội và các vấn đề đó cần thiết phải điều chỉnh
bằng văn bản quy phạm pháp luật;
b) Bảo đảm thực hiện các quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân;
c) Bảo đảm thực hiện các cam kết
trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên;
d) Bảo đảm thực hiện đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước;
đ) Căn cứ vào các ưu tiên của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và mục tiêu trong các chương trình hành động của
Chính phủ.
4. Dự thảo đề nghị của Chính phủ
về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh được đăng tải trên Trang thông tin điện
tử của Bộ Tư pháp và Trang thông tin điện tử của Chính phủ trong thời gian ít
nhất là 20 (hai mươi) ngày để cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến.
5. Trên cơ sở các ý kiến góp ý,
Bộ Tư pháp chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo đề nghị của Chính phủ về chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh để trình Chính phủ.
Điều 9.
Trình Chính phủ dự thảo đề nghị của Chính phủ về chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh
1. Hồ sơ dự thảo đề nghị về
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh bao gồm:
a) Tờ trình Chính phủ, trong đó
nêu rõ tiêu chí ưu tiên đối với đề nghị của Chính phủ về chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh; những vấn đề còn có ý kiến khác nhau và ý kiến của Bộ Tư pháp;
b) Dự thảo đề nghị của Chính phủ
về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, trong đó nêu rõ cơ quan đề nghị xây dựng
luật, pháp lệnh; tên văn bản; sự cần thiết ban hành văn bản; những quan điểm,
chính sách cơ bản, nội dung chính của văn bản; đối tượng, phạm vi điều chỉnh của
văn bản; dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo văn bản; báo
cáo đánh giá tác động sơ bộ của văn bản; thời gian dự kiến Quốc hội, Ủy ban thường
vụ Quốc hội cho ý kiến và xem xét, thông qua văn bản.
2. Dự thảo đề nghị của Chính phủ
về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm được thảo luận và thông qua tại
phiên họp Chính phủ vào tháng 01 của năm trước năm dự kiến trình Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội.
Dự thảo đề nghị của Chính phủ về
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của cả nhiệm kỳ Quốc hội được thảo luận
và thông qua tại phiên họp Chính phủ vào tháng 6 của năm trước nhiệm kỳ Quốc hội.
Điều 10.
Hoàn thiện đề nghị của Chính phủ về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh sau
khi Chính phủ thông qua
Trên cơ sở kết quả phiên họp
Chính phủ, Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ hoàn thiện đề
nghị của Chính phủ về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm hoàn thiện hồ sơ đề nghị xây dựng
luật, pháp lệnh do mình đề xuất.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp, thừa uỷ
quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ, báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc
hội đề nghị của Chính phủ về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.
Điều 11.
Trách nhiệm thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
1. Căn cứ chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh của cả nhiệm kỳ và hàng năm của Quốc hội, Bộ Tư pháp có trách
nhiệm:
a) Chủ trì, phối hợp với Văn phòng
Chính phủ soạn thảo và trình Chính phủ kế hoạch thực hiện chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh; dự kiến cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan phối hợp soạn thảo
và dự kiến thời gian trình dự án luật, pháp lệnh;
b) Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra
việc soạn thảo để bảo đảm tiến độ soạn thảo và chất lượng dự thảo luật, pháp lệnh;
c) Hàng quý báo cáo Thủ tướng
Chính phủ về tình hình, tiến độ và những vấn đề phát sinh trong quá trình thực
hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm.
2. Cơ quan được giao chủ trì soạn
thảo có trách nhiệm bảo đảm tiến độ soạn thảo và chất lượng dự thảo luật, pháp
lệnh; định kỳ hàng quý gửi báo cáo đến Bộ Tư pháp về tình hình thực hiện chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm và tiến độ xây dựng dự án luật, pháp lệnh.
Điều 12.
Đề nghị điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
1. Cơ quan
chủ trì soạn thảo đề nghị điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
trong các trường hợp sau đây:
a) Đưa ra khỏi chương trình đối
với những dự án luật, pháp lệnh chưa cần thiết ban hành hoặc không còn cần thiết
phải ban hành do có sự thay đổi về điều kiện kinh tế - xã hội;
b) Bổ sung vào chương trình những
dự án luật, pháp lệnh do yêu cầu cấp thiết của việc quản lý các lĩnh vực của đời
sống xã hội hoặc phải sửa đổi theo các văn bản mới được ban hành để bảo đảm
tính thống nhất của hệ thống pháp luật hoặc để thực hiện các cam kết quốc tế;
c) Điều chỉnh thời điểm trình do
chậm tiến độ soạn thảo dự án luật, pháp lệnh;
d) Điều chỉnh thời điểm trình do
chất lượng dự án luật, pháp lệnh không bảo đảm.
2. Đề nghị
bổ sung chương trình xây dựng luật, pháp lệnh được thực hiện theo quy trình đề
nghị xây dựng luật, pháp lệnh quy định tại Nghị định này.
Trong trường hợp đề nghị đưa ra
khỏi chương trình hoặc điều chỉnh thời điểm trình dự án luật, pháp lệnh, cơ
quan đề nghị phải có tờ trình nêu rõ lý do, phương hướng, giải pháp và thời
gian thực hiện.
3. Thủ tướng Chính phủ quyết định
điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, trình Quốc hội, Ủy ban thường
vụ Quốc hội.
Mục 2. LẬP CHƯƠNG
TRÌNH XÂY DỰNG NGHỊ ĐỊNH HÀNG NĂM CỦA CHÍNH PHỦ
Điều 13.
Tập hợp kiến nghị xây dựng nghị định của Chính phủ
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thể gửi kiến nghị xây dựng nghị định đến bộ, cơ quan ngang bộ quản lý ngành,
lĩnh vực bằng văn bản hoặc thông qua Trang thông tin điện tử của các cơ quan
này. Trong trường hợp không xác định được địa chỉ cụ thể thì cơ quan, tổ chức,
cá nhân gửi kiến nghị đến Văn phòng Chính phủ; Văn phòng Chính phủ có trách nhiệm
gửi kiến nghị đến bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan.
2. Kiến nghị xây dựng nghị định
của cơ quan, tổ chức, cá nhân phải nêu rõ sự cần thiết ban hành văn bản, dự kiến
những nội dung chính của văn bản.
3. Cơ quan nhận được kiến nghị
có trách nhiệm tập hợp, phân tích, xử lý kiến nghị xây dựng nghị định để chuẩn
bị đề nghị xây dựng nghị định của cơ quan mình.
Điều 14.
Trách nhiệm của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong việc chuẩn
bị đề nghị xây dựng nghị định
1. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ lập đề nghị xây dựng nghị định thuộc ngành, lĩnh vực do mình phụ
trách gửi Văn phòng Chính phủ và Bộ Tư pháp để tổng hợp trình Chính phủ.
2. Đề nghị
xây dựng nghị định của Chính phủ được xây dựng dựa trên các căn cứ sau đây:
a) Quy định chi tiết thi hành luật,
nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; lệnh,
quyết định của Chủ tịch nước;
b) Quy định các biện pháp để thực
hiện các chính sách và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền quyết định, quản lý, điều
hành của Chính phủ;
c) Quy định nhiệm vụ, quyền hạn,
tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ
quan khác thuộc thẩm quyền của Chính phủ;
d) Quy định những vấn đề cần thiết
để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý kinh tế và xã hội nhưng chưa đủ điều
kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh.
3. Đối với đề nghị xây dựng nghị
định quy định tại các điểm b, c và d của khoản 2 Điều này thì phải bảo đảm các
yêu cầu sau đây:
a) Căn cứ vào kết quả nghiên cứu,
tổng kết lý luận và thực tiễn;
b) Đáp ứng yêu cầu quản lý điều hành
của Chính phủ, giải quyết các vấn đề của xã hội và các vấn đề đó cần thiết phải
điều chỉnh bằng văn bản quy phạm pháp luật;
c) Bảo đảm thực hiện các quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân;
d) Phải được đánh giá tác động
sơ bộ các chính sách cơ bản và nội dung chính của văn bản;
đ) Phù hợp với đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước;
e) Phù hợp với nội dung cam kết
trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc có kế hoạch trở thành
thành viên;
g) Các điều kiện bảo đảm thi hành
văn bản phải được xác định rõ;
h) Việc ban hành văn bản phải bảo
đảm tính khả thi.
4. Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm giao cho
đơn vị thuộc cơ quan mình chuẩn bị đề nghị xây dựng nghị định thuộc lĩnh vực được
phân công phụ trách.
Đơn vị chuẩn bị đề nghị xây dựng
nghị định có các nhiệm vụ sau đây:
a) Tổ chức lấy ý kiến các đơn vị
liên quan về đề nghị xây dựng nghị định; đăng tải bản thuyết minh về đề nghị
xây dựng nghị định và báo cáo đánh giá tác động sơ bộ của văn bản trên Trang
thông tin điện tử của cơ quan mình trong thời gian ít nhất là 20 (hai mươi)
ngày để các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến;
b) Chủ trì, phối hợp với các đơn
vị có liên quan nghiên cứu, hoàn thiện hồ sơ đề nghị xây dựng nghị định trên cơ
sở các ý kiến góp ý và gửi hồ sơ đề nghị đến tổ chức pháp chế để tổng hợp.
5. Tổ chức
pháp chế có trách nhiệm giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
a) Lập đề nghị xây dựng nghị định
liên quan đến ngành, lĩnh vực do cơ quan mình phụ trách trên cơ sở đề nghị của
các đơn vị trực thuộc, kiến nghị của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và căn cứ
vào yêu cầu đối với đề nghị xây dựng nghị định quy định tại Điều này;
b) Trong trường hợp cần thiết, đề
nghị Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ tổ chức cuộc
họp với các đơn vị thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có sự
tham gia của đại diện Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ
để cho ý kiến về đề nghị xây dựng nghị định;
c) Chủ trì, phối hợp với các cơ
quan, đơn vị có liên quan chỉnh lý, hoàn thiện hồ sơ đề nghị xây dựng nghị định
để trình Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ xem
xét, quyết định.
6. Bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị xây dựng
nghị định quy định tại điểm b, c và d của khoản 2 Điều này đến Bộ Tài chính để
lấy ý kiến về tính hợp lý của nguồn tài chính dự kiến, Bộ Nội vụ để lấy ý kiến
về tính hợp lý của nguồn nhân lực dự kiến.
7. Đề nghị xây dựng nghị định của
bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ được gửi đến Văn phòng Chính phủ
và Bộ Tư pháp chậm nhất là ngày 01 tháng 8 của năm trước.
Điều 15.
Hồ sơ đề nghị xây dựng nghị định của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ gửi Văn phòng Chính phủ và Bộ Tư pháp
1. Hồ sơ
bao gồm:
a) Thuyết minh về đề nghị xây dựng
nghị định.
Thuyết minh về đề nghị xây dựng
nghị định quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh phải nêu rõ căn cứ, mục
đích ban hành văn bản, chính sách cơ bản, nội dung chính của văn bản.
