THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
272/2003/QĐ-TTg
|
Hà
Nội, ngày 31 tháng 12 năm 2003
|
QUYẾT ĐỊNH
CỦA
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ SỐ 272/2003/QĐ-TTG NGÀY 31 THÁNG 12 NĂM 2003 PHÊ DUYỆT
CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ
ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Khoa học và Công nghệ ngày 22 tháng 6 năm 2000;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt "Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ
Việt Nam đến năm 2010" kèm theo Quyết định này.
Điều 2. Phân công thực hiện Chiến lược
1. Bộ Khoa học và Công nghệ chủ
trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, các Bộ, ngành liên quan
và ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức triển khai
thực hiện Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010;
xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch khoa học và công nghệ 5 năm và hàng
năm phù hợp với Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ và kế hoạch phát
triển kinh tế -xã hội; hướng dẫn, kiểm tra, giám sát, tổng hợp tình hình thực
hiện và định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ; tổ chức sơ kết việc thực hiện
Chiến lược này vào đầu năm 2006 và tổng kết vào đầu năm 2011;
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ
trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng và thực hiện kế hoạch đào
tạo nhân lực khoa học và công nghệ, phù hợp với các lĩnh vực khoa học và công
nghệ ưu tiên, trọng điểm trong Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ; xây
dựng và tổ chức thực hiện cơ chế gắn kết giữa khoa học và công nghệ với giáo
dục và đào tạo, cơ chế phối hợp giữa các trường đại học với các viện nghiên cứu
trong công tác giảng dạy chuyên môn và nghiên cứu khoa học;
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ đạo
các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và địa phương đưa kế hoạch
phát triển khoa học và công nghệ, đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ vào kế
hoạch định kỳ của Bộ, cơ quan và địa phương; chủ trì, phối hợp với Bộ Tài
chính, Bộ Khoa học và Công nghệ huy động các nguồn tài trợ trong và ngoài nước
cho phát triển khoa học và công nghệ, đảm bảo nguồn kinh phí đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng, trang thiết bị hiện đại, đào tạo nhân lực cho các lĩnh vực khoa học
và công nghệ ưu tiên, trọng điểm;
4. Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp
với Bộ Khoa học và Công nghệ, các Bộ, cơ quan có liên quan thực hiện cải cách
hành chính trong công tác quản lý khoa học và công nghệ; xây dựng các chính
sách, chế độ đối với cán bộ khoa học và công nghệ; xây dựng cơ chế tự chủ, tự
chịu trách nhiệm đối với tổ chức khoa học và công nghệ;
5. Bộ Tài chính chủ trì, phối
hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Khoa học và Công nghệ xác định tỷ lệ ngân
sách hàng năm chi cho khoa học và công nghệ, đảm bảo việc thực hiện Chiến lược
phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2010; hoàn thiện cơ chế, chính sách
tài chính và chế độ quản lý tài chính trong lĩnh vực khoa học và công nghệ để
sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính đầu tư cho khoa học và công nghệ;
6. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ theo chức năng và nhiệm vụ tổ chức, chỉ đạo thực hiện
Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2010 trong phạm vi thẩm
quyền; phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ, cơ quan khác triển khai
thực hiện các nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ trên phạm vi toàn quốc;
7. Uỷ ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm phát triển khoa học và công
nghệ trên địa bàn theo thẩm quyền; xây dựng và chỉ đạo thực hiện các kế hoạch
khoa học và công nghệ 5 năm và hàng năm phù hợp với Chiến lược phát triển khoa
học và công nghệ đến năm 2010 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương trong cùng thời kỳ.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày
đăng Công báo.
Điều 4. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ
quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
CHIẾN LƯỢC
PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010
(Ban hành kèm theo Quyết định số 272/2003/QĐ-TTg ngày 31 tháng 12 năm 2003
của Thủ tướng Chính phủ)
MỞ ĐẦU
Đảng và Nhà nước ta đã khẳng
định phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN) cùng với phát triển giáo dục
và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp
hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nước. Mặc dù nước ta còn nghèo, nhưng trong
thời gian qua, với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là sự nỗ lực, cố
gắng của đội ngũ cán bộ KH&CN trong cả nước, tiềm lực KH&CN đã được
tăng cường, KH&CN đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế -
xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Tuy nhiên, trình độ KH&CN
của nước ta hiện nay nhìn chung còn thấp so với các nước trên thế giới và trong
khu vực, năng lực sáng tạo công nghệ mới còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. KH&CN nước ta đang đứng trước nguy cơ tụt hậu
ngày càng xa, trước xu thế phát triển mạnh mẽ của KH&CN và kinh tế tri thức
trên thế giới.
Thách thức lớn nhất trong phát
triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay là sự yếu kém về chất lượng tăng
trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp của nền kinh tế, dẫn đến nguy cơ kéo
dài tình trạng tụt hậu của nước ta so với các nước trong khu vực và khó có thể
thực hiện được mục tiêu CNH, HĐH. Điều này đòi hỏi KH&CN phải góp phần quan
trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tư tưởng của chiến lược phát
triển KH&CN nước ta đến năm 2010 là tập trung xây dựng nền KH&CN nước
ta theo hướng hiện đại và hội nhập, phấn đấu đạt trình độ trung bình tiên tiến
trong khu vực vào năm 2010, đưa KH&CN thực sự trở thành nền tảng và động
lực đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Chiến lược phát triển KH&CN
có nhiệm vụ chủ yếu sau: Xây dựng hệ thống KH&CN nước ta có liên kết, có
động lực, có năng lực đủ mạnh và được quản lý theo những cơ chế thích hợp; đẩy
mạnh hội nhập quốc tế về KH&CN; góp phần quyết định nâng cao chất
lượng tăng trưởng và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế; phục vụ có hiệu quả
các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 đã được Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX thông qua.
1. Thực trạng
khoa học và công nghệ Việt Nam
1.1. Những thành tựu
a) Tiềm lực khoa học và công
nghệ đã được tăng cường và phát triển
Nhờ có sự quan tâm đầu tư của
Đảng và Nhà nước, trong nhiều thập kỷ qua, chúng ta đã đào tạo được trên 1,8
triệu cán bộ có trình độ đại học và cao đẳng trở lên với trên 30 nghìn người có
trình độ trên đại học (trên 14 nghìn tiến sĩ và 16 nghìn thạc sĩ) và khoảng hơn
2 triệu công nhân kỹ thuật; trong đó, có khoảng 34 nghìn người đang làm việc
trực tiếp trong lĩnh vực KH&CN thuộc khu vực nhà nước. Đây là nguồn nhân
lực quan trọng cho hoạt động KH&CN của đất nước. Thực tế cho thấy, đội ngũ
này có khả năng tiếp thu tương đối nhanh và làm chủ được tri thức, công nghệ
hiện đại trong một số ngành và lĩnh vực.
Thời gian qua, đã xây dựng được
một mạng lưới các tổ chức KH&CN với trên 1.100 tổ chức nghiên cứu và phát
triển thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó có gần 500 tổ chức ngoài nhà nước;
197 trường đại học và cao đẳng, trong đó có 30 trường ngoài công lập. Cơ sở hạ
tầng kỹ thuật của các viện, trung tâm nghiên cứu, các phòng thí nghiệm, các
trung tâm thông tin KH&CN, thư viện, cũng được tăng cường và nâng cấp. Đã
xuất hiện một số loại hình gắn kết tốt giữa nghiên cứu khoa học, phát triển
công nghệ với sản xuất - kinh doanh.
Mặc dù ngân sách nhà nước còn
hạn hẹp, nhưng với sự nỗ lực rất lớn của Nhà nước, từ năm 2000 tỷ lệ chi ngân
sách nhà nước cho KH&CN đã đạt 2%, đánh dấu một mốc quan trọng trong quá
trình thực hiện chính sách đầu tư phát triển KH&CN của Đảng và Nhà nước.
b) Khoa học và công nghệ đóng
góp tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội
Khoa học xã hội và nhân văn đã
góp phần quan trọng lý giải và khẳng định giá trị khoa học và thực tiễn của Chủ
nghĩa Mác-Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam; cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước; góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới nói
chung và vào quá trình đổi mới tư duy kinh tế nói riêng.
Các kết quả điều tra cơ bản và
nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên đã phục vụ xây dựng
luận cứ khoa học cho các phương án phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Khoa học và công nghệ đã góp
phần quan trọng trong việc tiếp thu, làm chủ, thích nghi và khai thác có hiệu quả
các công nghệ nhập từ nước ngoài. Nhờ đó, trình độ công nghệ trong một số ngành
sản xuất, dịch vụ đã được nâng lên đáng kể, nhiều sản phẩm hàng hoá có sức cạnh
tranh cao hơn. Đặc biệt, trong lĩnh vực nông nghiệp KH&CN đã tạo ra nhiều
giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng và năng suất cao, góp phần chuyển đổi
cơ cấu kinh tế nông thôn, đưa nước ta từ chỗ là nước nhập khẩu lương thực trở
thành một trong những nước xuất khẩu gạo, cà phê, v.v... hàng đầu trên thế
giới.
Các chương trình nghiên cứu
trọng điểm về công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, tự
động hoá, công nghệ cơ khí - chế tạo máy, đã góp phần nâng cao năng lực nội
sinh trong một số lĩnh vực công nghệ tiên tiến, nâng cao năng suất, chất lượng
và hiệu quả của nhiều ngành kinh tế.
Khoa học và công nghệ trong
những năm qua đã góp phần đào tạo và nâng cao trình độ nhân lực, chăm sóc sức
khoẻ nhân dân, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc và phát huy truyền thống văn
hoá tốt đẹp của dân tộc.
c) Cơ chế quản lý khoa học và
công nghệ từng bước được đổi mới
Hệ thống quản lý nhà nước về KH&CN
được tổ chức từ trung ương đến địa phương đã đẩy mạnh phát triển KH&CN, góp
phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của ngành và địa
phương.
Thực hiện Luật Khoa học và Công
nghệ, các chương trình, đề tài, dự án KH&CN đã bám sát hơn nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội. Cơ chế tuyển chọn tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ KH&CN
đã bước đầu được thực hiện theo nguyên tắc dân chủ, công khai.
Hoạt động của các tổ chức KH&CN
đã mở rộng từ nghiên cứu - phát triển đến sản xuất và dịch vụ KH&CN. Quyền
tự chủ của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động KH&CN bước đầu được tăng
cường. Quyền tự chủ về hợp tác quốc tế của tổ chức, cá nhân hoạt động KH&CN
được mở rộng.
Vốn huy động cho KH&CN từ
các nguồn hợp đồng với khu vực sản xuất - kinh doanh, tín dụng ngân hàng, tài
trợ quốc tế và các nguồn khác, tăng đáng kể nhờ chính sách đa dạng hoá nguồn
vốn đầu tư cho KH&CN. Đã cải tiến một bước việc cấp phát kinh phí đến nhà
khoa học theo hướng giảm bớt các khâu trung gian .
Việc phân công, phân cấp trong
quản lý nhà nước về KH&CN từng bước được hoàn thiện thông qua các quy định
về chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
d) Trình độ nhận thức và ứng
dụng khoa học và công nghệ của nhân dân ngày càng được nâng cao
Nhờ có sự quan tâm của tổ chức
Đảng, chính quyền các cấp, hoạt động tích cực của các tổ chức KH&CN, các tổ
chức khuyến nông, lâm, ngư và công tác phổ biến, tuyên truyền rộng rãi về tác
động của KH&CN đến sản xuất và đời sống, nhận thức và khả năng tiếp thu,
ứng dụng tri thức KH&CN của người dân trong thời gian qua đã tăng lên rõ
rệt. Hoạt động KH&CN ngày càng được xã hội hoá trên phạm vi cả nước.
