BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO
TẠO
------------------------
ĐỀ
ÁN
PHÁT TRIỂN
THIẾT BỊ DẠY HỌC TỰ LÀM
GIÁO DỤC MẦM NON VÀ PHỔ THÔNG
GIAI ĐOẠN 2010 - 2015
(Kèm theo QĐ số
4045/QĐ-BGDĐT ngày 16/9/2010 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)
Hà Nội, tháng 9 năm
2010
|
MỤC LỤC
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ ÁN
II. CƠ SỞ PHÁP LÝ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
2.1. Cơ sở pháp lý
2.2. Cơ sở thực tiễn
III. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG TBDH VÀ TỰ LÀM TBDH
3.1. Thuận lợi
3.2. Khó khăn
IV. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ MỤC TIÊU
4.1. Quan điểm chỉ đạo
4.2. Mục tiêu
V. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP
5.1. Nâng cao nhận thức
5.2. Hoàn thiện hệ thống chính sách
5.3. Thi đua, khen thưởng
5.4. Tổ chức quản lý
5.5. Xây dựng tài liệu, tập huấn chuyên môn
5.6. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về TBDH
tự làm trên Internet
5.7. Phát triển các cơ sở nghiên cứu về TBDH
và TBDH tự làm
VI. KINH PHÍ THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
6.1. Nguồn kinh phí thực hiện Đề án
6.2. Giai đoạn 1 (Từ năm 2010 đến năm 2012)
6.3. Giai đoạn 2 (Từ năm 2013 đến năm 2015)
6.4. Giai đoạn từ năm 2016 trở đi
VII. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
7.1. Bộ Giáo dục và Đào tạo
7.2. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA
ĐỀ ÁN
Trong những năm qua, cùng với đổi mới
Chương trình giáo dục phổ thông, thiết bị dạy học (TBDH) đã đóng một vai trò
hết sức quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Từ năm 2002 đến
2009, tất cả các trường phổ thông đã được trang bị đầy đủ các TBDH từ lớp 1 đến
lớp 12 đảm bảo nhu cầu tối thiểu theo Danh mục TBDH đã được Bộ Giáo dục và Đào
tạo ban hành. Tuy nhiên việc mua sắm bổ sung, thay thế hàng năm các TBDH này
hiện gặp một số khó khăn về nguồn cung cấp các thiết bị, các chi tiết lẻ, nguồn
kinh phí mua sắm bổ sung và sửa chữa, phương pháp sửa chữa khắc phục các thiết
bị hư hỏng trong quá trình sử dụng... Trong điều kiện đó thì giải pháp tự làm,
tự sửa chữa, tự cải tiến TBDH đã góp phần khắc phục kịp thời những thiết bị còn
thiếu, bổ sung các thiết bị chưa có điều kiện mua sắm, thay thế hoặc cải tiến
các thiết bị hư hỏng, mất mát và phù hợp với tình hình, đặc điểm của các địa
phương, cơ sở giáo dục.
Thiết bị dạy học tự làm (TBDHTL) là
loại TBDH do giáo viên chế tạo mới hoặc cải tiến từ một TBDH đã có hoặc qua sưu
tầm tư liệu hiện vật mà có. TBDHTL có nguyên lý cấu tạo và cách sử dụng phù hợp
với ý tưởng thực hiện bài dạy của giáo viên làm ra, do đó khi được sử dụng
thường cho hiệu quả cao và thiết thực. Trong thực tế, một số giáo viên đã sáng
tạo cả các phần mềm mô phỏng các thí nghiệm hoá học, vật lí, sinh học…rất có ý
nghĩa và đạt hiệu quả trong việc dạy các thí nghiệm khó thực hiện được trong
thực tế của điều kiện dạy học.
Nhận thức được tầm quan trọng của
TBDHTL, hiện nay nhiều tỉnh, thành phố đã phát triển phong trào tự làm TBDH,
tạo thành một hoạt động sư phạm trong các trường học. Phong trào tự làm TBDH đã
khơi dậy sự sáng tạo, lòng yêu nghề của đội ngũ giáo viên. Thông qua phong
trào, một số lượng lớn các TBDHTL đã được ứng dụng trong quá trình dạy và học.
Tuy nhiên các hoạt động tự làm TBDH chưa thường xuyên, chưa đồng đều giữa các
cấp học, giữa các vùng miền, địa phương và đặc biệt là chưa có cơ chế, chính
sách, sự chỉ đạo thường xuyên, đồng bộ của các cấp quản lý giáo dục từ trung
ương đến địa phương. Trong bối cảnh ấy, Đề án "Phát triển thiết bị dạy
học tự làm giáo dục Mầm non và Phổ thông giai đoạn 2010 - 2015" nhằm
xây dựng hệ thống văn bản chỉ đạo, quản lí và các cơ chế chính sách để thúc đẩy
việc tự làm TBDH trở thành các hoạt động sư phạm thường xuyên, góp phần tạo ra
các TBDHTL mới, cải tiến, sửa chữa các TBDH đã có trong các trường học mầm non
và phổ thông. Đồng thời khuyến khích giáo viên tích cực sử dụng hiệu quả các
TBDH đang ngày càng được trang bị và tự làm nhiều hơn trong các nhà trường,
thiết thực hưởng ứng phong trào ”Xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực” và cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương về đạo
đức, tự học và sáng tạo”, góp phần thực hiện phương châm giáo dục “Học
đi đôi với hành”.
