THỦ TƯỚNG CHÍNH
PHỦ
--------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------
|
Số: 01/QĐ-TTg
|
Hà Nội, ngày 02
tháng 01 năm 2015
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN HÀNH KẾ HOẠCH TỔ CHỨC LẤY Ý KIẾN NHÂN DÂN ĐỐI VỚI DỰ THẢO BỘ LUẬT DÂN
SỰ (SỬA ĐỔI)
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày
25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Nghị quyết số 857/NQ-UBTVQH13 ngày 25 tháng 12 năm 2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
về việc tổ chức lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi);
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Kế hoạch tổ chức
lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi).
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày
ký.
Điều 3. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ
trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành
Quyết định này./.
Nơi nhận:
- Thủ tướng, các PTTg Chính phủ;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
- HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- VP TW và các ban của Đảng;
- Văn phòng Tổng Bí thư;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Văn phòng Quốc hội;
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;
- VPCP: BTCN, các PCN, trợ lý TTgCP, Cổng TTĐT, các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc;
- Lưu: VT, PL (03).
|
THỦ TƯỚNG
Nguyễn Tấn Dũng
|
KẾ HOẠCH CỦA CHÍNH PHỦ
VỀ VIỆC TỔ CHỨC LẤY Ý KIẾN NHÂN DÂN ĐỐI VỚI DỰ THẢO BỘ LUẬT DÂN SỰ (SỬA
ĐỔI)
(Ban hành kèm theo Quyết định số 01/QĐ-TTg ngày 02 tháng 01 năm 2015
của Thủ tướng Chính phủ)
Thực hiện Nghị quyết số
857/NQ-UBTVQH13 ngày 25 tháng 12 năm 2014 về việc tổ chức lấy ý kiến Nhân dân đối
với dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi), Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch của
Chính phủ về việc tổ chức lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Bộ luật dân sự (sửa
đổi) (sau đây gọi là Kế hoạch), với các nội dung sau đây:
I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Mục đích
Triển khai có hiệu quả Nghị quyết số
857/NQ-UBTVQH13 ngày 25 tháng năm 2014 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc tổ
chức lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) (sau đây gọi
là Nghị quyết số 857/NQ-UBTVQH13).
2. Yêu cầu
a) Bám sát nội dung Nghị quyết số
857/NQ-UBTVQH13 .
b) Xác định cụ thể nội dung công việc,
thời hạn hoàn thành và trách nhiệm của các cơ quan có liên quan trong việc triển
khai lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi).
c) Các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm
phối hợp chặt chẽ và thực hiện đầy đủ nội dung, đúng tiến độ đã nêu trong Kế hoạch,
kịp thời đôn đốc, hướng dẫn và tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá
trình tổ chức thực hiện.
d) Việc tổ chức lấy ý kiến Nhân dân về
dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) phải được coi là một nhiệm vụ trọng tâm cần được
ưu tiên tập trung chỉ đạo thực hiện trong Quý I năm 2015.
II. NỘI DUNG, HÌNH
THỨC, ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN LẤY Ý KIẾN
1. Nội dung lấy ý kiến
Nội dung lấy ý kiến về dự thảo Bộ luật
dân sự (sửa đổi) bao gồm:
a) Lấy ý kiến về toàn bộ dự thảo Bộ
luật dân sự (sửa đổi), gồm: Quy định chung; Quyền sở hữu và các vật quyền khác;
Nghĩa vụ và hợp đồng; Thừa kế; Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu
tố nước ngoài; Điều khoản thi hành; Kỹ thuật trình bày các quy định của Bộ luật
dân sự. Trong đó, tập trung vào các vấn đề trọng tâm được xác định trong Phụ lục
3 kèm theo Kế hoạch này;
b) Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ tổ chức lấy ý kiến về các nội dung được xác định tại điểm a Mục
này; đồng thời căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tập trung lấy
ý kiến về những nội dung liên quan trực tiếp đến phạm vi, lĩnh vực hoạt động của
Bộ, ngành mình và những vấn đề mà Bộ, ngành quan tâm;
c) Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương chủ trì, phối hợp Thường trực Hội đồng nhân dân, Đoàn đại biểu
Quốc hội, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận cùng
cấp tổ chức lấy ý kiến về các nội dung được xác định tại điểm a Mục này; căn cứ
vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình tập trung lấy ý kiến sâu về những nội
dung liên quan trực tiếp đến đặc thù phát triển kinh tế - xã hội, phong tục, tập
quán ở địa phương và những vấn đề mà địa phương quan tâm.
2. Hình thức lấy ý kiến
a) Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi)
được đăng tải toàn văn trên Báo Nhân dân, Trang thông tin điện tử của Quốc hội,
Bộ Tư pháp, Cổng thông tin điện tử Chính phủ. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương đăng tải dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) trên Trang thông tin
điện tử của cơ quan để phục vụ cho việc lấy ý kiến của Bộ, ngành, địa phương
mình.
b) Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi)
được lấy ý kiến thông qua các hình thức sau đây:
- Góp ý trực tiếp hoặc bằng văn bản;
- Tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa
đàm;
- Thông qua Trang thông tin điện tử của
Bộ Tư pháp;
- Các hình thức phù hợp khác.
c) Ý kiến của Nhân dân trong nước và
người Việt Nam định cư ở nước ngoài góp ý vào dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi)
gửi đến cơ quan, tổ chức được phân công trách nhiệm tại mục III Kế hoạch này hoặc
gửi trực tiếp đến Bộ Tư pháp theo địa chỉ: 60 Trần Phú, Ba Đình, Hà Nội hoặc
qua hộp thư điện tử: [email protected]. Cá nhân gửi ý kiến góp ý bằng văn
bản qua đường bưu điện thì không phải dán tem.
3. Đối tượng lấy ý kiến
Đối tượng lấy ý kiến về dự thảo Bộ luật
dân sự (sửa đổi) bao gồm:
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ;
- Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân
các cấp;
- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức thành viên; các tổ chức xã hội khác;
- Các doanh nghiệp;
- Các viện nghiên cứu, học viện, trường
đại học;
- Các chuyên gia, nhà khoa học, nhà
quản lý, luật sư, luật gia;
- Các tầng lớp Nhân dân.
4. Thời gian lấy ý kiến
a) Thời gian lấy ý kiến Nhân dân về dự
thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) bắt đầu từ ngày 05 tháng 01 năm 2015 và kết thúc
vào ngày 05 tháng 4 năm 2015.
b) Sau thời hạn trên, tổ chức, cá
nhân tiếp tục đóng góp ý kiến về dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) thì gửi đến Bộ
Tư pháp trước ngày 20 tháng 09 năm 2015 theo địa chỉ: 60 Trần Phú, Ba Đình, Hà
Nội hoặc qua hộp thư điện tử: [email protected]. Các ý kiến góp ý của Nhân
dân sẽ được nghiêm túc nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý dự thảo Bộ luật dân sự
(sửa đổi) trình Quốc hội xem xét, quyết định.
