VĂN
PHÒNG CHÍNH PHỦ
TỔ CÔNG TÁC CỦA TTgCP
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 685/TB-TCTTTg
|
Hà
Nội, ngày 31 tháng 8
năm 2017
|
THÔNG BÁO
Ý KIẾN KẾT LUẬN CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ VỀ KẾT QUẢ KIỂM TRA THÁNG 8 NĂM
2017 CỦA TỔ CÔNG TÁC CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Trong tháng 8 năm 2017, Tổ công tác
đã tiến hành 02 cuộc kiểm tra chuyên đề về triển khai các giải pháp nhằm bảo đảm
mục tiêu tăng trưởng năm 2017 tại 04 Tổng công ty, gồm: Đường sắt Việt Nam, Cảng
hàng không Việt Nam, Quản lý bay Việt Nam, Hàng không Việt Nam và 01 cuộc kiểm
tra đối với các Bộ quản lý chuyên ngành trong việc thực hiện các nhiệm vụ giao
liên quan đến hoạt động kiểm tra chuyên ngành (KTCN) đối với hàng hóa xuất nhập
khẩu.
Tổ công tác đã báo cáo Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ về kết quả kiểm tra tháng 8 của Tổ công tác tại phiên họp Chính
phủ thường kỳ tháng 8. Sau khi nghe Báo cáo của Tổ công tác, Thủ tướng Chính phủ
đã nhất trí với Báo cáo của Tổ công tác và kết luận, như sau:
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Về kết quả kiểm
tra tại Tổng công ty Đường sắt Việt Nam (VNR)
Trong thời gian qua, VNR đã triển
khai nhiều giải pháp tích cực để đạt mục tiêu tăng trưởng theo kế hoạch đề ra.
Trong 7 tháng sản xuất kinh doanh của VNR tăng trưởng nhẹ, tổng doanh đạt
3.515,5 tỷ đồng, đạt 45,1% so với kế hoạch, tăng 3,8% so với
cùng kỳ 2016; vận tải đạt hơn 3.719 triệu TKm (tấn Km), tăng khoảng 10% so với
cùng kỳ 2016; triển khai thực hiện tích cực các nhiệm vụ Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ giao: từ 01/01/2016 đến 10/8/2017, VNR có tổng số 56 nhiệm vụ giao,
trong đó: đúng hạn: 55 nhiệm vụ; còn 01 nhiệm vụ chưa hoàn thành quá hạn.
Bên cạnh kết quả đạt được, Tổng công
ty Đường sắt Việt Nam còn hạn chế, yếu kém về một số mặt công tác, như: còn tư
tưởng bao cấp, chưa tích cực đổi mới phương pháp quản lý, điều hành, ứng dụng
công nghệ mới trong quản trị doanh nghiệp; vấn đề an toàn đường sắt, chất lượng
lao động, ý thức trách nhiệm của người lao động; việc kêu gọi các nhà đầu tư
tham gia khai thác, triển khai xã hội hóa các dịch vụ hạ tầng đường sắt; đẩy mạnh
khai thác hiệu quả hạ tầng hiện có; công tác cổ phần hóa, thoái vốn... chưa đáp ứng yêu cầu chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đối
với ngành đường sắt.
2. Về kết quả kiểm
tra 3 Tổng công ty thuộc ngành hàng không
a) Tổng công ty Cảng hàng không Việt
Nam (ACV)
Trong những năm qua, ACV đã rất cố gắng
trong việc thực hiện đầu tư, nâng cấp kết cấu hạ tầng hàng không; tích cực đổi
mới công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để thúc đẩy phát triển sản xuất,
kinh doanh và thực hiện nhiều biện pháp hiệu quả bảo đảm an ninh an toàn hàng
không và đạt được nhiều kết quả trong hoạt động kinh doanh, đầu tư, cụ thể:
Trong 7 tháng đầu năm 2017, tổng sản lượng hành khách tiếp tục tăng trưởng, đạt 56 triệu hành khách, tăng 17%; Sản lượng hàng hóa, bưu kiện đạt 775
nghìn tấn, tăng 30%; Sản lượng hạ cất cánh đạt 363 nghìn lượt, tăng 11%; doanh thu đạt 9.864 tỷ đồng, lợi nhuận đạt 3.458 tỷ đồng,
nộp ngân sách nhà nước 875 tỷ, đóng góp tích cực vào sự phát triển của ngành
hàng không Việt Nam nói riêng và bảo đảm mục tiêu tăng trưởng chung năm 2017
nói chung.