1.2. Những yếu kém và nguyên
nhân chủ yếu
a) Những yếu kém
Mặc dù đã đạt được những thành
tựu nhất định, nhưng nhìn chung KH&CN nước ta còn nhiều mặt yếu kém, còn có
khoảng cách khá xa so với thế giới và khu vực, chưa đáp ứng được yêu cầu là nền
tảng và động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Năng lực khoa học và công nghệ
còn nhiều yếu kém:
- Đội ngũ cán bộ KH&CN còn
thiếu cán bộ đầu đàn giỏi, các "tổng công trình sư", đặc biệt là
thiếu cán bộ KH&CN trẻ kế cận có trình độ cao. Cơ cấu nhân lực KH&CN
theo ngành nghề và lãnh thổ còn nhiều bất hợp lý.
- Đầu tư của xã hội cho KH&CN
còn rất thấp, đặc biệt là đầu tư từ khu vực doanh nghiệp. Trang thiết bị của
các viện nghiên cứu, trường đại học nhìn chung còn rất thiếu, không đồng bộ,
lạc hậu so với những cơ sở sản xuất tiên tiến cùng ngành.
- Hệ thống giáo dục và đào tạo
chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao, đặc biệt
đối với những lĩnh vực KH&CN tiên tiến; chưa đáp ứng yêu cầu phát triển KH&CN
cũng như sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Hệ thống dịch vụ KH&CN,
bao gồm thông tin KH&CN, tư vấn chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ, tiêu
chuẩn - đo lường - chất lượng còn yếu kém cả về cơ sở vật chất và năng lực cung
cấp dịch vụ đáp ứng các yêu cầu của hội nhập khu vực và quốc tế.
- Thiếu sự liên kết hữu cơ giữa
nghiên cứu KH&CN, giáo dục - đào tạo và sản xuất - kinh doanh; thiếu sự hợp
tác chặt chẽ giữa các tổ chức nghiên cứu - phát triển, các trường đại học và
doanh nghiệp.
- So với các nước trong khu vực
và trên thế giới, nước ta còn có khoảng cách rất lớn về tiềm lực và kết quả
hoạt động KH&CN: tỷ lệ cán bộ nghiên cứu KH&CN trong dân số và mức đầu
tư cho nghiên cứu khoa học theo đầu người thấp; các kết quả nghiên cứu - phát
triển theo chuẩn mực quốc tế còn rất ít.
ưNhìn chung, năng lực KH&CN
nước ta còn yếu kém, chưa giải đáp được kịp thời nhiều vấn đề của thực tiễn đổi
mới, chưa gắn kết chặt chẽ và đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế - xã
hội.
Trình độ công nghệ của nhiều
ngành sản xuất còn thấp và lạc hậu:
Ngoài những công nghệ tiên tiến
được đầu tư mới trong một số ngành, lĩnh vực như bưu chính - viễn thông, dầu
khí, hàng điện tử tiêu dùng, sản xuất điện, xi măng, nhìn chung trình độ công
nghệ của các ngành sản xuất nước ta hiện lạc hậu khoảng 2 - 3 thế hệ công nghệ so
với các nước trong khu vực. Tình trạng này hạn chế năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp và nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực.
Cơ chế quản lý khoa học và công
nghệ chậm được đổi mới, còn mang nặng tính hành chính:
- Quản lý hoạt động KH&CN
còn tập trung chủ yếu vào các yếu tố đầu vào, chưa chú trọng đúng mức đến quản
lý chất lượng sản phẩm đầu ra và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. Các
nhiệm vụ KH&CN chưa thực sự gắn kết chặt chẽ với nhu cầu phát triển kinh tế
- xã hội. Công tác đánh giá nghiệm thu kết quả nghiên cứu chưa tương hợp với
chuẩn mực quốc tế.
- Cơ chế quản lý các tổ chức KH&CN
không phù hợp với đặc thù của lao động sáng tạo và thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Các tổ chức KH&CN chưa có được đầy đủ quyền tự
chủ về kế hoạch, tài chính, nhân lực và hợp tác quốc tế để phát huy tính năng
động, sáng tạo.
- Việc quản lý cán bộ KH&CN
theo chế độ công chức không phù hợp với hoạt động KH&CN, làm hạn chế khả
năng lưu chuyển và đổi mới cán bộ. Thiếu cơ chế đảm bảo để cán bộ KH&CN
được tự do chính kiến, phát huy khả năng sáng tạo, tự chịu trách nhiệm trong
khuôn khổ pháp luật. Chưa có những chính sách hữu hiệu tạo động lực đối với cán
bộ KH&CN và chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, chế độ tiền lương còn
nhiều bất hợp lý, không khuyến khích cán bộ KH&CN toàn tâm với sự nghiệp KH&CN.
- Cơ chế quản lý tài chính trong
hoạt động KH&CN chưa tạo thuận lợi cho nhà khoa học, chưa huy động được
nhiều nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; cơ chế tự chủ về tài chính của các tổ
chức KH&CN chưa đi liền với tự chủ về quản lý nhân lực nên hiệu quả còn hạn
chế.
- Thị trường KH&CN chậm phát
triển. Hoạt động mua, bán công nghệ và lưu thông kết quả nghiên cứu KH&CN
còn bị hạn chế do thiếu các tổ chức trung gian, môi giới, các quy định pháp lý
cần thiết, đặc biệt là hệ thống bảo hộ hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ.
Tóm lại, công tác quản lý nhà
nước về KH&CN còn chưa đổi mới kịp so với yêu cầu chuyển sang kinh tế thị
trường.
b) Những nguyên nhân chủ yếu
Đường lối chính sách phát triển
KH&CN của Đảng và Nhà nước chưa được quán triệt đầy đủ và chậm được triển
khai trong thực tiễn:
- Quan điểm KH&CN là nền
tảng và động lực phát triển đất nước đã được khẳng định trong các nghị quyết
của Đảng nhưng trên thực tế chưa được các cấp, các ngành, các địa phương quán
triệt đầy đủ và triển khai trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội.
- Nhiều chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước về phát triển KH&CN chậm được thể chế hoá bằng các văn
bản quy phạm pháp luật; việc tổ chức, chỉ đạo thực hiện chính sách thiếu kiên
quyết nên kết quả còn hạn chế.
Năng lực của các cơ quan tham
mưu, quản lý KH&CN các cấp còn yếu kém:
- Cơ chế kế hoạch hoá, tập
trung, bao cấp ăn sâu vào tiềm thức và thói quen của không ít cán bộ KH&CN
và quản lý KH&CN đã tạo ra sức ỳ không dễ khắc phục trong cơ chế mới, không
đáp ứng được yêu cầu về đổi mới quản lý KH&CN trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.
- Chưa làm rõ trách nhiệm của Nhà
nước đối với những hoạt động KH&CN mà Nhà nước cần đầu tư phát triển như:
các lĩnh vực KH&CN trọng điểm, ưu tiên; nghiên cứu chiến lược, chính sách
phát triển; nghiên cứu cơ bản; nghiên cứu mang tính công ích, v.v...; cũng như
chưa có cơ chế, chính sách phù hợp đối với các hoạt động KH&CN cần và có
thể vận dụng cơ chế thị trường, như nghiên cứu ứng dụng và phát triển công
nghệ, dịch vụ KH&CN.
- Quản lý nhà nước đối với khu
vực hành chính và khu vực sự nghiệp trong hệ thống KH&CN chưa được tách
biệt rõ ràng, làm cho công tác quản lý các tổ chức KH&CN còn mang nặng tính
hành chính.
- Chậm tổng kết thực tiễn để
nhân rộng các điển hình tiên tiến về gắn kết giữa nghiên cứu KH&CN với giáo
dục - đào tạo và sản xuất - kinh doanh.
Đầu tư cho phát triển khoa học
và công nghệ còn hạn hẹp:
- Đầu tư xây dựng tiềm lực KH&CN
trong thời gian dài còn chưa được chú trọng đúng mức, thiếu tập trung vào lĩnh
vực trọng điểm, ưu tiên, dẫn đến cơ sở hạ tầng KH&CN lạc hậu, hiệu quả đầu
tư thấp.
- Thiếu quy hoạch đào tạo đội
ngũ cán bộ khoa học trình độ cao ở các lĩnh vực KH&CN ưu tiên, đặc biệt là
cán bộ KH&CN đầu ngành, các "tổng công trình sư".
Cơ chế quản lý kinh tế chưa tạo
môi trường thuận lợi cho phát triển khoa học và công nghệ:
Cơ chế quản lý kinh tế hiện nay
còn duy trì sự bao cấp gián tiếp của Nhà nước, độc quyền của doanh nghiệp trong
nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh, làm cho các doanh nghiệp nhà nước có tư
tưởng ỷ lại, chưa quan tâm đến ứng dụng các kết quả nghiên cứu KH&CN và đổi
mới công nghệ. Thiếu cơ chế, chính sách hữu hiệu để gắn kết giữa KH&CN với
sản xuất - kinh doanh và khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng kết quả nghiên cứu
KH&CN. Hệ thống tài chính, tiền tệ kém phát triển cũng không tạo điều kiện
cho doanh nghiệp tự huy động được nguồn vốn để đầu tư cho KH&CN.
2. Bối cảnh,
cơ hội và thách thức đối với sự phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam
2.1. Bối cảnh quốc tế
a) Xu hướng phát triển khoa học
và công nghệ
Cuộc cách mạng KH&CN trên
thế giới tiếp tục phát triển với nhịp độ ngày càng nhanh, có khả năng tạo ra
những thành tựu mang tính đột phá, khó dự báo trước và có ảnh hưởng to lớn tới
mọi mặt của đời sống xã hội loài người.
Nhờ những thành tựu to lớn của
KH&CN, đặc biệt là công nghệ thông tin - truyền thông, công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu, v.v..., xã hội loài người đang trong quá trình chuyển từ
nền văn minh công nghiệp sang thời đại thông tin, từ nền kinh tế dựa vào các
nguồn lực tự nhiên sang nền kinh tế dựa vào tri thức, mở ra cơ hội mới cho các
nước đang phát triển có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Khoa học và công nghệ đang trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp, hàng đầu. Sức mạnh của mỗi quốc gia tuỳ
thuộc phần lớn vào năng lực KH&CN. Lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên,
giá lao động rẻ ngày càng trở nên ít quan trọng hơn. Vai trò của nguồn nhân lực
có trình độ chuyên môn, có năng lực sáng tạo, ngày càng có ý nghĩa quyết định
trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế.
Thời gian đưa kết quả nghiên cứu
vào áp dụng và vòng đời công nghệ ngày càng rút ngắn. Lợi thế cạnh tranh đang
thuộc về các doanh nghiệp biết lợi dụng các công nghệ mới để tạo ra các sản
phẩm và dịch vụ mới, đáp ứng nhu cầu đa dạng và luôn thay đổi của khách hàng.
Với tiềm lực hùng mạnh về tài chính và KH&CN, các công ty xuyên quốc gia,
đa quốc gia đang nắm giữ và chi phối thị trường các công nghệ tiên tiến.
Để thích ứng với bối cảnh trên,
các nước phát triển đang điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các
ngành công nghiệp và dịch vụ có hàm lượng công nghệ cao, công nghệ thân môi
trường; đẩy mạnh chuyển giao những công nghệ tiêu tốn nhiều nguyên liệu, năng
lượng, gây ô nhiễm cho các nước đang phát triển. Nhiều nước đang phát triển
dành ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực KH&CN trình độ cao, tăng mức đầu tư cho
nghiên cứu và đổi mới công nghệ, nhất là một số hướng công nghệ cao chọn lọc;
tăng cường cơ sở hạ tầng thông tin - truyền thông; nhằm tạo lợi thế cạnh tranh
và thu hẹp khoảng cách phát triển.
b) Xu thế toàn cầu hoá và hội
nhập quốc tế
Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế ngày càng gia tăng. Đây vừa là quá trình hợp tác để phát triển
vừa là quá trình đấu tranh giữa các nước để bảo vệ lợi ích quốc gia.