III. PHÂN CÔNG
TRÁCH NHIỆM VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với
các Bộ, ngành, cơ quan có liên quan triển khai Kế hoạch này và thực hiện các
nhiệm vụ cụ thể sau đây:
a) Hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các Bộ,
ngành, địa phương về việc tổ chức lấy ý kiến về dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi);
b) Tổ chức Hội nghị phổ biến, hướng dẫn
các nội dung liên quan đến việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Bộ luật
dân sự (sửa đổi) cho báo cáo viên pháp luật Trung ương và cấp tỉnh; tổ chức các
hội nghị, hội thảo, tọa đàm lấy ý kiến về dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi);
c) Tập hợp, tổng hợp kết quả lấy ý kiến
về dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) theo Báo cáo kết quả lấy ý kiến của các Bộ,
cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi);
ý kiến của các tổ chức, cá nhân được gửi về Bộ Tư pháp và qua Trang thông tin
điện tử của Bộ Tư pháp; văn bản tập hợp, tổng hợp ý kiến Nhân dân của các cơ
quan thông tấn, báo chí;
d) Xây dựng dự thảo Báo cáo của Chính
phủ về kết quả lấy ý kiến nhân dân đối với dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) và
đăng tải trên Trang thông tin điện tử của Bộ Tư pháp; tổ chức Hội nghị lấy ý kiến
của các Bộ, ngành, địa phương, các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý về dự
thảo Báo cáo của Chính phủ về kết quả lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Bộ luật
dân sự (sửa đổi).
2. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm triển khai nội dung
lấy ý kiến về dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) tại Kế hoạch này, gồm các nhiệm
vụ cụ thể sau đây:
- Phổ biến nội dung, cách thức lấy ý
kiến về dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) trong Bộ, ngành mình;
- Tổ chức lấy ý kiến đóng góp về dự
thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) của cán bộ, công chức, viên chức, chuyên gia, nhà
khoa học, nhà quản lý, các đơn vị trực thuộc, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp,
các doanh nghiệp trong phạm vi quản lý của Bộ, ngành mình theo hình thức thích
hợp;
- Chỉ đạo xây dựng Báo cáo kết quả lấy
ý kiến về dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) và gửi đến Bộ Tư pháp để tổng hợp.
Tổ chức pháp chế thuộc Bộ, ngành có
trách nhiệm giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
thực hiện các nhiệm vụ nêu trên.
3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm triển khai nội dung lấy ý kiến về
dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) tại Kế hoạch này, gồm các nhiệm vụ cụ thể sau
đây:
- Phổ biến nội dung, cách thức lấy ý
kiến về dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) ở địa phương mình;
- Tổ chức hội nghị lấy ý kiến đóng
góp về dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) với thành phần là đại diện của các sở,
ban, ngành trực thuộc Ủy ban nhân dân, các cơ quan tư pháp ở tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận
cùng cấp; đại diện một số đơn vị cấp huyện, cấp xã; một số chuyên gia, nhà khoa
học, cán bộ làm công tác thực tiễn và một số cử tri;
- Hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc công
tác tổ chức lấy ý kiến Nhân dân về dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) của các sở,
ban, ngành, các đơn vị trực thuộc và nhân dân ở địa phương;
- Xây dựng Báo cáo kết quả lấy ý kiến
vào dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Sở Tư pháp giúp Chủ tịch Ủy ban nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện các nhiệm vụ nêu trên.
4. Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo
các cơ quan thông tấn, báo chí ở trung ương và địa phương có kế hoạch tuyên
truyền bằng nhiều hình thức thích hợp trong quá trình tổ chức lấy ý kiến về dự
thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi).
5. Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền
hình Việt Nam và các cơ quan thông tấn, báo chí có trách nhiệm:
a) Tuyên truyền, phổ biến các nội
dung liên quan đến dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) để cung cấp thông tin phục
vụ cho việc đóng góp ý kiến của Nhân dân;
b) Mở chuyên trang, chuyên mục để phản
ánh, đưa tin, đăng tải kịp thời các ý kiến đóng góp, những sáng kiến, đề xuất của
Nhân dân về việc sửa đổi Bộ luật dân sự và tập hợp ý kiến góp ý gửi về Bộ Tư
pháp.
6. Đề nghị Ủy ban Trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, phổ
biến nội dung, cách thức lấy ý kiến về dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) trong
toàn ngành, tổ chức mình; tổ chức theo hình thức thích hợp lấy ý kiến đóng góp
vào dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) của cán bộ, công chức, viên chức, chuyên
gia, nhà khoa học, nhà quản lý, các đơn vị trực thuộc, các tổ chức thành viên
thuộc phạm vi ngành, tổ chức mình; tổng hợp ý kiến, xây dựng Báo cáo kết quả lấy
ý kiến gửi về Bộ Tư pháp.
7. Đề nghị Ban Cán sự Đảng Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo Bộ, cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương do mình phụ trách tổ chức thực hiện tốt Kế hoạch này.
IV. CHẾ ĐỘ THÔNG
TIN VÀ THỜI HẠN GỬI BÁO CÁO
1. Các Bộ, ngành, địa phương, các cơ
quan, tổ chức có trách nhiệm báo cáo cho Bộ Tư pháp về quá trình tổ chức thực
hiện việc lấy ý kiến vào dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi). Trong quá trình thực
hiện, nếu có khó khăn, vướng mắc cần thông tin kịp thời cho Bộ Tư pháp; Bộ Tư
pháp tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, giải quyết.
2. Báo cáo kết quả lấy ý kiến đối với
dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) của Bộ, ngành, địa phương, các cơ quan, tổ chức
phải dựa trên Đề cương báo cáo theo Phụ lục II của Kế hoạch này và gửi về Bộ Tư
pháp trước ngày 15 tháng 4 năm 2015.
3. Bộ Tư pháp trình Chính phủ Báo cáo
tổng hợp kết quả lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi)
trước ngày 25 tháng 4 năm 2015.
V. KINH PHÍ THỰC
HIỆN
1. Kinh phí phục vụ cho việc tổ chức
lấy ý kiến Nhân dân về dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) do ngân sách Nhà nước bảo
đảm.
2. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có
trách nhiệm bố trí đủ nhân lực, bảo đảm các điều kiện vật chất cần thiết phục vụ
cho việc lấy ý kiến về dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi).