Thuyết minh về đề nghị xây dựng
nghị định theo quy định tại khoản 2, 3 và khoản 4 Điều 14 Luật
ban hành văn bản quy phạm pháp luật còn phải nêu rõ sự cần thiết ban hành
văn bản; các vấn đề cần giải quyết và các căn cứ ưu tiên ban hành văn bản;
b) Danh mục nghị định đề nghị
đưa vào chương trình, bao gồm tên văn bản, cơ quan chủ trì soạn thảo, thời gian
dự kiến trình Chính phủ;
c) Báo cáo đánh giá tác động sơ
bộ của văn bản.
2. Tiếp nhận đề nghị xây dựng
nghị định.
Văn phòng Chính phủ tiếp nhận và
kiểm tra hồ sơ đề nghị xây dựng nghị định của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ.
Trong trường hợp hồ sơ đề nghị
xây dựng nghị định không bảo đảm yêu cầu thì trong thời hạn chậm nhất là 2
(hai) ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ, Văn phòng Chính phủ có công
văn đề nghị cơ quan gửi hồ sơ hoàn thiện hồ sơ.
Cơ quan được đề nghị có trách
nhiệm bổ sung hồ sơ trong thời hạn chậm nhất 10 (mười) ngày làm việc, kể từ
ngày nhận được đề nghị của Văn phòng Chính phủ.
Điều 16.
Lập dự kiến chương trình xây dựng nghị định
1. Trên cơ sở đề nghị xây dựng
nghị định của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các ý kiến
góp ý của cơ quan, tổ chức, cá nhân, Văn phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp với
Bộ Tư pháp lập dự kiến chương trình xây dựng nghị định.
Trong trường hợp cần thiết, Văn
phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp tổ chức cuộc họp có sự tham
gia của đại diện các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; đại diện
các cơ quan, tổ chức có liên quan; các chuyên gia, nhà khoa học để góp ý kiến về
dự kiến chương trình xây dựng nghị định.
2. Dự kiến chương trình xây dựng
nghị định dựa trên các căn cứ sau đây:
a) Nhằm triển khai thực hiện luật,
pháp lệnh và thực hiện thẩm quyền của Chính phủ;
b) Nhằm giải quyết vấn đề xã hội
và đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân;
c) Bảo đảm tính đồng bộ, tính thống
nhất của hệ thống pháp luật;
d) Bảo đảm tính khả thi của
chương trình;
đ) Bảo đảm các điều kiện soạn thảo
và thi hành văn bản;
e) Bảo đảm tính ưu tiên của việc
ban hành văn bản theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Nghị định này.
3. Văn phòng Chính phủ có trách
nhiệm đăng tải dự kiến chương trình xây dựng nghị định trên Trang thông tin điện
tử của Chính phủ trong thời gian ít nhất là 20 (hai mươi) ngày để các cơ quan,
tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến.
4. Trên cơ sở các ý kiến góp ý,
Văn phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp chỉnh lý, hoàn thiện dự kiến
chương trình xây dựng nghị định để trình Chính phủ.
Điều 17.
Trình Chính phủ dự kiến chương trình xây dựng nghị định
1. Hồ sơ dự kiến chương trình
xây dựng nghị định trình Chính phủ bao gồm:
a) Tờ trình Chính phủ về dự kiến
chương trình xây dựng nghị định, trong đó nêu rõ tiêu chí ưu tiên của dự kiến
chương trình; những vấn đề còn có ý kiến khác nhau và ý kiến của Bộ Tư pháp,
Văn phòng Chính phủ;
b) Dự kiến chương trình xây dựng
nghị định, trong đó nêu rõ cơ quan đề nghị xây dựng nghị định; tên văn bản; sự
cần thiết ban hành; những chính sách cơ bản, nội dung chính của văn bản; đối tượng,
phạm vi điều chỉnh của văn bản; dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc
soạn thảo văn bản; đánh giá tác động của văn bản; thời gian dự kiến trình Chính
phủ xem xét, thông qua.
2. Dự kiến chương trình xây dựng
nghị định được thảo luận và thông qua tại phiên họp Chính phủ vào tháng 10 của
năm trước.
3. Trên cơ sở kết quả phiên họp
Chính phủ, Văn phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp hoàn thiện nghị
quyết của Chính phủ về chương trình xây dựng nghị định, trình Thủ tướng Chính
phủ ký ban hành.
Điều 18.
Trách nhiệm thực hiện chương trình xây dựng nghị định
1. Văn phòng Chính phủ có trách
nhiệm:
a) Đăng tải trên Trang thông tin
điện tử của Chính phủ nghị quyết của Chính phủ về chương trình xây dựng nghị định;
b) Chủ trì, phối hợp với Bộ Tư
pháp lập kế hoạch thực hiện chương trình xây dựng nghị định;
c) Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra
việc soạn thảo để bảo đảm tiến độ soạn thảo, chất lượng dự thảo;
d) Hàng quý báo cáo Thủ tướng
Chính phủ về tình hình, tiến độ xây dựng dự thảo và những vấn đề phát sinh
trong quá trình thực hiện chương trình xây dựng nghị định;
đ) Trong trường hợp cần thiết,
báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét việc điều chỉnh chương trình xây dựng nghị
định.
2. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ được giao chủ trì soạn thảo có trách nhiệm bảo đảm tiến độ soạn
thảo và chất lượng dự thảo nghị định; định kỳ hàng quý gửi báo cáo đến Văn
phòng Chính phủ về tình hình, tiến độ xây dựng và những khó khăn vướng mắc
trong quá trình xây dựng dự thảo.
Điều 19.
Đề nghị điều chỉnh chương trình xây dựng nghị định
1. Chương trình xây dựng nghị định
có thể được điều chỉnh trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 12 Nghị định
này.
2. Bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ gửi đề nghị bằng văn bản về việc điều chỉnh
chương trình xây dựng nghị định đến Văn phòng Chính phủ và Bộ Tư pháp.
Trong trường hợp đề nghị đưa ra
khỏi chương trình hoặc điều chỉnh thời điểm trình dự thảo thì cơ quan đề nghị
phải có tờ trình nêu rõ lý do, phương hướng, giải pháp và thời gian thực
hiện.
Trường hợp đề nghị bổ sung vào
chương trình thì phải thuyết minh về sự cần thiết ban hành văn bản và đánh giá
tác động sơ bộ của văn bản theo quy định tại Nghị định này.
3. Văn phòng Chính phủ chủ trì,
phối hợp với Bộ Tư pháp nghiên cứu, tổng hợp đề nghị điều chỉnh chương trình
xây dựng nghị định trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Chương II
SOẠN THẢO VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
Mục 1. SOẠN
THẢO LUẬT, PHÁP LỆNH, NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI, UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI, NGHỊ
ĐỊNH CỦA CHÍNH PHỦ
Điều 20.
Thành lập Ban soạn thảo
1. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ được giao chủ trì soạn thảo văn bản thành lập
Ban soạn thảo trong các trường hợp sau đây:
a) Soạn thảo dự án luật, pháp lệnh,
dự thảo nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội do Chính phủ trình,
trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật;
b) Soạn thảo dự thảo nghị định của
Chính phủ.
2. Thành phần Ban soạn thảo theo
quy định tại Điều 31 và khoản 1 Điều 60 Luật
ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
3. Ban soạn thảo chấm dứt hoạt động
và tự giải thể sau khi văn bản được ban hành.
Điều 21.
Nguyên tắc hoạt động của Ban soạn thảo
Ban soạn thảo hoạt động theo các
nguyên tắc sau đây:
1. Hoạt động theo chế độ thảo luận
tập thể;
2. Bảo đảm tính minh bạch, tính
khách quan và khoa học;
3. Đề cao trách nhiệm của Trưởng
Ban soạn thảo, thành viên Ban soạn thảo, cơ quan, tổ chức có thành viên trong
Ban soạn thảo;
4. Bảo đảm sự phối hợp giữa các
bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan, tổ chức hữu quan;
5. Bảo đảm sự tham gia của các
chuyên gia, nhà khoa học.
Điều 22.
Nhiệm vụ của Trưởng Ban soạn thảo
Trưởng Ban soạn thảo có nhiệm vụ
sau đây:
1. Quyết định kế hoạch hoạt động
của Ban soạn thảo;
2. Triệu tập và chủ trì các cuộc
họp của Ban soạn thảo; trong trường hợp Trưởng Ban vắng mặt, phân công một Phó
Trưởng Ban chủ trì cuộc họp;
3. Thành lập và chỉ đạo hoạt động
của Tổ biên tập;
4. Tổ chức họp, hội thảo với sự
tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học để thảo luận những vấn đề lớn, những
vấn đề còn có ý kiến khác nhau về nội dung dự án, dự thảo;
5. Đề nghị cơ quan chủ trì soạn
thảo báo cáo, xin ý kiến Thủ tướng Chính phủ về quan điểm, tư tưởng chỉ đạo dự
án, dự thảo; những vấn đề lớn phát sinh trong quá trình soạn thảo; những ý kiến
khác nhau của các thành viên Ban soạn thảo về nội dung của dự án, dự thảo;
6. Thay mặt Ban soạn thảo liên hệ
với các cơ quan, tổ chức để giải quyết các vấn đề liên quan đến nhiệm vụ của
Ban soạn thảo.
Điều 23.
Trách nhiệm của thành viên Ban soạn thảo
Thành viên Ban soạn thảo có
trách nhiệm:
1. Tham gia đầy đủ các cuộc họp
của Ban soạn thảo. Trường hợp vắng mặt phải báo cáo và gửi ý kiến bằng văn bản
tới Trưởng Ban soạn thảo; đồng thời, cử người có trình độ chuyên môn phù hợp
tham dự cuộc họp;
2. Thực hiện nhiệm vụ theo sự
phân công của Trưởng Ban soạn thảo;
3. Thường xuyên báo cáo và xin ý
kiến lãnh đạo cơ quan mình về nội dung của dự án, dự thảo.
Điều 24.
Cuộc họp của Ban soạn thảo
1. Trưởng Ban soạn thảo triệu tập
cuộc họp của Ban soạn thảo tùy theo tính chất, nội dung của dự án, dự thảo và
yêu cầu về tiến độ soạn thảo.
2. Cuộc họp của Ban soạn thảo dự
án luật, pháp lệnh có sự tham dự của đại diện cơ quan thẩm tra của Quốc hội, đại
diện Ủy ban pháp luật của Quốc hội, đại diện cơ quan, tổ chức hữu quan; các
chuyên gia, nhà khoa học và các thành viên Tổ biên tập.
3. Tại cuộc họp, các thành viên
Ban soạn thảo thảo luận những vấn đề quy định tại khoản 2 Điều
32 và khoản 2 Điều 60 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Nội dung các cuộc họp Ban soạn
thảo phải được ghi vào biên bản và được lưu vào hồ sơ dự án, dự thảo.
