BỘ
TƯ PHÁP
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
1793/1997/TT-BTP
|
Hà
Nội, ngày 30 tháng 12 năm 1997
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ TƯ PHÁP SỐ 1793/1997/TT-BTP NGÀY 30 THÁNG 12 NĂM 1997
HƯỚNG DẪN NGHIỆP VỤ CỦA TỔ CHỨC PHÁP CHẾ Ở CÁC BỘ,CƠ QUAN NGANG BỘ, CƠ QUAN THUỘC
CHÍNH PHỦ
Để thi hành Nghị định số 94/CP của
Chính phủ ngày 6 tháng 9 năm 1997 về tổ chức pháp chế ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ (sau đây gọi chung là tổ chức pháp chế Bộ), Bộ Tư pháp
hướng dẫn một số vấn đề về nghiệp vụ của tổ chức pháp chế Bộ như sau:
I. TRONG CÔNG
TÁC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT:
Để thi hành Điều 4 của Nghị định
số 94/CP, tổ chức pháp chế Bộ thực hiện các công việc sau đây:
1. Lập dự kiến Chương trình xây
dựng pháp luật (Khoản 1).
1.1. Theo kế hoạch hàng năm hoặc
theo nhiệm kỳ của Quốc hội, tổ chức pháp chế Bộ phải đề nghị bằng văn bản với
các đơn vị (Cục, Vụ, Viện,...) trong Bộ, ngành mình để các đơn vị kiến nghị ban
hành văn bản quy phạm pháp luật (Bộ luật, Luật, Pháp lệnh, các văn bản của
Chính phủ và các văn bản của Bộ, ngành mình) nhằm điều chỉnh các mối quan hệ
thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ, ngành.
1.2. Văn bản kiến nghị ban hành
văn bản quy phạm pháp luật phải nêu rõ những điểm sau đây:
- Sự cần thiết ban hành văn bản
kiến nghị;
- Hình thức văn bản;
- Đối tượng, phạm vi điều chỉnh
và dự kiến bố cục của văn bản cần ban hành;
- Dự kiến đơn vị chủ trì soạn thảo,
các đơn vị tham gia soạn thảo; sự phối hợp với các cơ quan hữu quan để soạn thảo
văn bản;
- Thời gian, tiến độ và các điều
kiện cần thiết khác bảo đảm cho việc soạn thảo văn bản.
1.3. Tổ chức pháp chế Bộ có nhiệm
vụ kiến nghị ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
1.4. Thời gian mà tổ chức pháp
chế Bộ yêu cầu các đơn vị kiến nghị ban hành văn bản và tổng hợp kiến nghị
Chương trình xây dựng pháp luật hàng năm của Bộ, ngành mình chậm nhất vào cuối
tháng 6 năm trước; nếu là chương trình theo nhiệm kỳ của Quốc hội, thì thời
gian đề xuất và tổng hợp kiến nghị chậm nhất vào cuối tháng 6 của năm kết thúc
nhiệm kỳ của Quốc hội khoá trước.
1.5. Sau khi nhận được Danh mục
văn bản do các đơn vị kiến nghị, tổ chức pháp chế Bộ tổng hợp thành Bản dự kiến
Chương trình xây dựng pháp luật của Bộ, ngành hàng năm hoặc theo nhiệm kỳ của
Quốc hội.
1.6. Tổ chức pháp chế Bộ tổ chức
cuộc họp với các đơn vị trong Bộ, ngành, mời đại diện của Bộ Tư pháp tham dự dưới
sự chủ trì của lãnh đạo Bộ, ngành để xem xét Bản dự kiến Chương trình xây dựng
pháp luật.
Trên cơ sở ý kiến kết luận của
lãnh đạo Bộ, ngành, tổ chức pháp chế Bộ lập Bản dự kiến Chương trình xây dựng
pháp luật của Bộ, ngành trình Bộ trưởng, Thủ trưởng ngành quyết định và ký gửi
đến Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ trong thời hạn được quy định tại Khoản 3,
Điều 9 của Nghị định số 101/CP của Chính phủ ngày 23-9-1997. Trong Bản dự kiến
Chương trình xây dựng pháp luật của Bộ, ngành cần nêu rõ các vấn đề theo quy định
tại điểm 1.2 của mục này đối với từng dự án.