II.
CƠ SỞ PHÁP LÝ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
2.1. Cơ sở pháp lý
- Luật Giáo dục số 38/2005/QH11 có nội
dung “Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với
hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn,
giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”.
- Nghị quyết số
40/2000/QH10 của Quốc hội khóa X ngày 09/12/2000 về Đổi mới chương trình giáo
dục phổ thông, đã nêu rõ “Đổi mới nội dung chương trình, sách giáo
khoa, phương pháp dạy và học phải được thực hiện đồng bộ với việc nâng cấp và
đổi mới trang thiết bị dạy học”.
- Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 15/6/2004
của Ban Bí thư khóa IX về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo,
cán bộ quản lý giáo dục khẳng định “Đổi mới mạnh mẽ và cơ bản phương pháp giáo
dục nhằm khắc phục kiểu truyền thụ một
chiều, nặng lý thuyết, ít khuyến khích tư duy sáng tạo; bồi dưỡng năng lực tự
học, tự nghiên cứu, tự giải quyết vấn đề, phát triển năng lực thực hành sáng
tạo cho người học,…Tích cực áp dụng một cách sáng tạo các phương pháp tiên
tiến, hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động dạy và học”.
- Thông tư số 17/2009/TT-BGDĐT
ngày 25/7/2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Chương
trình Giáo dục mầm non đã nêu ra yêu cầu “Tạo điều kiện thuận
lợi cho trẻ được tích cực hoạt động giao lưu cảm xúc, hoạt động với đồ vật và
vui chơi, kích thích sự phát triển các giác quan và các chức năng tâm - sinh
lý; tạo môi trường giáo dục gần gũi với khung cảnh gia đình, giúp trẻ thích
nghi với nhà trẻ”.
2.2. Cơ sở
thực tiễn
- Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành
danh mục TBDH tối thiểu theo các cấp học, dựa theo danh mục đó nhà trường có
thể mua sắm hoặc động viên giáo viên sưu tầm, tự làm TBDH, cải tiến, sửa chữa
các thiết bị hiện có. Đặc biệt là với cấp học mầm non và tiểu học. Nhưng quan
trọng hơn là việc tổ chức, động viên giáo viên sáng tạo, bổ sung thêm các TBDH
khác để sử dụng trong giảng dạy. Trong quá trình dạy học, các tình huống mới
luôn phát sinh và khả năng sáng tạo của giáo viên là hết sức phong phú.
- Nhiều tỉnh, thành phố đã có phong
trào tự làm TBDH phát triển mạnh mẽ, thông qua các phong trào này đã có một số
lượng lớn các TBDH tự làm đang được sử dụng trong quá trình giảng dạy và học
tập tại các trường học, và được đánh giá cao về hiệu quả sử dụng. Qua các cuộc
thi TBDHTL ở các địa phương và trung ương đã có nhiều TBDHTL đạt giải thưởng.
Đây là những sản phẩm có chất lượng cần được nghiên cứu để hoàn thiện, phổ
biến, nhân rộng trên phạm vi toàn quốc.
III. THỰC
TRẠNG SỬ DỤNG TBDH VÀ TỰ LÀM TBDH
3.1. Thuận
lợi
Từ năm 1995 ngành giáo dục đã tổ chức
triển lãm và hội thi đồ dùng dạy học tự làm, từ đó đến nay các hoạt động tự làm
TBDH đã được sự quan tâm của lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo, các cấp chính
quyền địa phương và các cơ sở giáo dục của một số tỉnh, thành phố. Tại Hội nghị triển
khai công tác TBDH năm học 2007-2008 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chính
thức phát động phong trào tự làm TBDH trong các cơ sở giáo dục mầm non và phổ
thông cả nước. Hưởng
ứng phong trào này đã có nhiều tỉnh, thành phố tổ chức các cuộc thi tự làm TBDH
từ các cơ sở trường học lên đến cấp quận, huyện và cấp tỉnh. Kết quả của phong
trào này đã tạo ra được số lượng lớn các TBDH do đội ngũ giáo viên và học sinh
tự làm góp phần vào quá trình đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy học
đồng thời mang lại niềm say mê, sáng tạo, lòng yêu nghề cho các thầy cô giáo,
góp phần vào việc xây dựng môi trường sư phạm thân thiện, tích cực, sáng tạo.
Trong Triển lãm - Hội chợ Sách, TBDH năm học
2008-2009 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức Hội thi đồ dùng dạy học tự làm lần
thứ nhất.