Để tồn tại và phát triển trong
môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt, những yêu cầu về tăng năng suất lao
động, thường xuyên đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ,
đổi mới phương thức tổ chức quản lý, đang đặt ra ngày càng gay gắt hơn. Đặc
biệt, trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, các thành tựu to lớn của công nghệ
thông tin - truyền thông, xu hướng phổ cập Internet, phát triển thương mại điện
tử, kinh doanh điện tử, ngân hàng điện tử, Chính phủ điện tử, v.v... đang tạo
ra các lợi thế cạnh tranh mới của các quốc gia và từng doanh nghiệp.
Đối với các nước đang phát triển
nếu không chủ động chuẩn bị về nguồn nhân lực, tăng cường cơ sở hạ tầng thông
tin - viễn thông, điều chỉnh các quy định về pháp lý, v.v... thì nguy cơ tụt
hậu ngày càng xa và thua thiệt trong quan hệ trao đổi quốc tế là điều khó tránh
khỏi.
2.2. Bối cảnh trong nước
Sau hơn 15 năm đổi mới, nước ta
đã đạt được những thành tựu quan trọng, làm nền tảng cho giai đoạn phát triển
mới: nền kinh tế có mức tăng trưởng cao, liên tục; tình hình chính trị, xã hội
ổn định; xu thế dân chủ hoá, xã hội hoá ngày càng mở rộng; đời sống nhân dân
được nâng cao rõ rệt; quan hệ hợp tác quốc tế được cải thiện.
Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục
khẳng định con đường đổi mới theo hướng đẩy mạnh CNH, HĐH để đưa nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
cam kết thực hiện các thoả thuận trong khuôn khổ AFTA, Hiệp định thương mại
Việt Nam - Hoa Kỳ, tích cực chuẩn bị tham gia WTO; tăng cường đổi mới khu vực
kinh tế quốc doanh, phát triển kinh tế tập thể, khuyến khích khu vực dân doanh,
hỗ trợ mạnh mẽ khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ; đẩy mạnh cải cách hành chính,
v.v...
Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội 2001 - 2010 của nước ta đã xác định mục tiêu phát triển tổng quát là:
Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nguồn lực con người, năng lực
khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh
được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.
Trong bối cảnh đó, KH&CN có
nhiệm vụ cung cấp kịp thời luận cứ khoa học cho các quyết sách quan trọng của
Đảng và Nhà nước; đóng góp thiết thực vào việc nâng cao hiệu quả và sức khả
năng cạnh tranh của nền kinh tế, đáp ứng các mục tiêu chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội đến năm 2010.
2.3. Cơ hội và thách thức
a) Cơ hội
Đảng và Nhà nước luôn coi trọng
sự nghiệp phát triển KH&CN, Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định phát
triển KH&CN cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu,
là nền tảng và động lực cho CNH, HĐH đất nước.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh
tế, với đường lối đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, nước ta có cơ hội
thuận lợi để tiếp thu tri thức khoa học, công nghệ, các nguồn lực và kinh
nghiệm tổ chức quản lý tiên tiến của nước ngoài để nhanh chóng tăng cường năng
lực KH&CN quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Tận dụng những thành tựu của
cuộc cách mạng KH&CN hiện đại, nước ta có thể đi thẳng vào những công nghệ
hiện đại để rút ngắn quá trình CNH, HĐH và khoảng cách phát triển kinh tế so
với các nước đi trước. Với tiềm năng trí tuệ dồi dào, nếu có một chiến lược
phát triển nguồn nhân lực đúng đắn, nước ta có thể sớm đi vào một số lĩnh vực
của kinh tế tri thức.
Quá trình đổi mới đất nước đã
tạo ra những tiền đề mới cho sự phát triển KH&CN của nước ta trong thời
gian tới. Nền kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng cao, liên tục trong thời
gian qua là điều kiện thuận lợi để tăng đầu tư cho phát triển KH&CN, đồng
thời thúc đẩy đổi mới công nghệ và ứng dụng thành tựu KH&CN trong nền kinh
tế, nhất là trước sức ép về cạnh tranh trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc
tế.
b) Thách thức
Trong bối cảnh phát triển năng
động và khó dự báo cả về KH&CN và kinh tế của thế giới hiện đại, khả năng
nắm bắt thời cơ và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài tuỳ thuộc nhiều vào trình
độ và năng lực KH&CN của quốc gia. Thách thức lớn nhất đối với sự phát
triển KH&CN nước ta hiện nay là phải nâng cao nhanh chóng năng lực KH&CN
để thực hiện quá trình CNH, HĐH rút ngắn, trong điều kiện nước ta còn nghèo,
vốn đầu tư hạn hẹp, trình độ phát triển kinh tế và KH&CN còn có khoảng cách
khá xa so với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực.
Trong xu thế phát triển của kinh
tế tri thức, lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên, giá lao động rẻ dần
nhường chỗ cho lợi thế về nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn giỏi, có năng
lực sáng tạo. Nước ta nếu không sớm chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của lực lượng lao động thì sẽ không có khả năng
cạnh tranh với các nước trong khu vực về thu hút đầu tư và các công nghệ tiên
tiến từ bên ngoài.
Trong quá trình hội nhập quốc tế
về kinh tế và KH&CN, nước ta đang đứng trước những khó khăn về chuyển đổi
và xây dựng những thể chế mới về kinh tế, thương mại, tài chính, ngân hàng, sở
hữu trí tuệ, v.v... phù hợp với thông lệ quốc tế. Tình trạng này nếu không sớm
vượt qua sẽ cản trở sự thành công của quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Trước những cơ hội và thách thức
trên đây, nếu không có những quyết sách đột phá về đổi mới thể chế kinh tế và
đổi mới cơ chế quản lý KH&CN, những biện pháp mạnh mẽ tăng cường năng lực
KH&CN quốc gia, thì nguy cơ tụt hậu kinh tế và KH&CN ngày càng xa và
tình trạng lệ thuộc lâu dài vào nguồn công nghệ nhập là khó tránh khỏi.
3. Quan điểm
và mục tiêu phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2010
3.1. Quan điểm phát triển khoa
học và công nghệ
Quan điểm chủ đạo về phát triển
KH&CN đã được chỉ rõ trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước, như: Nghị
quyết Trung ương 2 khoá VIII, Luật KH&CN, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX
và Kết luận của Hội nghị Trung ương 6 khoá IX mới đây. Những quan điểm này cần
được cụ thể hoá và phát triển phù hợp với bối cảnh mới trong nước và quốc tế
trong giai đoạn từ nay đến năm 2010.
a) Phát triển khoa học và công
nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước
Để KH&CN nhanh chóng phát
huy được vai trò là nền tảng và động lực đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Nhà nước
cần có chính sách quan tâm đặc biệt đến phát triển KH&CN: coi đầu tư cho KH&CN
là đầu tư phát triển; ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, phát
triển nguồn nhân lực; tạo động lực vật chất và tinh thần mạnh mẽ cho cá nhân
hoạt động KH&CN, trọng dụng và tôn vinh nhân tài.
b) Phát triển kinh tế - xã hội
dựa vào khoa học và công nghệ, phát triển khoa học và công nghệ định hướng vào
các mục tiêu kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng và an ninh
Các chủ trương, quyết định,
chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội quan trọng phải được luận cứ về
KH&CN; các nhiệm vụ KH&CN phải hướng vào giải quyết có hiệu quả các mục
tiêu kinh tế - xã hội. Mọi ngành, mọi cấp phải đẩy mạnh việc triển khai nghiên
cứu và ứng dụng rộng rãi thành tựu KH&CN vào hoạt động kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh, từ việc định hướng chiến lược phát triển, hoạch định chính
sách, xây dựng quy hoạch, kế hoạch đến việc tổ chức thực hiện.
c) Bảo đảm sự gắn kết giữa khoa
học và công nghệ với giáo dục và đào tạo; giữa khoa học và công nghệ; giữa khoa
học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật
Sự gắn kết giữa KH&CN với
giáo dục - đào tạo trước hết phải được thực hiện ngay trong các trường đại học,
các tổ chức nghiên cứu và phát triển; đồng thời có cơ chế khuyến khích kết hợp
với biện pháp hành chính để tạo ra sự hợp tác, phối hợp giữa các tổ chức này.
Sự gắn kết giữa các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên,
khoa học kỹ thuật và giữa khoa học với công nghệ được thực hiện trên cơ sở
những nghiên cứu liên ngành nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội tổng
hợp và phát triển bền vững đất nước.
d) Đẩy mạnh tiếp thu thành tựu
khoa học và công nghệ thế giới, đồng thời phát huy năng lực khoa học và công
nghệ nội sinh, nâng cao hiệu quả sử dụng tiềm lực khoa học và công nghệ của đất
nước
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hợp tác quốc tế về KH&CN phải được đẩy
mạnh nhằm khai thác những cơ hội mà toàn cầu hoá có thể mang lại. Trong điều
kiện của nước ta hiện nay, cần lấy nhập công nghệ từ các nước phát triển là chủ
yếu nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế - kỹ thuật;
đồng thời nâng cao năng lực KH&CN nội sinh để tiếp thu có hiệu quả thành
tựu KH&CN hiện đại của thế giới. Đổi mới cơ chế quản lý nhằm khai thác tối
đa năng lực KH&CN hiện có trong nước, vừa tranh thủ tiếp thu, ứng dụng
nhanh chóng và có hiệu quả các thành tựu KH&CN của thế giới.
đ) Tập trung đầu tư của Nhà nước
vào các lĩnh vực trọng điểm, ưu tiên, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động
khoa học và công nghệ
Nhà nước tập trung đầu tư có
trọng tâm, trọng điểm; kết hợp đồng bộ giữa đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng,
trang thiết bị kỹ thuật với đầu tư đào tạo nhân lực KH&CN, thực hiện dứt
điểm các công trình để sớm phát huy hiệu quả đầu tư. Quan điểm này phải được
quán triệt ngay trong quá trình xây dựng kế hoạch phát triển KH&CN 5 năm và
hàng năm trên cơ sở những định hướng KH&CN trọng điểm được đề ra trong
Chiến lược phát triển KH&CN. Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân
thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài tham gia nghiên cứu, ứng
dụng và đầu tư phát triển KH&CN.
3.2. Mục tiêu phát triển khoa
học và công nghệ đến năm 2010
Chiến lược phát triển KH&CN
đến năm 2010 tập trung thực hiện 3 nhóm mục tiêu chủ yếu.
a) Bảo đảm cung cấp luận cứ khoa
học cho quá trình công nghiệp hoá rút ngắn, phát triển bền vững theo định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập thành công vào nền kinh tế thế giới
Khoa học và công nghệ, đặc biệt
là khoa học xã hội và nhân văn tập trung nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận và
thực tiễn cho quá trình CNH rút ngắn và xây dựng thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoạch định
đường lối, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các
giải pháp phát triển bền vững và hội nhập thành công vào nền kinh tế khu vực và
thế giới; giải đáp kịp thời những vấn đề lý luận và thực tiễn khác do cuộc sống
đặt ra.
b) Góp phần quyết định nâng cao
chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế và năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng
hoá, đảm bảo quốc phòng và an ninh
Đến 2010, KH&CN phải góp
phần quyết định vào việc tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về năng suất, chất lượng
và hiệu quả ở một số ngành kinh tế quan trọng
Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng
rộng rãi kỹ thuật tiến bộ trong ngành nông - lâm - ngư nghiệp và công nghiệp
chế biến nông sản, thực phẩm nhằm phát huy có hiệu quả nguồn tài nguyên sinh
học nhiệt đới, nâng cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nông sản xuất
khẩu ngang bằng các nước có nền nông nghiệp phát triển trong khu vực, góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo thêm nhiều việc làm, cải thiện đáng
kể đời sống nhân dân và bộ mặt nông thôn nước ta vào năm 2010.