1.7. Khi Chương trình xây dựng
pháp luật đã được cấp có thẩm quyền (Quốc hội, Chính phủ, Bộ, ngành) thông qua,
tổ chức pháp chế Bộ đề xuất bằng văn bản với lãnh đạo Bộ, ngành xem xét, quyết
định kế hoạch triển khai thực hiện Chương trình xây dựng pháp luật, đồng thời
có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc các đơn vị được Bộ, ngành giao chủ trì soạn thảo
các văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm tiến độ và chất lượng. Tổ chức pháp chế
Bộ cử người trực tiếp tham gia soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật.
1.8. Tổ chức pháp chế Bộ có
trách nhiệm định kỳ hàng tháng, hàng quý, sáu tháng, hàng năm hoặc đột xuất báo
cáo lãnh đạo Bộ, ngành về tình hình thực hiện kế hoạch xây dựng pháp luật, những
khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện và kịp thời có các kiến
nghị, đề xuất cụ thể bằng văn bản để lãnh đạo Bộ, ngành xem xét, giải quyết. 2.
Thẩm định về mặt pháp lý các dự thảo văn bản do các đơn vị khác của Bộ, ngành
soạn thảo (khoản 2).
2.1. Theo Khoản 2, Điều 4 của
Nghị định số 94/CP, thì tổ chức pháp chế Bộ chỉ thẩm định dự thảo văn bản do
các đơn vị khác soạn thảo về mặt pháp lý trước khi trình lãnh đạo Bộ, ngành.
Thẩm định về mặt pháp lý Bản dự
thảo văn bản được tiến hành trên cơ sở xem xét, đánh giá các vấn đề sau đây:
- Sự cần thiết ban hành văn bản;
- Sự phù hợp của hình thức văn bản
với vấn đề cần được giải quyết;
- Đối tượng, phạm vi điều chỉnh
của văn bản;
- Bố cục của văn bản;
- Tính hợp hiến, hợp pháp, tính
thống nhất của văn bản trong hệ thống pháp luật;
- Tính khả thi của văn bản;
- Kỹ thuật soạn thảo văn bản (từ
ngữ, câu chữ, tên điều, văn phong...).
Trước khi tiến hành thẩm định, tổ
chức pháp chế Bộ yêu cầu bằng văn bản các đơn vị chủ trì soạn thảo cung cấp các
tài liệu sau đây:
- Dự thảo Tờ trình hoặc Bản thuyết
minh về dự thảo văn bản đó;
- Bản dự thảo cuối cùng được được
đơn vị chủ trì soạn thảo chuẩn bị;
- Các kiến nghị, đề xuất về việc
bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới hoặc giữ nguyên hiệu lực các điều khoản,
văn bản có liên quan;
- Bản tập hợp ý kiến góp ý của
các đơn vị khác gửi đến;
- Tài liệu tham khảo (nếu có).
2.2. Trong khi tiến hành thẩm định,
nếu có vấn đề chưa rõ, thì tổ chức pháp chế Bộ trao đổi với đơn vị soạn thảo hoặc
tham khảo ý kiến các đơn vị có liên quan của Bộ Tư pháp, như Vụ Pháp luật dân sự
- kinh tế; Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Vụ hợp tác quốc tế... để làm rõ.
Trong trường hợp còn ý kiến khác nhau về các vấn đề có liên quan, thì tổ chức
pháp chế Bộ có quyền bảo lưu ý kiến của mình và báo cáo lãnh đạo Bộ, ngành xem
xét, quyết định.
2.3. Trong thời hạn do lãnh đạo
Bộ, ngành yêu cầu, tổ chức pháp chế Bộ phải gửi văn bản thẩm định tới lãnh đạo
Bộ, ngành xem xét, quyết định, đồng thời gửi văn bản thẩm định tới đơn vị chủ
trì soạn thảo.