3. Để kịp thời triển khai các hoạt động
phục vụ việc lấy ý kiến về dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi), các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương và các cơ quan, tổ chức khác chủ động sử dụng nguồn kinh phí hoạt động thường
xuyên đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao để tổ chức lấy ý kiến về dự
thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi). Căn cứ vào nhiệm vụ được giao tại Kế hoạch này,
trong trường hợp cần thiết, các cơ quan, tổ chức lập dự toán kinh phí hoạt động
bổ sung gửi cơ quan tài chính cùng cấp để thực hiện. Trong quá trình thực hiện,
nếu có khó khăn, vướng mắc, các cơ quan, tổ chức cần kịp thời báo cáo Bộ Tài
chính; Bộ Tài chính tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, giải quyết./.
PHỤ LỤC I
KẾ HOẠCH VỀ TIẾN ĐỘ TRIỂN KHAI VIỆC LẤY Ý
KIẾN NHÂN DÂN ĐỐI VỚI DỰ THẢO BỘ LUẬT DÂN SỰ (SỬA ĐỔI)
(Ban hành kèm theo Quyết định số 01/QĐ-TTg ngày 02 tháng 01 năm 2015
của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch của Chính phủ về việc tổ chức lấy ý
kiến Nhân dân đối với dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi))
STT
|
NỘI DUNG CÔNG
VIỆC
|
CƠ QUAN THỰC HIỆN
|
CƠ QUAN PHỐI HỢP
|
THỜI GIAN THỰC
HIỆN
|
1
|
Họp báo công bố Kế hoạch của Chính phủ về việc tổ
chức lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi).
|
Bộ Tư pháp
|
Văn phòng Chính phủ
|
05/01/2015
|
2
|
Tổ chức Hội nghị phổ biến, hướng dẫn các nội dung
liên quan đến việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Bộ luật dân sự (sửa
đổi) cho báo cáo viên pháp luật Trung ương và cấp tỉnh.
|
Bộ Tư pháp
|
Các Bộ, ngành, địa
phương
|
17/01/2015
|
3
|
Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn, kiểm tra, đôn
đốc việc lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi).
|
Bộ Tư pháp
|
Các Bộ, ngành, địa
phương
|
05/01-05/4/2015
|
4
|
Tổ chức lấy ý kiến đóng góp vào dự thảo Bộ luật
dân sự (sửa đổi), xây dựng Báo cáo của cơ quan, địa phương mình về kết quả lấy
ý kiến, gửi về Bộ Tư pháp.
|
Các Bộ, ngành,
TANDTC, VKSNDTC, UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, HĐND, UBND cấp tỉnh
|
Bộ Tư pháp, Văn
phòng Chính phủ
|
05/01 - 05/4/2015
|
5
|
Tổ chức Hội nghị lấy ý kiến đóng góp trực tiếp của
đại diện các Đoàn Đại biểu Quốc hội; các tổ chức xã hội, các viện nghiên cứu,
trường đại học; các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, luật sư, luật gia
về dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) tại thành phố Hà Nội.
|
Bộ Tư pháp
|
Văn phòng Chính phủ,
cơ quan, tổ chức liên quan
|
30/01/2015
|
6
|
Tổ chức Hội nghị lấy ý kiến đóng góp trực tiếp của
đại diện các Đoàn Đại biểu Quốc hội; các tổ chức xã hội, các viện nghiên cứu,
trường đại học; các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, luật sư, luật gia
về dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) tại thành phố Hồ Chí Minh.
|
Bộ Tư pháp
|
Văn phòng Chính phủ,
cơ quan, tổ chức liên quan
|
06/02/2015
|
7
|
Tổng hợp Báo cáo của các cơ quan, địa phương, tổ
chức, cá nhân; xây dựng dự thảo Báo cáo kết quả đóng góp ý kiến của Nhân dân
đối với dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) của Chính phủ; chỉnh lý, hoàn thiện
dự thảo Bộ luật theo ý kiến đóng góp.
|
Bộ Tư pháp
|
Các bộ, ngành, cơ
quan liên quan
|
15/4/2015-20/4/2015
|
8
|
Tổ chức Hội nghị lấy ý kiến đóng góp trực tiếp của
đại diện các Bộ, ngành, địa phương, các cơ quan, tổ chức được nêu trong Mục
III của Kế hoạch này, các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý về dự thảo
Báo cáo của Chính phủ về kết quả lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Bộ luật
dân sự (sửa đổi).
|
Bộ Tư pháp
|
Các bộ, ngành, địa
phương, cơ quan, tổ chức liên quan
|
20/4/2015-23/4/2015
|
9
|
Thảo luận, cho ý kiến về dự thảo Bộ luật dân sự
(sửa đổi) đã được chỉnh lý, hoàn thiện theo ý kiến góp ý.
|
Chính phủ
|
Văn phòng Chính phủ,
Bộ Tư pháp
|
Trước ngày
04/5/2015
|
10
|
Gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội Báo cáo kết quả
đóng góp ý kiến của Nhân dân về dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi); dự thảo Bộ
luật dân sự (sửa đổi) đã được chỉnh lý, hoàn thiện theo ý kiến góp ý.
|
Bộ Tư pháp
|
Văn phòng Chính phủ
|
Trước 10/5/2015
|
PHỤ LỤC II
ĐỀ CƯƠNG BÁO CÁO KẾT QUẢ ĐÓNG GÓP Ý KIẾN
CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI DỰ THẢO BỘ LUẬT DÂN SỰ (SỬA ĐỔI)
(Ban hành kèm theo Quyết định số 01/QĐ-TTg ngày 02 tháng 01 năm 2015
của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch của Chính phủ về việc tổ chức lấy ý
kiến Nhân dân đối với dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi))
A. NỘI DUNG CHÍNH CỦA BÁO CÁO
Báo cáo kết quả lấy ý kiến của Nhân
dân về dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) gồm các nội dung chính được trình bày
theo bố cục sau:
I. Quá trình tổ chức lấy ý kiến đối
với dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi)
- Công tác tổ chức lấy ý kiến;
- Các hình thức tổ chức lấy ý kiến;
- Các đối tượng được lấy ý kiến;
- Các đối tượng đóng góp ý kiến và được
tổng hợp vào Báo cáo.
II. Đánh giá chung đối với dự thảo
Bộ luật dân sự (sửa đổi)
Nhận xét chung về ưu điểm, nhược điểm
của toàn bộ dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi), gồm:
- Sự phù hợp của dự thảo Bộ luật dân
sự với các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng;
- Sự phù hợp của dự thảo Bộ luật dân
sự với Hiến pháp, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên;
- Việc giải quyết những vấn đề bất cập,
tồn tại của thực tiễn đặt ra trong quá trình tổng kết việc thi hành Bộ luật dân
sự;
- Về tính dự báo và ổn định lâu dài của
dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi).