Hỗ trợ khu vực doanh nghiệp vừa
và nhỏ, khu vực tiểu thủ công nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng,
giá trị gia tăng, sức cạnh tranh của sản phẩm, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong
nước và mở rộng xuất khẩu.
Nâng cao năng lực tiếp thu, làm
chủ, thích nghi và cải tiến các công nghệ hiện đại nhập từ nước ngoài trong một
số lĩnh vực dịch vụ, kết cấu hạ tầng (tài chính, ngân hàng, bưu chính, viễn
thông, giao thông vận tải, hàng không,v.v...) nhằm đảm bảo sự tương hợp quốc
tế, hội nhập thành công vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Xây dựng và phát triển có trọng
điểm một số ngành công nghiệp công nghệ cao; phát triển công nghiệp công nghệ
thông tin - truyền thông, công nghiệp công nghệ sinh học trở thành các ngành
kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu trong nước,
góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu.
c) Xây dựng và phát triển năng
lực khoa học và công nghệ đạt trình độ trung bình tiên tiến trong khu vực
Phát triển tiềm lực khoa học và
công nghệ đạt trình độ trung bình tiên tiến trong khu vực:
- Bảo đảm tốc độ tăng tỷ lệ đầu
tư cho KH&CN từ ngân sách nhà nước phải lớn hơn tốc độ tăng chi ngân sách
nhà nước, đồng thời đẩy mạnh đa dạng hoá các nguồn đầu tư ngoài ngân sách nhà
nước cho KH&CN. Phấn đấu đưa tổng mức đầu tư của toàn xã hội cho KH&CN
đạt 1% GDP vào năm 2005 và 1,5% GDP vào năm 2010.
- Phát triển nguồn nhân lực KH&CN
có chất lượng cao, có cơ cấu trình độ, chuyên môn phù hợp với các hướng KH&CN
ưu tiên, với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và được phân bố hợp lý theo
vùng lãnh thổ. Phấn đấu đến năm 2010, nâng cao chất lượng và phát triển đội ngũ
cán bộ KH&CN ngang mức trung bình tiên tiến của các nước trong khu vực.
- Hình thành một số tổ chức
nghiên cứu - phát triển và một số trường đại học đạt trình độ trung bình tiên
tiến trong khu vực ở một số lĩnh vực công nghệ trọng điểm, một số ngành khoa
học có thế mạnh của Việt Nam.
- Hoàn thành xây dựng giai đoạn
I hai khu công nghệ cao tại Hoà Lạc và thành phố Hồ Chí Minh; đưa vào sử dụng
và khai thác có hiệu quả các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia đã được phê
duyệt; nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật một số tổ chức dịch vụ KH&CN quan
trọng về thông tin KH&CN, tiêu chuẩn - đo lường - chất lượng.
- Hình thành mạng lưới các tổ
chức KH&CN đủ năng lực hội nhập quốc tế, gắn kết chặt chẽ với giáo dục -
đào tạo, sản xuất - kinh doanh.
Hình thành cơ chế quản lý quản
lý khoa học và công nghệ tiến bộ, tương hợp quốc tế:
Đổi mới căn bản cơ chế quản lý
KH&CN theo hướng phù hợp với cơ chế thị trường, đặc thù của hoạt động KH&CN
và hội nhập quốc tế; tạo động lực phát huy sáng tạo của đội ngũ cán bộ KH&CN;
nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN.
Nâng cao năng lực khoa học và
công nghệ:
Đến năm 2010, KH&CN nước ta
đủ năng lực tiếp thu, làm chủ và sử dụng có hiệu quả công nghệ hiện đại nhập từ
nước ngoài; có khả năng nghiên cứu và ứng dụng một số công nghệ hiện đại, nhất
là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu tiên tiến, công
nghệ tự động hoá, cơ - điện tử; tiếp cận trình độ thế giới trong một số lĩnh
vực khoa học Việt Nam có thế mạnh.
4. Nhiệm vụ
trọng tâm phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2010
4.1. Các nhiệm vụ trọng tâm
nghiên cứu trong khoa học xã hội và nhân văn
a) Nghiên cứu lý luận và thực
tiễn con đường phát triển của Việt Nam
Tiếp tục nghiên cứu làm rõ con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện của đất nước, con người, xã
hội Việt Nam và thích ứng với những thay đổi hiện nay của bối cảnh quốc tế.
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực
tiễn cho quá trình công nghiệp hoá rút ngắn; các giải pháp đẩy mạnh công cuộc
CNH, HĐH và phát triển bền vững đất nước.
b) Nghiên cứu những vấn đề kinh
tế, chính trị, pháp luật, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh
Nghiên cứu bản chất nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN); vấn đề đổi mới và tạo lập đồng
bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Cung cấp luận cứ khoa
học cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và các ngành, vùng
trọng điểm. Đề xuất giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế,
năng lực tham gia vào các định chế tài chính - tiền tệ quốc tế.
Nghiên cứu đổi mới hệ thống
chính trị, đề xuất giải pháp thực hiện và phát huy dân chủ, củng cố vai trò của
Đảng cầm quyền, cải cách bộ máy hành chính nhà nước. Xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Nghiên cứu quan hệ sở hữu, đảng viên làm kinh tế tư
nhân. Nghiên cứu sự biến đổi của cơ cấu xã hội và quản lý sự phát triển xã hội
ở Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc tạo lập và phát triển đồng
bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế
quốc tế. Nghiên cứu những vấn đề quốc phòng, an ninh của nước ta trong 10 năm
tới phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nghiên cứu toàn diện và có hệ
thống về tiến trình lịch sử và diện mạo của nền văn hoá Việt Nam, những giá trị
văn hoá mới của Việt Nam, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
c) Nghiên cứu về phát triển con
người Việt Nam
Nghiên cứu cơ bản về con người,
nguồn nhân lực với tư cách là chủ thể xã hội, có trình độ học vấn cao, mang đậm
tính nhân văn và các giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa của
văn hoá - văn minh nhân loại, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc CNH,
HĐH đất nước.
d) Nghiên cứu dự báo các xu thế
phát triển của thế giới
Nghiên cứu bản chất, đặc điểm,
nội dung của cuộc cách mạng KH&CN hiện đại và sự phát triển của nền kinh tế
tri thức trong thế kỷ XXI, trong đó chú trọng mặt xã hội và sự tác động của
cuộc cách mạng này đến tiến trình phát triển của Việt Nam.
Nghiên cứu và dự báo các xu thế
phát triển chủ yếu của thế giới và khu vực những thập niên đầu thế kỷ XXI,
những tác động nhiều mặt của quá trình toàn cầu hoá. Dự báo động thái và xu thế
phát triển chủ yếu ở khu vực và trên thế giới, tranh thủ tối đa thời cơ và lợi
thế, phòng ngừa và giảm thiểu các bất lợi, rủi ro, tập trung mọi nguồn lực cho
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa tư
bản hiện đại trong bối cảnh toàn cầu hoá, sự tác động về chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hoá, quân sự của chủ nghĩa tư bản hiện đại, các chủ thể mới trong quan
hệ quốc tế có ảnh hưởng trực tiếp đến chiến lược phát triển của Việt Nam nhằm
định rõ vị thế, vai trò, bước đi, chính sách hội nhập của Việt Nam vào các thể
chế toàn cầu và khu vực.
4.2. Các nhiệm vụ trọng tâm
nghiên cứu trong khoa học tự nhiên
Nhà nước quan tâm phát triển
nghiên cứu cơ bản trong khoa học tự nhiên, đặc biệt là nghiên cứu cơ bản định
hướng ứng dụng. Trong giai đoạn đến năm 2010, các nghiên cứu cơ bản trong khoa
học tự nhiên cần được tiến hành có trọng điểm theo một số hướng chủ yếu sau đây:
a) Nghiên cứu cơ bản định hướng
ứng dụng nhằm hỗ trợ cho quá trình lựa chọn, tiếp thu, thích nghi và cải tiến
các công nghệ tiên tiến nhập từ nước ngoài vào Việt Nam và tiến tới sáng tạo
các công nghệ đặc thù của Việt Nam, nhất là trong các lĩnh vực công nghệ thông
tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu tiên tiến, công nghệ tự động hoá,
cơ - điện tử.
b) Nghiên cứu làm rõ giá trị sử
dụng của các loại tài nguyên của nước ta, làm cơ sở xây dựng phương án và lựa
chọn công nghệ khai thác có hiệu quả. Chú trọng nghiên cứu tiềm năng về đa dạng
sinh học và các loại tài nguyên quý đang có nguy cơ cạn kiệt do khai thác quá
mức và do môi trường suy thoái.
c) Nghiên cứu bản chất, quy luật
của tự nhiên và những tác động của chúng đến đời sống kinh tế - xã hội nước ta,
trong đó chú ý các yếu tố khí tượng và tự nhiên ở các vùng sinh thái, phục vụ
dự báo phòng tránh thiên tai (bão lụt, cháy rừng, trượt lở đất, nứt đất, xói lở
bờ sông, bờ biển, bồi lấp các cửa sông, cửa đầm, hạn hán, v.v...).
d) Nghiên cứu các vấn đề cơ bản
về Biển Đông phục vụ cho dự báo các nguồn lợi biển, phục vụ xây dựng các công
trình trên biển và khai thác tổng hợp các nguồn lợi từ biển, phát triển bền
vững kinh tế biển, đảm bảo quốc phòng, an ninh.
đ) Phát triển một số lĩnh vực
nghiên cứu lý thuyết mà Việt Nam có thế mạnh, như toán học, vật lý lý thuyết...
4.3. Các hướng công nghệ trọng
điểm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội
Trong giai đoạn từ nay đến năm
2010, nước ta cần tập trung phát triển có chọn lọc một số công nghệ trọng điểm
bao gồm: những công nghệ tiên tiến, có tác động to lớn tới việc hiện đại hoá
các ngành kinh tế - kỹ thuật, bảo đảm quốc phòng, an ninh; tạo điều kiện hình
thành và phát triển một số ngành nghề mới, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh
tế; những công nghệ, phát huy được lợi thế của nước ta về tài nguyên nông
nghiệp nhiệt đới và lực lượng lao động dồi dào ở nông thôn, tạo ra sản phẩm xuất
khẩu và việc làm có thu nhập cho các tầng lớp dân cư.
a) Công nghệ thông tin - truyền
thông (CNTT - TT)
Tập trung nghiên cứu và phát
triển:
- Các công nghệ mới trong lĩnh
vực truyền thông: các dịch vụ băng thông rộng; các hệ thống chuyển mạch; các hệ
thống truyền dẫn quang dung lượng lớn; các công nghệ truy nhập; hệ thống thông
tin di động, mạng Internet thế hệ mới; công nghệ thông tin vệ tinh; công nghệ
quản lý mạng; công nghệ phát thanh và truyền hình số.
- Công nghệ phần mềm: cơ sở dữ
liệu, công nghệ nội dung, công nghệ đa phương tiện, hệ thống thông tin địa lý,
đồ hoạ; phát triển phần mềm trên môi trường mạng; các giải pháp "quản lý
nguồn lực của các tổ chức"; phần mềm nguồn mở; quy trình sản xuất phần
mềm; quy trình đánh giá, kiểm chứng và nâng cao chất lượng phần mềm; thiết kế,
xây dựng các hệ thống tin học ứng dụng.
- Nghiên cứu trí tuệ nhân tạo,
chú trọng những vấn đề đặc thù của Việt Nam: nhận dạng chữ Việt, xử lý ảnh,
nhận dạng tiếng Việt; công nghệ tri thức; hệ chuyên gia; dịch tự động.
