THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
------
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-----------
|
Số: 1400/QĐ-TTg
|
Hà Nội, ngày 30 tháng 9 năm 2008
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN "DẠY VÀ HỌC
NGOẠI NGỮ TRONG HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN GIAI ĐOẠN 2008 - 2020"
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật
Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Giáo dục ngày 14 tháng 6 năm 2005 và Nghị định
số 75/2006 NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo,
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1. Phê
duyệt Đề án "Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn
2008 - 2020" với những nội dung chính như sau:
I. MỤC TIÊU
1. Mục tiêu
chung
Đổi mới toàn diện
việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, triển khai chương
trình dạy và học ngoại ngữ mới ở các cấp học, trình độ đào tạo, nhằm đến năm
2015 đạt được một bước tiến rõ rệt về trình độ, năng lực sử dụng ngoại ngữ của
nguồn nhân lực, nhất là đối với một số lĩnh vực ưu tiên; đến năm 2020 đa số
thanh niên Việt Nam tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng và đại học có đủ năng lực
ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự tin trong giao tiếp, học tập, làm việc trong môi
trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa văn hóa; biến ngoại ngữ trở thành thế mạnh của
người dân Việt Nam, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2. Mục tiêu cụ
thể
a) Triển khai
thực hiện chương trình giáo dục 10 năm, bắt đầu từ lớp 3 môn ngoại ngữ bắt buộc
ở các cấp học phổ thông. Từ năm 2010 - 2011 triển khai dạy ngoại ngữ theo
chương trình mới cho khoảng 20% số lượng học sinh lớp 3 và mở rộng dần quy mô để
đạt khoảng 70% vào năm học 2015 - 2016; đạt 100% vào năm 2018 - 2019;
b) Triển khai
chương trình đào tạo tăng cường môn ngoại ngữ đối với giáo dục nghề nghiệp cho
khoảng 10% số lượng học sinh dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp vào năm học 2010
- 2011, 60% vào năm 2015 - 2016 và đạt 100% vào năm học 2019 - 2020;
c) Triển khai
chương trình đào tạo tăng cường môn ngoại ngữ đối với giáo dục đại học (cả các
cơ sở đào tạo chuyên ngữ và không chuyên ngữ) cho khoảng 10% số lượng sinh viên
cao đẳng, đại học vào năm học 2010 - 2011; 60% vào năm học 2015 - 2016 và 100%
vào năm 2019 - 2020;
d) Đổi mới việc
dạy và học ngoại ngữ trong chương trình giáo dục thường xuyên với nội dung,
chương trình đào tạo phù hợp với các cấp học, trình độ đào tạo góp phần tích cực
vào công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ ngoại ngữ cho nguồn nhân lực, đội ngũ
cán bộ, viên chức; thực hiện đa dạng hóa các hình thức học tập, đáp ứng nhu cầu
người học.
Phấn đấu có 5%
số cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước có trình độ ngoại ngữ
bậc 3 trở lên vào năm 2015 và đạt 30% vào năm 2020.
II. NHIỆM VỤ
1. Quy định môn
ngoại ngữ được dạy và học trong các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc
dân là tiếng Anh và một số ngôn ngữ khác.
2. Xây dựng và
ban hành khung trình độ năng lực ngoại ngữ thống nhất, chi tiết gồm 6 bậc,
tương thích với các bậc trình độ ngoại ngữ quốc tế thông dụng để làm căn cứ
biên soạn chương trình, giáo trình, kế hoạch giảng dạy và xây dựng tiêu chí
đánh giá ở từng cấp học, trình độ đào tạo, bảo đảm sự liên thông trong đào tạo
ngoại ngữ giữa các cấp học.
Khung trình độ
năng lực ngoại ngữ cần xác định rõ yêu cầu về trình độ, năng lực nghe, nói, đọc,
viết tương thích với các tiêu chí xác định 6 bậc do Hiệp hội các tổ chức khảo
thí ngoại ngữ châu Âu đã ban hành (viết tắt là KNLNN) trong đó bậc 1 là bậc thấp
nhất và bậc 6 là bậc cao nhất.