4. Tài liệu phục vụ cho các cuộc
họp của Ban soạn thảo phải được cơ quan chủ trì soạn thảo chuẩn bị và gửi đến
các thành viên Ban soạn thảo chậm nhất là 5 (năm) ngày làm việc, trước ngày tổ
chức cuộc họp.
Điều 25.
Thành lập Tổ biên tập
1. Trưởng Ban soạn thảo thành lập
Tổ biên tập giúp việc cho Ban soạn thảo.
2. Thành phần Tổ biên tập không
quá 1/2 (một phần hai) số thành viên là các chuyên gia của cơ quan chủ trì soạn
thảo, số còn lại là chuyên gia của cơ quan, tổ chức có đại diện là thành viên
Ban soạn thảo, các chuyên gia, nhà khoa học am hiểu vấn đề chuyên môn thuộc nội
dung của dự án, dự thảo.
Số lượng thành viên Tổ biên tập
ít nhất là 9 (chín) người.
3. Tổ trưởng Tổ biên tập là
thành viên Ban soạn thảo, do Trưởng Ban soạn thảo chỉ định, có trách nhiệm báo
cáo Trưởng Ban soạn thảo về công việc được giao.
4. Thành viên Tổ biên tập có
trách nhiệm tham gia đầy đủ các hoạt động của Tổ biên tập và chịu sự phân công
của Tổ trưởng Tổ biên tập.
Điều 26.
Chuẩn bị hồ sơ xin ý kiến Ủy ban thường vụ Quốc hội
về việc ban hành nghị định quy định tại khoản 4 Điều 14 Luật
ban hành văn bản quy phạm pháp luật
1. Cơ quan chủ trì soạn thảo chủ
trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp chuẩn bị hồ sơ xin ý kiến Ủy
ban thường vụ Quốc hội về việc ban hành nghị định quy định tại khoản
4 Điều 14 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trước khi trình Chính
phủ.
2. Hồ sơ bao gồm:
a) Dự thảo nghị định;
b) Tờ trình của Chính phủ báo
cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chủ trì
soạn thảo, thừa uỷ quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ ký.
Tờ trình phải nêu rõ sự cần thiết
ban hành; các chính sách cơ bản và nội dung chính của dự thảo; phạm vi, đối tượng
điều chỉnh của văn bản; những vấn đề cần xin ý kiến và những vấn đề còn có ý kiến
khác nhau;
c) Bản thuyết minh chi tiết về dự
thảo và báo cáo đánh giá tác động của văn bản;
d) Báo cáo tổng kết việc thi
hành pháp luật, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan đến nội dung chính
của dự thảo;
đ) Những tài liệu liên quan khác
(nếu có).
3. Cơ quan chủ trì soạn thảo chủ
trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp và các cơ quan có liên quan
tiếp thu, hoàn chỉnh dự thảo theo ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội để trình
Chính phủ.
Điều 27.
Lấy ý kiến trong quá trình soạn thảo
1. Trong quá trình soạn thảo, cơ
quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm tổ chức lấy ý kiến của đối tượng chịu sự
tác động trực tiếp của văn bản và của các cơ quan, tổ chức, cá nhân bằng các
phương thức quy định tại khoản 2 Điều 35 Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật.
2. Cơ quan chủ trì soạn thảo có
trách nhiệm nêu rõ vấn đề cần xin ý kiến phù hợp với từng đối tượng cần lấy ý
kiến và địa chỉ tiếp nhận ý kiến.
3. Cơ quan chủ trì soạn thảo khi
đăng tải dự thảo trên Trang thông tin điện tử của Chính phủ, của cơ quan mình để
lấy ý kiến phải đồng thời đăng tải báo cáo đánh giá tác động của văn bản, xác định
địa chỉ và thời hạn tiếp nhận ý kiến; có trách nhiệm tổng hợp, tiếp thu, giải
trình những nội dung tiếp thu, không tiếp thu các ý kiến tham gia.
Văn bản tiếp thu hoặc giải
trình các ý kiến và dự thảo đã được tiếp thu, chỉnh lý phải được đăng tải trên
Trang thông tin điện tử của Chính phủ, của cơ quan chủ trì soạn thảo.
4. Cơ quan chủ trì soạn thảo có
trách nhiệm gửi dự án, dự thảo đến các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ để lấy ý kiến về nội dung của dự án, dự thảo.
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm giao đơn vị được phân công phụ
trách lĩnh vực có liên quan đến nội dung dự án, dự thảo chủ trì, phối hợp với tổ
chức pháp chế và các đơn vị khác chuẩn bị ý kiến tham gia.
Văn bản tham gia ý kiến phải được
gửi cơ quan chủ trì soạn thảo trong thời hạn chậm nhất là 20 (hai mươi) ngày
làm việc, kể từ ngày nhận được dự án, dự thảo.
Đối với những dự án, dự thảo văn
bản quy phạm pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp, Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ được giao chủ trì soạn thảo
có trách nhiệm gửi tới Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam để lấy ý kiến của
các doanh nghiệp.
Trong thời hạn là 20 (hai mươi)
ngày làm việc, kể từ ngày nhận được dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật,
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phải tổ chức lấy ý kiến của các doanh nghiệp;
tổng hợp ý kiến và gửi đến Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ được phân công chủ trì soạn thảo.
5. Ý kiến tham gia phải được tổng
hợp theo các nhóm đối tượng sau đây:
a) Các cơ quan quản lý nhà nước;
b) Các chuyên gia, nhà khoa học;
c) Các hội, hiệp hội, doanh nghiệp;
d) Các đối tượng chịu sự tác động
trực tiếp của văn bản;
đ) Các đối tượng khác (nếu
có).
Điều 28.
Sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong quá trình soạn thảo
Trong quá trình soạn thảo dự án,
dự thảo, cơ quan chủ trì soạn thảo có thể huy động sự tham gia của viện nghiên
cứu, trường đại học, hội, hiệp hội, tổ chức khác có liên quan hoặc các
chuyên gia, nhà khoa học có đủ điều kiện và năng lực vào các hoạt động sau đây:
1. Tổng kết, đánh giá tình hình
thi hành pháp luật; rà soát, đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành;
2. Khảo sát, điều tra xã hội học;
đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan đến dự án, dự thảo;
3. Tập hợp, nghiên cứu, so sánh
tài liệu, điều ước quốc tế có liên quan đến dự án, dự thảo phục vụ cho việc soạn
thảo;
4. Tham gia vào hoạt động đánh
giá tác động của văn bản.
Điều 29.
Xử lý hồ sơ dự án, dự thảo tại Văn phòng Chính phủ
1. Văn phòng Chính phủ có trách
nhiệm kiểm tra hồ sơ dự án, dự thảo. Trong trường hợp hồ sơ dự án, dự thảo
không bảo đảm yêu cầu, chậm nhất là 2 (hai) ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận
hồ sơ, Văn phòng Chính phủ có văn bản đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo bổ
sung, hoàn thiện hồ sơ.
Cơ quan được đề nghị có trách
nhiệm bổ sung, hoàn thiện hồ sơ, gửi đến Văn phòng Chính phủ trong thời hạn chậm
nhất là 10 (mười) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đề nghị.
2. Trong thời hạn là 7 (bảy)
ngày làm việc, kể từ khi nhận đủ hồ sơ dự án, dự thảo, Văn phòng Chính phủ có
trách nhiệm hoàn chỉnh Phiếu trình giải quyết công việc, nêu rõ ý kiến thẩm tra
của mình.
Trong trường hợp quy định tại Điều 38 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chậm nhất là
7 (bảy) ngày làm việc, kể từ ngày Văn phòng Chính phủ nhận đủ hồ sơ, Bộ trưởng,
Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ có trách nhiệm tổ chức cuộc họp giữa các cơ quan
có liên quan. Trong thời hạn chậm nhất là 7 (bảy) ngày làm việc, kể từ ngày cuộc
họp được tổ chức, cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm phối hợp với các cơ
quan có liên quan tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện dự án, dự thảo để trình Chính
phủ.
Điều 30.
Chỉnh lý dự án, dự thảo sau khi Chính phủ cho ý kiến về dự án, dự thảo
Trong trường hợp Chính phủ thảo
luận, thông qua dự án, dự thảo, cơ quan chủ trì soạn thảo chủ trì, phối hợp với
Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan có liên quan hoàn chỉnh dự án, dự
thảo, trình Thủ tướng Chính phủ, thừa uỷ quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt
Chính phủ, ký trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội dự án luật, pháp lệnh;
trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành nghị định sau khi Chính phủ thảo luận,
thông qua.
Mục 2. SOẠN
THẢO QUYẾT ĐỊNH CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Điều 31.
Soạn thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ
1. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ chủ trì soạn thảo dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ
theo sự phân công của Thủ tướng Chính phủ.
2. Cơ quan được giao chủ trì soạn
thảo tổ chức tổng kết tình hình thi hành pháp luật; khảo sát, đánh giá thực trạng
quan hệ xã hội; nghiên cứu thông tin, tư liệu có liên quan đến nội dung của dự
thảo; chuẩn bị đề cương, biên soạn và chỉnh lý dự thảo; tổ chức lấy ý kiến; chuẩn
bị tờ trình và tài liệu có liên quan đến dự thảo.
3. Trong quá trình soạn thảo, cơ
quan chủ trì soạn thảo có thể huy động sự tham gia của viện nghiên cứu, trường
đại học, hội, hiệp hội, tổ chức khác có liên quan hoặc các chuyên gia, nhà
khoa học có đủ điều kiện và năng lực vào việc tổng kết, đánh giá tình hình thi
hành pháp luật; rà soát, đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành; khảo
sát, điều tra xã hội học; đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan đến dự
thảo; tập hợp, nghiên cứu so sánh tài liệu, điều ước quốc tế có liên quan đến dự
thảo.
4. Cơ quan chủ trì soạn thảo tổ
chức soạn thảo quyết định với sự tham gia của đại diện Bộ Tư pháp, Văn phòng
Chính phủ và các cơ quan, tổ chức hữu quan.
5. Cơ quan
chủ trì soạn thảo có trách nhiệm tổ chức lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động
trực tiếp của văn bản và của cơ quan, tổ chức, cá nhân bằng các phương thức quy
định tại khoản 2 Điều 35 Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật.
Cơ quan chủ trì soạn thảo có
trách nhiệm nêu rõ vấn đề cần lấy ý kiến phù hợp với từng đối tượng và địa chỉ
tiếp nhận ý kiến; tổng hợp, tiếp thu, giải trình nội dung các ý kiến đóng góp;
đăng tải trên Trang thông tin điện tử của cơ quan mình văn bản tiếp thu hoặc
giải trình các ý kiến và dự thảo đã được tiếp thu, chỉnh lý.
Cơ quan chủ trì soạn thảo gửi dự
thảo đến các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ để lấy ý kiến về nội
dung của dự thảo.
Điều 32.