- Nghiên cứu cơ bản định hướng
ứng dụng trong một số lĩnh vực chọn lọc: toán học của tin học; một số hướng
liên ngành chọn lọc như công nghệ nano, linh kiện điện tử thế hệ mới, làm cơ sở
cho phát triển ứng dụng tin học cấp nano.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin - truyền thông trong mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, đời sống, quốc
phòng và an ninh:
- Trong công tác quản lý nhà
nước từ trung ương đến địa phương, chú trọng xây dựng các hệ thống thông tin và
cơ sở dữ liệu phục vụ hoạt động quản lý nhà nước, xây dựng Chính phủ điện tử.
- Trong các lĩnh vực kinh tế -
kỹ thuật đòi hỏi phải sớm tương hợp với trình độ khu vực và quốc tế, như: bưu
điện, ngân hàng, tài chính, du lịch, thương mại, đặc biệt là thương mại điện
tử; trong các lĩnh vực năng lượng, giao thông vận tải, quốc phòng, an ninh,
v.v... Thực hiện các dự án tin học hoá và dịch vụ CNTT - TT trong các doanh
nghiệp. Ứng dụng CNTT - TT trong khu vực nông thôn.
- Phổ cập kiến thức và ứng dụng
CNTT - TT trong giáo dục - đào tạo từ phổ thông trung học đến đại học; ứng dụng
CNTT - TT trong nghiên cứu khoa học, trong các hoạt động điều tra, thăm dò,
khảo sát tài nguyên và theo dõi biến động môi trường, trong các lĩnh vực y tế,
văn hoá, du lịch.
Phát triển cơ sở hạ tầng thông
tin - truyền thông và xây dựng ngành công nghiệp công nghệ thông tin - truyền
thông:
Phát triển cơ sở hạ tầng cho
ngành công nghiệp CNTT - TT hiện đại, tương hợp quốc tế. Xây dựng công nghiệp
nội dung, công nghiệp dịch vụ CNTT - TT, công nghiệp phần mềm phục vụ cho thị
trường trong nước và xuất khẩu; đồng thời tận dụng các khả năng chuyển giao
công nghệ, liên doanh, liên kết để phát triển có chọn lọc các cơ sở lắp ráp,
chế tạo linh kiện và thiết bị tin học hiện đại để dành lại thị phần phần cứng
trong nước và xuất khẩu. Đưa công nghiệp CNTT - TT trở thành một ngành công
nghiệp có tốc độ tăng trưởng nhanh, đạt kim ngạch xuất khẩu cao.
b) Công nghệ sinh học (CNSH)
Xây dựng và phát triển các công
nghệ nền của công nghệ sinh học đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, gồm:
- Công nghệ gen (tái tổ hợp ADN).
- Công nghệ vi sinh định hướng
công nghiệp.
- Công nghệ enzym - protein phục
vụ phát triển công nghiệp thực phẩm, dược phẩm.
- Công nghệ tế bào (thực và động
vật) phục vụ chọn, tạo giống mới trong nông, lâm, thuỷ sản và phát triển liệu
pháp tế bào trong y tế.
Phát triển CNSH trong các ngành
kinh tế quốc dân:
- CNSH nông nghiệp (nông - lâm -
ngư): phát triển các xí nghiệp nhân giống cây, con sạch bệnh, sản xuất hạt
giống chất lượng cao; ứng dụng các kỹ thuật CNSH tạo giống cây, con có chất
lượng cao, đảm bảo cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, tập trung
vào nhóm cây lương thực, rau hoa quả, cây lâm nghiệp, vật nuôi, thuỷ sản; phát
triển sản xuất công nghiệp chế phẩm sinh học bảo vệ cây trồng, vật nuôi ở quy
mô vừa và nhỏ.
- CNSH chế biến: phục vụ sản
xuất hàng hoá tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
- CNSH y dược: bảo đảm chế phẩm
cho y tế dự phòng (vacxin, kháng sinh, sinh phẩm chẩn đoán), đảm bảo kiểm soát
an toàn vệ sinh thực phẩm.
- CNSH môi trường: kiểm soát, xử
lý, giám định môi trường, tập trung vào các vùng công nghiệp, các vùng làng
nghề, các trang trại chế biến nông sản; xử lý chất thải rắn, nước thải, khí
thải và khắc phục các sự cố tràn dầu; và bảo vệ đa dạng sinh học.
Xây dựng và phát triển nền công
nghiệp sinh học Việt Nam:
- Khuyến khích mọi thành phần
kinh tế xây dựng và phát triển các xí nghiệp công nghệ sinh học sản xuất các
sản phẩm phục vụ các ngành kinh tế, tiêu dùng và xuất khẩu.
- Nhà nước đầu tư xây dựng một
số ngành công nghiệp sinh học chủ lực như: công nghiệp sản xuất giống cây, con;
công nghiệp sản xuất dược phẩm (vacxin, kháng sinh, sinh phẩm chuẩn đoán); công
nghiệp sản xuất các chế phẩm sinh học bảo vệ cây trồng, vật nuôi; công nghiệp
chế biến thực phẩm; công nghiệp chế biến sản phẩm từ dầu khí.
c) Công nghệ vật liệu tiên tiến
Tập trung nghiên cứu, phát triển
và ứng dụng có hiệu quả các hướng công nghệ sau:
- Công nghệ vật liệu kim loại:
trên cơ sở tài nguyên trong nước, nghiên cứu lựa chọn công nghệ luyện kim
phù hợp như công nghệ lò điện, lò cao - lò chuyển khép kín, công nghệ phi cốc
để sản xuất thép hợp kim chất lượng cao, các hợp kim có tính năng tổng hợp sử
dụng trong các ngành cơ khí chế tạo, xây dựng, giao thông vận tải, hoá chất,
dầu khí, quốc phòng; nghiên cứu lựa chọn công nghệ sản xuất hợp kim nhôm dùng
trong chế tạo máy và trong quốc phòng; công nghệ sản xuất các compozit nền kim
loại sử dụng trong kỹ thuật điện, điện tử và y - sinh.
- Công nghệ vật liệu polime và
compozit: nghiên cứu ứng dụng công nghệ sản xuất vật liệu compozit nền nhiệt
dẻo và nền nhiệt rắn gia cường bằng sợi thuỷ tinh, sợi ba zan và sợi các-bon
phục vụ cho các ngành giao thông vận tải, nông nghiệp, thuỷ sản và quốc phòng;
các polime compozit sử dụng cho kỹ thuật điện và điện tử trong điều kiện môi
trường khắc nghiệt; các polime huỷ sinh học, polime xử lý ô nhiễm môi trường.
- Công nghệ vật liệu điện tử và
quang tử: Nghiên cứu ứng dụng các công nghệ sản xuất vật liệu và linh kiện
quang điện tử và quang tử phục vụ cho lĩnh vực viễn thông, tự động hoá; sản
xuất vật liệu từ tính cao cấp dạng khối, màng vô định hình và nano ứng dụng
trong công nghiệp khai thác khoáng sản, công nghiệp điện, điện tử và tự động
hoá; sản xuất vật liệu và linh kiện cảm biến ứng dụng trong đo lường và tự động
hoá.
- Công nghệ vật liệu y - sinh:
Nghiên cứu các công nghệ sản xuất một số loại vật liệu dùng trong y học để thay
thế một số bộ phận của cơ thể con người: các polime sinh học, composit các-bon,
vật liệu điều tiết sinh lý, vật liệu điều tiết tăng trưởng, vật liệu cac-bon
xốp, vật liệu bi-ô-xi-tan.
- Công nghệ vật liệu nano:
Nghiên cứu ứng dụng để sản xuất nano compozit nền polime và nền kim loại sử
dụng trong các ngành kinh tế - kỹ thuật; xúc tác cấu trúc nano trong lĩnh vực
dầu khí và xử lý môi trường. Nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng trong một số
hướng công nghệ nano có khả năng ứng dụng cao ở Việt Nam.
d) Công nghệ tự
động hoá và cơ điện tử
Nghiên cứu và ứng
dụng công nghệ tự động hoá, cơ điện tử nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả sản
xuất, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế:
- Ứng dụng công
nghệ thiết kế và chế tạo với sự trợ giúp của máy tính (CAD/CAM) trong một số
ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu, như: dệt, may, da giày và ngành cơ khí (trong
các lĩnh vực trọng điểm: thiết bị toàn bộ; máy động lực; máy công cụ; cơ khí
phục vụ nông - lâm - ngư nghiệp và công nghiệp chế biến; cơ khí xây dựng; đóng
tầu; thiết bị điện - điện tử; cơ khí ô tô - cơ khí giao thông vận tải).
- Tự thiết kế, xây
dựng phần mềm, lắp ráp, bảo trì vận hành các hệ thống điều khiển, giám sát, thu
thập và xử lý số liệu (SCADA).
- Ứng dụng công
nghệ tự động hoá tích hợp toàn diện nhằm nâng cao hiệu quả cho toàn bộ quá
trình sản xuất của doanh nghiệp.
- Ứng dụng, phổ
cập công nghệ điều khiển số bằng máy tính (CNC) trong các hệ máy móc cho các
lĩnh vực gia công chế tạo, máy công cụ phục vụ nhu cầu sản xuất trong nước và
xuất khẩu.
- Ứng dụng rộng
rãi công nghệ tự động hoá đo lường và xử lý thông tin phục vụ các ngành sản
xuất, dự báo thời tiết và thiên tai, bảo vệ môi trường.
- Nghiên cứu ứng
dụng và phát triển kỹ thuật rô bốt (đặc biệt là rô bốt thông minh và rô bốt
song song), ưu tiên áp dụng trong những công đoạn sản xuất không an toàn cho
con người, trong môi trường độc hại, trong một số dây chuyền công nghiệp công
nghệ cao và phục vụ quốc phòng, an ninh.
- Nghiên cứu, chế
tạo một số sản phẩm cơ điện tử, đặc biệt trong một số lĩnh vực cơ khí trọng
điểm (máy công cụ, máy động lực, thiết bị điện -điện tử, cơ khí ô tô và các
thiết bị đo lường điều khiển).
- Ứng dụng và phát
triển công nghệ thiết kế, chế tạo các hệ điều khiển cơ điện tử (bao gồm cả phần
cứng và phần mềm), đặc biệt các hệ điều khiển nhúng; ưu tiên phát triển các
phần mềm ứng dụng và các giải pháp thiết kế. Phát triển kỹ thuật mô phỏng, đặc
biệt là công nghệ tạo mẫu ảo, nhằm tối ưu hoá các sản phẩm công nghệ cao ứng
dụng trong các lĩnh vực: rô bốt, đóng tầu, ô tô, máy chính xác, thiết bị cho
năng lượng gió, v.v...
- Nghiên cứu bước
đầu một số hướng cơ điện tử mới, có triển vọng, như: hệ vi cơ điện tử (MEMS) và
hệ nano cơ điện tử (NEMS).
đ) Năng lượng nguyên tử và các
dạng năng lượng mới
Phát triển điện hạt nhân: nghiên
cứu lựa chọn công nghệ cho các dự án nhà máy điện hạt nhân, tiếp thu và làm chủ
công nghệ nhập để vận hành nhà máy an toàn và hiệu quả kinh tế cao.
Nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi
các kỹ thuật hạt nhân, bức xạ và đồng vị phóng xạ trong các ngành kinh tế quốc
dân, trong y tế, địa chất, thuỷ văn và môi trường; đảm bảo an toàn bức xạ hạt
nhân trong các nghiên cứu, phát triển và sử dụng năng lượng nguyên tử; quản lý
chất thải phóng xạ.