3. Xây dựng và
triển khai chương trình mới đào tạo ngoại ngữ bắt buộc ở cấp học phổ thông đạt
các bậc trình độ như sau: tốt nghiệp tiểu học đạt trình độ bậc 1 theo KNLNN; tốt
nghiệp trung học đạt trình độ bậc 2 theo KNLNN; tốt nghiệp trung học phổ thông
đạt trình độ bậc 3 theo KNLNN.
Tổ chức xây dựng
các chương trình ngoại ngữ phổ thông 10 năm, bắt đầu từ lớp 3 đến lớp 12, biên
soạn sách giáo khoa, tài liệu học tập, giảng dạy, phù hợp với quy định về năng
lực trình độ của mỗi cấp, lớp học. Khuyến khích các cơ sở giáo dục chủ động xây
dựng, thực hiện các chương trình song ngữ, bồi dưỡng nâng cao trong các cơ sở của
mình.
Ngoài chương
trình đào tạo môn ngoại ngữ bắt buộc (ngoại ngữ 1), học sinh có thể tự chọn học
thêm một ngoại ngữ khác (ngoại ngữ 2). Việc bố trí dạy môn ngoại ngữ 2 chỉ thực
hiện từ lớp 6 đến lớp 12 với trình độ đạt tương đương bậc 2 theo KNLNN sau khi
tốt nghiệp trung học phổ thông.
Xây dựng và triển
khai các chương trình dạy và học bằng ngoại ngữ cho một số môn như: Toán và một
số môn phù hợp ở các trường trung học phổ thông.
4. Triển khai
đào tạo theo chương trình ngoại ngữ mới đối với giáo dục chuyên nghiệp (trung cấp
và dạy nghề) với mức trình độ tối thiểu đạt được bậc 2 theo KNLNN sau khi tốt
nghiệp trường nghề và bậc 3 theo KNLNN sau khi tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp.
Đối với giáo dục
chuyên nghiệp, chương trình đào tạo ngoại ngữ có thể áp dụng theo một số chương
trình khác nhau, phù hợp với các đối tượng người học có kiến thức phổ thông hoặc
trình độ khác nhau.
5. Triển khai
đào tạo theo chương trình ngoại ngữ mới đối với giáo dục đại học. Nội dung
chương trình đào tạo ngoại ngữ trong các cơ sở giáo dục đại học có thể áp dụng
cho hai nhóm đối tượng chính: một nhóm dành cho các đối tượng người học đã học
ngoại ngữ theo chương trình 7 năm ở phổ thông và một nhóm dành cho các đối tượng
người học đã học theo chương trình ngoại ngữ 10 năm ở phổ thông.
Đối với các cơ
sở giáo dục đại học không chuyên ngữ, chương trình đào tạo mới phải có mức kiến
thức đạt trình độ tối thiểu là bậc 3 theo KNLNN sau khoá tốt nghiệp.
Đối với các cơ
sở giáo dục đào tạo chuyên ngữ, chương trình đào tạo mới phải có mức kiến thức
đạt trình độ bậc 4 sau khoá tốt nghiệp cao đẳng và bậc 5 sau khoá tốt nghiệp đại
học và bắt buộc người học phải đồng thời được đào tạo hai ngoại ngữ trong một
khoá đào tạo, một ngoại ngữ chính (ngoại ngữ 1) và một ngoại ngữ phụ (ngoại ngữ
2), trong đó thời lượng đào tạo ngoại ngữ phụ không quá 1/2 thời lượng dành cho
việc đào tạo ngoại ngữ chính.
Xây dựng và triển
khai chương trình dạy bằng ngoại ngữ một số môn cơ bản, cơ sở chuyên ngành và tự
chọn ở một số ngành trọng điểm trong chương trình đại học ở năm cuối bậc đại học.
6. Thực hiện đổi
mới chương trình đào tạo ngoại ngữ đối với giáo dục thường xuyên.
Chương trình
đào tạo ngoại ngữ áp dụng trong các cơ sở giáo dục thường xuyên phải phù hợp
nhu cầu đa dạng phong phú về hình thức, đối tượng, trình độ đào tạo đáp ứng nhu
cầu người học, có tác dụng tích cực khắc phục những hạn chế của giáo dục chính
quy.