Kết quả có
15/63 đơn vị Sở Giáo dục và Đào tạo, 4 đơn vị Phòng Giáo dục và Đào tạo tham
gia với hàng nghìn sản phẩm TBDHTL. Đã có 21 giải nhất, 42 giải nhì, 60 giải ba
được trao tại Hội thi này. Đó là những ghi nhận đối với các sản phẩm có chất
lượng cao đã và đang được sử dụng tại các trường mầm non và phổ thông trong cả
nước. Nhiều sản phẩm thể hiện sự sáng tạo của đội ngũ giáo viên có thể nhân
rộng để các Sở Giáo dục và Đào tạo triển khai trong các cấp học. Việc đầu tư kinh phí
cho các hoạt động tự làm TBDH của các địa phương cũng đã được quan tâm, trong
giai đoạn từ năm 2007 đến nay thành phố Hà Nội đã đầu tư khoảng 580 triệu đồng
cho các hội thi cấp thành phố và 8.384 triệu đồng cho các hội thi cấp quận
huyện; thành phố Đà Nẵng đã đầu tư 140 triệu đồng cho hội thi cấp thành phố và
365 triệu đồng cho các hội thi cấp quận, huyện; Tỉnh Hoà Bình đã đầu tư 225
triệu cho hội thi cấp tỉnh và 1.838 triệu cho các hội thi cấp huyện...
a. Giáo dục
mầm non
Ở cấp học này hoạt động tự làm TBDH đã
diễn ra thường xuyên, liên tục ở cả vùng thuận lợi cũng như vùng khó khăn, tạo
ra sự phong phú các đồ dùng dạy học và đồ chơi. Với đặc điểm TBDH còn mang tính
chất của đồ chơi nên việc thiết kế thi công không đòi hỏi kỹ thuật cao, vật tư
nguyên liệu dễ kiếm, dễ tìm.
Với đội ngũ giáo viên tự giác, say mê
và hứng thú nghề nghiệp, phong trào tự làm đồ dùng dạy học đã thu hút được sự
hưởng ứng, ủng hộ của bố mẹ các bé về nguyên liệu, kinh phí mua nguyên liệu và
phối hợp cùng làm. Ở bậc học mầm non hoạt động tự làm TBDH diễn ra hàng ngày,
nhất là trong các dịp thi đua chào mừng các ngày lễ lớn và thông qua hội thi
như thi làm TBDH, thi giáo viên dạy giỏi các cấp, thi làm TBDH phục vụ các
chuyên đề của giáo dục mầm non. Đa số các TBDHTL được làm từ những nguyên vật
liệu dễ kiếm và xuất phát từ ý tưởng của giáo viên trong quá trình hoạt động
với trẻ nên thân thiện với môi trường, tiết kiệm và rất gần gũi, thiết thực,
phục vụ hiệu quả cho việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non.
b. Giáo dục
tiểu học
TBDHTL cấp tiểu học cũng tương đối đơn
giản trong thiết kế, sử dụng và còn mang nhiều tính chất vừa học vừa chơi theo
từng chuyên đề và nội dung từng môn học. Đây là một thuận lợi trong hoạt động
tự làm TBDH cấp tiểu học.
Phong trào tự làm TBDH mà đỉnh cao là
các cuộc thi được tổ chức ở các địa phương thể hiện TBDHTL cấp tiểu học đã được
đầu tư công sức nghiên cứu, thể nghiệm, phát huy hiệu quả cao trong giảng dạy.
Nhiều TBDHTL được chế tạo từ những vật liệu đơn giản, dễ tìm, dễ làm nhưng vẫn
đảm bảo tính hiệu quả trong việc truyền thụ kiến thức, hình thành và rèn luyện
kĩ năng cho học sinh. Kết quả của các hội thi được tuyên truyền, phổ biến rộng
rãi và các sản phẩm được lưu giữ, có kế hoạch nhân rộng, áp dụng cho các cơ sở.
c.
Giáo dục trung học cơ sở và trung học phổ thông
TBDHTL ở cấp học trung học đòi hỏi kỹ
thuật ở mức độ vừa phải, tương ứng với nội dung kiến thức của cấp học này. So
với các cấp học dưới quá trình làm ra các TBDHTL ở cấp học này cần có sự đầu tư
nhiều hơn về thời gian, kinh phí, nguyên vật liệu. Một số TBDHTL, nhất là ở bậc
trung học phổ thông có yêu cầu tương đối cao về tính khoa học, chính xác nên
đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian, kinh phí, nguyên vật liệu. Ở cấp học này
còn có các quá trình, sự vật khó mô tả bằng vật thật nên cần có các phần mềm mô
phỏng các quá trình hoặc hình ảnh không gian của các vật mà trong thực tế chúng
có kích thước lớn hoặc quá nhỏ không thể quan sát bằng mắt thường. Mặt khác
nhiều thí nghiệm không thể triển khai trong điều kiện dạy học cũng cần được
minh họa thông qua các phần mềm kỹ thuật số (thí nghiệm ảo). Các hình ảnh hoặc
các phần mềm này cũng có thể sưu tầm trên Internet. Các TBDHTL ở cấp học này
không nhiều nhưng thường có giá trị sử dụng cao.
Kết quả Hội thi TBDHTL toàn quốc và
qua báo cáo của một số đơn vị điển hình cho thấy hiện nay có một số TBDHTL cấp
học THCS và THPT đã được đội ngũ giáo viên đầu tư trí tuệ, thời gian để sáng
tạo ra có chất lượng cao, có thể giới thiệu, nhân rộng để dùng chung trong toàn
quốc.
d. Giáo dục
thường xuyên (GDTX)
Đối với GDTX
ngoài giáo viên chủ động tự làm TBDH mà học viên cũng có thể tự làm TBDH (nếu
được hướng dẫn). Giáo viên có thể huy động học viên cùng tham gia tự làm những
đồ dùng dạy học đơn giản bằng các vật liệu dễ kiếm, rẻ tiền hoặc sửa chữa cải
tiến những thiết bị cũ hoặc những công cụ lao động để làm giáo cụ trực quan,...