Hồ sơ dự thảo quyết định trình Thủ tướng Chính phủ
Hồ sơ dự thảo quyết định trình
Thủ tướng Chính phủ bao gồm:
1. Tờ trình Thủ tướng Chính phủ
về dự thảo quyết định sau khi tiếp thu ý kiến thẩm định.
Tờ trình phải nêu rõ sự cần thiết
ban hành văn bản; đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản; quá trình soạn thảo
và lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức, cá nhân; những vấn đề còn có ý kiến khác
nhau; giải trình nội dung cơ bản của văn bản, trong đó nêu rõ mục tiêu và các vấn
đề chính sách cần giải quyết, các phương án giải quyết vấn đề, các tác động
tích cực và tiêu cực của các phương án trên cơ sở phân tích định tính hoặc định
lượng về chi phí và lợi ích, nêu rõ phương án lựa chọn tối ưu để giải quyết vấn
đề;
2. Dự thảo quyết định đã được chỉnh
lý sau khi có ý kiến thẩm định;
3. Báo cáo thẩm định;
4. Báo cáo giải trình tiếp thu ý
kiến thẩm định;
5. Bản tổng hợp ý kiến của các
cơ quan, tổ chức, cá nhân về dự thảo; bản sao ý kiến tham gia của các bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; báo cáo giải trình tiếp thu ý kiến góp
ý;
6. Các tài liệu khác có liên
quan (nếu có).
Điều 33.
Kiểm tra, xử lý hồ sơ và chỉnh lý dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ
1. Văn phòng Chính phủ có trách
nhiệm kiểm tra hồ sơ dự thảo quyết định và việc tuân thủ quy trình xây dựng dự
thảo.
2. Trong thời hạn là 7 (bảy)
ngày làm việc, kể từ khi nhận đủ hồ sơ dự thảo quyết định, Văn phòng Chính phủ
có trách nhiệm hoàn chỉnh Phiếu trình giải quyết công việc, nêu rõ ý kiến thẩm
tra của mình.
3. Sau khi Thủ tướng Chính phủ
cho ý kiến về dự thảo quyết định, cơ quan chủ trì soạn thảo chủ trì, phối hợp với
Bộ Tư pháp và Văn phòng Chính phủ chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo, trình Thủ tướng
Chính phủ ký ban hành.
Mục 3. SOẠN
THẢO THÔNG TƯ, THÔNG TƯ LIÊN TỊCH CỦA BỘ TRƯỞNG, THỦ TRƯỞNG CƠ QUAN NGANG BỘ
Điều 34.
Soạn thảo thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
1. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ phân công một đơn vị thuộc bộ, cơ quan ngang bộ chủ trì soạn thảo dự
thảo thông tư và xây dựng tờ trình.
Tờ trình phải nêu rõ sự cần thiết
ban hành văn bản; đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản; quá trình soạn thảo
và lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức, cá nhân; những vấn đề còn có ý kiến khác
nhau; giải trình nội dung cơ bản của văn bản, trong đó nêu rõ mục tiêu và các vấn
đề chính sách cần giải quyết, các phương án giải quyết vấn đề, các tác động
tích cực và tiêu cực của các phương án trên cơ sở phân tích định tính hoặc định
lượng các chi phí và lợi ích, nêu rõ phương án lựa chọn tối ưu để giải quyết vấn
đề.
2. Đơn vị được giao chủ trì soạn
thảo có trách nhiệm phối hợp với tổ chức pháp chế và các đơn vị liên quan tổng
kết tình hình thi hành pháp luật; khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội
trong lĩnh vực liên quan đến dự thảo; nghiên cứu thông tin, tư liệu có liên
quan; chuẩn bị đề cương, biên soạn và chỉnh lý dự thảo; tổ chức lấy ý kiến; chuẩn
bị tờ trình và tài liệu có liên quan đến dự thảo.
3. Trong quá trình soạn thảo,
đơn vị chủ trì soạn thảo có thể huy động sự tham gia của viện nghiên cứu, trường
đại học, hội, hiệp hội, tổ chức khác có liên quan hoặc các chuyên gia, nhà
khoa học có đủ điều kiện và năng lực vào việc tổng kết, đánh giá tình hình thi
hành pháp luật; rà soát đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành; khảo
sát, điều tra xã hội học; đánh giá thực trạng quan hệ xã hội có liên quan đến nội
dung dự thảo; tập hợp, nghiên cứu so sánh tài liệu, điều ước quốc tế có liên
quan đến dự thảo.
4. Việc lấy ý kiến trong quá
trình soạn thảo thông tư được thực hiện theo quy định tại khoản 5 Điều 31 Nghị
định này.
5. Tổ chức pháp chế có trách nhiệm
thẩm định dự thảo thông tư do các đơn vị khác thuộc bộ, cơ quan ngang bộ chủ
trì soạn thảo. Đơn vị chủ trì soạn thảo có trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu ý
kiến thẩm định để hoàn chỉnh dự thảo và hồ sơ trước khi trình Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ ký ban hành.
Điều 35.
Soạn thảo thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ về ngành, lĩnh vực
phụ trách của cơ quan thuộc Chính phủ
1. Căn cứ vào yêu cầu quản lý nhà
nước về ngành, lĩnh vực hoặc theo sự phân công của Thủ tướng Chính phủ, Thủ trưởng
cơ quan thuộc Chính phủ tổ chức việc soạn thảo thông tư để trình Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ được phân công quản lý ngành, lĩnh vực ký ban hành.
2. Đơn vị được Thủ trưởng cơ
quan thuộc Chính phủ giao chủ trì soạn thảo phối hợp với các đơn vị liên quan tổng
kết tình hình thi hành pháp luật; khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội
có liên quan đến nội dung dự thảo; nghiên cứu thông tin, tư liệu có liên quan;
chuẩn bị đề cương, biên soạn và chỉnh lý dự thảo; tổ chức lấy ý kiến; chuẩn bị
tờ trình và tài liệu có liên quan đến dự thảo.
3. Trong quá trình soạn thảo,
đơn vị chủ trì soạn thảo có thể huy động sự tham gia của viện nghiên cứu, trường
đại học, hội, hiệp hội, tổ chức khác có liên quan hoặc các chuyên gia, nhà
khoa học có đủ điều kiện và năng lực vào việc tổng kết, đánh giá tình hình thi
hành pháp luật; rà soát, đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành; khảo
sát, điều tra xã hội học; đánh giá thực trạng quan hệ xã hội trong lĩnh vực
liên quan đến dự thảo; tập hợp, nghiên cứu so sánh tài liệu, điều ước quốc tế
có liên quan đến dự thảo.
4. Thủ trưởng cơ quan thuộc
Chính phủ tổ chức soạn thảo thông tư với sự tham gia của đại diện tổ chức pháp chế,
đại diện các đơn vị có liên quan thuộc bộ, cơ quan ngang bộ được phân công quản
lý ngành, lĩnh vực.
5. Tổ chức pháp chế bộ, cơ quan
ngang bộ có trách nhiệm thẩm định dự thảo văn bản do cơ quan thuộc Chính phủ soạn
thảo.
Đơn vị chủ trì soạn thảo của cơ
quan thuộc Chính phủ soạn thảo văn bản có trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu ý kiến
thẩm định để hoàn chỉnh dự thảo và hồ sơ trước khi trình Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ ký ban hành.
Điều 36.
Xây dựng, ban hành thông tư liên tịch của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
1. Các bộ, cơ quan ngang bộ phối
hợp ban hành thông tư liên tịch thoả thuận phân công một cơ quan chịu trách nhiệm
chủ trì soạn thảo thông tư liên tịch trong trường hợp cơ quan chủ trì soạn thảo
chưa được xác định rõ.
2. Cơ quan được giao chủ trì soạn
thảo có trách nhiệm tổ chức tổng kết tình hình thi hành pháp luật; khảo sát,
đánh giá thực trạng quan hệ xã hội; nghiên cứu thông tin tư liệu có liên quan đến
nội dung của dự thảo; chuẩn bị đề cương, biên soạn và chỉnh lý dự thảo; tổ chức
lấy ý kiến; chuẩn bị tờ trình và tài liệu có liên quan đến dự thảo.
3. Trong quá trình soạn thảo, cơ
quan chủ trì soạn thảo có thể huy động sự tham gia của viện nghiên cứu, trường
đại học, hội, hiệp hội, tổ chức khác có liên quan hoặc các chuyên gia, nhà
khoa học có đủ điều kiện và năng lực vào việc tổng kết, đánh giá tình hình thi
hành pháp luật; rà soát, đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành; khảo
sát, điều tra xã hội học; đánh giá thực trạng quan hệ xã hội; nghiên cứu so
sánh tài liệu, điều ước quốc tế có liên quan đến dự thảo.
4. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ chủ trì soạn thảo thông tư liên tịch tổ chức soạn thảo với sự tham gia
của đại diện các đơn vị chuyên môn, tổ chức pháp chế thuộc bộ, cơ quan ngang bộ
chủ trì soạn thảo, đại diện cơ quan phối hợp ban hành văn bản và các cơ quan, tổ
chức có liên quan.
5. Việc lấy ý kiến trong quá
trình soạn thảo thông tư liên tịch được thực hiện theo quy định tại khoản 5 Điều
31 Nghị định này.
6. Tổ chức pháp chế của cơ quan
chủ trì soạn thảo chủ trì, phối hợp với tổ chức pháp chế của cơ quan đồng ban
hành văn bản thẩm định dự thảo thông tư liên tịch.
Cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên
cứu, tiếp thu ý kiến thẩm định để hoàn chỉnh dự thảo và hồ sơ trước khi trình Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ đồng ký ban hành.
Chương III
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA
VĂN BẢN
Điều 37.
Đánh giá tác động sơ bộ của văn bản
1. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ khi chuẩn bị đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, nghị định có
trách nhiệm đánh giá tác động sơ bộ của văn bản nhằm xác định các vấn đề của xã
hội cần phải được điều chỉnh bằng văn bản quy phạm pháp luật; lập luận cơ sở để
lựa chọn các chính sách cơ bản của văn bản, bảo đảm việc ban hành văn bản là
phương thức tối ưu để đạt được mục tiêu.
2. Báo cáo đánh giá tác động sơ
bộ phải nêu rõ vấn đề cần giải quyết và mục tiêu của chính sách dự kiến, các
phương án để giải quyết vấn đề đó; lựa chọn phương án tối ưu để giải quyết vấn
đề trên cơ sở đánh giá tác động về kinh tế, xã hội, môi trường, hệ thống pháp
luật, tác động đến các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, khả năng tuân thủ
của cơ quan, tổ chức, cá nhân và các tác động khác.
3. Dự thảo báo cáo đánh giá tác
động sơ bộ phải được đăng tải kèm theo các dữ liệu phân tích chi phí, lợi ích
và bản thuyết minh đề nghị xây dựng văn bản trên Trang thông tin điện tử của cơ
quan có đề nghị xây dựng văn bản trong thời hạn ít nhất là 20 (hai mươi) ngày để
các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến.