Chương trình
đào tạo ngoại ngữ trong các cơ sở giáo dục thường xuyên phải đảm bảo yêu cầu nội
dung, chất lượng. Trình độ năng lực ngoại ngữ của người học sau khi tốt nghiệp
các cơ sở giáo dục thường xuyên phải đạt tương đương với trình độ đào tạo theo
hình thức chính quy tương ứng ở các cấp học, trình độ đào tạo.
7. Đổi mới
phương pháp kiểm tra, đánh giá trong đào tạo ngoại ngữ; xây dựng các dữ liệu
ngân hàng câu hỏi, phục vụ cho việc kiểm tra, đánh giá trình độ ngoại ngữ của
người học; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo môn ngoại ngữ;
nâng cao hiệu quả công tác khảo thí và kiểm định chất lượng đào tạo các môn ngoại
ngữ.
III. GIẢI PHÁP
1. Thành lập
Ban Chỉ đạo ở Trung ương để chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện Đề án này gồm
đại diện lãnh đạo các Bộ, cơ quan liên quan, do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
làm Trưởng ban.
2. Tổ chức rà
soát, quy hoạch, xây dựng kế hoạch đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, tuyển dụng
đội ngũ giáo viên, giảng viên trong các cơ sở giáo dục và cả nước, bảo đảm đáp ứng
nhu cầu về số lượng, cơ cấu, trình độ đào tạo.
- Tiến hành việc
rà soát, đánh giá thực trạng đội ngũ giáo viên, giảng viên ngoại ngữ trong các
cấp học, nhất là ở các cơ sở giáo dục phổ thông, trên cơ sở đó xây dựng quy hoạch,
kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên hàng năm và các giai
đoạn đến năm 2010, năm 2020, phù hợp với các quy định, tiêu chí hiện hành;
- Triển khai thực
hiện các kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng giáo viên ngoại ngữ các cấp học,
nhằm bổ sung, chuẩn hóa về trình độ đào tạo đội ngũ theo quy định. Mở các khoá
bồi dưỡng, cấp chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm cho những người đạt trình độ ngoại
ngữ theo quy định mà có nguyện vọng được tuyển dụng làm giáo viên, giảng viên dạy
ngoại ngữ;
Đẩy mạnh việc đổi
mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng. Khuyến khích bồi dưỡng giáo viên qua các
khoá tập huấn quốc tế trong nước và nước ngoài, được cấp chứng chỉ quốc tế;
- Nâng cao năng
lực, chất lượng đào tạo của các trường cao đẳng, đại học đào tạo chuyên ngoại
ngữ hiện có; mở rộng việc thành lập các khoa đào tạo ngoại ngữ ở một số trường
đại học, cao đẳng có điều kiện bảo đảm, chú trọng xây dựng, phát triển mạng lưới
các cơ sở đào tạo giáo viên ngoại ngữ trình độ cao đẳng, đại học ở các vùng Tây
Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long;
- Thực hiện đổi
mới công tác tuyển sinh đào tạo giáo viên ngoại ngữ theo hướng tăng cường tính
tự chủ của các nhà trường trong công tác tuyển sinh đào tạo bồi dưỡng;
- Khuyến khích
mạnh mẽ, tạo cơ chế thuận lợi để các trường liên kết, hợp tác giảng dạy, đào tạo,
tuyển dụng người Việt Nam ở nước ngoài hoặc người nước ngoài có đủ trình độ ngoại
ngữ làm giáo viên dạy ngoại ngữ trong các nhà trường. Nhất là đối với các trường
phổ thông chuyên ngữ, dạy các chương trình ngoại ngữ tăng cường, dạy song ngữ.
Thu hút sự giúp đỡ, tham gia đào tạo của các tổ chức, đội ngũ giáo viên tình
nguyện có chất lượng của những nước nói tiếng Anh, Pháp, Nga và Trung Quốc.
3. Nghiên cứu,
điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh các cơ chế, chính sách chế độ cần thiết, phù hợp,
đáp ứng yêu cầu của công tác giảng dạy, học tập ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục
quốc dân.