Đẩy mạnh nghiên cứu phát triển
và ứng dụng các dạng năng lượng mới phục vụ các vùng sâu, vùng xa, hải đảo,
như: năng lượng mặt trời, năng lượng gió, năng lượng sinh học, v.v...
e) Công nghệ vũ trụ
Nghiên cứu phát triển công nghệ
vũ trụ: nghiên cứu tiếp thu, làm chủ công nghệ và phóng vệ tinh nhỏ quan sát
trái đất, trạm thu mặt đất, phục vụ nhu cầu nghiên cứu khoa học, phát triển
kinh tế - xã hội và quốc phòng an ninh. Xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ
vũ trụ của Việt Nam đến năm 2010 có đủ năng lực thiết kế, chế tạo các loại vệ
tinh nhỏ, thiết kế và chế tạo các trạm thu mặt đất; phát triển một số thiết bị
vũ trụ mang tính thương mại; làm chủ được công nghệ và kỹ thuật tên lửa.
Ứng dụng công nghệ vũ trụ:
Nghiên cứu tiếp nhận chuyển giao công nghệ viễn thám, công nghệ định vị toàn
cầu phục vụ nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản điều kiện tự nhiên và tài
nguyên thiên nhiên; giám sát môi trường; phục vụ qui hoạch sử dụng đất và vùng
lãnh thổ; dự báo và giám sát thiên tai; nuôi trồng và đánh bắt hải sản; định vị
cho các phương tiện giao thông vận tải; phục vụ quốc phòng an ninh, v.v...
g) Công nghệ cơ khí - chế tạo máy
Nghiên cứu và ứng dụng các công
nghệ tiên tiến trong công nghiệp cơ khí - chế tạo máy; phát triển ngành cơ khí
- chế tạo máy đủ sức trang bị một số thiết bị, máy móc đáp ứng nhu cầu trong
nước, tiến tới xuất khẩu:
- Công nghệ tạo phôi: ứng dụng
công nghệ đúc khuôn tươi tự cứng với tiêu chuẩn hóa vật liệu làm khuôn và công
nghệ đúc chính xác với tăng cường khâu cơ giới hoá, tự động hoá, đầu tư thiết
bị nấu luyện và thiết bị phân tích kiểm tra nhanh; công nghệ rèn khuôn dập, cán
tạo phôi, ép chảy, ép và dập sau thiêu kết; công nghệ hàn điện hồ quang tự động
hoặc bán tự động và một số công nghệ hàn hiện đại như hàn plasma, hàn chùm tia
điện tử v.v...
- Công nghệ gia công cơ: cùng
với việc nâng cấp, hiện đại hoá thiết bị, máy móc hiện có, cần áp dụng rộng rãi
công nghệ CAD/CAM/CNC tại các trung tâm gia công nhằm nâng cao chất lượng sản
phẩm và tính linh hoạt thay đổi mẫu sản phẩm; kết hợp cơ khí điện tử phục vụ tự
động hoá thiết kế và các quá trình điều khiển, kiểm tra, đo lường.
- Công nghệ xử lý bề mặt: đầu tư
vào các khâu nhiệt luyện, sơn mạ, phun phủ, thấm tôi liên hoàn tăng bền bề mặt
đạt trình độ tiên tiến.
- Công nghệ chế tạo các thiết
bị, phụ tùng đặc chủng: chế tạo các kết cấu thép lớn, kết cấu công trình.
- Công nghệ chế tạo máy phục vụ
cơ giới hoá nông nghiệp, bảo quản và chế biến lương thực thực phẩm.
h) Các công nghệ bảo quản và chế
biến nông sản, thực phẩm
Tập trung nghiên cứu và ứng dụng
các công nghệ nhằm nâng cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nông sản,
thực phẩm:
- Công nghệ sơ chế: Đẩy mạnh
nghiên cứu, áp dụng công nghệ trong sơ chế, phân loại, làm sạch, đóng gói với
những loại bao bì thích hợp, màng thông minh nhằm tạo ra các nông phẩm chất
lượng cao, ổn định và đồng nhất phục vụ xuất khẩu và nhu cầu trong nước. Tập
trung giải quyết các công nghệ có quy mô nhỏ và vừa phục vụ yêu cầu sơ chế tại
chỗ của các hộ, nhóm hộ, nhằm cung cấp nguyên liệu có chất lượng tốt cho các cơ
sở chế biến tập trung.
- Công nghệ bảo quản: Chú trọng
phổ cập các công nghệ làm khô lúa và hoa màu sau thu hoạch. Tiếp thu và phổ cập
các công nghệ bảo quản lạnh, công nghệ an toàn thực phẩm để bảo quản rau, hoa,
quả tươi, các mặt hàng thủy sản, các sản phẩm chăn nuôi phục vụ tiêu dùng nội
địa và xuất khẩu. Nghiên cứu sử dụng chất bảo quản sinh học, chất bảo quản có
nguồn gốc tự nhiên, từng bước thay thế chất bảo quản hoá học có tính độc cao.
- Công nghệ chế biến: Tận dụng
mọi khả năng để tiếp cận các công nghệ chế biến tiên tiến phù hợp để đa dạng
hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh trên thị trường trong,
ngoài nước. Đặc biệt, cần chú trọng nâng cấp, hiện đại hoá công nghệ chế biến
đối với một số sản phẩm có lợi thế và có triển vọng xuất khẩu của nước ta như:
gạo, thuỷ sản, cà phê, chè, điều, cao su, sản phẩm thịt, sữa, rau, quả, nước
quả, dầu thực vật, v.v...
- Hiện đại hoá hệ thống kiểm tra
chất lượng nông sản, thực phẩm chế biến theo công nghệ tương hợp với tiêu chuẩn
quốc tế và khu vực nhằm đáp ứng yêu cầu chất lượng hàng xuất khẩu và bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng trong nước.
Những công nghệ nêu trên có thể
được nâng cấp theo các phương thức sau:
- Đối với dây chuyền công nghệ
tương đối phức tạp, vượt quá khả năng tự tạo trong nước, cần làm tốt khâu lựa
chọn, tiếp nhận và làm chủ công nghệ nhập từ ngoài.
- Đối với những công nghệ không
quá phức tạp, có nhu cầu lớn trong nước, cần liên kết lực lượng trong nước, tập
trung giải quyết đồng bộ từ nghiên cứu đến phát triển để có công nghệ ổn định,
giá cả hợp lý, có thể sớm phổ biến và nhân rộng trong thực tiễn.
5. Các giải
pháp phát triển khoa học và công nghệ
Để góp phần đạt được những mục
tiêu phát triển KH&CN đến năm 2010, cần tập trung thực hiện đồng bộ các
giải pháp chủ yếu sau: 1) Đổi mới cơ chế quản lý KH&CN; 2) Phát triển tiềm
lực KH&CN; 3) Xây dựng và phát triển thị trường KH&CN; 4) Đẩy mạnh hội
nhập quốc tế về KH&CN. Trong đó, đổi mới cơ chế quản lý KH&CN để khai
thác mọi tiềm năng sáng tạo KH&CN và sử dụng có hiệu quả tiềm lực KH&CN
hiện có là giải pháp có ý nghĩa đột phá.
5.1. Đổi mới cơ chế quản lý khoa
học và công nghệ
Đổi mới cơ chế quản lý KH&CN
hiện nay theo hướng hình thành cơ chế quản lý mới phù hợp với cơ chế thị trường
định hướng XHCN, với đặc thù của hoạt động KH&CN và yêu cầu chủ động hội
nhập quốc tế; tách biệt về quản lý giữa khu vực hành chính và khu vực sự nghiệp
trong hệ thống KH&CN để có cơ chế quản lý phù hợp với mỗi khu vực; nâng cao
tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân hoạt động KH&CN.
a) Quản lý nhà nước về khoa học
và công nghệ
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống
quản lý nhà nước về KH&CN theo hướng thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà
nước, không chồng chéo với hoạt động sự nghiệp, phù hợp với tiến trình cải cách
hành chính; tăng cường sự chỉ đạo và điều hoà phối hợp của Chính phủ trên cơ sở
phân cấp và qui định rõ trách nhiệm trong quản lý nhà nước về KH&CN đối với
các bộ và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Nhà nước tập trung xây dựng các
định hướng KH&CN trọng điểm, phát triển nguồn nhân lực KH&CN, xây dựng
cơ sở hạ tầng KH&CN quốc gia; đồng thời xây dựng các cơ chế, chính sách
khuyến khích tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước
đầu tư phát triển và tham gia hoạt động KH&CN.
Nâng cao chất lượng và hiệu quả
hoạt động của Hội đồng chính sách KH&CN quốc gia trong quá trình chuẩn bị
các quyết định của Chính phủ về ưu tiên chiến lược, kế hoạch, các cơ chế, chính
sách phát triển KH&CN quốc gia.
Tăng cường vai trò các tổ chức
xã hội nghề nghiệp, tổ chức chính trị-xã hội, nhất là Liên hiệp các Hội KH&KT
Việt Nam trong tư vấn, phản biện và giám định xã hội đối với các chính sách,
chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội và KH&CN.
Tăng cường hiệu lực của công tác
thanh tra nhà nước về KH&CN.
b) Tổ chức và thực hiện nhiệm vụ
khoa học và công nghệ
Việc tổ chức và thực hiện nhiệm
vụ KH&CN phải nhằm đáp ứng cao nhất mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội và
KH&CN của quốc gia, ngành, địa phương và cơ sở.
Thực hiện sự phân công, phân cấp
trong tổ chức và thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ:
- Chính phủ quyết định các định
hướng phát triển KH&CN ưu tiên làm cơ sở xác định nhiệm vụ KH&CN cấp
nhà nước, có tầm quan trọng quốc gia, mang tính liên ngành và dài hạn, phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng và nâng cao năng lực KH&CN
quốc gia. Thủ tướng Chính phủ trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện
nhiệm vụ KH&CN cấp nhà nước và lồng ghép với các chương trình kinh tế - xã
hội. Bộ Khoa học và Công nghệ giúp Chính phủ xác định và tổ chức thực hiện các
nhiệm vụ KH&CN này.
- Các Bộ, ngành quyết định nhiệm
vụ KH&CN phục vụ trực tiếp mục tiêu phát triển của Bộ, ngành, không trùng
lặp với nhiệm vụ KH&CN cấp nhà nước. Cơ quan quản lý KH&CN thuộc Bộ,
ngành giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ xác định và tổ chức thực hiện
các nhiệm vụ KH&CN của Bộ, ngành.
- Các địa phương quyết định
nhiệm vụ KH&CN chủ yếu mang tính ứng dụng, phục vụ trực tiếp mục tiêu phát
triển của địa phương. Cơ quan quản lý KH&CN địa phương giúp Chủ tịch ủy ban
nhân dân xác định và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ KH&CN của địa phương.
- Các tổ chức KH&CN, các
doanh nghiệp, tổ chức xã hội thuộc mọi thành phần kinh tế tự chủ trong việc xác
định nhiệm vụ KH&CN, dựa vào nhu cầu của thực tiễn và mục tiêu, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội và KH&CN của quốc gia.
Đổi mới cơ chế tổ chức và thực
hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ:
- Cơ chế tổ chức và thực hiện
nhiệm vụ KH&CN phải mở rộng sự tham gia của các nhà khoa học và doanh
nghiệp, tổ chức xã hội, bảo đảm dân chủ, cạnh tranh, khách quan, công khai và
bình đẳng trong việc tuyển chọn tổ chức và cá nhân thực hiện nhiệm vụ KH&CN;
đổi mới căn bản công tác đánh giá KH&CN, lấy chất lượng và hiệu quả làm
tiêu chuẩn, bảo đảm sự tương hợp với chuẩn mực quốc tế, nhằm đưa nhanh kết quả
nghiên cứu vào sản xuất và đời sống.
- Đối với các nghiên cứu ứng
dụng và phát triển công nghệ, thực hiện cơ chế liên kết giữa cơ quan quản lý
nhà nước, tổ chức KH&CN và doanh nghiệp trong toàn bộ quá trình từ xác định
nhiệm vụ KH&CN, triển khai thực hiện, đánh giá và đưa kết quả nghiên cứu
vào ứng dụng trong thực tiễn.