III. Ý kiến cụ thể về nội dung của
dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi)
1. Về các quy định cụ thể của dự
thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi)
a) Tham gia ý kiến vào toàn bộ dự thảo
Bộ luật dân sự (sửa đổi), bao gồm: những nội dung cụ thể cần sửa đổi, đề xuất
phương án sửa đổi và lý do của việc sửa đổi; những nội dung cần bổ sung hoặc
đưa ra khỏi dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi), lý do bổ sung, lý do đưa ra khỏi
dự thảo;
b) Tham gia ý kiến sâu về những vấn đề
trọng tâm được xác định tại Phụ lục III của Kế hoạch này.
2. Về kỹ thuật lập pháp
- Về bố cục và kết cấu, vị trí của
các chương, điều, khoản của dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi);
- Về ngôn ngữ diễn đạt và kỹ thuật
xây dựng của các quy định của dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi).
B. YÊU CẦU TRÌNH BÀY ĐỐI VỚI NỘI
DUNG BÁO CÁO
- Báo cáo phải tập hợp và phản ánh đầy
đủ, khách quan, trung thực các ý kiến đóng góp của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân.
- Đối với mỗi nội dung của Dự thảo được
góp ý thì cần chú thích cụ thể từng đối tượng góp ý, như là ý kiến của chuyên
gia, nhà khoa học, ý kiến của cử tri, ý kiến của cơ quan chuyên môn...
PHỤ LỤC III
CÁC VẤN ĐỀ TRỌNG TÂM XIN Ý KIẾN NHÂN DÂN
VỀ DỰ THẢO BỘ LUẬT DÂN SỰ (SỬA ĐỔI)
(Ban hành kèm theo Quyết định số 01/QĐ-TTg ngày 02 tháng 01 năm 2015
của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch của Chính phủ về việc tổ chức lấy ý
kiến Nhân dân đối với dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi))
1. Về trách nhiệm của cơ quan có
thẩm quyền trong việc bảo vệ quyền dân sự
Bộ luật dân sự hiện hành quy định
nguyên tắc tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác được
tôn trọng và được pháp luật bảo vệ (Điều 9) nhưng chưa quy
định cụ thể trách nhiệm của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác trong việc thụ
lý, giải quyết vụ, việc dân sự trong trường hợp chưa có quy định của pháp luật
về vụ, việc dân sự đó.
Dự thảo Bộ luật bổ sung Điều 19, theo
đó, Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa
có điều luật để áp dụng; trong trường hợp này, Tòa án căn cứ vào tập quán (Điều
11), nguyên tắc áp dụng pháp luật tương tự, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
dân sự và lẽ công bằng (Điều 12) để xem xét, giải quyết.
Về vấn đề này, hiện có hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ nhất: nhất trí với
quy định của dự thảo Bộ luật vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, quy định như dự thảo Bộ luật
sẽ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân một cách kịp thời và
triệt để hơn vì Tòa án có trách nhiệm xem xét, giải quyết mọi tranh chấp dân sự,
kể cả trong trường hợp không có luật điều chỉnh;
Thứ hai, quy định như dự thảo Bộ luật
là nhằm triển khai thi hành một cách triệt để quy định tại khoản
3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013, theo đó, “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân”;
Thứ ba, về kinh nghiệm quốc tế, ở nhiều
nước cũng quy định Thẩm phán không được từ chối giải quyết các vụ, việc dân sự
kể cả trong trường hợp chưa có quy định của luật.
- Loại ý kiến thứ hai: đề nghị không
quy định vấn đề này trong Bộ luật dân sự vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, để Tòa án có thể giải quyết
tất cả các tranh chấp dân sự, kể cả trong trường hợp không có luật thì cần giao
cho Tòa án quyền “giải thích pháp luật”. Theo đó, trong trường hợp không có luật
thì Thẩm phán, Hội thẩm căn cứ các nguyên tắc chung của pháp luật, niềm tin nội
tâm và lẽ công bằng để đưa ra phán quyết. Các khái niệm này lại quá trừu tượng,
không có tiêu chí rõ ràng; đồng thời Hiến pháp và Luật tổ chức Tòa án nhân dân
không trao quyền giải thích pháp luật (theo nghĩa rộng như trên) cho Tòa án;
Thứ hai, khoản 2 Điều
103 Hiến pháp năm 2013 quy định, Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật. Việc quy định Thẩm phán và Hội thẩm phải đưa ra phán quyết
kể cả trong trường hợp không có luật là chưa phù hợp với Hiến pháp;
Thứ ba, quy định này thiếu tính khả
thi vì việc thực hiện trên thực tế đòi hỏi Thẩm phán, Hội thẩm phải được đào tạo
một cách bài bản về nghiệp vụ, kỹ năng giải thích pháp luật;
Thứ tư, quy định này liên quan đến thẩm
quyền, trách nhiệm của Tòa án, cần nghiên cứu để nếu cần thiết thì quy định
trong Luật tổ chức Tòa án hoặc Bộ luật tố tụng dân sự.
2. Về quyền nhân thân
Bộ luật dân sự hiện hành quy định 26
quyền nhân thân (từ Điều 26 đến Điều 51).
Dự thảo Bộ luật tiếp tục quy định các
quyền nhân thân cụ thể (từ Điều 31 đến Điều 50), sửa đổi một số điều cho phù hợp
với Hiến pháp như quyền được bảo đảm an toàn về đời sống riêng tư, bí mật cá
nhân (thay cho quyền bí mật đời tư)..., đồng thời bổ sung một số quyền mới như
quyền lập hội, quyền tiếp cận thông tin, quyền sống.... Ngoài ra, Điều 51 dự thảo
Bộ luật quy định, các quyền nhân thân khác về dân sự đều được công nhận, tôn trọng,
bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.
Về vấn đề này, hiện có hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ nhất: nhất trí với
quy định của dự thảo Bộ luật, theo đó, Bộ luật dân sự cần cụ thể hóa các quyền
nhân thân được quy định trong Hiến pháp và điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên.
Loại ý kiến này dựa trên các căn cứ
sau đây:
Thứ nhất, các quy định của Hiến pháp
mang tính khái quát cao, Bộ luật dân sự với tư cách là luật chung của hệ thống luật
tư cần quy định cụ thể, chi tiết các quyền nhân thân đã được quy định trong Hiến
pháp làm cơ sở cho các luật hoặc văn bản dưới luật khác quy định, bảo vệ các
quyền nhân thân của cá nhân;
Thứ hai, việc quy định cụ thể các quyền
nhân thân sẽ tạo thuận lợi hơn cho việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn;
Thứ ba, việc quy định cụ thể các quyền
nhân thân trong Bộ luật dân sự là truyền thống của pháp luật dân sự Việt Nam từ
Bộ luật dân sự năm 1995, Bộ luật dân sự năm 2005 và thực tiễn áp dụng cũng
không cho thấy có bất cập lớn.