- Rà soát, điều
chỉnh, bổ sung những cơ chế, chính sách phù hợp dành cho đội ngũ giáo viên, giảng
viên ngoại ngữ các cấp học, tạo điều kiện thực hiện các chương trình hoạt động
nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục;
- Xây dựng, ban
hành các chính sách đầu tư, các tiêu chí xây dựng cơ sở vật chất đối với các cơ
sở đào tạo ngoại ngữ;
- Đẩy mạnh công
tác xã hội hoá, thu hút sự đóng góp của toàn xã hội cho công tác dạy và học ngoại
ngữ; khuyến khích đầu tư nước ngoài phát triển mở rộng các loại hình cơ sở đào
tạo ngoại ngữ;
- Hoàn chỉnh
các quy định về việc dạy và học, kiểm tra, đánh giá, cấp văn bằng, chứng chỉ
ngoại ngữ; khuyến khích thành lập các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng về ngoại ngữ có
chất lượng.
4. Tăng cường đầu
tư cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ việc dạy và học ngoại ngữ
- Xây dựng danh
mục thiết bị tối thiểu phục vụ cho việc dạy và học ngoại ngữ trong các cấp học,
trình độ đào tạo; ban hành tiêu chuẩn phòng học tiếng nước ngoài, phòng nghe
nhìn và phòng đa phương tiện;
- Từng bước đầu
tư mua sắm các thiết bị dạy và học ngoại ngữ phù hợp cho các cơ sở giáo dục
theo lộ trình triển khai đề án, bảo đảm 100% các trường tham gia đề án đều có
phòng học tiếng nước ngoài và có phòng nghe nhìn;
- Xây dựng và
triển khai kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên, định kỳ về công tác sử dụng thiết bị
dạy và học ngoại ngữ, bảo đảm tính thiết thực và hiệu quả; tăng cường ứng dụng
công nghệ thông tin trong việc dạy và học ngoại ngữ ở các nhà trường.
5. Tăng cường hợp
tác quốc tế trong dạy và học ngoại ngữ
- Dành ưu tiên
một phần nguồn vốn viện trợ phát triển giáo dục và đào tạo để đầu tư cho công
tác dạy và học ngoại ngữ trong các nhà trường;
- Khuyến khích
các cơ sở giáo dục mở rộng, đa dạng hóa các hình thức hợp tác quốc tế với các tổ
chức ở các quốc gia có bản ngữ hoặc ngôn ngữ quốc gia phù hợp với việc dạy và học
ngoại ngữ ở Việt Nam; thực hiện các chương trình hợp tác, trao đổi giáo viên với
nước ngoài nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các giáo viên người nước ngoài tham
gia đào tạo ngoại ngữ trong các trường cao đẳng, đại học của Việt Nam.
Phấn đấu từ nay
đến năm 2015 tổ chức được cho 100% số giáo viên ngoại ngữ của các trường cao đẳng,
đại học và một bộ phận giáo viên ngoại ngữ của các trường phổ thông, dạy nghề,
trung cấp chuyên nghiệp được đi học tập, bồi dưỡng chuyên môn ngắn hoặc dài hạn
ở các nước ngoài.
Xây dựng, hoàn
chỉnh các chính sách về việc hợp tác quốc tế trong giảng dạy, học tập ngoại ngữ;
chính sách, chế độ thu hút người Việt Nam ở nước ngoài, các chuyên gia nước
ngoài tham gia vào công tác đào tạo ngoại ngữ ở trong nước.
6. Xây dựng môi
trường thuận lợi hỗ trợ việc dạy và học ngoại ngữ, tạo động cơ học tập ngoại ngữ
của thế hệ trẻ Việt Nam.
- Tăng cường
công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức toàn xã hội; nhất là đối với thế
hệ trẻ về việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, đáp ứng
yêu cầu mới;
- Xây dựng và
phát huy mạnh mẽ các môi trường tự học, tự nâng cao trình độ và sử dụng ngoại
ngữ của mọi đối tượng;
- Xây dựng các
môi trường làm việc có sử dụng ngoại ngữ ở các cơ quan, công sở; gắn yêu cầu về
ngoại ngữ trong việc tuyển dụng, sử dụng công chức, viên chức nhà nước; thường
xuyên tổ chức bồi dưỡng ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nhất
là đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trẻ;
- Duy trì thường
xuyên, mở rộng, nâng cao chất lượng các chương trình truyền hình, phát thanh
dành riêng cho việc dạy và học ngoại ngữ. Sử dụng các kênh có dạy ngoại ngữ của
các đài truyền thanh và truyền hình của nước ngoài. Khuyến khích phát hành các
loại báo, tạp chí bằng ngoại ngữ; các hoạt động văn hóa, âm nhạc, nghệ thuật,
thông tin tuyên truyền, quảng bá có sử dụng ngoại ngữ;
- Khuyến khích
phát triển các câu lạc bộ giáo viên ngoại ngữ.