3. Soạn thảo hoặc tham gia soạn
thảo các văn bản quy phạm pháp luật (Khoản 3).
3.1. Khi được giao trực tiếp soạn
thảo văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức pháp chế Bộ phải chủ động xây dựng kế
hoạch, tiến độ, kiến nghị thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập để lãnh đạo Bộ,
ngành xem xét, quyết định, đồng thời chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thực
hiện nhiệm vụ.
Tổ chức pháp chế Bộ chủ động phối
hợp với các đơn vị có liên quan trong Bộ, ngành; với các đơn vị có liên quan của
Bộ Tư pháp và các cơ quan hữu quan để tổ chức việc nghiên cứu, khảo sát, tổng kết,
đánh giá việc thực hiện các văn bản có liên quan, chuẩn bị dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật.
Khi dự thảo văn bản đã được chuẩn
bị xong, tổ chức pháp chế Bộ trình Lãnh đạo Bộ, ngành xem xét, quyết định. Tổ
chức pháp chế Bộ phải chịu trách nhiệm trước lãnh đạo Bộ, ngành về nội dung
cũng như về mặt pháp lý của dự thảo văn bản.
3.2. Khi các đơn vị khác trong Bộ,
ngành được lãnh đạo Bộ, ngành giao chủ trì soạn thảo các văn bản quy phạm pháp
luật, tổ chức pháp chế Bộ có trách nhiệm phân công cán bộ tham gia từ đầu.
Trong quá trình soạn thảo, tổ chức pháp chế Bộ không chỉ giúp đơn vị đó về mặt
kỹ thuật xây dựng văn bản mà, trong khả năng của mình, còn có trách nhiệm tham
gia ý kiến về mặt nội dung văn bản; nếu có ý kiến khác nhau liên quan đến nội
dung của văn bản, thì tổ chức pháp chế Bộ có thể kiến nghị với lãnh đạo Bộ,
ngành tổ chức các cuộc trao đổi có sự tham gia của Bộ Tư pháp và các cơ quan hữu
quan nhằm làm rõ vấn đề.
4. Làm đầu mối giúp Bộ trưởng,
Thủ trưởng ngành tham gia ý kiến vào các văn bản quy phạm pháp luật do các Bộ,
ngành hoặc địa phương gửi lấy ý kiến (Khoản 4).
4.1. Theo sự phân công của lãnh
đạo Bộ, ngành, văn bản cần góp ý kiến do Bộ, ngành hoặc địa phương gửi đến xét
về nội dung liên quan đến đơn vị nào trong Bộ, ngành, thì đơn vị đó có trách
nhiệm nghiên cứu, cho ý kiến bằng văn bản.
4.2. Vai trò đầu mối của tổ chức
pháp chế Bộ trong việc tham gia ý kiến vào các dự án văn bản quy phạm pháp luật
do các Bộ, ngành hoặc địa phương gửi lấy ý kiến được thể hiện ở những điểm sau
đây:
- Đơn vị chuyên môn được lãnh đạo
Bộ, ngành giao chủ trì nghiên cứu góp ý kiến phải gửi cho tổ chức pháp chế Bộ một
bản dự thảo văn bản để nghiên cứu, theo dõi tiến độ tham gia góp ý, bảo đảm thời
hạn do Bộ, ngành quy định.
- Trong trường hợp nội dung văn
bản góp ý kiến có vấn đề liên quan đến các đơn vị khác nhau trong Bộ, ngành hoặc
liên quan đến các cơ quan khác, thì tổ chức pháp chế Bộ chủ động đề nghị đơn vị
chủ trì được tham gia ý kiến hoặc đề nghị lãnh đạo Bộ, ngành tổ chức các cuộc họp
có sự tham gia của Bộ Tư pháp và các cơ quan hữu quan để trao đổi về các vấn đề
có liên quan;
- Sau khi chuẩn bị xong dự thảo
văn bản góp ý kiến, đơn vị chủ trì phải gửi cho tổ chức pháp chế Bộ bản dự thảo
đó để tổ chức pháp chế Bộ hoàn chỉnh dự thảo văn bản trình lãnh đạo Bộ, ngành
duyệt ký. Trong trường hợp ý kiến của tổ chức pháp chế Bộ khác với ý kiến của
đơn vị chủ trì dự thảo, thì trước khi trình lãnh đạo Bộ, ngành, tổ chức pháp chế
Bộ phải trao đổi lại với đơn vị chủ trì; nếu vẫn còn ý kiến khác nhau, thì tổ
chức pháp chế Bộ báo cáo bằng văn bản (kèm theo bản dự thảo văn bản góp ý kiến)
với lãnh đạo Bộ, ngành xem xét, quyết định.