b) Tổng công ty quản lý bay Việt Nam
(VATM)
Tổng công ty quản lý bay Việt Nam đã
thực hiện tốt chức năng quản lý, điều hành và kiểm soát các hoạt động bay trên
các hành lang bay và vùng trời được phân công; bảo đảm các dịch vụ không lưu,
không báo và khí tượng hàng không; tích cực triển khai nhiều giải pháp trong việc
củng cố, nâng cấp, hoàn thiện, hoạt động quản lý và cung cấp dịch vụ quản lý
không lưu ngày càng dần tiếp cận và phù hợp với các khuyến cáo thực hiện của Tổ
chức hàng không dân dụng quốc tế (ICAO). Các kết quả đạt được, cụ thể: Hệ thống
quản lý an toàn của VATM năm 2016 đạt 81% các nội dung yêu cầu của ICAO, trên 3
cấp độ; quyết liệt triển khai nhiều giải pháp đồng bộ nhằm tăng năng lực quản
lý, khai thác tại các cảng hàng không sân bay và đảm bảo an toàn bay; nâng cao
năng lực khai thác sân bay tổng thể để tăng tần suất hạ, cất cánh. Tính đến hết
6 tháng đầu năm 2017: Sản lượng điều hành bay: 395.129 lần chuyến, đạt 51,26%
so với kế hoạch năm 2017 và tăng 9,18 % so với cùng kỳ năm 2016; tổng doanh
thu: 1.613.916 triệu đồng, đạt 52,43% so với kế hoạch năm 2017 và tăng 58,45%
so với cùng kỳ năm 2016; lợi nhuận trước thuế: 464.257 triệu đồng, đạt 59,10%
so với kế hoạch năm và bằng 183,99% so với cùng kỳ năm 2016; nộp ngân sách nhà
nước: 1.163.246 triệu đồng, đạt 54,58% so với kế hoạch năm 2017 và bằng 153,73% so với thực hiện cùng kỳ năm 2016.
c) Tổng công ty Hàng không Việt Nam
(VNA)
Dưới sự điều hành năng động và quyết
liệt của lãnh đạo Tổng công ty và nỗ lực của người lao động,
Tổng công ty đã khẳng định vị trí, vai trò của Hãng hàng không Quốc gia, đảm bảo
tuyệt đối an toàn, an ninh trong hoạt động khai thác bay. Trong 7 tháng đầu năm
2017, VNA đã hoàn thành tốt kế hoạch với doanh thu đạt 49.000 tỷ VND, lợi nhuận
đạt 2.100 tỷ VND vượt 45,6% kế hoạch; thực hiện 84.024 chuyến bay an toàn với
192.303 giờ bay vượt 1,8% so với cùng kỳ; vận chuyển 15,6
triệu lượt khách, tăng 7,3% so với cùng kỳ và 182 nghìn tấn hàng hóa, tăng 24%
so với cùng kỳ và vượt 6% kế hoạch; chất lượng dịch vụ duy trì ổn định 4 sao,
chỉ số đúng giờ bình quân đạt 90,5% và luôn là Hãng hàng không tại Việt Nam có
chỉ số đúng giờ cao nhất.