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Kế hoạch thực
hiện
Đề án được triển
khai thực hiện theo ba giai đoạn như sau:
a) Giai đoạn
2008 - 2010: trọng tâm của giai đoạn này là hoàn thành các điều kiện đảm bảo
cho việc xây dựng, thí điểm các chương trình ngoại ngữ mới và chuẩn bị để triển
khai đại trà ở các cấp học phổ thông. Cụ thể:
- Xây dựng, chi
tiết hoá các chương trình đào tạo;
- Xây dựng kế
hoạch và bố trí kinh phí thực hiện các mục tiêu đề án trong giai đoạn 2008 -
2010;
- Hoàn thành việc
xây dựng chương trình và biên soạn sách giáo khoa ở phổ thông theo chương trình
10 năm và chương trình, giáo trình, tài liệu dạy học cho các trường dạy nghề
trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học và giáo dục thường xuyên. Đồng thời
triển khai việc lựa chọn, sử dụng một số chương trình, sách giáo khoa, tài liệu
dạy học ngoại ngữ của nước ngoài phù hợp với mục tiêu, yêu cầu dạy học ngoại ngữ
ở Việt Nam;
- Hoàn thành việc
xây dựng chương trình và tài liệu dạy và học ngoại ngữ tăng cường, chuyên ngữ
và song ngữ ở một số môn học của giáo dục phổ thông, một số môn học, ngành học
của cao đẳng, đại học;
- Rà soát, đánh
giá thực trạng và triển khai các kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ giáo viên ngoại ngữ ở cấp tiểu học và trung học cơ sở để chuẩn bị triển
khai các chương trình ngoại ngữ mới ở cấp tiểu học và năm học 2010 - 2011 và
trung học phổ thông vào năm học 2012 - 2013 theo kế hoạch;
- Rà soát, đánh
giá thực trạng và triển khai các kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ giảng viên ngoại ngữ cho các trường dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao
đẳng và đại học, chuẩn bị cho các năm học 2009 - 2010;
- Tăng cường
trang thiết bị dạy học, xây dựng phòng học tiếng nước ngoài, phòng nghe nhìn và
phòng đa phương tiện cho một số trường học ở các cấp học và trình độ đào tạo;
- Hoàn thành việc
xây dựng và ban hành chính sách khuyến khích, thu hút các công dân Việt Nam giỏi
ngoại ngữ và các giáo viên là người Việt Nam ở nước ngoài, các giáo viên bản ngữ,
các giáo viên ngoại ngữ do các tổ chức tình nguyện của các nước nói tiếng Anh,
Pháp, Nga, Trung Quốc tham gia dạy học ngoại ngữ ở các cấp học;
- Trong năm
2009, các tỉnh, thành phố hoàn thành việc xây dựng kế hoạch triển khai chương
trình ngoại ngữ 10 năm của địa phương trong giai đoạn từ 2010 cho đến 2020. Đặc
biệt khuyến khích các trường thuộc các thành phố lớn, đô thị, thị xã, thị trấn
và các trường tiểu học đã thực hiện dạy theo chế độ 2 buổi/ngày tham gia chương
trình ngay từ giai đoạn ban đầu. Các trường dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp,
cao đẳng và đại học không chuyên ngữ và chuyên ngữ hoàn thành kế hoạch triển
khai việc dạy và học ngoại ngữ tăng cường của trường trong giai đoạn từ 2009
cho đến 2020;
- Hoàn thành việc
xây dựng và ban hành chính sách xây dựng môi trường làm việc, văn hóa, thông
tin theo hướng hỗ trợ sử dụng thường xuyên và hiệu quả ngoại ngữ, nâng cao động
lực học ngoại ngữ trong thế hệ trẻ;
- Trong năm
2009 - 2010 triển khai đào tạo theo các chương trình tiên tiến giảng dạy bằng
tiếng Anh ở bậc đại học;
- Từ 2009 tiến
hành thí điểm chương trình 10 năm ở phổ thông và chương trình ngoại ngữ tăng cường
cho các cơ sở đào tạo.