Cơ quan thực hiện đánh giá tác động
sơ bộ có trách nhiệm hoàn thiện báo cáo trên cơ sở các ý kiến tham gia.
Điều 38.
Đánh giá tác động trước và trong quá trình soạn thảo văn bản
1. Trên cơ sở kết quả đánh giá
tác động sơ bộ, cơ quan chủ trì soạn thảo luật, pháp lệnh, nghị định có trách
nhiệm đánh giá tác động trước khi soạn thảo văn bản và hoàn thiện báo cáo đánh
giá tác động đơn giản trong quá trình soạn thảo nhằm bảo đảm nội dung các quy định
của dự thảo được dựa trên kết quả đánh giá tác động và là phương án tối ưu,
theo cách thức tiết kiệm nhất để đạt được mục tiêu quản lý.
Việc đánh giá tác động tập trung
vào tác động về kinh tế, xã hội, môi trường, hệ thống pháp luật; tác động đến
các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; khả năng tuân thủ của cơ quan, tổ chức,
cá nhân và các tác động khác.
2. Báo cáo đánh giá tác động phải
nêu rõ vấn đề cần giải quyết và mục tiêu của chính sách dự kiến, các phương án
để giải quyết vấn đề; lựa chọn phương án tối ưu để giải quyết vấn đề trên cơ sở
đánh giá tác động cụ thể các giải pháp để thực hiện các chính sách cơ bản của dự
thảo văn bản dựa trên các phân tích định tính hoặc định lượng về chi phí, lợi
ích, các tác động tích cực, tiêu cực của từng giải pháp.
3. Đối với một trong các trường
hợp sau đây thì phải xây dựng báo cáo đánh giá tác động đầy đủ trên cơ sở phân
tích định tính và định lượng các tác động khi kết quả đánh giá tác động đơn giản
cho thấy:
a) Văn bản có thể làm phát sinh
chi phí từ 15 (mười lăm) tỷ đồng hàng năm trở lên cho Nhà nước, cơ quan, tổ chức
hoặc doanh nghiệp, cá nhân;
b) Văn bản có thể tác động tiêu
cực đáng kể đến các nhóm đối tượng trong xã hội;
c) Văn bản có thể tác động tới số
lượng lớn doanh nghiệp;
d) Văn bản có thể làm tăng đáng
kể giá tiêu dùng;
đ) Văn bản còn nhiều ý kiến khác
nhau, được công chúng quan tâm và có ảnh hưởng đáng kể đến lợi ích chung.
4. Dự thảo báo cáo đánh giá tác
động phải được đăng tải kèm theo các dữ liệu, cách tính chi phí, lợi ích và dự
thảo văn bản trên Trang thông tin điện tử của Chính phủ, của cơ quan chủ trì soạn
thảo văn bản trong thời hạn ít nhất là 30 (ba mươi) ngày để các cơ quan, tổ chức,
cá nhân tham gia ý kiến.
Cơ quan thực hiện đánh giá tác động
có trách nhiệm hoàn thiện báo cáo đánh giá tác động trên cơ sở các ý kiến góp
ý.
Điều 39.
Đánh giá tác động sau khi thi hành văn bản
1. Sau 3 (ba) năm, kể từ ngày luật,
pháp lệnh, nghị định có hiệu lực, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
chủ trì soạn thảo có trách nhiệm đánh giá tác động của văn bản trong thực tiễn,
đối chiếu với kết quả đánh giá tác động trong giai đoạn soạn thảo để xác định
tính hợp lý, tính khả thi của các quy định. Trên cơ sở đó, kiến nghị với cơ
quan có thẩm quyền các giải pháp nâng cao hiệu quả của văn bản hoặc hoàn thiện
văn bản.
2. Nội dung báo cáo đánh giá tác
động của văn bản sau khi thi hành gồm: phân tích các chi phí, lợi ích thực tế
và các tác động khác; mức độ tuân thủ văn bản của các nhóm đối tượng thi hành
văn bản và kiến nghị các giải pháp thực thi văn bản hoặc sửa đổi, bãi bỏ văn bản
trong trường hợp cần thiết.
3. Dự thảo báo cáo đánh giá tác
động của văn bản sau khi thi hành phải được đăng tải kèm theo các dữ liệu và
cách tính chi phí, lợi ích trên Trang thông tin điện tử của cơ quan chủ trì soạn
thảo văn bản trong thời hạn ít nhất là 30 (ba mươi) ngày để các cơ quan, tổ chức,
cá nhân tham gia ý kiến.
Cơ quan thực hiện đánh giá tác động
có trách nhiệm hoàn thiện báo cáo trên cơ sở các ý kiến góp ý, gửi đến Bộ Tư
pháp để tổng hợp, báo cáo Chính phủ.
Điều 40.
Bảo đảm chất lượng đánh giá tác động của văn bản
1. Báo cáo đánh giá tác động của
văn bản phải được Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ xem xét và ký xác nhận trước khi gửi hồ sơ đề nghị xây dựng văn bản; hồ sơ
gửi thẩm định dự thảo văn bản đến Bộ Tư pháp để tổng hợp, báo cáo Chính phủ.
2. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ chịu trách nhiệm về tính khách quan, chính
xác của nội dung báo cáo đánh giá tác động.
Chương IV
THẨM ĐỊNH DỰ ÁN, DỰ THẢO
VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
Mục 1. THẨM
ĐỊNH DỰ ÁN, DỰ THẢO VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT DO BỘ TƯ PHÁP VÀ HỘI ĐỒNG THẨM ĐỊNH
THỰC HIỆN
Điều 41.
Trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong việc thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật
Bộ Tư pháp có trách nhiệm:
1. Tổ chức thẩm định dự án, dự
thảo đúng thời hạn; bảo đảm chất lượng của báo cáo thẩm định;
2. Tổ chức nghiên cứu các nội
dung liên quan đến dự án, dự thảo;
3. Tổ chức các hội thảo về nội
dung của văn bản được thẩm định trước khi nhận hồ sơ thẩm định;
4. Tổ chức cuộc họp tư vấn thẩm
định có sự tham gia của cơ quan, tổ chức có liên quan, các chuyên gia, nhà khoa
học;
5. Tham gia với cơ quan chủ trì
soạn thảo khảo sát thực tế về những vấn đề thuộc nội dung của dự án, dự thảo;
6. Tham gia các hoạt động của
Ban soạn thảo, Tổ biên tập trong quá trình soạn thảo dự án, dự thảo;
7. Đề nghị các bộ, cơ quan cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ cử đại diện phối hợp thẩm định;
8. Đề nghị cơ quan chủ trì soạn
thảo thuyết trình về dự án, dự thảo và cung cấp thông tin, tài liệu có liên
quan đến dự án, dự thảo;
9. Mời đại diện các cơ quan, tổ
chức, các chuyên gia, nhà khoa học có liên quan tham gia hoạt động thẩm định.
Điều 42.
Trách nhiệm của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ chủ trì soạn thảo
trong việc thẩm định dự án, dự thảo
1. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ chủ trì soạn thảo dự án, dự thảo có trách nhiệm:
a) Gửi đầy đủ hồ sơ thẩm định đến
Bộ Tư pháp theo quy định ;
b) Cung cấp thông tin, tài liệu
có liên quan; thuyết trình dự án, dự thảo theo đề nghị của Bộ Tư pháp;
c) Cử đại diện có trình độ chuyên
môn phù hợp tham gia Hội đồng thẩm định và các cuộc họp thẩm định theo đề nghị
của Bộ Tư pháp;
d) Mời đại diện Bộ Tư pháp, Văn
phòng Chính phủ tham gia vào quá trình soạn thảo dự án, dự thảo;
đ) Phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn
phòng Chính phủ nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý dự án, dự thảo trên cơ sở ý kiến
thẩm định để trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ;
e) Tiếp thu và giải trình ý
kiến thẩm định và báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định; gửi
dự thảo đã được chỉnh lý và văn bản tiếp thu giải trình đến Bộ Tư pháp và Văn
phòng Chính phủ; đăng tải dự thảo đã chỉnh lý trên cơ sở tiếp thu ý kiến thẩm định
trên Trang thông tin điện tử của Chính phủ, của cơ quan mình.
Điều 43.
Hồ sơ dự án, dự thảo gửi thẩm định
1. Hồ sơ dự án luật, pháp lệnh,
dự thảo nghị định gửi thẩm định được thực hiện theo quy định tại khoản
2 Điều 36, khoản 2 Điều 63 Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật.
Dự án, dự thảo gửi thẩm định phải
là dự án, dự thảo sau khi đã được nghiên cứu, tiếp thu ý kiến tham gia của
các cơ quan, tổ chức và cá nhân.
2. Hồ sơ dự
thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ gửi thẩm định bao gồm:
a) Công văn đề nghị thẩm định;
b) Dự thảo tờ trình Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành văn bản;
c) Bản thuyết minh chi tiết về dự
thảo;
d) Dự thảo văn bản sau khi tiếp
thu ý kiến góp ý;
đ) Bản tổng hợp ý kiến của các
cơ quan, tổ chức, cá nhân về dự thảo văn bản; bản sao ý kiến của các bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến góp
ý về dự thảo.
3. Số lượng hồ sơ gửi thẩm định
là 10 (mười) bộ.
Điều 44.
Tiếp nhận hồ sơ thẩm định
1. Bộ Tư pháp có trách nhiệm tiếp
nhận và kiểm tra hồ sơ dự án, dự thảo gửi thẩm định.
Trong trường hợp hồ sơ thẩm định
không đáp ứng yêu cầu quy định, trong thời hạn chậm nhất là 3 (ba) ngày làm việc,
kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ, Bộ Tư pháp đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo bổ
sung hồ sơ.
2. Cơ quan chủ trì soạn thảo có
trách nhiệm bổ sung hồ sơ thẩm định trong thời hạn chậm nhất là 10 (mười) ngày
làm việc, kể từ khi nhận được đề nghị bổ sung hồ sơ.
Thời điểm thẩm định được tính từ
ngày nhận được đủ hồ sơ thẩm định.
Điều 45. Tổ
chức cuộc họp tư vấn thẩm định
Trong trường hợp không thành lập
Hội đồng thẩm định, khi cần thiết, Bộ Tư pháp tổ chức cuộc họp tư vấn thẩm định
có sự tham gia của đại diện cơ quan chủ trì soạn thảo, các đơn vị có liên quan
thuộc Bộ Tư pháp, đại diện các cơ quan, tổ chức có liên quan, các chuyên gia,
nhà khoa học.
Điều 46.
Thành lập và hoạt động của Hội đồng thẩm định
1. Bộ trưởng Bộ Tư pháp thành lập
Hội đồng thẩm định trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều
36 và khoản 1 Điều 63 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật.