Các nhiệm vụ Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ giao được 03 Tổng công ty thực hiện nghiêm túc, đúng tiến độ. Theo kết
quả rà soát, thống kê: Từ 01/01/2016 - 10/8/2017, tổng số nhiệm vụ giao 03 Tổng
công ty: 84 nhiệm vụ, trong đó đã hoàn thành 80 (ACV hoàn thành 100% nhiệm vụ
giao đúng tiến độ); còn 4 nhiệm vụ chưa hoàn thành trong hạn.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được,
03 Tổng công ty còn một số mặt công tác: Công tác bảo đảm an toàn an ninh hàng
không; nâng tần suất cất, hạ cánh; tình hình hủy, hoãn chuyến bay; đầu tư, nâng
cao hiệu quả hạ tầng hàng không; chủ trương xã hội hóa; công tác cổ phần hóa,
thoái vốn... chưa đáp ứng yêu cầu.
3. Đối với các Bộ
được kiểm tra về việc thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến hoạt động KTCN đối với
hàng hóa xuất nhập khẩu
Trong thời gian qua, các Bộ, cơ quan
liên quan đã nỗ lực, cố gắng trong việc triển khai thực hiện
các nhiệm vụ giao tại Quyết định 2026/QĐ-TTg ngày 17 tháng 11 năm 2015 của Thủ
tướng Chính phủ và Nghị quyết 19-2017/NQ-CP; tích cực soạn thảo, sửa đổi, bổ
sung thay thế hoặc bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền quy định
về KTCN; tình trạng chồng chéo, trùng lặp, cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm
thủ tục, thời gian, chi phí liên quan đến hoạt động KTCN đối với hàng hóa xuất
nhập khẩu được khắc phục một phần.
Theo Quyết định 2026/QĐ-TTg và Nghị
quyết 19-2017 có tổng số 98 nhiệm vụ giao 13 Bộ quản lý chuyên ngành (87 nhiệm
vụ sửa đổi, bổ sung, thay thế 87 văn bản quy phạm pháp luật về KTCN; 11 nhiệm vụ
giao liên quan đến hoạt động KTCN). Đến nay, các Bộ đã thực hiện 64 nhiệm vụ tại
Quyết định 2026/QĐ-TTg; còn 34 nhiệm vụ chưa hoàn thành.
Tuy nhiên, công tác này còn những tồn
tại, hạn chế:
- Một số quy định còn chồng chéo,
xung đột, bất cập, chưa được bổ sung, sửa đổi hoặc bãi bỏ kịp thời dẫn đến một
mặt hàng bị điều chỉnh bởi nhiều văn bản quy phạm pháp luật, phải thực hiện nhiều
thủ tục, KTCN của nhiều Bộ (tỷ lệ mặt hàng phải thực hiện 2 hoặc 3 thủ tục kiểm
tra chuyên ngành, chiếm khoảng 58%), làm tăng chi phí, phiền hà cho doanh nghiệp;
chưa đẩy mạnh áp dụng quản lý rủi ro, quản lý trên cơ sở đánh giá sự tuân thủ
pháp luật của doanh nghiệp, chưa chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm.
- Việc thống nhất ban hành danh mục
hàng hóa phải KTCN và gắn mã HS còn chậm. Danh mục hàng hóa thuộc đối tượng
KTCN của một số Bộ quy định còn nhiều, phạm vi rộng, nhiều mặt hàng chưa có mã
số HS, chưa có tiêu chuẩn, quy chuẩn đầy đủ.
- Quy trình thủ tục chủ yếu dựa trên
phương thức thủ công, ngoại trừ một số thủ tục được đưa lên Cổng thông tin một
cửa quốc gia đã thực hiện bằng phương thức điện tử, hầu hết các thủ tục còn lại
đều được thực hiện bằng phương thức thủ công dựa trên giấy tờ. Danh mục nhiều
hàng hóa phải quản lý chuyên ngành không được mã hóa HS nên không thể tự động
hóa trong khâu lựa chọn kiểm tra.