- Loại ý kiến thứ hai: đề nghị Bộ luật
dân sự không nên quy định lại các quyền nhân thân đã được ghi nhận trong Hiến
pháp mà chỉ nên quy định một số quyền nhằm xác định tư cách chủ thể của cá nhân
trong quan hệ dân sự, như là: quyền về họ, tên, nơi cư trú và một số quyền nhân
thân đặc thù không quy định cụ thể trong Hiến pháp, như là: quyền xác định lại
giới tính, quyền đối với hình ảnh, quyền được khai sinh, khai tử…
Loại ý kiến này dựa trên các căn cứ
sau đây:
Thứ nhất, việc Bộ luật dân sự quy định
lại các quyền nhân thân đã được quy định trong Hiến pháp là không cần thiết.
Trong trường hợp có tranh chấp về quyền nhân thân, có thể áp dụng trực tiếp các
quy định của Hiến pháp để giải quyết.
Thứ hai, theo kinh nghiệm của một số
nước, Bộ luật dân sự chỉ quy định các quyền nhân thân có liên quan trực tiếp đến
việc xác định tư cách chủ thể của cá nhân trong quan hệ dân sự, như quyền về họ,
tên; quyền về nơi cư trú.
3. Về chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự
Bộ luật dân sự hiện hành quy định chủ
thể của quan hệ pháp luật dân sự bao gồm cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp
tác.
Dự thảo Bộ luật chỉ quy định chủ thể
của quan hệ pháp luật dân sự là cá nhân và pháp nhân, đồng thời có một số quy định
riêng về việc tham gia quan hệ pháp luật dân sự của các thành viên hộ gia đình,
tổ hợp tác, các tổ chức khác không có tư cách pháp nhân (từ Điều 119 đến Điều
121); một số quy định riêng về việc tham gia quan hệ dân sự của Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương và ở địa phương (từ
Điều 115 đến Điều 118).
Về vấn đề này, hiện có hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ nhất: nhất trí với
quy định của dự thảo Bộ luật vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, các thành viên của hộ gia
đình thường xuyên có sự thay đổi (do tách, nhập, sinh, tử, kết hôn...) nên việc
xác định thành viên của hộ gia đình khi có tranh chấp để xác định quyền và
nghĩa vụ gặp nhiều khó khăn;
Thứ hai, khó xác định “tài sản chung
của hộ gia đình”, “lợi ích chung” của hộ gia đình khi tham gia quan hệ dân sự
và điều đó gây khó khăn trong việc xác định trách nhiệm dân sự của cá nhân hay
trách nhiệm dân sự của hộ gia đình;
Thứ ba, về tổ hợp tác, hiện nay có gần
80% tổ hợp tác không đăng ký chứng thực và các quy định về tổ hợp tác hiện hành
gây nhiều khó khăn trong việc xác định tư cách pháp lý của tổ hợp tác, phân định
trách nhiệm dân sự của tổ hợp tác và trách nhiệm dân sự của từng thành viên tổ
hợp tác;
Thứ tư, việc quy định hộ gia đình, tổ
hợp tác là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự như Bộ luật hiện hành đã gây ra
nhiều khó khăn cho hoạt động áp dụng pháp luật, đặc biệt là cho Tòa án trong việc
giải quyết các tranh chấp có sự tham gia của hộ gia đình, tổ hợp tác vì hầu như
không có hộ gia đình, tổ hợp tác là nguyên đơn hay bị đơn dân sự;
Thứ năm, việc chỉ quy định chủ thể
quan hệ pháp luật dân sự gồm có cá nhân và pháp nhân là phù hợp thông lệ quốc tế.
- Loại ý kiến thứ hai: đề nghị tiếp tục
ghi nhận hộ gia đình và tổ hợp tác là các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự
như Bộ luật dân sự hiện hành vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, hộ gia đình, tổ hợp tác là
những thực thể đang tồn tại trong xã hội và tham gia vào nhiều quan hệ pháp luật
dân sự, như quan hệ sử dụng đất đai, điện, nước... Hiện nay có khoảng 370.000 tổ
hợp tác đang hoạt động ở nước ta, mô hình tổ hợp tác đang ngày càng phát triển
và là một trong những tiền đề để thành lập hợp tác xã và doanh nghiệp. Việc
không ghi nhận tổ hợp tác như là một loại chủ thể quan hệ pháp luật dân sự có
thể làm giảm vai trò và sự phát triển của các tổ hợp tác;
Thứ hai, việc quy định hộ gia đình và
tổ hợp tác là chủ thể quan hệ pháp luật dân sự là cần thiết, xuất phát từ các
điều kiện đặc thù về kinh tế, văn hóa, xã hội, gia đình và lịch sử của Nhà nước
ta;
Thứ ba, một số luật hiện hành cũng đã
ghi nhận hộ gia đình và tổ hợp tác là chủ thể của quan hệ pháp luật như Luật đất
đai, Luật bảo vệ và phát triển rừng, Luật bảo hiểm y tế, Luật hợp tác xã...;
Thứ tư, các hạn chế, bất cập trong
các quy định pháp luật về hộ gia đình, tổ hợp tác hiện nay là có thật nhưng có
thể khắc phục được trong quá trình hoàn thiện pháp luật để tạo cơ sở pháp lý tốt
hơn cho hộ gia đình, tổ hợp tác tồn tại và phát triển.
4. Về hậu quả pháp lý của giao dịch
dân sự không tuân thủ quy định về hình thức
Điều 134 Bộ luật dân
sự hiện hành quy định: “Trong trường hợp pháp luật quy
định hình thức là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân
theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch
trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu”.
Khoản 1 Điều 145 dự thảo Bộ luật quy
định:
“1. Trường hợp luật quy định hình thức
là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự mà hình thức đó không được tuân
thủ thì giao dịch dân sự đó bị vô hiệu, trừ các trường hợp sau đây:
a) Việc không tuân thủ quy định về
hình thức không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người khác và chủ thể giao dịch
dân sự đã chuyển giao tài sản hoặc đã thực hiện công việc. Trong trường hợp
này, theo yêu cầu của một hoặc các bên, cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm
hoàn tất thủ tục đối với giao dịch dân sự đó;
b) Trường hợp chủ thể chưa chuyển
giao tài sản hoặc chưa thực hiện công việc thì theo yêu cầu của một hoặc các
bên, Tòa án cho phép thực hiện quy định về hình thức của giao dịch dân sự trong
một thời hạn hợp lý; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch dân sự đó
bị vô hiệu.”