b) Giai đoạn
2011 - 2015: trọng tâm của giai đoạn này là triển khai đại trà chương trình ngoại
ngữ 10 năm ở phổ thông và chương trình dạy và học ngoại ngữ tăng cường đối với
các bậc, trình độ đào tạo.
- Tiếp tục tuyển
dụng, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ và năng lực ngoại ngữ của giáo viên
ngoại ngữ ở các cấp học, trình độ đào tạo;
- Tiếp tục xây
dựng các phòng dạy và học ngoại ngữ, phòng nghe nhìn và học đa phương tiện cho
các trường học các cấp;
- Từ năm học
2010 - 2011: triển khai chương trình ngoại ngữ 10 năm theo các mục tiêu đề ra
cho các cấp học phổ thông;
- Triển khai dạy
và học ngoại ngữ tăng cường ở các cơ sở đào tạo, ưu tiên cho các ngành công nghệ
thông tin, tài chính ngân hàng, du lịch và quản trị kinh doanh;
- Triển khai dạy
môn Toán bằng ngoại ngữ ở khoảng 30% các trường trung học phổ thông tại các
thành phố, đô thị lớn: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng
và một số địa bàn trọng điểm khác. Mỗi năm tăng thêm khoảng từ 15 - 20% số trường,
mở rộng ra 5 tỉnh, thành phố và một số môn học khác;
- Triển khai
chương trình dạy bằng ngoại ngữ một số môn cơ bản, chuyên ngành và chuyên sâu ở
một số ngành trọng điểm ở năm cuối bậc đại học, bắt đầu với khoảng 20% sinh
viên của các Đại học quốc gia, Đại học vùng và một số trường đại học trọng điểm
khác và tăng dần tỷ lệ hàng năm, mở rộng dần đối với số trường và địa phương.
c) Giai đoạn
2016 - 2020: trọng tâm của giai đoạn này là triển khai chương trình ngoại ngữ
10 năm trên quy mô cả nước và triển khai chương trình dạy và học ngoại ngữ tăng
cường đối với tất cả các trường dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp cao đẳng và đại
học.
- Tiếp tục tuyển
dụng, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ và năng lực ngoại ngữ của giáo viên
ngoại ngữ ở các cấp học, trình độ đào tạo;
- Tiếp tục xây
dựng các phòng dạy và học ngoại ngữ, phòng nghe nhìn và phòng học đa phương tiện
cho các trường học các cấp;
- Triển khai
chương trình 10 năm đối với 100% học sinh lớp 3 trong cả nước;
- Triển khai
chương trình dạy và học ngoại ngữ tăng cường đối với tất cả các trường dạy nghề,
trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học trong cả nước.
2. Kinh phí và nguồn vốn thực hiện Đề án
- Kinh phí dự
toán để thực hiện dự án giai đoạn 2008 - 2010 là 1.060 tỷ đồng, giai đoạn 2011
- 2015 là 4.378 tỷ đồng, giai đoạn 2016 - 2020 là 4.300 tỷ đồng, tổng cộng là
9.378 tỷ đồng.
- Vốn từ ngân
sách nhà nước được bố trí trong chương trình mục tiêu quốc gia và dự toán phi
thường xuyên hàng năm theo phân cấp quản lý quy định tại Luật Ngân sách hiện
hành;
- Các nguồn vốn
vay, tài trợ và các nguồn vốn hợp pháp khác.