II. TRONG
CÔNG TÁC RÀ SOÁT, HỆ THỐNG HOÁ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT.
Để thi hành Điều 5 của Nghị định
số 94/CP, tổ chức pháp chế Bộ thực hiện các công việc sau đây:
1. Tổ chức thực hiện việc rà
soát, hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm văn bản quy phạm
pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các văn bản
liên tịch mà các Bộ, ngành phải thực hiện hoặc tổ chức thực hiện theo quy định
của Nghị định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ, ngành đó, cụ thể là:
1.1. Hướng dẫn nghiệp vụ rà
soát, đôn đốc, kiểm tra việc rà soát của các đơn vị thuộc Bộ, ngành;
1.2. Thường xuyên cập nhật văn bản
quy phạm pháp luật có liên quan đến hoạt động của Bộ, ngành;
1.3. Căn cứ vào nhiệm vụ, quyền
hạn của từng đơn vị thuộc Bộ, ngành mà đề xuất với lãnh đạo Bộ, ngành xác định
lĩnh vực văn bản quy phạm pháp luật cần rà soát của đơn vị đó;
1.4. Trực tiếp rà soát mảng văn
bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động của Bộ, ngành, được lãnh đạo Bộ,
ngành giao cho;
1.5. Tổ chức các cuộc họp, hội
thảo khoa học có sự tham gia của các đơn vị trực thuộc Bộ, ngành có liên quan;
trong trường hợp cần thiết có thể mời Bộ Tư pháp (các Vụ xây dựng pháp luật hoặc
các đơn vị khác có liên quan) và các cơ quan hữu quan cùng tham gia để đề xuất
phương án xử lý kết quả rà soát văn bản quy phạm pháp luật. Khi xử lý cần dựa
trên các quy định của Hiến pháp, các Bộ luật, luật, pháp lệnh hiện hành làm căn
cứ để so sánh, đối chiếu nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất
của hệ thống văn bản;
1.6. Tổng hợp, trình Bộ trưởng,
Thủ trưởng ngành các phương án xử lý kết quả rà soát được quy định tại Khoản 2,
Điều 5 của Nghị định số 94/CP.
2. Chuẩn bị và trình Bộ trưởng,
Thủ trưởng ngành ý kiến tham gia hoàn thiện các tập hệ thống hoá văn bản quy phạm
pháp luật có liên quan của các Bộ, ngành và các Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương.
3. Thường xuyên liên hệ và chịu
sự chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ Tư pháp về nghiệp vụ rà soát và hệ thống hoá văn bản
quy phạm pháp luật; phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc xây dựng các Tổng tập và
Tuyển tập văn bản quy phạm pháp luật.
III. TRONG
CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT,KIỂM TRA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT.
Để thi hành Điều 6 của Nghị định
số 94/CP, tổ chức pháp chế Bộ thực hiện các công việc sau đây:
1. Phổ biến, giáo dục pháp luật
(Khoản 1)
1.1. Căn cứ yêu cầu về việc nâng
cao ý thức pháp luật để phục vụ công tác của cán bộ, công chức trong toàn ngành
mà đề xuất kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật hàng năm và dài hạn trình lãnh
đạo Bộ, ngành xem xét, quyết định.