Về vấn đề này, hiện có hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ nhất: nhất trí với quy
định của dự thảo Bộ luật vì quy định như vậy là phù hợp với thực tiễn ký kết,
thực hiện hợp đồng ở nước ta; bảo đảm tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của chủ
thể xác lập quan hệ hợp đồng cũng như quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba;
góp phần bảo đảm sự ổn định của quan hệ thị trường.
- Loại ý kiến thứ hai: đề nghị tiếp tục
duy trì quy định như Bộ luật dân sự hiện hành để bảo đảm tính nghiêm minh của
pháp luật, theo đó, trong trường hợp pháp luật quy định hình thức bắt buộc của
giao dịch thì chủ thể của giao dịch phải tuân thủ hình thức đó, nếu không tuân
thủ thì giao dịch bị tuyên bố vô hiệu; pháp luật hiện hành chỉ quy định giao dịch
được xác lập dưới hình thức bắt buộc trong một số trường hợp liên quan đến bất
động sản và động sản có giá trị lớn (ôtô, xe máy, tàu bay...) và việc quy định
các bên bắt buộc phải tuân thủ hình thức này là nhằm góp phần quản lý nhà nước
đối với các loài tài sản nêu trên.
5. Về bảo vệ người thứ ba ngay
tình trong trường hợp giao dịch dân sự bị vô hiệu
Điều 138 Bộ luật dân sự
hiện hành quy định trường hợp giao dịch dân sự bị Tòa
án tuyên bố vô hiệu nhưng tài sản là bất động sản hoặc động sản phải đăng ký
quyền sở hữu đã chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người
thứ ba bị vô hiệu và chủ sở hữu được nhận lại tài sản của mình, trừ hai trường
hợp: (1) Người thứ ba nhận được tài sản thông qua bán đấu giá; (2) Người thứ ba
giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản
do bản án, quyết định bị hủy, sửa.
Điều 148 dự thảo Bộ luật quy định:
“2. Trường hợp đối tượng của giao dịch dân sự là tài sản phải đăng ký quyền sở
hữu mà tài sản đó đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được
chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba và người này căn cứ vào việc
đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu,
trừ trường hợp người thứ ba biết hoặc phải biết tài sản là đối tượng của giao dịch
đã bị chiếm đoạt bất hợp pháp hoặc ngoài ý chí của chủ sở hữu; 3. Trường hợp đối
tượng của giao dịch dân sự là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu mà tài sản đó
chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng đã được chuyển giao
bằng một giao dịch khác cho người thứ ba thì giao dịch này bị vô hiệu, trừ trường
hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc
giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản
do bản án, quyết định bị hủy, sửa”.
Về vấn đề này, hiện có hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ nhất: nhất trí với
quy định của dự thảo Bộ luật vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, quy định như dự thảo Bộ luật
góp phần bảo đảm tốt hơn, công bằng, hợp lý hơn quyền, lợi ích hợp pháp của người
thiện chí, ngay tình trong giao lưu dân sự, theo đó, nếu người thứ ba ngay tình
căn cứ vào việc tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà
xác lập giao dịch thì người thứ ba ngay tình được bảo vệ;
Thứ hai, Bộ luật dân sự năm 2005 (Điều 168, Điều 439, Điều 692), Luật đất đai năm 2013 (khoản 3 Điều 188) quy định thời điểm xác lập, thay đổi, chấm dứt
quyền sở hữu đối với bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu được tính từ
thời điểm đăng ký. Dự thảo Bộ luật tại khoản 3 Điều 182 về cơ bản kế thừa quy định
của Bộ luật dân sự hiện hành và phù hợp với quy định của Luật đất đai năm 2013.
Do đó, việc quy định bảo vệ người thứ ba ngay tình trong trường hợp tài sản đã
được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền là phù hợp với nguyên tắc đăng
ký bất động sản hiện nay, bảo đảm sự ổn định trong các quan hệ dân sự;
Thứ ba, quy định như dự thảo Bộ luật
góp phần thay đổi nhận thức của người dân đối với công tác đăng ký tài sản, đồng
thời góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cán bộ làm công tác đăng
ký tài sản.
- Loại ý kiến thứ hai: đề nghị giữ
như quy định của Bộ luật dân sự hiện hành vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, nguyên tắc ưu tiên bảo vệ
chủ sở hữu tại Điều 138 Bộ luật dân sự hiện hành là kế thừa
Bộ luật dân sự năm 1995 và đã được áp dụng ổn định trong gần 20 năm qua;
Thứ hai, bảo vệ tốt hơn quyền của chủ
sở hữu tài sản là đối tượng của giao dịch và phù hợp với tinh thần bảo vệ quyền
sở hữu được quy định tại Điều 32 Hiến pháp;
Thứ ba, bảo đảm tính khả thi khi việc
đăng ký bất động sản hiện nay ở nước ta đang có nhiều bất cập, còn nhiều sai
sót mà chưa thể khắc phục ngay được.
6. Về hình thức sở hữu
Bộ luật dân sự hiện hành quy định 6
hình thức sở hữu là: (1) Sở hữu nhà nước; (2) Sở hữu tập thể; (3) Sở hữu tư
nhân; (4) Sở hữu chung; (5) Sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -
xã hội; (6) Sở hữu của tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, sở hữu của tổ chức
xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.
Dự thảo Bộ luật quy định ba hình thức
sở hữu, bao gồm sở hữu toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu chung (Điều 213 và các
điều từ Điều 224 đến Điều 247).
Về vấn đề này, hiện có hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ nhất: nhất trí với
quy định của dự thảo Bộ luật vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, Điều 53 Hiến
pháp đã quy định về sở hữu toàn dân và Bộ luật dân sự cần ghi nhận hình thức
sở hữu toàn dân để phù hợp với Hiến pháp;
Thứ hai, đối tượng của sở hữu toàn
dân là những tài sản có giá trị lớn, là tư liệu sản xuất chủ yếu của đất nước,
do đó sở hữu toàn dân là hình thức sở hữu rất quan trọng cả về mặt kinh tế và
chính trị. Vì vậy, sở hữu toàn dân cần được coi là một hình thức sở hữu độc lập;
Thứ ba, cơ chế thực hiện quyền chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản thuộc hình thức sở hữu toàn dân có nhiều
điểm đặc thù so với các hình thức sở hữu khác do chỉ có Nhà nước mới có quyền
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu toàn dân và có chế độ pháp
lý riêng cho Nhà nước thực hiện quyền này, do vậy cần quy định hình thức sở hữu
toàn dân trong Bộ luật dân sự.
- Loại ý kiến thứ hai: đề nghị quy định
hai hình thức sở hữu, bao gồm sở hữu riêng và sở hữu chung, trong đó, sở hữu
toàn dân là một dạng đặc biệt của sở hữu chung (sở hữu chung hợp nhất không thể
phân chia do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý).