- Phương pháp quản lý, kiểm tra chưa
theo chuẩn mực quốc tế dẫn đến kéo dài thời gian thông quan hàng hóa, hầu hết
hàng hóa (khoảng gần 100.000 nghìn mặt hàng) phải KTCN đều thực hiện kiểm tra tại
cửa khẩu trong quá trình thông quan với tỷ lệ phát hiện vi
phạm rất thấp (dưới 0,1%); không thực hiện công nhận chất lượng sản phẩm hàng
hóa giữa các nước, nhất là hàng hóa có nguồn gốc từ các nước
phát triển.
Với các tồn tại, hạn chế nêu trên, dẫn
đến tỷ lệ các lô hàng nhập khẩu phải KTCN tại giai đoạn thông quan chưa giảm
nhiều, vẫn ở mức 35% (mục tiêu của Nghị quyết 19/NQ-CP, giảm xuống còn 15%),
gây khó khăn, phiền hà, làm tăng chi phí cho doanh nghiệp (mỗi năm doanh nghiệp
phải bỏ ra khoảng 28,6 triệu ngày công và khoảng 14,3 nghìn
tỉ đồng để thực hiện các quy định, thủ tục về KTCN)... chưa đáp ứng được yêu cầu
chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Tại cuộc kiểm tra, các Bộ đã thẳng thắn
nhìn nhận những bất cập, tồn tại liên quan đến công tác KTCN của Bộ mình với
tinh thần cầu thị và cam kết với Tổ công tác sẽ khẩn trương khắc phục.
Báo cáo tại phiên họp Chính phủ thường
kỳ tháng 8 năm 2017, Tổ công tác đã đề nghị Thủ tướng Chính phủ biểu dương tinh
thần quyết liệt, cầu thị của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Bộ Công Thương đã thành lập ngay Tổ công tác của Bộ trưởng để đôn đốc, kiểm tra
các đơn vị trong việc thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến hoạt động KTCN, đặc
biệt Bộ Công Thương đã đề nghị được Tổ công tác kiểm tra Bộ ngay trong tháng 9;
biểu dương đối với các Bộ đã hoàn thành 100% nhiệm vụ giao, gồm: Khoa học và
công nghệ, Kế hoạch và Đầu tư, Lao động, Thương binh và Xã hội, Văn hóa, Thể
thao và Du lịch.
II. KIẾN NGHỊ CỦA TỔ CÔNG TÁC
1. Đối với các
bộ, cơ quan, địa phương được kiểm tra trong tháng 8
a) Đối với Tổng công ty Đường sắt Việt
Nam
- Lãnh đạo Tổng công ty tiếp tục triển
khai đồng bộ các giải pháp đã đề ra; phải mạnh dạn thay đổi tư duy, khắc phục
triệt để tư tưởng bao cấp, độc quyền của ngành đường sắt;
có giải pháp quyết liệt, hiệu quả để thay đổi mô hình quản lý, đổi mới công tác
quản trị, tạo đột phá trong kinh doanh, tái cơ cấu theo hướng năng động, hiệu
quả, phù hợp với cơ chế thị trường, cơ chế tự chủ của doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, theo
kịp nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
- Rà soát, sắp xếp, tinh giản bộ máy,
cải cách hành chính để giảm chi phí quản lý; thu gọn đầu mối các chi nhánh xí nghiệp theo hướng tinh gọn, thực chất, hiệu quả,
chuyên nghiệp; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong
quản trị doanh nghiệp, ứng dụng mạnh mẽ máy móc, thiết bị công nghệ tiên tiến
trong chỉ đạo, điều hành nhằm kiểm soát tốt chi phí để hạ giá thành, nâng cao
năng lực cạnh tranh, qua đó tăng doanh thu, lợi nhuận và đóng góp nhiều hơn nữa
vào tăng trưởng kinh tế chung của đất nước.
- Sắp xếp lại công tác vận tải đường
sắt theo hướng chuyên môn hóa giữa vận tải hành khách và vận tải hàng hóa; triển
khai ngay các công cụ, biện pháp quản lý hiệu quả để nâng cao chất lượng dịch vụ
của ngành đường sắt; chú trọng đầu tư tạo ra chất lượng dịch vụ tốt, đa dạng
các loại hình dịch vụ khác nhau, đáp ứng nhu cầu của nhiều đối tượng hành khách
nhằm thu hút khách hàng trở lại với vận tải đường sắt.