Tuy nhiên, để có được các TBDHTL cần có sự đầu tư về thời gian, kinh phí,
nguyên vật liệu.
3.2. Khó khăn
a. Giáo dục
mầm non
- Giáo viên phải dạy trên lớp cả ngày
nên thiếu thời gian cho tự làm TBDH.
- Chưa có cơ chế chính sách để hỗ trợ
mua nguyên vật liệu trong khi thu nhập của giáo viên không cao, đặc biệt là
những giáo viên mầm non ngoài biên chế nên nhiều giáo viên không có đủ điều
kiện để tự làm TBDH.
- Chế độ khen thưởng theo quy định
hiện hành chưa cụ thể, chưa xứng đáng với việc đầu tư trí tuệ và công sức của
giáo viên nên chưa thực sự khuyến khích đội ngũ trong công tác tự làm TBDH.
b. Giáo dục
phổ thông
- Chưa có hệ
thống văn bản, tài liệu hướng dẫn thống nhất nên việc tự làm TBDH của giáo viên
chủ yếu xuất phát từ sự say mê nghề nghiệp của cá nhân hoặc mang tính phong
trào mà chưa có được chỉ đạo thống nhất, tổ chức có kế hoạch, khoa học.
- TBDHTL cấp tiểu
học mới chỉ tập trung ở một số môn học (Toán, Khoa học, Lịch sử - Địa lí…) hoặc
chỉ tập trung ở một số chương, bài của các môn học, điều đó cho thấy công tác
tự làm TBDH chưa được đầu tư nghiên cứu một cách sư phạm, khoa học và đầy đủ.
- Các trường THCS và THPT có một số
lượng lớn TBDH được trang bị đại trà theo danh mục TBDH tối thiểu nhưng việc
quản lý, khai thác, sử dụng số TBDH này còn nhiều bất cập. Việc quản lý, khai
thác sử dụng sẽ đạt hiệu quả cao nếu gắn kết việc cải tiến, sửa chữa các TBDH
đã được trang bị với các hoạt động tự làm TBDH. Mối quan hệ giữa các hoạt động
này có vai trò rất quan trọng và rất cần thiết trong quá trình triển khai thực
hiện đề án.
c. Giáo dục
thường xuyên
Đặc điểm nổi bật của loại hình giáo
dục này là thiếu giáo viên, nhiều giáo viên thỉnh giảng, cơ sở vật chất và TBDH
chưa được quan tâm đúng mức nên việc sử dụng TBDH và tự làm TBDH còn rất yếu.
Đối với GDTX cho cấp tiểu học theo
chương trình xóa mù chữ (XMC) và giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ (GDTTSKBC)
có đặc thù là tuổi của học viên rất đa dạng (từ 15 đến 35 tuổi), vì vậy TBDHTL ở
loại hình giáo dục này không hoàn toàn giống như TBDHTL dành cho học sinh phổ
thông cùng cấp nhưng vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu và sản xuất. Đối với các
hình thức và nội dung giáo dục khác, có thể sử dụng thiết bị tương tự như của
phổ thông nhưng chưa được quan tâm chỉ đạo.
d. Những
nguyên nhân chính
- Nhận thức của các cấp quản lý giáo
dục về vai trò, tác dụng trong giảng dạy của TBDH nói chung và hoạt động tự làm
TBDH nói riêng còn hạn chế.
- Công tác tuyên truyền, đôn đốc, kiểm
tra và đánh giá chưa được quan tâm đúng mức.
- Công tác chỉ đạo, hướng dẫn thực
hiện của các đơn vị chức năng của Bộ Giáo dục và Đào tạo, các Sở Giáo dục và
Đào tạo chưa kịp thời, cụ thể.
- Chưa có hệ thống các văn bản cần
thiết tạo cơ sở pháp lí về cơ chế, chính sách cụ thể để tạo điều kiện và động
lực phát triển, duy trì các hoạt động tự làm TBDH trong các cấp học và loại
hình đào tạo.
- Trên thực tế ở trung ương và địa
phương chưa có các đơn vị chuyên trách nghiên cứu và phát triển TBDHTL ở các
cấp học. Các hoạt động trao đổi chuyên môn về tự làm TBDH mới chỉ dừng lại
trong phạm vi tổ bộ môn của trường học.
IV. QUAN ĐIỂM
CHỈ ĐẠO VÀ MỤC TIÊU
4.1. Quan điểm
chỉ đạo
- Khai thác sử dụng hiệu quả các TBDH
đã được trang bị theo danh mục tối thiểu kết hợp với hoạt động tự làm TBDH để
góp phần nâng cao hiệu quả trong việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm tạo ra
động lực khuyến khích tư duy sáng tạo của đội ngũ giáo viên và học sinh, bồi
dưỡng năng lực tự học, phát triển năng lực thực hành sáng tạo.
- Đẩy mạnh và phát triển các hoạt động
tự làm TBDH thành một hoạt động sư phạm thường xuyên trong các trường học ở các
cấp học mầm non và phổ thông góp phần vào mục đích xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực, các thầy cô giáo là tấm gương về tự học và sáng tạo.