Đối với việc phổ biến văn bản
quy phạm pháp luật do Bộ, ngành chủ trì soạn thảo mà đối tượng thi hành là đông
đảo nhân dân cũng như văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan khác soạn thảo đã
có văn bản hướng dẫn phổ biến văn bản đó của Bộ Tư pháp, thì tổ chức pháp chế Bộ
phối hợp với Bộ Tư pháp (Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật) xây dựng chương trình
phổ biến, giáo dục về văn bản đó cho cán bộ, công chức trong ngành và các tầng
lớp nhân dân.
1.2. Trực tiếp hoặc phối hợp với
các đơn vị thuộc Bộ, ngành và với Bộ Tư pháp (Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật)
tổ chức thực hiện các hoạt động thông tin pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật
cho cán bộ, công chức trong các đơn vị thuộc Bộ, ngành, cụ thể là:
- Biên soạn tài liệu phổ biến
pháp luật;
- Tập huấn về văn bản quy phạm
pháp luật cho cán bộ, công chức trong toàn ngành;
- Phổ biến pháp luật về lĩnh vực
do Bộ, ngành quản lý trên các phương tiện thông tin đại chúng, trước hết là
phương tiện thông tin do Bộ, ngành trực tiếp quản lý;
- Đưa chương trình đào tạo, bồi
dưỡng kiến thức pháp luật vào các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho
cán bộ quản lý của ngành;
- Đưa nội dung pháp luật vào hoạt
động sinh hoạt tập thể của các tổ chức chính trị - xã hội, các Câu lạc bộ và
các tổ chức quần chúng khác.
2. Kiểm tra việc thực hiện pháp
luật (các Khoản 2, 3 và 4).
Tổ chức pháp chế Bộ phối hợp với
Thanh tra Bộ, ngành và các đơn vị có liên quan thuộc Bộ, ngành giúp lãnh đạo Bộ,
ngành thực hiện các công việc sau đây:
2.1. Xây dựng kế hoạch kiểm tra
định kỳ hoặc đột xuất việc thực hiện pháp luật của cán bộ, công chức do Bộ,
ngành quản lý;
2.2. Theo dõi, đôn đốc việc thực
hiện pháp luật trong Bộ, ngành; thường xuyên khảo sát, tổng kết đánh giá thực
trạng hiểu biết pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, công chức
trong ngành để kiến nghị với lãnh đạo Bộ, ngành có biện pháp xử lý;
2.3. Thường xuyên giữ quan hệ với
các đơn vị có liên quan thuộc Bộ Tư pháp để trao đổi ý kiến về việc áp dụng
pháp luật, tham gia ý kiến về việc xử lý vi phạm pháp luật trong ngành;
2.4. Kiến nghị với lãnh đạo Bộ,
ngành về các biện pháp phòng ngừa, khắc phục vi phạm pháp luật trong ngành và
hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế thực hiện pháp luật, trong đó có các quy
định và cơ chế thực hiện pháp luật do Bộ, ngành quản lý Nhà nước.
IV. VỀ CÔNG
TÁC BÁO CÁO, KHEN THƯỞNG
1. Nhằm tăng cường mối liên hệ
công tác, giúp Bộ Tư pháp thực hiện tốt nhiệm vụ hướng dẫn nghiệp vụ đối với hoạt
động của tổ chức pháp chế Bộ theo quy định tại Điều 2 của Nghị định số 94/CP, định
kỳ sáu tháng, hàng năm hoặc đột xuất, tổ chức pháp chế Bộ gửi báo cáo cho lãnh
đạo Bộ, ngành mình, đồng thời gửi báo cáo về Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ về
tổ chức và hoạt động nghiệp vụ của mình.
2. Bộ Tư pháp thực hiện việc
khen thưởng các tổ chức pháp chế Bộ, cán bộ, công chức của tổ chức pháp chế
theo đề nghị của Bộ, ngành chủ quản và ý kiến của Hội đồng thi đua Bộ Tư pháp.
Trong hoạt động nghiệp vụ pháp
chế, nếu có vấn đề gì vướng mắc và kiến nghị, đề nghị kịp thời phản ánh về Bộ
Tư pháp để có hướng dẫn, giải quyết.