- Kết hợp phương thức tuyển chọn
thông qua cạnh tranh, công khai, dân chủ với phương thức giao nhiệm vụ trực
tiếp dựa trên các tiêu chí lựa chọn rõ ràng, hợp lý để đảm bảo chọn đúng tổ
chức, cá nhân có đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ KH&CN ở các cấp, các ngành
và địa phương.
- Tăng cường quản lý kết quả của
hoạt động KH&CN nhằm nâng cao chất lượng khoa học và đưa nhanh kết quả
nghiên cứu vào ứng dụng trong thực tiễn.
c) Cơ chế quản lý các tổ chức
khoa học và công nghệ
Tiến hành đổi mới cơ chế quản lý
đối với các tổ chức KH&CN trên cơ sở tách biệt về quản lý giữa khu vực hành
chính và khu vực sự nghiệp trong hệ thống KH&CN.
Ban hành cơ chế tự chủ, tự chịu
trách nhiệm đối với các tổ chức khoa học và công nghệ của Nhà nước:
- Nhà nước giao quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm cho các tổ chức KH&CN phù hợp với đặc thù của mỗi loại
hình hoạt động, nhằm phát huy tối đa tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức
này.
- Quyền tự chủ và tự chịu trách
nhiệm của các tổ chức KH&CN nhà nước phải được thực hiện trong việc xây
dựng và thực hiện kế hoạch hoạt động KH&CN, quản lý tài chính, tài sản,
nhân sự và hợp tác quốc tế.
Căn cứ vào đặc thù của mỗi loại
hình hoạt động KH&CN, nhà nước có cơ chế, chính sách phù hợp:
- Các tổ chức KH&CN chủ yếu
thực hiện nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu luận cứ phục vụ xây dựng chính sách,
chiến lược, nghiên cứu các lĩnh vực KH&CN trọng điểm và những lĩnh vực công
ích, được Nhà nước giao nhiệm vụ KH&CN theo chức năng hoạt động và bảo đảm
kinh phí hoạt động.
- Các tổ chức KH&CN nghiên
cứu ứng dụng và phát triển công nghệ tạo ra sản phẩm phục vụ nhu cầu thị
trường, chuyển sang một trong các hình thức tổ chức sau: tổ chức KH&CN hoạt
động theo cơ chế tự trang trải kinh phí, doanh nghiệp, doanh nghiệp KH&CN.
Đối với các tổ chức này, Nhà nước chỉ cấp kinh phí theo cơ chế đặt hàng nhiệm
vụ KH&CN;
Quy định chế độ tự đánh giá và
đánh giá bên ngoài định kỳ đối với các tổ chức KH&CN của Nhà nước theo các
tiêu chuẩn tương hợp với chuẩn mực quốc tế để nâng cao hiệu quả đầu tư. Kết quả
(số bài báo đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành quốc tế, số bằng sáng
chế, giải pháp hữu ích) và ứng dụng kết quả nghiên cứu, chuyển giao công nghệ,
dần trở thành những tiêu chí quan trọng nhất đối với các tổ chức KH&CN và
nhà khoa học để được nhận tài trợ của Nhà nước.
Ban hành các chính sách khuyến
khích và hỗ trợ các tổ chức khoa học và công nghệ chuyển đổi theo các hình thức
sau:
- Chuyển sang cơ chế tự trang
trải kinh phí, được Nhà nước hỗ trợ quỹ lương và hoạt động bộ máy trong 5 năm
kể từ khi có quyết định chuyển đổi;
- Chuyển đổi thành doanh nghiệp
hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, được Nhà nước giao quyền sử dụng toàn bộ tài
sản và áp dụng các chính sách ưu đãi như đối với doanh nghiệp mới thành lập;
- Chuyển đổi thành doanh nghiệp
KH&CN, ngoài các chế độ, chính sách đối với doanh nghiệp nêu trên, được
hưởng các chế độ ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp theo qui định của pháp
luật.
Nhà nước có chính sách hỗ trợ
chuyển đổi đối với cán bộ KH&CN, công chức, viên chức trong khi chờ việc,
thuyên chuyển, đào tạo lại, thôi việc, v.v...
Xây dựng cơ chế liên kết giữa
khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo:
- Tăng cường chức năng nghiên
cứu trong các trường đại học: Quy định nhiệm vụ nghiên cứu đối với cán bộ giảng
dạy đại học; tăng đầu tư cho hoạt động nghiên cứu trong các trường đại học.
- Thực hiện liên kết giữa các tổ
chức nghiên cứu - phát triển với các trường đại học: Quy định nhiệm vụ
giảng dạy đối với các cán bộ nghiên cứu thuộc các tổ chức nghiên cứu - phát
triển; xây dựng quy chế dùng chung phòng thí nghiệm và thiết bị phục vụ nghiên
cứu và giảng dạy; thành lập các loại hình tổ chức liên kết giữa đào tạo và
nghiên cứu như học viện và các hình thức hợp tác khác.
- Nghiên cứu chuyển một số viện
nghiên cứu cơ bản thuộc hai Trung tâm khoa học quốc gia về các trường đại học.
d) Cơ chế quản lý tài chính cho
khoa học và công nghệ
- Triển khai áp dụng cơ chế tự
chủ tài chính đối với tổ chức KH&CN của Nhà nước phù hợp với mỗi loại hình
hoạt động KH&CN, như: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu luận cứ phục vụ xây
dựng chính sách, chiến lược, nghiên cứu các lĩnh vực KH&CN trọng điểm và
những lĩnh vực công ích, nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ.
- Cải tiến chế độ tài chính
trong việc thực hiện nhiệm vụ KH&CN: Nghiên cứu áp dụng cơ chế khoán kinh
phí thực hiện đề tài, dự án KH&CN; cải tiến thủ tục thanh quyết toán tài
chính theo hướng đơn giản hoá nhưng đảm bảo quản lý chặt chẽ sản phẩm đầu ra.
- Xây dựng cơ chế, chính sách
tài chính đối với hoạt động KH&CN của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp KH&CN.
5.2. Phát triển tiềm lực khoa
học và công nghệ
a) Phát triển nhân lực khoa học
và công nghệ
Nâng cao nhận thức về vai trò,
vị trí của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ:
- Quán triệt đến mọi cấp, mọi
ngành quan điểm đội ngũ trí thức, KH&CN là tài sản quý của quốc gia và là
nguồn lực góp phần quan trọng quyết định sự thành công của quá trình CNH, HĐH
đất nước. Đội ngũ này bao gồm các cán bộ KH&CN trong các tổ chức nghiên cứu
- phát triển, các trường đại học, các cán bộ tham gia hoạt động KH&CN trong
các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội,
nghề nghiệp.
- Các ngành, các cấp cần quan
tâm đầu tư, tạo những điều kiện thuận lợi nhằm phát huy cao nhất tiềm năng sáng
tạo của đội ngũ này trong công cuộc CNH, HĐH đất nước.
Đổi mới cơ chế quản lý nhân lực
khoa học và công nghệ nhằm giải phóng tiềm năng, phát huy tính chủ động, sáng
tạo của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ:
- Từng bước chuyển chế độ biên
chế sang chế độ hợp đồng lao động đối với cán bộ KH&CN, tạo điều kiện cho
việc lưu chuyển cán bộ, hình thành thị trường lao động trong hoạt động KH&CN.
- Thực hiện quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về quản lý nhân sự đối với các tổ chức KH&CN trong việc
quyết định tuyển dụng, đào tạo, bố trí sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức, cho thôi việc, xếp lương, khen thưởng và các chế độ đãi ngộ khác đối với
cán bộ, nhân viên.
Xây dựng các chính sách tạo động
lực vật chất và tinh thần mạnh mẽ cho các cá nhân hoạt động khoa học và công
nghệ, trọng dụng và tôn vinh nhân tài khoa học và công nghệ:
- Phát huy tinh thần yêu nước,
lý tưởng XHCN, hoài bão và lòng say mê khoa học, tinh thần hợp tác nghiên cứu
trong đội ngũ cán bộ KH&CN.
- Thực hiện cơ chế cạnh tranh
lành mạnh, xoá bỏ dần chế độ phân phối bình quân, thực thi chế độ đãi ngộ tương
xứng với cống hiến của các nhà KH&CN; không giới hạn mức thu nhập đối với
cán bộ KH&CN, miễn hoặc giảm thuế thu nhập cá nhân từ hoạt động KH&CN.
Bảo hộ hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ nhằm khích lệ sáng tạo và đưa kết quả
nghiên cứu vào ứng dụng rộng rãi.
- Ban hành chính sách khen
thưởng đối với cá nhân có thành tích KH&CN có giá trị khoa học và thực tiễn
cao; chính sách khuyến khích cán bộ KH&CN làm việc tại địa bàn có điều kiện
kinh tế, xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn; chính sách sử dụng cán bộ KH&CN
đã đến tuổi nghỉ hưu nhưng còn khả năng chuyên môn, sức khỏe và tâm huyết với
nghề nghiệp.
Đổi mới chính
sách đào tạo cán bộ khoa học và công nghệ:
- Đẩy mạnh việc
tuyển chọn và gửi học sinh, sinh viên, cán bộ KH&CN đi đào tạo một cách
đồng bộ ở các nước có trình độ KH&CN tiên tiến, trước mắt trong một số lĩnh
vực KH&CN trọng điểm quốc gia. Phối hợp chặt chẽ giữa việc đào tạo với cơ
quan sử dụng cán bộ KH&CN.
- Chú trọng đào
tạo, bồi dưỡng nhân tài, các nhà bác học, các tổng công trình sư, kỹ sư trưởng,
kỹ thuật viên lành nghề; hình thành các tập thể KH&CN mạnh, đủ sức giải
quyết những nhiệm vụ KH&CN quan trọng do sản xuất, đời sống, quốc phòng, an
ninh đặt ra.
- Điều chỉnh cơ
cấu đào tạo theo hướng tăng đào tạo công nhân kỹ thuật (đặc biệt công nhân có
tay nghề cao) cho các ngành đang thu hút đầu tư nước ngoài và những ngành kinh
tế - xã hội trọng điểm.
- Huy động tối
đa và hỗ trợ các thành phần kinh tế tham gia trực tiếp vào quá trình đào tạo
nhân lực KH&CN, nhất là khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài.
- Ưu tiên sử
dụng các nguồn tài chính từ hợp tác, tài trợ quốc tế kể cả nguồn vốn ODA cho
đào tạo nhân lực KH&CN, đặc biệt trong các lĩnh vực KH&CN trọng điểm.
- Khuyến khích
mở các trường đại học, viện nghiên cứu công nghệ quốc tế hoặc khu vực tại Việt
Nam. Thu hút các viện nghiên cứu, trường đại học có uy tín của nước ngoài liên
kết hoặc mở phân viện, phân hiệu hoặc tổ chức các chương trình đào tạo nhân lực
KH&CN tại Việt Nam.
b) Phát triển
hệ thống thông tin quốc gia về khoa học và công nghệ
Nhà nước tăng
cường đầu tư, nâng cấp, hiện đại hoá các cơ sở thông tin KH&CN hiện có, xây
dựng và phát triển hệ thống thông tin KH&CN quốc gia liên thông với quốc
tế; khai thác có hiệu quả các nguồn thông tin KH&CN trong và ngoài nước,
khắc phục tình trạng lạc hậu về thông tin hiện nay của nước ta.
Xây dựng và
phát triển các ngân hàng dữ liệu quốc gia về KH&CN, trước hết là thông tin
liên quan tới các kết quả nghiên cứu được Nhà nước cấp kinh phí, các thông tin
về sở hữu trí tuệ, số liệu điều tra cơ bản về tài nguyên thiên nhiên và tiềm
lực KH&CN.