- Đầu tư cho các hoạt động tự làm TBDH
phải đảm bảo hiệu quả và theo đúng các quy định của nhà nước; Các TBDHTL phải
đảm bảo nội dung chất lượng và hiệu quả phục vụ giảng dạy đồng thời giảm được
ngân sách nhà nước chi cho mua sắm trực tiếp các TBDH khi TBDHTL thay thế được.
4.2. Mục tiêu
a. Mục tiêu tổng quát
- Nâng cao hiệu quả sử dụng TBDH đã
được trang bị theo danh mục TBDH tối thiểu, khuyến khích động viên các hoạt
động tự làm TBDH trở thành một hoạt động sư phạm thường xuyên nhằm góp phần
tích cực đổi mới phương pháp dạy học trong giáo dục mầm non và phổ thông giai
đoạn 2010-2015.
b. Mục tiêu cụ thể
- Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu
cải tiến, bảo quản, khai thác, sửa chữa, sử dụng TBDH đã được trang bị theo
danh mục TBDH tối thiểu tại các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông.
- Đẩy mạnh các hoạt động tự làm TBDH,
bổ sung thêm các TBDHTL có chất lượng và hiệu quả sử dụng trong giảng dạy nhằm
phục vụ tại chỗ và kịp thời, phù hợp với điều kiện của từng địa phương.
- Ban hành đầy đủ, đồng bộ, kịp thời
hệ thống văn bản chỉ đạo và tạo cơ chế chính sách để thúc đẩy các hoạt động
khai thác, sử dụng TBDH và tự làm TBDH trong các cơ sở giáo dục mầm non và phổ
thông.
V. NHIỆM VỤ
VÀ GIẢI PHÁP
5.1. Nâng cao
nhận thức
- Đẩy mạnh các
hoạt động tuyên truyền, giáo dục, vận động để nâng cao nhận thức về tác dụng,
hiệu quả của TBDH trong việc đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng
dạy học. Đặc biệt, cần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp quản lý
giáo dục về vai trò, tác dụng, hiệu quả của TBDHTL.
- Phát huy sự say mê sáng tạo, lòng
yêu nghề của đội ngũ giáo viên, viên chức làm công tác thiết bị nhằm đẩy mạnh
các hoạt động tự làm TBDH.
- Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền
vận động nhằm xã hội hóa các hoạt động tự làm TBDH.
5.2. Hoàn
thiện hệ thống chính sách
- Rà soát và đánh giá các văn bản hiện
hành liên quan đến công tác chỉ đạo, quản lí các hoạt động quản lý, khai thác
sử dụng TBDH và tự làm TBDH.
- Bổ sung các văn bản về cơ chế chính
sách nhằm đẩy mạnh các hoạt động về quản lý, khai thác, sử dụng TBDH và tự làm
TBDH.
- Trên cơ sở dự toán ngân sách được bố
trí hàng năm chi cho các hoạt động thường xuyên tại các cơ sở giáo dục mầm non
và phổ thông dành tỷ lệ thích hợp cho các hoạt động cải tiến, sửa chữa TBDH đã
được trang bị theo danh mục TBDH tối thiểu và các hoạt động tự làm TBDH.
- Khuyến khích các doanh nghiệp, các
tổ chức kinh tế xã hội tham gia đóng góp và ủng hộ các hoạt động tự làm TBDH.
5.3. Thi đua,
khen thưởng
- Đưa các tiêu chí có nội dung về nâng
cao hiệu quả sử dụng TBDH và tự làm TBDH vào các phong trào thi đua, khen
thưởng và đánh giá giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục và các cơ sở giáo dục mầm
non, phổ thông.
5.4. Tổ chức
quản lý
- Đưa công tác chỉ đạo thực hiện các
hoạt động khai thác sử dụng TBDH đã được trang bị và tự làm TBDH trở thành công
việc thường xuyên của các cấp quản lý giáo dục. Đưa các hoạt động này vào kế
hoạch công tác năm của các cấp quản lý giáo dục và các cơ sở giáo dục.
- Tổ chức các hội thi TBDHTL ở cấp
trung ương và địa phương. Thông qua các hội thi tuyển chọn các sản phẩm có chất
lượng cao bổ sung vào cơ sở dữ liệu TBDHTL trên Internet dùng chung toàn ngành.
- Tổ chức kiểm tra, đánh giá định kỳ
các hoạt động khai thác sử dụng TBDH và tự làm TBDH tại các cơ sở giáo dục mầm
non và phổ thông.
5.5. Xây dựng
tài liệu, tập huấn chuyên môn
- Xây dựng các tài liệu hướng dẫn việc
quản lý, khai thác, sử dụng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TBDH đã được trang
bị. Xây dựng các tài liệu định hướng và một số kỹ thuật cơ bản về tự làm TBDH
tại các cấp học. Cụ thể là các nội dung chương trình nên đầu tư để tự làm TBDH
và các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật cơ bản về thiết kế, chế tạo, quy chuẩn an
toàn, tính sư phạm, tính khoa học của các TBDHTL.
- Xây dựng tiêu chí đánh giá và xây
dựng qui trình kiểm tra hoạt động tự làm TBDH và hiệu quả sử dụng các TBDH đã
được trang bị.
- Rà soát, xây dựng chương trình đào
tạo, bồi dưỡng kiến thức về quản lý, khai thác, sử dụng, tự làm TBDH trong các
cơ sở đào tạo, bồi dưỡng giáo viên.
- Tổ chức bồi dưỡng tập huấn kiến thức
về quản lý, khai thác sử dụng TBDH và tự làm TBDH cho cán bộ quản lý, giáo
viên, cán bộ và viên chức làm công tác TBDH.
5.6 Xây dựng
hệ thống cơ sở dữ liệu chung về TBDHTL trên Internet.
- Thông qua kết quả của các hội thi
cấp trung ương và tỉnh, thành phố tuyển chọn các sản phẩm TBDHTL có chất lượng
cao để giới thiệu quảng bá trên phạm vi toàn quốc (bao gồm cả các phần mềm mô
phỏng các TBDH, mô tả các sự vật, hiện tượng, các thí nghiệm ảo).
- Giới thiệu các tài liệu hướng dẫn kỹ
thuật về thiết kế TBDHTL (như tuân thủ các quy chuẩn an toàn, có tính sư phạm,
tính khoa học, tính sáng tạo…).
- Xây dựng diễn đàn trao đổi kinh
nghiệm về khai thác sử dụng, cải tiến TBDH và tự làm TBDH trên Internet.
5.7 Phát
triển các cơ sở nghiên cứu về TBDH và TBDHTL
Củng cố và phát triển các bộ phận chuyên
trách nghiên cứu và phát triển TBDH và TBDHTL ở cả trung ương và địa phương.
Các bộ phận này có chức năng và nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển TBDH và
TBDHTL, sưu tầm các mô hình và mẫu vật, soạn thảo và biên tập các tài liệu
trong nước và quốc tế có liên quan đến TBDH và TBDHTL, là nơi trao đổi kinh
nghiệm giữa cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên, viên chức làm công tác thiết bị
về khai thác, sử dụng TBDH và tự làm TBDH. Đồng thời lựa chọn để xây dựng thí điểm
một số “Trung tâm học liệu” ở địa phương (theo vùng) có chức năng và nhiệm vụ
chuyển giao công nghệ, tư vấn, trao đổi kinh nghiệm về tự làm TBDH trên cơ sở
đó nhân rộng ra các địa bàn, các cơ sở giáo dục khác.
- Tại trung ương : Củng cố và tăng
cường năng lực cho Trung tâm Nghiên cứu Cơ sở vật chất, Thiết bị dạy học, Đồ
chơi trẻ em thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam và Trung tâm Nghiên cứu và
Sản xuất học liệu trực thuộc Trường Đại học Sư phạm Hà Nội để hai đơn vị này
thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển TBDH và TBDHTL.
- Tại địa phương : Lựa chọn một địa
phương để xây dựng thí điểm một “Trung tâm học liệu” nhằm thực hiện các nhiệm
vụ như bồi dưỡng giáo viên, chuyển giao công nghệ, tư vấn, thực hành, trao đổi
kinh nghiệm về tự làm TBDH. “Trung tâm học liệu” này là nơi có đủ điều kiện về
cơ sở vật chất, thiết bị để các cán bộ quản lý, giáo viên, viên chức làm công
tác thiết bị, nhà nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm về cả định hướng và tổ chức
khai thác sử dụng TBDH và TBDHTL trên cơ sở đó sẽ nhân rộng ở các địa phương
khác.
VI.
KINH PHÍ THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
6.1.
Nguồn kinh phí thực hiện Đề án
Kinh phí để thực hiện Đề án được trích
từ ngân sách nhà nước chi thường xuyên cho giáo dục và đào tạo hàng năm và các
nguồn kinh phí hợp pháp khác (phụ lục kèm theo).
Kinh phí thực hiện Đề án ước tính là
226 tỷ đồng, trong đó kinh phí thực hiện các hoạt động tại trung ương là 20 tỷ
đồng, tại địa phương là 206 tỷ đồng.
- Giai đoạn 1 từ 2010 đến 2012 : Triển
khai thí điểm trên 5 tỉnh, thành phố với kinh phí 130 tỷ đồng (trung ương 13 tỷ
đồng, địa phương 117 tỷ đồng).
- Giai đoạn 2 từ 2013 đến 2015 : Triển
khai đại trà trên toàn quốc với kinh phí 96 tỷ đồng (trung ương 7 đồng tỷ, địa
phương 89 tỷ đồng).
- Giai đoạn từ 2016 trở đi : Sử dụng
kinh phí thường xuyên của địa phương.
6.2.
Giai đoạn 1 (Từ năm 2010 đến năm 2012): Triển khai
thí điểm tại 5 tỉnh, thành phố.
Kinh phí thực hiện Đề án trong giai
đoạn này là 130 tỷ đồng, cụ thể như sau :
a. Các hoạt động tại
trung ương :
13 tỷ đồng.
- Xây dựng chính sách, văn bản chỉ đạo
(bao gồm cả khảo sát thực trạng, hội thảo xây dựng chính sách...) : 1,3 tỷ
đồng.
- Xây dựng tiêu chí đánh giá TBDHTL :
150 triệu đồng.