Hội đồng thẩm định gồm Chủ tịch
Hội đồng thẩm định, Thư ký Hội đồng và các thành viên khác là đại diện Bộ Tư
pháp, Văn phòng Chính phủ và đại diện các cơ quan, tổ chức hữu quan, các chuyên
gia, nhà khoa học.
Thành viên Hội đồng thẩm định phải
là người am hiểu các vấn đề chuyên môn liên quan đến ngành, lĩnh vực thuộc nội
dung của dự án, dự thảo.
2. Tổng số thành viên của Hội đồng
thẩm định ít nhất là 9 (chín) người.
Đối với trường hợp thẩm định dự
án, dự thảo do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo thì đại diện Bộ Tư pháp không quá
1/3 (một phần ba) tổng số thành viên.
Đối với trường hợp thẩm định dự
án, dự thảo có nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực
không do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo thì đại diện Bộ Tư pháp không quá 1/2 (một
phần hai) tổng số thành viên.
3. Hội đồng thẩm định hoạt động
theo nguyên tắc thảo luận tập thể. Hội đồng thẩm định chấm dứt hoạt động và tự
giải thể sau khi báo cáo thẩm định được gửi đến cơ quan có thẩm quyền.
Điều 47.
Cuộc họp của Hội đồng thẩm định
1. Chủ tịch Hội đồng thẩm định
có trách nhiệm tổ chức cuộc họp thẩm định. Cuộc họp Hội đồng thẩm định chỉ được
tiến hành trong trường hợp có mặt ít nhất 1/2 (một phần hai) tổng số thành
viên.
Trong trường hợp không thể tham
gia cuộc họp thẩm định, thành viên Hội đồng phải gửi Chủ tịch Hội đồng thẩm định
ý kiến của mình bằng văn bản.
Đại diện cơ quan chủ trì soạn thảo
có trách nhiệm tham gia phiên họp của Hội đồng thẩm định.
Trong trường hợp cần thiết, Bộ
Tư pháp có thể mời đại diện là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản,
đại diện các cơ quan, tổ chức hữu quan tham dự cuộc họp của Hội đồng thẩm định.
2. Tài liệu phục vụ cho cuộc họp
của Hội đồng thẩm định phải được Bộ Tư pháp gửi đến các thành viên Hội đồng thẩm
định chậm nhất là 5 (năm) ngày làm việc, trước ngày tổ chức cuộc họp.
3. Tại cuộc họp của Hội đồng thẩm
định, đại diện cơ quan chủ trì soạn thảo trình bày những nội dung cơ bản của dự
án, dự thảo và giải trình về những vấn đề có liên quan đến nội dung dự án, dự
thảo theo đề nghị của thành viên Hội đồng.
Thành viên Hội đồng thẩm định thảo
luận về nội dung thẩm định quy định tại khoản 3 Điều 36 Luật
ban hành văn bản quy phạm pháp luật và những vấn đề khác liên quan đến nội
dung dự án, dự thảo.
Chủ tịch Hội đồng thẩm định kết
luận nội dung cuộc họp trên cơ sở ý kiến của đa số các thành viên Hội đồng.
4. Thư ký Hội đồng thẩm định có
trách nhiệm ghi biên bản cuộc họp của Hội đồng.
Biên bản phải ghi đầy đủ các ý
kiến phát biểu tại cuộc họp. Biên bản phải được Chủ tịch và Thư ký Hội đồng thẩm
định ký.
Điều 48.
Chuẩn bị báo cáo thẩm định của Hội đồng thẩm định
Trên cơ sở biên bản cuộc họp của
Hội đồng thẩm định, chậm nhất là 3 (ba) ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc cuộc
họp thẩm định, Thư ký Hội đồng thẩm định chuẩn bị dự thảo báo cáo thẩm định,
trình Chủ tịch Hội đồng thẩm định xem xét, ký báo cáo.
Báo cáo thẩm định được đóng dấu
của Bộ Tư pháp.
Mục 2. THẨM
ĐỊNH DỰ THẢO THÔNG TƯ DO TỔ CHỨC PHÁP CHẾ THỰC HIỆN
Điều 49. Trách
nhiệm của tổ chức pháp chế bộ, cơ quan ngang bộ trong việc thẩm định dự thảo
thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
1. Tổ chức thẩm định dự thảo
đúng thời hạn; bảo đảm chất lượng của báo cáo thẩm định.
2. Tổ chức nghiên cứu các nội
dung liên quan đến dự thảo.
3. Tham gia cùng đơn vị chủ trì
soạn thảo khảo sát thực tế về những vấn đề thuộc nội dung của dự thảo.
4. Yêu cầu đơn vị chủ trì soạn
thảo thuyết trình về dự thảo.
5. Đề nghị đơn vị chủ trì soạn
thảo cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến dự thảo.
6. Phối hợp với đơn vị chủ trì
soạn thảo trong quá trình soạn thảo thông tư.
7. Đề nghị Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ phân công các đơn vị khác phối hợp thẩm định hoặc tổ chức cuộc
họp tư vấn thẩm định có sự tham gia của cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan,
các chuyên gia, nhà khoa học trong những trường hợp dự thảo có nội dung phức tạp.
Điều 50.
Trách nhiệm của các đơn vị thuộc bộ, cơ quan ngang bộ
1. Đơn vị
chủ trì soạn thảo thuộc bộ, cơ quan ngang bộ có trách nhiệm:
a) Mời đại diện tổ chức pháp chế
tham gia các hoạt động soạn thảo dự thảo;
b) Gửi đầy đủ hồ sơ thẩm định đến
tổ chức pháp chế bộ, cơ quan ngang bộ; cung cấp thông tin, tài liệu có liên
quan đến dự thảo thông tư theo yêu cầu của tổ chức pháp chế;
c) Thuyết trình về dự thảo thông
tư khi có yêu cầu của tổ chức pháp chế;
d) Phối hợp với tổ chức pháp chế
nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý dự thảo trên cơ sở ý kiến thẩm định;
đ) Giải trình bằng văn bản về việc
tiếp thu, không tiếp thu ý kiến thẩm định và báo cáo Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ, đồng thời gửi bản giải trình đến tổ chức pháp chế.
2. Các đơn vị thuộc bộ, cơ quan
ngang bộ trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm:
a) Cử đại diện có trình độ
chuyên môn phù hợp phối hợp thẩm định theo đề nghị của tổ chức pháp chế;
b) Cung cấp thông tin, tài liệu
có liên quan đến việc thẩm định theo yêu cầu của tổ chức pháp chế.
Chương V
DỊCH VĂN BẢN QUY PHẠM
PHÁP LUẬT
Điều 51.
Dịch văn bản quy phạm pháp luật ra tiếng nước ngoài
1. Trừ trường hợp văn bản có nội
dung thuộc bí mật nhà nước, các văn bản quy phạm pháp luật sau đây phải được dịch
ra tiếng Anh và có thể được dịch ra tiếng nước ngoài khác:
a) Luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
b) Nghị định của Chính phủ, quyết
định của Thủ tướng Chính phủ, thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
bộ có nội dung liên quan hoặc ảnh hưởng đến thương mại hàng hóa, dịch vụ và sở
hữu trí tuệ.
2. Các văn bản quy phạm pháp luật
không thuộc quy định tại khoản 1 Điều này có thể được dịch ra tiếng Anh và tiếng
nước ngoài khác, trừ trường hợp văn bản có nội dung thuộc bí mật nhà nước.
3. Cơ quan chủ trì soạn thảo chủ
trì, phối hợp với Thông tấn xã Việt Nam dịch văn bản quy phạm pháp luật quy định
tại khoản 1 Điều này ra tiếng Anh.
4. Bản dịch văn bản quy phạm
pháp luật ra tiếng nước ngoài phải bảo đảm đúng tinh thần của văn bản được dịch,
bảo đảm tính chính xác của nội dung văn bản được dịch.
5. Bản dịch văn bản quy phạm
pháp luật ra tiếng Anh quy định tại khoản 1 Điều này phải được đăng tải trên
Trang thông tin điện tử của Chính phủ trong thời gian chậm nhất là 90 (chín
mươi) ngày, kể từ ngày văn bản được đăng Công báo.
6. Bản dịch văn bản quy phạm
pháp luật ra tiếng nước ngoài có giá trị tham khảo.
Điều 52.
Dịch văn bản quy phạm pháp luật ra tiếng dân tộc thiểu số
1. Tuỳ thuộc vào tính chất và nội
dung văn bản, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc quyết định việc dịch và tổ chức
việc dịch văn bản quy phạm pháp luật ra tiếng dân tộc thiểu số.
2. Bản dịch văn bản quy phạm
pháp luật ra tiếng dân tộc thiểu số phải bảo đảm đúng tinh thần của văn bản được
dịch, bảo đảm tính chính xác của nội dung văn bản được dịch.
3. Bản dịch văn bản quy phạm
pháp luật ra tiếng dân tộc thiểu số có giá trị tham khảo.
Chương VI
NHỮNG QUY ĐỊNH KHÁC
Điều 53.
Soạn thảo, ban hành một văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ, bãi bỏ nhiều
văn bản
Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ có trách nhiệm đề nghị ban hành, soạn thảo và trình cơ quan có
thẩm quyền hoặc ban hành theo thẩm quyền một văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi,
bổ sung, thay thế, huỷ bỏ, bãi bỏ nội dung trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật
do cùng một cơ quan ban hành trong các trường hợp sau đây:
1. Khi cần hoàn thiện pháp luật
để kịp thời thực hiện các cam kết quốc tế;
2. Khi cần sửa đổi, thay thế, huỷ
bỏ, bãi bỏ đồng thời nhiều văn bản mà nội dung được sửa đổi, thay thế, huỷ bỏ,
bãi bỏ thuộc cùng một lĩnh vực hoặc có mối liên quan chặt chẽ để bảo đảm tính
nhất quán với văn bản mới được ban hành;
3. Trong văn bản đề nghị ban
hành có nội dung liên quan đến một hoặc nhiều văn bản khác do cùng một cơ quan
ban hành mà trong văn bản đề nghị ban hành có quy định khác với văn bản đó.
Điều 54.
Soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn
1. Trong trường hợp quy định tại
khoản 1 Điều 75 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có văn bản đề nghị
Thủ tướng Chính phủ quyết định áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn trong xây dựng,
ban hành nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ; đề nghị
Thủ tướng Chính phủ trình cơ quan có thẩm quyền quyết định áp dụng trình tự, thủ
tục rút gọn theo quy định tại khoản 2 Điều 75 Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật.
Trường hợp xét thấy cần áp dụng
trình tự, thủ tục rút gọn trong việc soạn thảo, ban hành văn bản của Quốc hội, Uỷ
ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo bộ, cơ quan
ngang bộ quản lý ngành, lĩnh vực có liên quan chuẩn bị văn bản đề nghị để Thủ
tướng Chính phủ trình cơ quan có thẩm quyền quyết định.