- Có giải pháp, cơ chế hiệu quả để
kêu gọi đầu tư, huy động vốn xã hội hóa tham gia đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng
đường sắt, đầu tư kho bãi, phương tiện bốc xếp, kết nối các khu công nghiệp,
sân bay, cảng biển...; rà soát tổng thể quy hoạch các khu ga đường sắt, xây dựng
tiêu chí đầu tư, hình thức đầu tư phù hợp để thu hút nguồn vốn xã hội hóa đầu
tư nâng cấp, kinh doanh hệ thống kết cấu hạ tầng đường sắt.
- Trong điều kiện khó khăn về vốn đầu
tư, tập trung khai thác tối đa năng lực hạ tầng đường sắt hiện có, rà soát, kiểm
tra dư địa, thế mạnh trên từng tuyến cụ thể để nâng cao năng lực khai thác. Chủ
động, tích cực hợp tác với các đối
tác ngoài ngành để đẩy mạnh vận chuyển hàng hóa, khai thác tối đa năng lực kết
cấu hạ tầng đường sắt, để tăng doanh thu, lợi nhuận.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát việc thực hiện công tác bảo đảm an toàn giao thông đường sắt, phát hiện và
xử lý kịp thời các yếu tố tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn. Nêu cao trách nhiệm
của người đứng đầu trong việc đảm bảo an toàn giao thông đường sắt, xử lý
nghiêm đối với tập thể, cá nhân vi phạm quy định, quy trình bảo đảm an toàn
giao thông đường sắt; phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, các cơ quan
chức năng trong việc quản lý, bảo vệ hành lang an toàn giao thông đường sắt,
không để tái diễn và phát sinh thêm các lối đi tự mở qua đường sắt; lấn chiếm,
tái lấn chiếm hành lang an toàn giao thông đường sắt nhằm kiềm chế tai nạn giao
thông đường sắt theo đúng chỉ đạo Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị 33/CT-TTg
ngày 21 tháng 7 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ.
- Đẩy nhanh việc thực hiện và hoàn
thiện phương án thoái vốn tại các công ty không cần nắm giữ, bảo đảm thu hồi tối
đa giá trị do nhà nước đầu tư; kiên quyết xử lý các doanh nghiệp thua lỗ, các dự
án đầu tư không hiệu quả, hoặc hiệu quả thấp theo cơ chế thị trường; tập trung
sắp xếp, quản lý các cơ sở nhà đất của Tổng công ty bảo đảm chặt chẽ, đúng quy
định của pháp luật, không để xảy ra thất thoát tài sản của nhà nước theo đúng
chỉ đạo của Thủ tướng tại Thông báo 423/TB-VPCP ngày 22 tháng 12 năm 2016.
b) Đối với 3 Tổng công ty thuộc ngành
Hàng không
- Tập trung chỉ đạo, đôn đốc các đơn vị liên quan khẩn trương hoàn thành các nhiệm vụ chưa hoàn
thành theo đúng yêu cầu, không để phát sinh nhiệm vụ quá hạn.
- Chỉ đạo quyết liệt các đơn vị nâng
cao tinh thần trách nhiệm, với quyết tâm, nỗ lực cao nhất thực hiện các giải
pháp hiệu quả, bảo đảm tuyệt đối an ninh, an toàn bay.
- Đổi mới mạnh mẽ công tác quản trị
hơn nữa, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng dịch vụ, tiết
kiệm chi phí, nhất là chi phí gián tiếp để giảm giá vé, tăng hiệu quả sản xuất
kinh doanh, tăng tỷ suất lợi nhuận, nâng cao năng lực cạnh
tranh, nhất là cạnh tranh với các hãng hàng không nước ngoài để tăng thị phần vận
chuyển đối với khách quốc tế, đóng góp nhiều hơn nữa vào phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước.
- Ưu tiên đầu tư trang thiết bị hiện
đại phục vụ công tác kiểm soát không lưu; tăng cường công tác đào tạo huấn luyện,
nâng cao chất lượng kiểm soát viên không lưu, bảo đảm tính chuyên nghiệp, chính
xác, hiệu quả; có giải pháp hiệu quả trong quản lý luồng
không lưu giữa các sân bay để khắc phục tình trạng tắc nghẽn
trong khu vực vùng trời sân bay cũng như trong khu vực đường
trời đường dài, bảo đảm tuyệt đối an ninh an toàn bay; khắc phục triệt để
nguyên nhân gây mất an ninh an toàn bay do lỗi chủ quan của con người; xử lý
nghiêm minh đối với tập thể và cá nhân vi phạm quy trình,
yêu cầu tác nghiệp, cấp huấn luyện không chính xác, gây uy hiếp an toàn bay.
- Quyết liệt đổi mới phương thức, quy
trình vận hành, quản lý và điều hành bay, áp dụng công nghệ mới, tiên tiến để
nâng cao năng lực quản lý, khai thác tại các cảng hàng không sân bay, nhất là tại
các sân bay có mật độ và lưu lượng bay cao để nâng cao khả năng linh hoạt tăng,
giảm, giãn cách các tàu bay đi và đến để tăng tần suất hạ, cất cánh.
- Siết chặt quy trình kiểm tra, kiểm soát hàng hóa ký gửi bảo đảm chặt chẽ, khách quan, tuyệt đối
không để các đối tượng tội phạm lợi dụng sơ hở để gửi hàng hóa trái phép, như ma
túy, chất nổ, súng đạn...; nâng cao hiệu quả công tác quản trị mạng từ đầu tư
trang thiết bị, công nghệ hiện đại đến nâng cao năng lực, tính chuyên nghiệp đội
ngũ cán bộ, công nhân viên; có biện pháp phòng, cảnh báo cao, không để các
hacker tấn công website sân bay, mạng lưới điều hành bay, gây uy hiếp an ninh,
an toàn bay.
- Chú trọng hơn nữa đầu tư trang thiết
bị, công nghệ hiện đại phục vụ công tác điều hành bay; có giải pháp căn cơ để
nâng cao hiệu quả điều hành bay tại các cảng hàng không, xây dựng các phương thức,
tiêu chí cụ thể để được bay vào các khung giờ cao điểm, giờ vàng nhằm khắc phục
triệt để tình trạng hủy, hoãn chuyến bay; thắt chặt kỷ luật, kỷ cương lao động
và xử lý nghiêm đối với cán bộ, công nhân viên thiếu ý thức trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ để xảy ra tình trạng hủy, hoãn chuyến bay do nguyên nhân chủ
quan.
- Tổ chức thực hiện tốt công tác tái
cấu trúc doanh nghiệp; tập trung chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn;
khẩn trương đánh giá đầy đủ, chính xác, khách quan, minh bạch giá trị doanh
nghiệp để hoàn thành phương án cổ phần hóa, thoái vốn theo đúng chỉ đạo của Thủ
tướng Chính phủ; khắc phục những tồn tại về tài chính khi quyết toán cổ phần
hóa; xác định đúng giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa, quyết toán cổ phần hóa...
- Tập trung nguồn lực để thực hiện
các dự án đầu tư xây dựng công trình hàng không quan trọng của ngành hàng
không. Có chiến lược, giải pháp căn cơ để kêu gọi xã hội hóa, đẩy mạnh thu hút
các nguồn lực xã hội đầu tư, khai thác hạ tầng hàng không, kể cả đường băng,
sân bay cũng cần mạnh dạn có cơ chế để thu hút đầu tư nhằm phá vỡ thế độc quyền
nữa, tạo cú hích để ngành hàng không Việt Nam phát triển lớn mạnh, thực sự là
ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
c) Đối với các Bộ được kiểm tra về việc
thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến hoạt động KTCN đối với hàng hóa xuất nhập
khẩu
- Khẩn trương hoàn thành việc sửa đổi,
bổ sung hoặc bãi bỏ theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật đã được giao
tại các Nghị quyết 19 và Quyết định 2026/QĐ-TTg; việc sửa đổi, bổ sung phải bảo
đảm tính hiệu quả, hiệu lực, không xung đột, chồng chéo, khắc phục triệt để
tình trạng một mặt hàng phải thực hiện nhiều thủ tục, chịu sự KTCN của nhiều
đơn vị thuộc một Bộ hoặc của nhiều Bộ khác nhau.
- Các Bộ quản lý chuyên ngành khẩn
trương rà soát, công bố danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu thuộc diện phải KTCN
kèm theo mã số HS thuộc phạm vi quản lý chuyên ngành của Bộ mình, bao gồm cả
danh mục hàng hóa bắt đầu thực hiện từ năm 2018 theo hướng không chồng chéo
danh mục giữa các Bộ, giảm tối đa số lượng hàng hóa phải KTCN tại khâu thông
quan để bảo đảm đạt mục tiêu giảm tỷ lệ các lô hàng nhập khẩu phải KTCN tại
giai đoạn thông quan từ 35% hiện nay xuống 15% đúng theo chỉ đạo của Chính phủ
tại Nghị quyết 19/NQ-CP.
- Các Bộ quản lý chuyên ngành khẩn
trương hoàn thành việc ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với danh mục
hàng hóa thuộc diện phải KTCN khi nhập khẩu ở khâu thông quan để thuận lợi
trong việc áp dụng quản lý rủi ro.
- Quyết liệt hơn nữa trong việc rà
soát, rút gọn quy trình, thủ tục, hồ sơ, yêu cầu, điều kiện và thời gian thực
hiện thủ tục KTCN; kiên quyết cắt giảm, bãi bỏ các thủ tục, quy trình, giấy tờ
KTCN không cần thiết, không hợp lý, nhằm cắt giảm thời gian, chi phí liên quan
đến hoạt động KTCN. Đồng thời, công bố công khai quy trình, thủ tục, tiêu chuẩn,
phương thức KTCN đối với từng mặt hàng; xây dựng và công bố công khai tiêu chí
quản lý rủi ro đối với hàng hóa xuất nhập khẩu thuộc phạm
vi quản lý chuyên ngành của từng Bộ.
- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin, thực hiện điện tử hóa các thủ tục KTCN; tăng cường kết nối, chia sẻ, thống
nhất thông tin giữa các cơ quan quản lý chuyên ngành với Tổng cục Hải quan và Cổng
Thông tin một cửa quốc gia và Cơ chế một cửa ASEAN.
- Đẩy mạnh việc công nhận lẫn nhau về
kết quả đánh giá sự phù hợp giữa các cơ quan quản lý chuyên ngành trong nước và
công nhận chất lượng sản phẩm hàng hóa giữa các nước, nhất
là hàng hóa có nguồn gốc từ các nước phát triển.
- Chấn chỉnh, khắc phục ngay tình trạng độc quyền trong đánh giá sự phù hợp (thử nghiệm, giám định,
kiểm định, chứng nhận kiểm tra chất lượng). Thay bằng việc chỉ định duy nhất một
đơn vị đánh giá sự phù phù hợp, các Bộ khẩn trương rà soát, chỉ định bổ sung
nhiều đơn vị đánh giá sự phù hợp để tạo thuận lợi giảm chi phí, thời gian cho
doanh nghiệp.
- Liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung
Nghị định 38/2012/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật an toàn thực phẩm
Bộ Y tế khẩn trương thực hiện việc
hoàn chỉnh Dự thảo Nghị định theo hướng áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro, chuyển
sang hậu kiểm; bổ sung thêm đối tượng được miễn kiểm tra an toàn thực phẩm như
hàng tạm nhập tái xuất, hàng nhập khẩu để gia công, sản xuất hàng xuất khẩu…;
quy định cụ thể tại Nghị định việc công bố của doanh nghiệp, hạn
chế tối đa các hướng dẫn của các Bộ về vấn đề này; thực hiện đơn giản hóa và
rút ngắn thời gian thực hiện thủ tục hành chính theo đúng chỉ đạo Thủ tướng tại
Thông báo số 321/TB-VPCP ngày 21 tháng 7 năm 2017 của Văn phòng Chính phủ.
- Bộ Tài chính khẩn trương trình
Chính phủ ban hành Nghị định về thực hiện Cơ chế một cửa quốc gia, một cửa
ASEAN và kiểm tra chuyên ngành theo trình tự, thủ tục rút
gọn với mục tiêu thực hiện cam kết quốc tế; tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện
các thủ tục hành chính trong KTCN bằng phương thức điện tử phi giấy tờ góp phần
đơn giản hóa thủ tục hành chính; rút ngắn thời gian; minh bạch hóa công tác
KTCN thông qua việc công bố các quy chuẩn, tiêu chuẩn, phương pháp kiểm tra;
thiết lập cơ chế phối hợp liên ngành trong tổ chức công tác KTCN trên nền tảng
kết nối thông tin qua Cơ chế một cửa quốc gia.
2. Đối với các
Bộ, cơ quan, địa phương liên quan
Bộ Giao thông vận tải:
- Khẩn trương tham mưu, đề xuất, báo cáo
với Thủ tướng Chính phủ cho ý kiến về việc giải quyết khó khăn cho Tổng công ty
Đường sắt trong quản lý, đầu tư, bảo trì kết cấu hạ tầng
đường sắt quốc gia theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản
7706/VPCP-CN ngày 24 tháng 7 năm 2017.
- Nghiên cứu, báo cáo, đề xuất với Thủ
tướng Chính phủ cho cơ chế đối với việc thoái vốn tại 09 công ty thành viên của
Tổng công ty Đường sắt hiện đang gặp khó khăn, vướng mắc về cổ phần hóa, thoái
vốn.
- Chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng
nghiên cứu, tham mưu, đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ việc xây dựng
quy chế sử dụng vùng trời linh hoạt (Flexible Use of Airspace) giữa hàng không
dân dụng và quân sự để hỗ trợ phát triển hàng không dân dụng, tăng hiệu quả
kinh tế và giảm bớt quá tải trên các đường hàng không hiện nay;
- Nghiên cứu, báo cáo Thủ tướng Chính
phủ phủ về kiến nghị của Tổng công ty Quản lý bay Việt Nam về cho phép cơ chế
chuyển giao tài sản của các nhà đầu tư tại Cảng Hàng không quốc tế Vân Đồn, Cảng
Hàng không quốc tế Cát Bi về Tổng công ty và ghi tăng vốn điều lệ của Tổng công ty để tạo thuận lợi cho quá trình đảm bảo cơ sở vật chất và
trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cung cấp dịch vụ của Tổng công ty.
Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ
xin thông báo để các Bộ, cơ quan, liên quan biết, thực hiện./.
Nơi nhận:
- Thủ tướng, các Phó Thủ
tướng Chính phủ;
- Các thành viên Tổ công tác;
- Các Bộ: TC, KH&ĐT, CT, KH&CN, XD,
GTVT, NN&PTNT, TN&MT,
VHTT&DL, TT&TT, YT;
- Các Tổng công ty: Đường sắt
VN, Cảng hàng không VN, Quản lý bay VN, Hàng không VN;
- VPCP: Các PCN, Trợ lý TTg, các Vụ, đơn vị:
CN, KTTH, NN, QHQT, ĐMDN, NC,
KSTTHC, Cổng thông tin điện tử CP;
- Lưu: VT, TCTTTg (3b).L
|
TỔ TRƯỞNG
BỘ TRƯỞNG, CHỦ NHIỆM VPCP
Mai Tiến Dũng
|