Ý kiến này dựa trên các lý do sau
đây:
Thứ nhất, giống như loại ý kiến thứ
nhất, việc quy định sở hữu chung và sở hữu riêng là dựa trên việc một hay nhiều
người (chủ thể) thực hiện quyền sở hữu (một người thực hiện quyền là sở hữu
riêng; nhiều người thực hiện quyền là sở hữu chung), không căn cứ vào việc xác
định người (chủ thể) cụ thể thực hiện quyền sở hữu (như Nhà nước, cá nhân, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội...) như Bộ luật hiện hành và sự phân
loại này cũng được nhiều quốc gia áp dụng;
Thứ hai, sở hữu toàn dân được hiểu là
một hình thức sở hữu chung do toàn dân là chủ sở hữu mà Nhà nước là người đại
diện, do đó không nên quy định sở hữu toàn dân như một hình thức sở hữu độc lập.
Tuy nhiên, việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu toàn dân có
sự khác biệt với các hình thức sở hữu chung khác nên cần quy định thành một mục
riêng trong chế định về sở hữu chung.
- Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị Bộ
luật dân sự cần quy định ba hình thức sở hữu, bao gồm sở hữu nhà nước, sở hữu
tư nhân và sở hữu chung vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, sở hữu toàn dân được quy định
trong Hiến pháp (Điều 53) nên được hiểu là chế độ sở hữu.
Trong một quan hệ pháp luật dân sự cụ thể, cần xác định chủ thể là ai, cá nhân
hay tổ chức nào có quyền và có nghĩa vụ dân sự. Trong sở hữu toàn dân thì không
tồn tại chủ thể là toàn dân mà chỉ có Nhà nước mới có quyền chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản công (với tư cách đại diện toàn dân). Do đó, nên hiểu sở hữu
toàn dân là chế độ sở hữu còn hình thức sở hữu là sở hữu nhà nước;
Thứ hai, hình thức sở hữu nhà nước đã
được quy định trong Bộ luật dân sự hiện hành và nhiều văn bản pháp luật khác
trong 10 năm qua. Việc không quy định hình thức sở hữu nhà nước trong Bộ luật dân
sự sẽ dẫn đến phải sửa đổi nhiều văn bản và phát sinh nhiều chi phí;
Thứ ba, Điều 32 Hiến
pháp quy định quyền sở hữu tư nhân được pháp luật bảo hộ. Đây là quy định mới,
rất quan trọng, lần đầu tiên quyền sở hữu tư nhân được ghi nhận trong Hiến
pháp, thể hiện tư tưởng, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề sở hữu. Theo
đó, Bộ luật dân sự cần quy định rõ, cụ thể hình thức “sở hữu tư nhân”;
Thứ tư, việc quy định sở hữu nhà nước,
sở hữu tư nhân, sở hữu chung là thể hiện sự kế thừa có chọn lọc các quy định của
Bộ luật dân sự hiện hành.
7. Về thời điểm xác lập quyền sở hữu
và các vật quyền khác
Điều 168 Bộ luật dân
sự hiện hành quy định “Việc chuyển quyền sở hữu đối với
bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sở hữu, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác”.
Điều 182 Dự thảo Bộ luật quy định:
“1. Việc xác lập quyền sở hữu và vật
quyền khác có hiệu lực kể từ thời điểm tài sản được chuyển giao, nếu hợp đồng
hoặc luật không có quy định khác.
Trường hợp hợp đồng và luật cùng quy
định nhưng khác nhau về thời điểm xác lập quyền sở hữu, vật quyền khác thì áp dụng
theo quy định của luật.
Thời điểm tài sản được chuyển giao được
hiểu là thời điểm bên có quyền hoặc người đại diện hợp pháp của họ trực tiếp nắm
giữ, chi phối tài sản.
2. Trường hợp tài sản đã được chuyển
giao trước thời điểm hợp đồng được giao kết thì quyền sở hữu và vật quyền khác
được xác lập kể từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, trừ trường hợp luật hoặc hợp
đồng có quy định khác.
3. Trường hợp luật quy định việc chuyển
giao vật phải được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền thì thời điểm xác lập quyền
sở hữu và vật quyền khác có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký”.
Về vấn đề này, hiện có hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ nhất: nhất trí với
quy định của dự thảo Bộ luật vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, quy định này giúp phân định
rõ ràng hơn thời điểm giao dịch được xác lập (có hiệu lực) với thời điểm quyền
sở hữu hoặc vật quyền khác được xác lập;
Thứ hai, quy định này vừa thể hiện sự
tôn trọng của Nhà nước ta đối với quyền của các chủ thể của quan hệ dân sự
trong việc thỏa thuận để xác định thời điểm xác lập quyền đối với tài sản, vừa
bảo đảm việc tuân thủ các quy định mang tính nguyên tắc trong việc xác định thời
điểm chuyển quyền đối với một số tài sản đặc biệt như bất động sản;
Thứ ba, bảo đảm sự đồng bộ của Bộ luật
dân sự với quy định của các luật khác có liên quan như Luật đất đai, Luật nhà ở,
Luật kinh doanh bất động sản…;
- Loại ý kiến thứ hai: đề nghị quy định
một nguyên tắc thống nhất, theo đó, thời điểm xác lập quyền sở hữu và vật quyền
khác đối với bất động sản được tính từ thời điểm tài sản được đăng ký tại cơ
quan có thẩm quyền và các bên đã hoàn tất thủ tục trước bạ sang tên vì các lý
do sau đây:
Thứ nhất, thúc đẩy việc xây dựng được
một hệ thống đăng ký tài sản thống nhất, minh bạch, qua đó tăng cường hiệu quả
quản lý nhà nước đối với bất động sản và thị trường bất động sản, góp phần ổn định
thị trường bất động sản và nguồn thu ngân sách Nhà nước;
Thứ hai, đảm bảo tính thống nhất của
hệ thống pháp luật, hạn chế được tình trạng ly khai của các luật chuyên ngành
khi điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến bất động sản.
8. Về điều chỉnh hợp đồng khi hoàn
cảnh thay đổi
Bộ luật dân sự hiện hành không quy định
tòa án có quyền điều chỉnh hợp đồng của các bên khi hoàn cảnh thay đổi. Điều này
thể hiện sự tôn trọng tuyệt đối của Nhà nước đối với quyền tự do ý chí, tự do định
đoạt của các chủ thể trong quan hệ hợp đồng.