2. Nội dung của văn bản đề nghị
theo quy định tại khoản 1 Điều này phải nêu rõ lý do áp dụng trình tự, thủ tục
rút gọn, tên văn bản, sự cần thiết ban hành văn bản; đối tượng, phạm vi điều chỉnh
của văn bản; nội dung chính của văn bản; dự kiến cơ quan chủ trì soạn thảo và
thời gian trình văn bản.
Điều 55.
Chuẩn bị ý kiến của Chính phủ về đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của các cơ
quan, tổ chức; đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, kiến nghị về luật, pháp lệnh của
đại biểu Quốc hội
1. Văn phòng Chính phủ có trách
nhiệm tập hợp các đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của cơ quan, tổ chức và đề
nghị xây dựng luật, pháp lệnh, kiến nghị về luật, pháp lệnh của đại biểu Quốc hội
gửi Bộ Tư pháp.
2. Bộ Tư pháp có trách nhiệm
nghiên cứu, chuẩn bị ý kiến của Chính phủ về đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của
cơ quan, tổ chức và đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, kiến nghị về luật, pháp lệnh
của đại biểu Quốc hội, báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp thừa uỷ quyền
Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ, báo cáo ý kiến của Chính phủ trước Ủy
ban thường vụ Quốc hội.
Điều 56.
Chuẩn bị ý kiến của Chính phủ đối với dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết
của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội không do Chính phủ trình
1. Trong thời hạn là 3 (ba) ngày
làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án, dự thảo không do Chính phủ trình,
Văn phòng Chính phủ có trách nhiệm báo cáo, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ phân
công một bộ, cơ quan ngang bộ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp chuẩn bị ý kiến
của Chính phủ, đồng thời gửi hồ sơ dự án, dự thảo tới các bộ, cơ quan ngang bộ
liên quan để lấy ý kiến.
2. Trong thời hạn là 5 (năm)
ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, các bộ, cơ quan ngang bộ có trách
nhiệm gửi văn bản tham gia ý kiến về những nội dung của dự án, dự thảo đến bộ,
cơ quan ngang bộ được Thủ tướng Chính phủ phân công chuẩn bị ý kiến.
3. Trong trường hợp cần thiết hoặc
theo đề nghị của cơ quan chủ trì chuẩn bị ý kiến, Thủ tướng Chính phủ quyết định
thảo luận dự án, dự thảo tại phiên họp Chính phủ.
4. Trên cơ sở văn bản tham gia ý
kiến của bộ, cơ quan ngang bộ hoặc kết quả thảo luận của các Thành viên Chính
phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ được Thủ tướng Chính phủ phân công
chuẩn bị ý kiến chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ và Bộ Tư pháp tổng hợp,
hoàn chỉnh văn bản tham gia ý kiến; thừa uỷ quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt
Chính phủ, ký và gửi văn bản đến cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo.
Điều 57.
Đánh số thứ tự dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
Cơ quan chủ trì soạn thảo có
trách nhiệm đánh số thứ tự của dự thảo văn bản quy phạm pháp luật để tạo thuận
lợi cho việc theo dõi, tham gia ý kiến đối với dự thảo, trừ trường hợp xây dựng,
ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn được quy định
tại Điều 75 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Việc đánh số dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật được thực hiện như sau:
1. Dự thảo 1 là dự thảo được Ban
soạn thảo, đơn vị chủ trì soạn thảo trình Thủ trưởng cơ quan chủ trì soạn thảo;
2. Dự thảo
2 là dự thảo được Thủ trưởng cơ quan chủ trì soạn thảo quyết định gửi và đăng tải
trên Trang thông tin điện tử của Chính phủ hoặc của cơ quan chủ trì soạn thảo để
cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến;
3. Dự thảo 3 là dự thảo được gửi
đến cơ quan thẩm định sau khi tiếp thu ý kiến góp ý của cơ quan, tổ chức, cá
nhân;
4. Dự thảo 4 là dự thảo đã được
tiếp thu ý kiến thẩm định và trình Chính phủ xem xét, quyết định việc trình Quốc
hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đối với dự án luật, pháp lệnh; trình Chính phủ
xem xét, thông qua đối với dự thảo nghị định; trình Thủ tướng Chính phủ xem
xét, ban hành đối với dự thảo quyết định; trình Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ xem xét, ban hành đối với dự thảo thông tư và thông tư liên tịch;
5. Dự thảo 5 là dự thảo được chỉnh
lý về mặt kỹ thuật sau khi tiếp thu ý kiến của Thành viên Chính phủ và trước
khi Thủ tướng Chính phủ thay mặt Chính phủ ký hoặc uỷ quyền ký trình Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội (đối với dự án luật, pháp lệnh); trước khi Thủ tướng
Chính phủ ký ban hành (đối với dự thảo nghị định); sau khi tiếp thu ý kiến của
Thủ tướng Chính phủ (đối với dự thảo quyết định); ý kiến của Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ trước khi ký ban hành (đối với thông tư và thông tư liên tịch).
Điều 58.
Xác định hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật
1. Ngày có hiệu lực của văn bản
quy phạm pháp luật phải được quy định cụ thể tại văn bản quy phạm pháp luật
theo nguyên tắc quy định tại khoản 1 Điều 78 và Điều 79 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
2. Cơ quan chủ trì soạn thảo phải
dự kiến cụ thể ngày có hiệu lực của văn bản trong dự thảo văn bản trên cơ sở bảo
đảm đủ thời gian để công chúng có điều kiện tiếp cận văn bản, các đối tượng thi
hành có điều kiện chuẩn bị thực hiện văn bản.
Trường hợp việc ban hành văn bản
quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chậm hơn dự kiến, Văn
phòng Chính phủ phối hợp với cơ quan chủ trì soạn thảo xác định cụ thể ngày có
hiệu lực của văn bản sau khi Thủ tướng Chính phủ ký ban hành.
Ngày ký ban hành văn bản là ngày
Văn phòng Chính phủ phát hành văn bản đã được Thủ tướng Chính phủ ký ban hành.
Điều 59.
Thẩm quyền ký ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
1. Thủ tướng Chính phủ ký ban
hành nghị định của Chính phủ, nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với cơ quan
trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội, quyết định của Thủ tướng Chính
phủ.
Trong trường hợp vắng mặt, Thủ
tướng có thể ủy quyền cho một Phó Thủ tướng ký ban hành văn bản quy phạm pháp
luật thuộc thẩm quyền của mình.
2. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ ký ban hành thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thông
tư liên tịch mà Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là một bên ban hành.
Trong trường hợp vắng mặt, Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có thể ủy quyền cho cấp phó ký ban hành văn
bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của mình.
Điều 60.
Số, ký hiệu, thể thức văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
1. Văn bản quy phạm pháp luật của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ phải được
đánh số thứ tự theo năm ban hành và ký hiệu riêng cho từng loại văn bản quy phạm
pháp luật theo quy định tại Điều 7 Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật.
Việc đánh số thứ tự phải bắt đầu
từ số 01 theo từng loại văn bản của năm ban hành loại văn bản đó.
Văn bản quy phạm pháp luật liên
tịch được đánh số thứ tự theo số văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan chủ trì
soạn thảo.
2. Tên viết tắt của văn bản quy
phạm pháp luật và cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật được quy định như
sau:
a) Tên viết tắt của văn bản quy
phạm pháp luật:
Nghị định viết tắt là NĐ;
Nghị quyết liên tịch viết tắt là
NQLT;
Quyết định viết tắt là QĐ;
Thông tư viết tắt là TT;
Thông tư liên tịch viết tắt là
TTLT.
b) Tên viết tắt của cơ quan ban
hành văn bản quy phạm pháp luật:
Chính phủ viết tắt là CP;
Thủ tướng Chính phủ viết tắt là
TTg;
Đối với tên của bộ, cơ quan
ngang bộ thì viết tắt bằng chữ in hoa chữ cái đầu tiên của từng chữ trong tên của
bộ, cơ quan ngang bộ; đối với tên của bộ, cơ quan ngang bộ có liên từ
"và" thì không viết tắt liên từ đó;
Đối với tên của các cơ quan liên
tịch thì viết tắt bằng chữ in hoa tên của cơ quan chủ trì soạn thảo; tên viết tắt
bằng chữ in hoa tên của từng cơ quan tham gia ban hành văn bản liên tịch theo
thứ tự chữ cái tiếng Việt.
3. Văn bản quy phạm pháp luật của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ phải được
ban hành đúng thể thức, bảo đảm đầy đủ các yếu tố sau:
a) Quốc hiệu;
b) Tên cơ quan ban hành văn bản;
c) Số và ký hiệu văn bản;
d) Địa danh và ngày, tháng, năm
ban hành văn bản;
đ) Tên loại văn bản, trích yếu nội
dung văn bản;
e) Nội dung văn bản;
g) Chức vụ, họ tên và chữ ký của
người có thẩm quyền;
h) Dấu của cơ quan ban hành văn
bản;
i) Nơi nhận.
Điều 61.
Phân biệt văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với văn bản hành chính
1. Chính phủ ban hành văn bản
quy phạm pháp luật bằng hình thức nghị định để quy định các vấn đề theo quy định
tại Điều 14 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Chính phủ ban hành nghị quyết để
quyết định các vấn đề về nhiệm vụ, giải pháp chỉ đạo, điều hành phát triển kinh
tế - xã hội trong từng thời kỳ; phê duyệt chương trình, đề án; phê chuẩn đơn vị
bầu cử và số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương; chương trình xây dựng nghị định; điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính của
cấp huyện, cấp xã; phê chuẩn kết quả bầu cử các thành viên Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh và các vấn đề tương tự.
2. Thủ tướng Chính phủ ban hành
quyết định quy phạm pháp luật để quy định các vấn đề theo quy định tại Điều 15 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Các quyết định của Thủ tướng Chính
phủ về phê duyệt chương trình, đề án; giao chỉ tiêu kinh tế - xã hội cho cơ
quan, đơn vị; thành lập trường đại học; thành lập các ban chỉ đạo, hội đồng, ủy
ban lâm thời để thực hiện nhiệm vụ trong một thời gian xác định; khen thưởng, kỷ
luật, điều động công tác; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, cho từ chức, tạm
đình chỉ công tác cán bộ, công chức và về các vấn đề tương tự thì không phải là
văn bản quy phạm pháp luật.
Thủ tướng Chính phủ ban hành văn
bản để đôn đốc việc thực hiện pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật bằng
hình thức chỉ thị.
3. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ ban hành văn bản quy phạm pháp luật bằng hình thức thông tư để quy định
các vấn đề theo quy định tại Điều 16 Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật.
Đối với các vấn đề về phê duyệt
chương trình, đề án; phê duyệt điều lệ của hội, tổ chức phi Chính phủ; điều chỉnh
quy chế hoạt động nội bộ của cơ quan, đơn vị; phát động phong trào thi đua; chỉ
đạo, điều hành hành chính; đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện pháp luật, các văn bản
quy phạm pháp luật và các vấn đề tương tự thì Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ ban hành văn bản bằng hình thức quyết định,
chỉ thị.
Điều 62.
Rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật
1. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ có trách nhiệm thường xuyên rà soát văn bản quy phạm pháp luật
do Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành có liên quan đến
ngành, lĩnh vực của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ phụ trách để
kịp thời xem xét, kiến nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đình chỉ việc
thi hành, sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ hoặc bãi bỏ khi:
a) Tình hình kinh tế - xã hội đã
thay đổi hoặc khi có văn bản được ban hành mới làm cho nội dung của văn bản đã
được ban hành không còn phù hợp;
b) Tự phát hiện hoặc nhận được
thông tin, yêu cầu, kiến nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân về văn bản quy phạm
pháp luật chứa nội dung có dấu hiệu trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo,
không còn phù hợp.
2. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ có trách nhiệm định kỳ 5 (năm) năm hệ thống hoá theo chuyên đề,
lĩnh vực các văn bản quy phạm pháp luật và các quy định pháp luật còn hiệu lực
thi hành do Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành có liên quan đến
ngành, lĩnh vực của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ do mình phụ
trách.
3. Trong việc rà soát, hệ thống
hoá văn bản quy phạm pháp luật, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ có trách nhiệm:
a) Lập
danh mục các văn bản và các quy định đã hết hiệu lực thi hành; danh mục văn bản
còn hiệu lực, nhưng trong đó có những quy định cần được sửa đổi, bổ sung hoặc
bãi bỏ, huỷ bỏ thuộc ngành, lĩnh vực do bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ do mình phụ trách;
b) Định kỳ 6 (sáu) tháng một lần
gửi đăng Công báo danh mục văn bản, quy định đã hết hiệu lực thi hành;
c) Kịp thời đình chỉ việc thi
hành, sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ, huỷ bỏ theo thẩm quyền hoặc kiến nghị
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đình chỉ việc thi hành, sửa đổi, bổ sung,
thay thế, bãi bỏ, huỷ bỏ văn bản quy phạm pháp luật trong trường hợp phát hiện
văn bản có quy định trái pháp luật, không phù hợp với tình hình kinh tế- xã hội
hoặc khi cơ quan nhà nước cấp trên ban hành văn bản mới làm cho nội dung văn bản
không còn phù hợp;
d) Trường hợp phát hiện công
văn, thông báo, điện báo, hướng dẫn và các giấy tờ hành chính khác có chứa quy
phạm pháp luật thì phải kịp thời đình chỉ việc thi hành, xử lý theo thẩm quyền
hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền đình chỉ việc thi hành và xử lý
theo quy định của pháp luật.
4. Tổ chức pháp chế chủ trì, phối
hợp với các đơn vị thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ rà soát,
hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực phụ trách
theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
Điều 63.
Trách nhiệm theo dõi, đánh giá việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật
1. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ có trách nhiệm định kỳ hàng năm đánh giá việc thi hành văn bản
do mình chủ trì soạn thảo hoặc ban hành để kịp thời đôn đốc, tổ chức thực hiện,
hướng dẫn việc thi hành văn bản hoặc kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi,
bổ sung, bãi bỏ các quy định không còn phù hợp.
2. Nội dung
đánh giá việc thi hành văn bản tập trung vào các vấn đề sau đây:
a) Mức độ tuân thủ văn bản của
cơ quan, tổ chức, cá nhân và lý do của việc tuân thủ, không tuân thủ văn bản;
b) Hiệu quả của công tác tuyên
truyền phổ biến văn bản;
c) Tính hợp lý của các quy định
trong văn bản;
d) Việc bảo đảm các điều kiện
thi hành văn bản về nguồn tài chính, nguồn nhân lực và tổ chức bộ máy thực hiện
văn bản.
3. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ có trách nhiệm gửi báo cáo đánh giá việc thi hành các luật,
pháp lệnh, nghị định, quyết định của Thủ tướng Chính phủ về ngành, lĩnh vực do
mình phụ trách (có nội dung quy định tại khoản 2 Điều này) đến Bộ Tư pháp vào
tháng 10 hàng năm để tổng hợp, trình Chính phủ.
4. Tổ chức
pháp chế có nhiệm vụ:
a) Phối hợp với các đơn vị thuộc
bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan có liên quan trong
việc đánh giá việc thi hành văn bản;
b) Theo dõi, đôn đốc các đơn vị
thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong việc đánh giá việc
thi hành văn bản;
c) Tổng hợp, xây dựng báo cáo
hàng năm của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ về đánh giá việc thi
hành văn bản liên quan đến ngành, lĩnh vực do bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ phụ trách, gửi Bộ Tư pháp để tổng hợp, trình Chính phủ;
d) Đôn đốc các đơn vị thuộc bộ,
cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong việc soạn thảo văn bản quy định
chi tiết thi hành luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định, thông tư thuộc nhiệm
vụ của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
5. Trong công tác theo dõi, đánh
giá việc thi hành văn bản, Bộ Tư pháp có trách nhiệm:
a) Hướng dẫn, đôn đốc các bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong công tác đánh giá việc thi hành
văn bản;
b) Theo dõi, đôn đốc các bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ soạn thảo văn bản quy định chi tiết thi
hành luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định;
c) Tổng hợp, báo cáo Chính phủ về
tình hình thi hành văn bản quy phạm pháp luật trong phạm vi cả nước vào tháng
12 hàng năm.
Điều 64.
Trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
trong việc nâng cao chất lượng của văn bản quy phạm pháp luật
1. Tuân thủ quy trình xây dựng,
ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định tại Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật và Nghị định này.
2. Bảo đảm các điều kiện cho
công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trong bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ.
3. Tổ chức đào tạo, nâng cao
năng lực phân tích chính sách, lập dự kiến chương trình xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật; kỹ năng soạn thảo, đánh giá tác động, lấy ý kiến góp ý dự thảo; đánh
giá việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật.
4. Cung cấp thông tin liên quan
đến ngành, lĩnh vực do mình phụ trách khi có yêu cầu của cơ quan chủ trì soạn
thảo, cơ quan thẩm định, thẩm tra.
5. Bộ Tư pháp có trách nhiệm hướng
dẫn về quy trình, phương pháp đánh giá tác động của văn bản; hướng dẫn nghiệp vụ
lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; kỹ thuật soạn thảo; kỹ thuật
thẩm định; rà soát, hệ thống hoá, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật và đánh
giá việc thi hành văn bản.
6. Bộ Tư
pháp chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan hướng dẫn thể thức, kỹ thuật
trình bày văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và văn bản quy phạm pháp luật liên tịch.
Điều 65.
Bảo đảm điều kiện về thông tin cho hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm:
1. Trang bị các phương tiện kỹ
thuật, công nghệ thông tin, đáp ứng kịp thời và hiệu quả các yêu cầu tiếp cận,
nghiên cứu và xử lý các thông tin liên quan phục vụ hoạt động xây dựng và rà
soát, hệ thống hoá, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của bộ, cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ;
2. Cung cấp tài liệu, thông tin
liên quan đến ngành, lĩnh vực do bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
phụ trách phục vụ cho hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo
yêu cầu của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan, tổ chức
khác và cá nhân có liên quan.
Điều 66.
Bảo đảm điều kiện về nhân lực
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm:
1. Bố trí lực lượng cán bộ, công
chức hỗ trợ cho việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật;
2. Kiện toàn đội ngũ cán bộ,
công chức tham gia vào hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của
bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
3. Căn cứ vào điều kiện thực tế
của cơ quan mình, ít nhất mỗi năm một lần tổ chức bồi dưỡng, nâng cao kiến thức,
kỹ năng cần thiết cho đội ngũ cán bộ, công chức tham gia vào hoạt động xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Điều 67.
Bảo đảm kinh phí xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống
pháp luật
1. Kinh phí xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật do ngân sách nhà nước cấp, được
dự toán chung trong kinh phí hoạt động thường xuyên của bộ, cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ để thực hiện các hoạt động sau:
a) Nghiên cứu đề nghị xây dựng
văn bản;
b) Lập dự kiến chương trình xây
dựng văn bản;
c) Điều tra, nghiên cứu, khảo
sát trong quá trình soạn thảo văn bản;
d) Soạn thảo văn bản;
đ) Đánh giá tác động của văn bản;
e) Tổ chức lấy ý kiến về dự án,
dự thảo văn bản;
g) Góp ý, thẩm định dự án, dự thảo
văn bản;
h) Thẩm tra của Văn phòng Chính
phủ về dự án, dự thảo văn bản;
i) Rà soát, hệ thống hoá các văn
bản, pháp điển quy phạm pháp luật;
k) Dịch văn bản ra tiếng nước
ngoài, tiếng dân tộc thiểu số;
l) Kiểm tra, xử lý văn bản;
m) Theo dõi, đánh giá việc thi
hành văn bản.
2. Bộ trưởng
Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng, Chủ nhiệm
Văn phòng Chính phủ hướng dẫn định mức chi cho các hoạt động quy định tại khoản
1 Điều này.
3. Bộ Tài chính có trách nhiệm cấp
đầy đủ, đúng thời hạn kinh phí xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện
hệ thống pháp luật.
4. Cơ quan chủ trì xây dựng văn
bản được sử dụng các nguồn vốn hỗ trợ từ các dự án, tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước theo quy định của pháp luật để bổ sung vào kinh phí xây dựng văn bản
quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Điều 68.
Trách nhiệm thi hành
1. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.
Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ quy định cụ thể trình tự, thủ
tục xây dựng, ban hành, rà soát, hệ thống hoá, kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm
pháp luật áp dụng trong cơ quan mình.
2. Trường hợp Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh là cơ quan được giao chủ trì soạn thảo dự án, dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của các cơ quan nhà nước ở trung ương thì
trình tự, thủ tục soạn thảo, ban bành văn bản được áp dụng theo các quy định của
Nghị định này.
3. Trường hợp soạn thảo, ban
hành nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức
chính trị - xã hội thì trình tự, thủ tục được áp dụng tương tự các quy định tại
Mục 1 Chương II Nghị định này.
Trường hợp soạn thảo, ban hành
thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Toà
án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì trình tự,
thủ tục được áp dụng tương tự các quy định tại mục 3 Chương II Nghị định này.
Điều 69.
Hiệu lực thi hành
Nghị định này có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 20 tháng 4 năm 2009.
Nghị định này thay thế Nghị định
số 161/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật./.
Nơi nhận:
- Ban Bí thư Trung ương Đảng;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP;
- VP BCĐ TW về phòng, chống tham nhũng;
- HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- Văn phòng TW và các Ban của Đảng;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Hội đồng Dân tộc và các UB của Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội;
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- UB Giám sát tài chính QG;
- Kiểm toán Nhà nước;
- Ngân hàng Chính sách Xã hội;
- Ngân hàng Phát triển Việt Nam;
- Ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;
- VPCP: BTCN, các PCN, Cổng TTĐT, các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo;
- Lưu: Văn thư, PL (5b).
|
TM.
CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG
Nguyễn Tấn Dũng
|