3. Trách nhiệm
của các Bộ, ngành, cơ quan
a) Bộ Giáo dục
và Đào tạo là cơ quan chủ trì đề án có trách nhiệm:
- Chủ trì, phối
hợp với các Bộ, cơ quan liên quan, các địa phương cụ thể hoá nội dung Đề án
thành các chương trình, kế hoạch thực hiện chi tiết để chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức
thực hiện, kiểm tra, giám sát, đánh giá, tổng hợp kết quả triển khai thực hiện
Đề án trong phạm vi cả nước theo hằng năm và từng giai đoạn, định kỳ báo cáo Thủ
tướng Chính phủ;
- Chủ trì, phối
hợp với các Bộ, cơ quan liên quan thành lập Ban Chỉ đạo liên ngành để chỉ đạo triển
khai thực hiện Đề án gồm đại diện lãnh đạo các Bộ, cơ quan liên quan, do Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo làm Trưởng ban;
- Phối hợp với
Bộ Nội vụ sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định về định mức biên chế giáo
viên, giảng viên ngoại ngữ; các cơ chế, chính sách tuyển dụng, sử dụng, quản lý
việc dạy học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân;
- Chủ trì, phối
hợp với Bộ Nội vụ hướng dẫn triển khai công tác bồi dưỡng ngoại ngữ, thường
xuyên cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
b) Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội có trách nhiệm:
Chủ trì, phối hợp
với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan liên quan chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức
thực hiện Đề án trong lĩnh vực dạy nghề, phù hợp với lộ trình, kế hoạch triển
khai chung do Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì hướng dẫn.
c) Bộ Kế hoạch
và Đầu tư có trách nhiệm:
- Chủ trì, phối
hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo tổng hợp các kế hoạch triển khai hoạt động và đầu
tư thực hiện Đề án theo hàng năm và từng giai đoạn để đưa vào kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội chung của cả nước, trình Thủ tướng Chính phủ theo quy định;
- Phối hợp với
Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội để tổng
hợp, xây dựng các kế hoạch đầu tư ngân sách nhà nước để thực hiện Đề án.
d) Bộ Tài chính
có trách nhiệm:
Chủ trì, phối hợp
với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ, cơ quan liên quan phân bổ, hướng dẫn, kiểm
tra, giám sát việc chi kinh phí thực hiện Đề án theo các quy định hiện hành của
Luật Ngân sách nhà nước.
đ) Bộ Nội vụ có
trách nhiệm:
Chủ trì, phối hợp
với Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu, hướng dẫn, ban hành hoặc trình cấp có thẩm
quyền ban hành các văn bản sửa đổi, bổ sung các quy định về cơ chế, chính sách
tuyển dụng, sử dụng định mức biên chế giáo viên, giảng viên ngoại ngữ phù hợp
trong hệ thống giáo dục quốc dân.
e) Bộ Thông tin
và Truyền thông có trách nhiệm:
Chủ trì, phối hợp
với Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các cơ quan thông tin truyền thông tăng cường
công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức toàn xã hội về các chương trình đổi mới
công tác giáo dục, đào tạo ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, đáp ứng
yêu cầu mới; tạo môi trường văn hoá, điều kiện thuận lợi cho việc dạy và học
ngoại ngữ.
g) Uỷ ban nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm:
- Chỉ đạo ngành
giáo dục và đào tạo, các cơ quan chức năng ở địa phương xây dựng và tổ chức thực
hiện chương trình, kế hoạch triển khai Đề án trên địa bàn; kiểm tra, giám sát,
đánh giá, tổng hợp kết quả thực hiện Đề án tại địa phương, định kỳ báo cáo Ban
Chỉ đạo Trung ương và Bộ Giáo dục và Đào tạo;
- Phối hợp với
Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ, cơ quan Trung ương để chỉ đạo thống nhất, đồng
bộ, phù hợp với yêu cầu, kế hoạch chung toàn quốc việc triển khai thực hiện Đề
án này trên địa bàn.
h) Các cơ sở
giáo dục có trách nhiệm:
- Quán triệt và
tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các hoạt động liên quan đến công tác đào
tạo ngoại ngữ trong cơ sở mình, đáp ứng yêu cầu chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ Đề
án đã đặt ra;
- Tích cực, chủ
động triển khai các nhiệm vụ trong thẩm quyền mà Đề án đã giao.
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ
ngày ký.
Điều 3. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ,
Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
|
KT. THỦ TƯỚNG
PHÓ THỦ TƯỚNG
Nguyễn Thiện Nhân
|