- Biên soạn tài liệu tập huấn, hướng
dẫn thí điểm : 250 triệu đồng.
- Tập huấn cốt cán tại trung ương :
300 triệu đồng.
- Củng cố và tăng cường năng lực cho
Trung tâm Nghiên cứu Cơ sở vật chất, Thiết bị dạy học, Đồ chơi trẻ em thuộc
Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam và Trung tâm Nghiên cứu và Sản xuất học liệu
thuộc Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Xây dựng “Trung tâm học liệu” tại một tỉnh
tham gia thí điểm với kinh phí dự kiến là 10 tỷ đồng. Cụ thể như sau :
+ Tại trung ương : 8 tỷ đồng (2 trung
tâm)
Dự kiến đầu tư trang bị để xây dựng
các phòng thí nghiệm, thực hành về TBDH và TBDHTL để tiếp tục triển khai đổi
mới chương trình giáo dục phổ thông trong những năm tiếp theo bao gồm : Trang bị một số máy
móc và dụng cụ kỹ thuật với quy mô nhỏ để phục vụ cho việc nghiên cứu về TBDH
và TBDHTL; Thiết kế, chế tạo một số mẫu TBDH để sử dụng trong đào tạo và bồi
dưỡng giáo viên; Tuyển chọn các TBDHTL có ý tưởng tốt, cải tiến về mặt công
nghệ để phát triển sản xuất và cung cấp một số mẫu chuẩn theo các nhóm ý tưởng
cho các trường phổ thông, cao đẳng sư phạm, đại học sư phạm để làm cơ sở dữ
liệu ban đầu; Xây dựng hệ thống tư liệu điện tử về TBDHTL và TBDH (Bao gồm mô
hình dụng cụ thí nghiệm thật, phần mềm, website...) để sử dụng trong đào tạo và
bồi dưỡng giáo viên; Tập huấn cho đội ngũ giáo viên nòng cốt để họ sẵn sàng
tham gia làm giảng viên cho các khóa tập huấn đại trà về tự làm TBDH.
+ Tại địa phương : 2 tỷ (1 trung tâm)
Dự kiến xây dựng một trung tâm
nghiên cứu và chế tạo TBDH có quy mô nhỏ phù hợp với địa phương, trong đó trang
bị một số máy móc và dụng cụ đơn giản phục vụ cho việc tự làm TBDH; Xây dựng
đội ngũ nhân viên kĩ thuật để hỗ trợ giáo viên và học sinh gia công một số chi
tiết cần thiết của các TBDHTL; Lựa chọn và sơ chế một số vật tư đơn giản, dễ
kiếm phục vụ cho việc tự làm TBDH và thiết kế một số mẫu TBDHTL để sử dụng
trong đào tạo và bồi dưỡng giáo viên; Trang bị một số thiết bị để phục vụ tập
huấn và giao lưu, trao đổi thường xuyên về sử dụng TBDH, cải tiến, tự làm TBDH
đồng thời là nơi tập huấn thường xuyên cho giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục
về quy trình thiết kế, chế tạo TBDH tự làm; Tuyển chọn các TBDHTL có ý tưởng
tốt để nhân rộng trong các cơ sở giáo dục.
+ Các đơn vị hưởng thụ Đề án sẽ phải xây dựng
dự án, dự toán chi tiết trình Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt làm cơ sở triển
khai thực hiện.
- Tổ chức hội thi, triển lãm toàn quốc
tổng kết giai đoạn thí điểm (dự kiến tổ chức năm 2012) : 1 tỷ đồng.
b. Các hoạt động tại
địa phương :
117 tỷ đồng.
- Hỗ trợ trực tiếp các hoạt động tự
làm TBDH của giáo viên tại các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông (loại hình
công lập) trong 5 tỉnh, thành phố tham gia thí điểm. Dự kiến định mức 500.000
đồng/giáo viên/năm (dựa trên số liệu giáo viên năm học 2008-2009) : 108 tỷ
đồng.
- Tập huấn cán bộ cốt cán tại 5 tỉnh
tham gia thí điểm : 500 triệu
- Tổ chức hội thi triển lãm về TBDHTL
cấp quận, huyện và cấp tỉnh của 5 tỉnh tham gia thí điểm (dự kiến tổ chức năm
2012) : 8,5 tỷ đồng
Các hoạt động tại trung ương sẽ sử
dụng kinh phí của Đề án, các hoạt động của địa phương được lấy từ nguồn kinh
phí chi thường xuyên và các khoản thu hợp pháp khác.
6.3.
Giai đoạn 2 (Từ năm 2013 đến năm 2015): Triển khai
đại trà trên toàn quốc.
Kinh phí thực hiện Đề án trong giai
đoạn này là 96 tỷ đồng, cụ thể như sau
a. Các hoạt động tại
trung ương :
Kinh phí 7 tỷ đồng.
- Tổ chức Hội nghị, hội thi, triển lãm
toàn quốc về TBDHTL (dự kiến năm 2015) : 1 tỷ đồng.
- Xây dựng cơ sở dữ liệu về TBDHTL trên
Internet : 2 tỷ đồng.
- Cập nhật hàng năm cơ sở dữ liệu về
TBDHTL trên Internet : 1 tỷ đồng.
- Tổ chức kiểm tra, chỉ đạo : 500
triệu đồng.