Đẩy mạnh việc
phổ biến thông tin KH&CN tới người sử dụng, chú trọng thông tin phục vụ doanh
nghiệp, phát triển nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
c) Tập trung
xây dựng một số tổ chức khoa học và công nghệ và cơ sở hạ tầng đạt trình độ
trung bình tiên tiến trong khu vực cho một số hướng khoa học và công nghệ trọng
điểm
Tập trung đầu
tư xây dựng một số tổ chức KH&CN trong một số hướng khoa học và công nghệ
trọng điểm, đảm bảo cho các cơ quan này có đầy đủ những trang thiết bị nghiên
cứu, thực nghiệm, thông tin - tư liệu, đội ngũ cán bộ KH&CN đạt trình độ
tiên tiến trong khu vực.
Xây dựng một số
phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia đạt trình độ tiên tiến của khu vực phục vụ
các hướng KH&CN trọng điểm quốc gia.
Xây dựng hệ
thống tiêu chuẩn - đo lường - chất lượng đạt trình độ tương hợp với khu vực và
quốc tế.
Đẩy mạnh phát
triển các tổ chức nghiên cứu và ứng dụng công nghệ cao, trong đó chú trọng đẩy
nhanh tiến độ xây dựng và đưa vào sử dụng 2 khu công nghệ cao ở Hoà Lạc và
thành phố Hồ Chí Minh.
d) Huy động và
nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính cho khoa học và công nghệ
Xây dựng cơ chế, chính sách đa
dạng hoá nguồn vốn đầu tư cho hoạt động KH&CN: khuyến khích các doanh
nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ; thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, sử dụng
vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) đầu tư cho phát triển KH&CN;
khuyến thành lập quỹ phát triển KH&CN và quỹ đầu tư mạo hiểm có vốn ngoài
ngân sách nhà nước; bảo đảm tốc độ tăng chi cho KH&CN từ ngân sách nhà nước
hằng năm cao hơn tốc độ tăng chi ngân sách nhà nước.
Tập trung đầu
tư cho các hướng KH&CN trọng điểm; dành vốn đầu tư thích đáng cho nghiên
cứu cơ bản định hướng ứng dụng trong các ngành khoa học; thực hiện đầu tư đồng
bộ giữa xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật với đào tạo cán bộ KH&CN.
Xây dựng hệ
thống tiêu chí và phương pháp đánh giá hiệu quả đầu tư cho KH&CN, đặc biệt
là hiệu quả kinh tế - xã hội.
5.3. Xây dựng
và phát triển thị trường khoa học và công nghệ
a) Đẩy mạnh đổi
mới cơ chế và chính sách kinh tế - xã hội nhằm tạo nhu cầu ứng dụng thành tựu
khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống
Tạo môi trường cạnh tranh bình
đẳng, đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước, từng bước hạn chế độc quyền của
các Tổng công ty nhà nước; ban hành các chính sách về cạnh tranh và kiểm soát
độc quyền, về giải thể và phá sản doanh nghiệp, hạn chế khoanh nợ, dãn nợ. Chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện các cam kết quốc tế và thúc đẩy việc
ra nhập tổ chức thương mại quốc tế tạo sức ép thúc đẩy các doanh nghiệp quan
tâm thực sự đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh và tính toán hiệu quả khi lựa
chọn công nghệ, đổi mới sản phẩm.
Tăng cường hỗ trợ của Nhà nước
đối với việc nâng cao năng lực đổi mới công nghệ của doanh nghiệp, chú trọng
các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Phát triển thị trường vốn, đặc
biệt là thị trường chứng khoán, hoàn thiện và mở rộng các công cụ của thị
trường tài chính, như thuê mua tài chính, công ty tài chính, v.v... để các
doanh nghiệp có thể tiếp cận các nguồn vốn đầu tư trung hạn và dài hạn phù hợp
với chu kỳ đổi mới sản phẩm, đổi mới công nghệ.
Áp dụng cơ chế Nhà nước mua sản
phẩm KH&CN từ những nghiên cứu không sử dụng ngân sách nhà nước để phục vụ
các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
b) Tạo
lập môi trường pháp lý cho hoạt động của thị trường khoa học
và công nghệ
Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho
hoạt động của thị trường KH&CN. Đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục, phổ biến
và nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công
nghệ.
Thể chế hoá các giao dịch trong
thị trường KH&CN nhằm đẩy mạnh thương mại hóa sản phẩm khoa học về công
nghệ góp vốn bằng bản quyền đối với sản phẩm nghiên cứu hoặc các hình thức sở
hữu trí tuệ khác; mua, bán sản phẩm KH&CN; giao dịch thương mại điện tử,
v.v...
Ban hành các quy định về tiêu
chuẩn, chất lượng, an toàn của sản phẩm KH&CN trước khi đưa vào ứng dụng
thực tiễn. Hình thành các tổ chức quản lý thị trường KH&CN.
c) Phát triển các tổ chức trung
gian, môi giới thị trường khoa học và công nghệ
Khuyến khích, hỗ trợ việc hình
thành và phát triển các tổ chức tư vấn, môi giới, dịch vụ chuyển giao công
nghệ, chợ thiết bị và công nghệ ở địa phương và ở quy mô cả nước.
5.4. Đẩy mạnh
hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ
a) Đa dạng hoá đối tác và hình
thức hợp tác quốc tế về KH&CN, lựa chọn đối tác chiến lược, gắn kết giữa
hợp tác quốc tế về KH&CN với hợp tác quốc tế về kinh tế. Thể chế hoá
việc quy định đưa nội dung KH&CN vào các dự án hợp tác quốc tế về kinh tế.
Tranh thủ tối đa các kênh chuyển giao công nghệ hiện đại từ nước ngoài, đặc
biệt là kênh đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), hợp tác nghiên cứu KH&CN.
b) Ban hành
chính sách thu hút chuyên gia là người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước
ngoài có trình độ cao đến Việt Nam tham gia nghiên cứu, giảng dạy, tư vấn, đảm
đương các chức vụ quản lý nghiên cứu KH&CN.
c) Tăng cường
tối đa quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN trong hợp
tác quốc tế: gửi cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài; mời chuyên gia nước ngoài hợp
tác trong nghiên cứu, giảng dạy; thâm nhập thị trường quốc tế, mở rộng xuất
khẩu sản phẩm hàng hoá từ triển khai các kết quả nghiên cứu vào sản xuất.
d) Xây dựng
chiến lược hội nhập quốc tế về KH&CN. Chiến lược này phải đưa ra những định
hướng, mục tiêu, giải pháp nhằm nhanh chóng nâng cao năng lực hội nhập quốc tế,
rút ngắn khoảng cách về KH&CN của nước ta với khu vực và thế giới; phục vụ
đắc lực cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
6. Tổ chức thực hiện chiến lược
Giai đoạn đến
2005:
Trong giai đoạn
này, cần khẩn trương triển khai thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm sau:
6.1. Đẩy mạnh
đổi mới quản lý và tổ chức hoạt động khoa học và công nghệ
a) Hoàn thiện
chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về KH&CN theo hướng
phân công, phân cấp, phù hợp với tiến trình cải cách hành chính.
b) Ban hành quy
chế hoạt động và quản lý lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn nhằm mở rộng dân
chủ, phát huy tiềm năng sáng tạo trong nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận.
c) Xây dựng cơ
chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các tổ chức KH&CN của Nhà nước và
chính sách hỗ trợ các tổ chức KH&CN trong quá trình chuyển đổi.
d) Xây dựng cơ
chế liên kết giữa KH&CN với giáo dục - đào tạo;
đ) Đổi mới cơ chế chính sách tài
chính cho hoạt động KH&CN, gồm:
- Hoàn thiện cơ chế tự chủ tài
chính đối với các tổ chức KH&CN.
- Đổi mới phương thức và chế độ
chi tiêu tài chính cho các chương trình đề tài, dự án KH&CN sử dụng ngân
sách nhà nước theo hướng áp dụng cơ chế khoán chi trên cơ sở tăng cường đánh
giá chất lượng sản phẩm đầu ra.
- Hoàn thiện các chính sách
thuế, tín dụng khuyến khích các hoạt động sáng tạo KH&CN và đổi mới công
nghệ của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp khoa học công nghệ.
- Xây dựng cơ chế, chính sách đa
dạng hoá nguồn vốn đầu tư cho hoạt động KH&CN (vốn của doanh nghiệp đầu tư
đổi mới công nghệ; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn viện trợ phát triển
chính thức (ODA) cho phát triển KH&CN; các quỹ phát triển KH&CN).
6.2. Xây dựng và phát triển thị
trường khoa học và công nghệ
a) Ban hành Nghị định sửa đổi về
chuyển giao công nghệ, Nghị định sửa đổi quy định chi tiết về sở hữu công
nghiệp.
b) Xây dựng và triển khai thực
hiện chương trình hỗ trợ doanh nghiệp hiện đại hoá, đổi mới công nghệ, nâng cao
năng lực cạnh tranh và hội nhập kinh tế ở các tỉnh, thành phố trên cơ sở liên
kết cơ quan quản lý KH&CN, tổ chức KH&CN và doanh nghiệp.
c) Phát triển chợ thiết bị và
công nghệ ở địa phương và ở quy mô cả nước. Hình thành các tổ chức quản lý thị
trường công nghệ.
d) Thành lập Quỹ đầu tư mạo hiểm
hỗ trợ tổ chức, cá nhân ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp.
6.3. Phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ
a) Xây dựng chiến lược và chính
sách phát triển các lĩnh vực công nghệ cao của Việt Nam (công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, tự động hoá, cơ - điện tử, năng lượng
nguyên tử, công nghệ vũ trụ).
b) Xây dựng quy hoạch mạng lưới
các tổ chức KH&CN ở phạm vi quốc gia, phạm vi bộ ngành và địa phương.
c) Xây dựng đề án đổi mới Trung
tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia và Trung tâm khoa học xã hội và
nhân văn quốc gia, tập trung phát triển một số viện nghiên cứu KH&CN trọng
điểm đạt trình độ trung bình tiên tiến khu vực vào năm 2010 để làm hạt nhân cho
hệ thống KH&CN của đất nước.
d) Xây dựng quy hoạch phát triển
các Khu công nghệ cao, ban hành chính sách khuyến khích đầu tư tại các khu Công
nghệ cao. Tập trung đầu tư và đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng chung,
xúc tiến đầu tư tại hai khu công nghệ cao (Hoà Lạc, thành phố Hồ Chí Minh).
đ) Tập trung đầu tư xây dựng các
phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia.
e) Ban hành chính sách về đào
tạo, bố trí, sử dụng, khen thưởng và đãi ngộ cán bộ KH&CN. Triển khai
chương trình đào tạo cán bộ khoa học có trình độ cao ở những lĩnh vực KH&CN
trọng điểm quốc gia.
g) Xây dựng hệ thống thống kê KH&CN.
6.4. Đẩy mạnh
hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ
Xây dựng và triển khai chiến
lược hội nhập quốc tế về KH&CN.
Giai đoạn từ 2006 đến 2010:
Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện
đổi mới cơ chế quản lý KH&CN; đẩy mạnh phát triển thị trường KH&CN và
thương mại hóa sản phẩm khoa học công nghệ. Triển khai thực hiện quy hoạch mạng
lưới các tổ chức KH&CN; đẩy mạnh thực hiện Chiến lược và chính sách phát triển
công nghệ cao; hoàn thành xây dựng 3 - 5 trường đại học và 3 - 5 viện nghiên
cứu đạt trình độ trung bình tiên tiến trong khu vực; hoàn thành xây dựng và đưa
vào sử dụng có hiệu quả các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia; hoàn thành
giai đoạn I hai khu công nghệ cao (Hoà Lạc và thành phố Hồ Chí Minh); xây dựng
và phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp công nghệ cao nhằm đẩy nhanh
quá trình CNH đất nước theo hướng hiện đại cho giai đoạn sau năm 2010. Đẩy mạnh
thực hiện Chiến lược hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ.