HỘI
ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
17-HĐBT
|
Hà
Nội, ngày 16 tháng 1 năm 1990
|
NGHỊ ĐỊNH
CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 17-HĐBT NGÀY 16-1-1990 QUY ĐỊNH
CHI TIẾT THI HÀNH PHÁP LỆNH HỢP ĐỒNG KINH TẾ
HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng
Bộ trưởng 4 tháng 7 năm 1981;
Căn cứ vào Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ngày 25 tháng 9 năm 1989;
Theo đề nghị của Chủ tịch Trọng tài kinh tế Nhà nước,
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1.
Chủ thể hợp
đồng kinh tế là những pháp nhân và cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định
của pháp luật.
1- Pháp nhân là một tổ chức có đủ
các điều kiện sau đây:
a) Được thành lập một cách hợp
pháp;
b) Có tài sản riêng và chịu
trách nhiệm một cách độc lập bằng các tài sản đó;
c) Có quyền quyết định một cách
độc lập về các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình;
d) Có quyền tự mình tham gia các
quan hệ pháp luật.
2- Cá nhân có đăng ký kinh doanh
theo quy định của pháp luật là người đã được cấp giấy phép kinh doanh và đã được
đăng ký kinh doanh tại cơ quan có thẩm quyền theo đúng quy định về đăng ký kinh
doanh.
Điều 2.
Các biện
pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng kinh tế được quy định như sau:
1- Thế chấp tài sản là dùng số động
sản, bất động sản hoặc giá trị tài sản khác thuộc quyền sở hữu của mình để bảo
đảm tài sản cho việc thực hiện hợp đồng kinh tế đã ký kết.
Việc thế chấp tài sản phải được
làm thành văn bản riêng có sự xác nhận của cơ quan công chứng hoặc cơ quan có
thẩm quyền đăng ký kinh doanh (trường hợp không có cơ quan công chứng).
Người thế chấp tài sản có nghĩa
vụ bảo đảm nguyên giá trị của tài sản thế chấp; không được chuyển dịch sở hữu
hoặc tự động chuyển giao tài sản đó cho người khác trong thời gian văn bản thế
chấp tài sản còn có hiệu lực.
2- Cầm cố là trao động sản thuộc
quyền sở hữu của mình cho người cùng quan hệ hợp đồng giữ để làm tin và bảo đảm
tài sản trong trường hợp vi phạm hợp đồng kinh tế đã kỹ kết. Việc cầm cố phải
được làm thành văn bản riêng, có sự xác nhận của cơ quan công chứng hoặc cơ
quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh (trường hợp không có cơ quan công chứng).
Người giữ vật cầm cố có nghĩa vụ
bảo đảm nguyên giá trị của vật cầm cố; không được chuyển dịch sở hữu vật cầm cố
cho người khác trong thời gian văn bản cầm cố còn có hiệu lực.
3- Bảo lãnh tài sản là sự bảo đảm
bằng tài sản thuộc quyền sở hữu của người nhận bảo lãnh để chịu trách nhiệm tài
sản thay cho người được bảo lãnh khi người này vi phạm hợp đồng kinh tế đã ký kết.
Người nhận bảo lãnh phải có số tài sản bảo lãnh không ít hơn số tài sản mà người
đó đã nhận bảo lãnh.
Việc bảo lãnh tài sản phải được
làm bằng văn bản có sự xác nhận về tài sản của Ngân hàng nơi người bảo lãnh
giao dịch và cơ quan công chứng hoặc cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh
(trường hợp không có cơ quan công chứng).
Điều 3.
Việc xử lý
tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh khi có vi phạm hợp đồng kinh tế được thực hiện
cùng với việc giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế tại cơ quan trọng tài kinh
tế có thẩm quyền.
Điều 4.
Chứng thư
hợp đồng kinh tế là sự xác nhận về việc các bên đã ký kết bản hợp đồng kinh tế
tại một cơ quan công chứng Nhà nước do các bên thoả thuận, nơi nào không có cơ
quan công chứng thì làm chứng thư tại cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh.
Điều 5.
1- Mỗi bên
tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế chỉ cần một đại diện để ký hợp đồng kinh tế.
2- Đại diện hợp pháp của pháp
nhân là người được bổ nhiệm hoặc được bầu vào chức vụ đứng đầu pháp nhân đó và
đương giữ chức vụ đó.
3- Người đứng tên đăng ký kinh
doanh là người đã đứng tên xin giấy phép kinh doanh, được cấp giấy phép kinh
doanh và đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan có thẩm quyền theo đúng quy định về
đăng ký kinh doanh.
Điều 6.
1- Việc uỷ quyền
cho người khác thay mình ký hợp đồng kinh tế phải được làm bằng văn bản, có ghi
rõ họ tên, chức vụ, nơi làm việc, giấy chứng minh của người được uỷ quyền, phạm
vi uỷ quyền, thời hạn uỷ quyền.
2- Hợp đồng
kinh tế được ký kết đúng theo các quy định về uỷ quyền, trách nhiệm với người uỷ
quyền như chính người uỷ quyền đã ký. Hợp đồng kinh tế đã ký vượt quá phạm vi
được uỷ quyền, bị vô hiệu phần vượt quá phạm vi uỷ quyền.
Điều 7.
a) Hợp đồng
kinh tế được cả hai bên cùng ký hoặc một bên ký trước, bên khác ký sau nhưng
cùng ký trên một văn bản.
b) Hợp đồng kinh tế được ký bằng
tài liệu giao dịch như công văn, điện báo, đơn chào hàng, đơn đặt hàng, và những
loại hợp đồng kinh tế mà pháp luật đã quy định phải đăng ký thì không được áp dụng
cách ký kết theo chế định uỷ quyền.
Điều 8.
Những hợp đồng kinh tế mua bán hàng hoá, sản phẩm kém chất lượng hoặc mua bán
phế liệu với mục đích tận dụng thì không phải áp dụng quy định tại khoản 1, điều
13 của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế.
Điều 9.
Điều khoản
giá cả trong hợp đồng kinh tế được quy định như sau:
1- Các bên thoả thuận về giá và
ghi cụ thể vào trong hợp đồng kinh tế; thoả thuận về nguyên tắc, thủ tục để thực
hiện việc thay đổi giá khi có sự biến động giá cả thị trường trong quá trình thực
hiện hợp đồng kinh tế;
2- Đối với sản phẩm, hàng hoá do
cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước đã quy định giá hoặc khung giá thì giá thoả
thuận trong hợp đồng kinh tế phải phù hợp với sự quy định đó. Không một bên nào
có quyền gò ép giá hoặc nâng giá quá mức quy định của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền.
Điều 10.
Nếu trong hợp đồng kinh tế không có điều khoản về bảo hành thì đối với sản phẩm,
hàng hoá đã có quy định bảo hành của Nhà nước, hoặc có sự chấp nhận bảo hành đã
được thể hiện trong quảng cáo, trong đơn chào hàng của người sản xuất (trường hợp
chưa có quy định của Nhà nước) thì hợp đồng kinh tế được coi như có điều khoản
bảo hành với nội dung như quy định của Nhà nước hoặc sự chấp nhận bảo hành của
người sản xuất.
Điều 11.
Phương thức thanh toán tiền trong quan hệ hợp đồng kinh tế do các bên thoả thuận
nhưng không được trái với các quy định hiện hành của pháp luật. Nếu trong hợp đồng
kinh tế không ghi rõ phương thức thanh toán thì các bên thoả thuận, nếu không
thoả thuận được thì đưa ra Trọng tài kinh tế giải quyết.
Điều 12.
1- Thời hạn
có hiệu lực của hợp đồng kinh tế là khoảng thời gian để các bên thực hiện các
quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng, tính từ khi hợp đồng kinh tế có hiệu lực pháp
luật đến khi mà các bên đã thoả thuận là hợp đồng kinh tế phải được thực hiện
xong.
2- Trong trường hợp các bên thoả
thuận hợp đồng kinh tế được bắt đầu thực hiện từ thời điểm cụ thể khác với thời
điểm hợp đồng kinh tế có hiệu lực pháp luật thì thời hạn có hiệu lực của hợp đồng
kinh tế được tính từ thời điểm cụ thể đó.
3- Khi có tranh chấp về thời hạn
thực hiện hợp đồng kinh tế do không xác định được thời hạn có hiệu lực của hợp
đồng kinh tế, thì Trọng tài kinh tế xem xét yêu cầu về thời gian thực tế cần
thiết để thực hiện công việc trong hợp đồng để xác định thời hạn có hiệu lực của
hợp đồng kinh tế.
Điều 13.
1- Trong trường
hợp cần khuyến khích thực hiện tốt hợp đồng kinh tế, các bên có quyền thoả thuận
mức tiền thưởng theo tỷ lệ phần trăm giá trị hợp đồng hoặc bằng một số tiền tuyệt
đối.
2- Thoả thuận
về mức tiền phạt trong hợp đồng kinh tế phải phù hợp với khung phạt của từng loại
hợp đồng kinh tế và loại vi phạm hợp đồng theo quy định như sau:
a) Vi phạm chất lượng: phạt từ
3% đến 12% giá trị phần hợp đồng kinh tế bị vi phạm về chất lượng.
b) Vi phạm thời hạn thực hiện hợp
đồng: phạt 2% giá trị phần hợp đồng kinh tế bị vi phạm thời hạn thực hiện cho
10 ngày lịch đầu tiên; phạt thêm từ 0,5% đến 1% cho mỗi đợt 10 ngày tiếp theo
cho đến mức tổng số các lần phạt không quá 8% giá trị phần hợp đồng kinh tế bị
vi phạm ở thời điểm 10 ngày lịch đầu tiên; nếu hoàn toàn không thực hiện hợp đồng
kinh tế đã ký thì bị phạt đến mức 12% giá trị hợp đồng.
c) Vi phạm nghĩa vụ không hoàn
thành sản phẩm, hàng hoá, công việc một cách đồng bộ: phạt từ 6% đến 12% giá trị
phần hợp đồng kinh tế bị vi phạm.
d) Vi phạm nghĩa vụ tiếp nhận sản
phẩm hàng hoá, công việc đã hoàn thành theo đúng hợp đồng: phạt 4% giá trị phần
hợp đồng kinh tế đã hoàn thành mà không được tiếp nhận cho 10 ngày lịch đầu
tiên và phạt thêm 1% cho mỗi đợt 10 ngày tiếp theo cho đến mức tổng số các lần
phạt không quá 12% giá trị phần hợp đồng đã hoàn thành và không được tiếp nhận ở
thời điểm 10 ngày lịch đầu tiên.
e) Phạt vi phạm nghĩa vụ thanh
toán áp dụng mức lãi suất tín dụng quá hạn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
tính từ ngày hết thời hạn thanh toán theo quy định tại điều 23 Pháp lệnh Hợp đồng
kinh tế. Trường hợp này không giới hạn mức phạt tối đa.
3- Nếu trong hợp đồng kinh tế
không ghi sự thoả thuận về mức tiền phạt, khi có vi phạm hợp đồng kinh tế và
tranh chấp về tiền phạt thì mức phạt được áp dụng theo quy định tại điều này và
tại các văn bản quy định loại hợp đồng kinh tế cụ thể.
4- Trong trường hợp pháp luật
chưa có quy định mức phạt, các bên có quyền thoả thuận về mức tiền phạt bằng tỷ
lệ phần trăm giá trị phần hợp đồng kinh tế bị vi phạm hoặc bằng một số tuyệt đối.
Điều 14.
Trong trường
hợp cần thiết, các bên ký kết có quyền đưa vào hợp đồng kinh tế những điều thoả
thuận khác không trái pháp luật, với mục đích để thực hiện hợp đồng kinh tế một
cách chặt chẽ có hiệu quả hoặc bảo đảm thời hạn thực hiện nghiêm túc như các
yêu cầu về giám định, về kiểm dịch, về sự bồi thường gọn khi một bên muốn huỷ bỏ
hợp đồng kinh tế đã ký kết, về người hoà giải hoặc chọn Trọng tài kinh tế để giải
quyết khi có tranh chấp v.v...
Điều 15.
1- Nghĩa
vụ trả tiền chỉ phát sinh khi hợp đồng kinh tế đã được thực hiện một phần hay
toàn bộ theo sự thoả thuận của các bên ký kết và tương xứng với phần hợp đồng
kinh tế đã được thực hiện, trừ một số loại hợp đồng kinh tế Hội đồng Bộ trưởng
quy định được ứng hoặc trả tiền trước.
2- Nghĩa vụ trả tiền cũng được
coi là đã hoàn thành nếu bên trả tiền đề nghị và được bên đòi tiền chấp thuận
trả bằng hiện vật hoặc tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh có cùng giá trị tương
đương với số tiền phải trả và việc trả hiện vật hoặc các tài sản đó đã được thực
hiện xong.
3- Trong trường hợp có sự chuyển
giao nghĩa vụ trả tiền cho người thứ ba, thì nghĩa vụ trả tiền của bên phải trả
chỉ được coi là hoàn thành, khi người thứ ba đã trả đủ số tiền phải trả cho bên
đòi tiền.
Điều 16.
1- Khi một
bên ký kết hợp đồng kinh tế phải chuyển giao toàn bộ hay từng phần nhiệm vụ sản
xuất kinh doanh, mà không làm đẩy đủ thủ tục chuyển giao thực hiện hợp đồng
kinh tế theo quy định tại điều 24 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, dẫn đến các hợp đồng
kinh tế đó không được thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì:
a) Nếu đơn vị đó không giải thể
thì họ phải chịu toàn bộ trách nhiệm tài sản giống như họ không thực hiện hoặc
thực hiện không đầy đủ hợp đồng kinh tế;
b) Nếu đơn vị đó đã giải thể,
thì cơ quan ra quyết định giải thể phải giải quyết hậu quả của việc hợp đồng
kinh tế không được thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ.
2- Trong trường hợp bên có quan
hệ hợp đồng kinh tế với bên chuyển giao yêu cầu thanh lý hợp đồng kinh tế đã ký
mà không chuyển cho bên nhận chuyển giao để tiếp tục thực hiện hợp đồng, thì hoặc
không được quyền đòi phạt hợp đồng hoặc bồi thường thiệt hại do phải thanh lý hợp
đồng trước thời hạn hợp đồng hết hiệu lực.
Điều 17.
Khi một
bên ký kết hợp đồng kinh tế là pháp nhân phải giải thể mà không thông báo cho
các bên có quan hệ hợp đồng kinh tế biết thì:
a) Cơ quan ra quyết định giải thể
phải giải quyết hậu quả của việc không thanh lý các hợp đồng kinh tế đã bị đình
chỉ do pháp nhân giải thể;
b) Đại diện của pháp nhân đã ký
hoặc đã uỷ quyền cho người khác ký hợp đồng kinh tế phải chịu trách nhiệm cá
nhân trước pháp luật.
Điều 18.
Khi một
bên ký hợp đồng kinh tế là cá nhân có đăng ký kinh doanh phải ngừng hoạt động
kinh doanh thì phải thanh lý hợp đồng kinh tế với các bên cùng ký kết. Trường hợp
cá nhân đó bị kết án tù thì người được quyền quản lý tài sản của người bị án tù
phải chịu trách nhiệm thanh lý hợp đồng kinh tế mà người bị tù đã ký. Trường hợp
người đứng tên đăng ký kinh doanh đã chết hoặc mất tích thì người thừa kế tài sản
của người đã chết, mất tích phải chịu trách nhiệm thanh lý hợp động do người chết,
mất tích đã ký. Nếu không thanh lý hợp đồng kinh tế, họ phải chịu phạt vi phạm
hợp đồng và bồi thường thiệt hại giống như không thực hiện hoặc thực hiện không
đầy đủ các hợp đồng kinh tế đã ký kết.
Điều 19.
Trong quá
trình thực hiện hợp đồng kinh tế, các bên ký kết có quyền thoả thuận về sửa đổi,
huỷ bỏ hoặc đình chỉ thực hiện hợp đồng. Sự thoả thuận đó phải được làm thành
văn bản có ghi rõ hậu quả pháp lý của việc sửa đổi, huỷ bỏ hoặc đình chỉ thực
hiện hợp đồng gây ra. Nếu hợp đồng kinh tế có làm chứng thư hoặc có đăng ký hợp
đồng thì phải gửi văn bản thoả thuận dó đến cơ quan làm chứng thư hoặc đăng ký
hợp đồng không chậm quá 5 ngày kể từ ngày ký văn bản thoả thuận. Hậu quả pháp
lý do thay đổi, huỷ bỏ, đình chỉ thực hiện hợp đồng kinh tế bao gồm:
- Phí tổn đã thực hiện công việc
của hợp đồng kinh tế mà bên thực hiện không thu hồi lại được (bao gồm cả phí tổn
vận chuyển, bảo quản);
- Phí tổn về nguyên vật liệu chuẩn
bị cho việc thực hiện công việc của hợp đồng kinh tế sau khi tận dụng, thanh lý
chưa bù đắp đủ giá trị ban đầu của nó;
- Tiền phạt hợp đồng và tiền bồi
thường thiệt hại đã phải trả do thay đổi, huỷ bỏ hoặc đình chỉ thực hiện hợp đồng
kinh tế.
Điều 20.
1- Thời hạn
quy định để các bên thanh lý hợp đồng kinh tế là mười ngày, kể từ ngày phát
sinh các sự kiện nói tại điều 28 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế. Quá hạn đó mà hợp
đồng kinh tế không được thanh lý, các bên có quyền yêu cầu Trọng tài kinh tế giải
quyết. Trong trường hợp hợp đồng kinh tế đã được thực hiện và các bên đã hoàn
thành đầy đủ nghĩa vụ của mình theo thoả thuận trong hợp đồng, thì hợp đồng
kinh tế đó coi như đã được thanh lý.
2- Việc thanh lý hợp đồng kinh tế
phải được làm bằng văn bản riêng, trong đó cần có những nội dung chính sau đây:
a) Xác nhận mức độ thực hiện nội
dung công việc đã thoả thuận trong hợp đồng của các bên, từ đó xác định nghĩa vụ
của các bên sau khi thanh lý hợp đồng;
b) Xác định các khoản thuộc
trách nhiệm tài sản, hậu quả pháp lý của các bên trong quan hệ hợp đồng (nếu
có) do phải thanh lý trước khi hợp đồng kinh tế hết hiệu lực.
3- Từ thời gian các bên đã ký
vào biên bản thanh lý, quan hệ hợp đồng kinh tế đó coi như đã được chấm dứt.
Riêng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên được xác nhận trong biên bản thanh lý vẫn
có hiệu lực pháp luật cho đến khi các bên hoàn thành nghĩa vụ của mình.
Điều 21.
Trong
quan hệ hợp đồng kinh tế, bên vi phạm phải chịu trách nhiệm tài sản trực tiếp với
bên bị vi phạm và không phụ thuộc vào cơ quan, tổ chức, hoặc cá nhân có lỗi đã
gây ra sự vi pham đó.
Trách nhiệm tài sản mà bên vi phạm
phải trả cho bên bị vi phạm gồm:
a) Tiền phạt vi phạm hợp đồng
kinh tế theo mức phạt mà các bên đã thoả thuận trong hợp đồng và phù hợp với
khung phạt đã được quy định tại điều 13 của Nghị định này. Nếu trong hợp đồng
kinh tế không quy định mức phạt hoặc có quy định nhưng không phù hợp với khung
phạt, khi có tranh chấp, Trọng tài kinh tế áp dụng theo khung phạt đã được quy
định;
b) Tiền bồi
thường thiệt hại bao gồm giá trị số tài sản mất mát, hư hỏng, kể cả tiền lãi phải
trả cho Ngân hàng hoặc các khoản thu nhập trực tiếp và thực tế không thu được
do bị vi phạm hợp đồng, với đầy đủ chứng cứ rõ ràng, hợp pháp, số chi phí để
ngăn chặn và hạn chế thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra; tiền phạt vi phạm hợp
đồng và tiền bồi thường thiệt hại mà bên vi phạm đã phải trả do hậu quả trực tiếp
của sự vi phạm hợp đồng gây ra.
Điều 22.
Trong một hợp đồng kinh tế, mỗi loại vi phạm hợp đồng chỉ phải chịu một loại phạt
do bên bị vi phạm hợp đồng bắt phạt. Nếu xảy ra đồng thời nhiều loại vi phạm,
thì bên vi phạm chỉ phải chịu một loại phạt có số tiền phạt ở mức cao nhất theo
mức phạt các bên đã thoả thuận trong hợp đồng kinh tế. Trong trường hợp trong hợp
đồng không ghi mức phạt thì áp dụng theo khung phạt quy định tại Điều 13 Nghị định
này.
Điều 23.
Vi phạm
nghĩa vụ thanh toán, ngoài mức phạt theo lãi suất tín dụng quá hạn, bên vi phạm
phải chịu bồi thường thiệt hại bằng tổng số tiễn lãi mà bên bị vi phạm phải trả
cho Ngân hàng do bên vi phạm chưa hoàn thành nghĩa vụ thanh toán.
Điều 24.
Bên vi phạm
hợp đồng kinh tế được xét giảm hoặc miễn hoàn toàn trách nhiệm tài sản do phải
thi hành lệnh khẩn cấp của cơ quan Nhà nước do những người sau đây ký:
- Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
- Trưởng ban chỉ huy chống lụt
bão Trung ương.
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương.
Điều 25.
Bộ trưởng các Bộ, Chủ nhiệm các Uỷ ban Nhà nước, Thủ trưởng các cơ quan khác
thuộc Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu
trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.
Điều 26.
Nghị định
này có hiệu lực kể từ ngày ban hành, những quy định trước đây trái với Nghị định
này đều bãi bỏ.
Chủ tịch Trọng tài kinh tế Nhà
nước hướng dẫn thi hành Nghị định này.