- Sưu tầm, dịch, biên soạn tài liệu
tập huấn, hướng dẫn : 500 triệu.
- Tổ chức tập huấn cốt cán theo cụm,
khu vực (1 năm / 1 lần) : 2 tỷ đồng.
b. Các hoạt động tại
địa phương :
Kinh phí 89 tỷ đồng.
- Tổ chức hội thi, triển lãm cấp tỉnh,
thành phố (dự kiến năm 2015) : 19 tỷ đồng.
- Tổ chức hội thi cấp quận, huyện (dự
kiến năm 2015) : 70 tỷ đồng.
- Hỗ trợ trực tiếp các hoạt động tự
làm TBDH của giáo viên tại các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông trong cả
nước. Dựa vào kết quả thí điểm tại 5 tỉnh, thành phố trong giai đoạn 1 để tính
toán định mức hỗ trợ các hoạt động tự làm TBDH tại địa phương. Các định mức này
sẽ được cân đối giữa các cấp học, môn học, vùng miền. Việc tính toán sẽ dựa vào
tình hình thực tế của từng địa phương như khả năng cân đối tài chính theo cơ
chế tự chủ tài chính, khả năng huy động từ các nguồn thu hợp pháp. Dự kiến dành
khoảng 1% chi thường xuyên hàng năm của các cơ sở trường học cho việc hỗ trợ
các hoạt động như tự làm TBDH, sửa chữa, cải tiến, bảo quản, khai thác sử dụng
TBDH.
Hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động tự
làm TBDH chỉ tập trung tại các cơ sở giáo dục công lập trên phạm vi toàn quốc.
Đối với các trường ngoài công lập sẽ tham gia và được thụ hưởng kinh phí của đề
án dưới hình thức như cử cán bộ, giáo viên tham gia các lớp tập huấn, bồi
dưỡng, hoặc được hỗ trợ kinh phí khi tham gia các cuộc thi về TBDHTL ở các cấp,
các kinh phí cho hoạt động tự làm TBDH khác của nhà trường tự cân đối thu chi
theo quy chế hoạt động của nhà trường về tự chủ tài chính.
Các hoạt động tại trung ương sẽ sử
dụng kinh phí của Đề án, các hoạt động của địa phương được lấy từ nguồn kinh
phí chi thường xuyên và các khoản thu hợp pháp khác.
6.4.
Giai đoạn từ năm 2016 trở đi : Đưa các hoạt
động tự làm TBDH thành các hoạt động thường xuyên. Sử dụng kinh phí chi thường
xuyên của địa phương để thực hiện các hoạt động như hỗ trợ kinh phí cho các hội
thi, mua sắm vật tư nguyên liệu cho các hoạt động sửa chữa, bổ sung, tự làm
TBDH...
VII. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
7.1. Bộ Giáo
dục và Đào tạo
- Ban chỉ đạo Công tác thiết bị phục
vụ đổi mới chương trình giáo dục phổ thông chủ trì các hoạt động thực hiện Đề
án, các đơn vị chức năng trong Bộ phối hợp thực hiện. Cục Cơ sở vật chất và
Thiết bị trường học, đồ chơi trẻ em là đơn vị thường trực giúp Ban chỉ đạo Công
tác thiết bị phục vụ đổi mới chương trình giáo dục phổ thông theo dõi tổng hợp
các hoạt động của các tiểu ban, các đơn vị được giao nhiệm vụ thực hiện Đề án.
- Công đoàn giáo dục Việt Nam và Hiệp
hội Thiết bị giáo dục Việt Nam tham gia phối hợp triển khai các hoạt động của
Đề án.
- Thành lập các tiểu ban thực hiện các
nhiệm vụ cụ thể của Đề án.
7.2. Uỷ ban
nhân dân tỉnh, thành phố
- Uỷ ban nhân dân
tỉnh, thành phố chỉ đạo các sở ban ngành địa phương xây dựng kế hoạch, bố trí
kinh phí cho các hoạt động tự làm TBDH; Tổ chức chỉ đạo kiểm tra, đánh giá các
hoạt động tự làm TBDH trong tổng kinh phí chi cho TBDH cấp học mầm non và phổ
thông.
- Sở Giáo dục và
Đào tạo có trách nhiệm tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố xây dựng kế
hoạch chi tiết theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo làm căn cứ triển khai
thực hiện; Hàng
năm tổ chức các hội thi TBDHTL các cấp theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào
tạo; Tổ chức kiểm tra, đánh giá các hoạt động tự làm TBDH của các cơ sở giáo
dục trên nguyên tắc hiệu quả, tiết kiệm ngân sách nhà nước đầu tư cho TBDH. Đặc
biệt chú ý đến việc cân đối nguồn kinh phí chi cho TBDHTL trong tổng kinh phí
chi cho TBDH đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả phù hợp với điều kiện của địa phương;
Tổ chức đánh giá thi đua khen thưởng các hoạt động về nâng cao hiệu quả sử dụng
TBDH và tự làm TBDH tại địa phương; Báo cáo tình hình thực hiện hoạt động về
nâng cao hiệu quả sử dụng TBDH và tự làm TBDH tại địa phương về Ban chỉ đạo của
Bộ Giáo dục và Đào tạo theo qui định.
FILE
ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
|