Điều 443 dự thảo Bộ luật về điều chỉnh
hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi quy định trường hợp hoàn cảnh thay đổi dẫn đến
quyền, lợi ích của một trong các bên bị ảnh hưởng nghiêm trọng thì cho phép các
bên điều chỉnh hợp đồng; trường hợp các bên không đạt được thỏa thuận trong một
khoảng thời gian hợp lý thì Tòa án có thể: a) Chấm dứt hợp đồng vào ngày và
theo những điều khoản do Tòa án quyết định; b) Điều chỉnh hợp đồng để phân chia
cho các bên các thiệt hại và lợi ích phát sinh từ việc thay đổi hoàn cảnh một
cách công bằng và bình đẳng. Tùy theo từng trường hợp, Tòa án có thể buộc bên từ
chối đàm phán hoặc phá vỡ đàm phán một cách không thiện chí, trung thực phải bồi
thường thiệt hại.
Về vấn đề này, hiện có hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ nhất: nhất trí với
quy định trong dự thảo Bộ luật vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, việc cho phép Tòa án điều
chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi không vi phạm nguyên tắc tự do ý chí, tự
do định đoạt của các chủ thể quan hệ hợp đồng mà là sự cụ thể hóa nguyên tắc về
tính có giới hạn của việc thực hiện quyền dân sự được quy định tại Điều 16 dự
thảo Bộ luật. Theo yêu cầu của nguyên tắc này thì để bảo đảm cân bằng lợi ích của
các bên trong hợp đồng, sự ổn định của các quan hệ dân sự, thương mại có liên
quan, cần cho phép Tòa án có thể điều chỉnh hợp đồng theo các điều kiện chặt chẽ
được quy định trong Bộ luật dân sự;
Thứ hai, việc cho phép Tòa án điều chỉnh
hợp đồng sẽ thúc đẩy các hợp đồng được thực hiện trong thực tiễn, đẩy mạnh giao
lưu dân sự.
- Loại ý kiến thứ hai: đề nghị không
quy định như dự thảo Bộ luật vì quy định như vậy là không phù hợp với bản chất
của hợp đồng là sự tự do ý chí, tự do thỏa thuận. Các cơ quan nhà nước, trong
đó có Tòa án không được và không nên can thiệp vào sự tự do của các bên khi
tham gia các giao dịch dân sự nói chung và hợp đồng nói riêng. Bộ luật dân sự
hiện hành và dự thảo Bộ luật đã quy định về sửa đổi hợp đồng, trong trường hợp
hoàn cảnh thay đổi thì các bên có quyền thỏa thuận để sửa đổi hợp đồng, nếu
hoàn cảnh thay đổi đến mức không thể thực hiện được hợp đồng thì hợp đồng chấm
dứt theo sự thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Việc cho phép Tòa án
can thiệp đến mức phân chia thiệt hại, buộc phải đàm phán, buộc bồi thường thiệt
hại khi một bên không đàm phán như dự thảo Bộ luật là không đúng với bản chất của
hợp đồng và không khả thi trên thực tiễn.
9. Về lãi suất trong hợp đồng vay
tài sản
Điều 476 Bộ luật dân
sự hiện hành quy định, lãi suất vay do các bên thỏa
thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước
công bố đối với loại cho vay tương ứng. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận
về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất
thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn
vay tại thời điểm trả nợ.
Điều 491 dự thảo Bộ luật quy định, lãi
suất vay do các bên thỏa thuận hoặc do luật định. Trường hợp các bên có thỏa
thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 200% của lãi
suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố đối với loại vay tương ứng, trừ trường
hợp luật có quy định khác. Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất
giới hạn được quy định ở khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
Về vấn đề này, hiện có hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ nhất: nhất trí với quy
định của dự thảo Bộ luật vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, quy định mức lãi suất trần
dựa trên lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố là để tạo ra sự thống nhất
về xác định lãi suất trong hợp đồng vay tài sản, ngăn ngừa việc cho vay nặng
lãi;
Thứ hai, việc công bố lãi suất cơ bản
do Ngân hàng Nhà nước thực hiện đã được quy định tại Điều 12 Luật ngân hàng Nhà
nước Việt Nam;
Thứ ba, việc xác định một mức lãi suất
trần cụ thể trong Bộ luật dân sự là không phù hợp với tình hình phát triển năng
động của nền kinh tế ở nước ta.
- Loại ý kiến thứ hai: đề nghị quy định
một mức lãi suất trần cụ thể trong Bộ luật dân sự, không sử dụng lãi suất cơ bản
do Ngân hàng Nhà nước công bố làm lãi suất tham chiếu, đồng thời, quy định
nguyên tắc, thẩm quyền thay đổi mức lãi suất cụ thể này khi cần thiết vì các lý
do sau đây:
Thứ nhất, theo thông lệ, lãi suất cơ
bản chỉ là mức lãi suất chung với mục đích để điều hành chính sách tiền tệ,
không mang tính thị trường, lãi suất này không được chia thành các mức lãi suất
khác nhau để áp dụng cho các thời hạn khác nhau, chủ thể tham gia giao dịch khó
có thể biết mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố có phù hợp với loại
vay tương ứng hay không. Do đó, sử dụng lãi suất cơ bản để điều chỉnh các quan
hệ dân sự là không phù hợp, sẽ gây khó khăn cho các chủ thể khi tham gia giao dịch
dân sự trên thực tế;
Thứ hai, việc quy định cụ thể mức lãi
suất trong Bộ luật dân sự sẽ đảm bảo được tính rõ ràng minh bạch, dễ áp dụng,
các bên tham gia giao dịch dân sự có thể biết ngay hậu quả pháp lý khi xác lập
hợp đồng vay.
10. Về thời hiệu
Điều 155 Bộ luật dân
sự hiện hành quy định các loại thời hiệu sau: (1) Thời
hiệu khởi kiện và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự (gọi chung là thời
hiệu khởi kiện); (2) Thời hiệu hưởng quyền dân sự và (3) Thời hiệu miễn trừ
nghĩa vụ dân sự. Trong đó, thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền
khởi kiện hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết vụ, việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình đã bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi
kiện hoặc mất quyền yêu cầu.
Dự thảo Bộ luật quy định chung về thời
hiệu (Điều 167 - Điều 180) và thời hiệu thừa kế (Điều 646) theo hướng: cá nhân,
pháp nhân phải yêu cầu Tòa án giải quyết vụ, việc dân sự trong thời hạn luật định;
hết thời hạn đó mà cá nhân, pháp nhân mới có yêu cầu thì thay vì từ chối giải
quyết yêu cầu như quy định hiện hành, Tòa án vẫn phải thụ lý, giải quyết và
tuyên bố chủ thể được hưởng quyền dân sự hoặc được miễn trừ nghĩa vụ dân sự.
Về vấn đề này, hiện có hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ nhất: nhất trí với
quy định của dự thảo Bộ luật vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, quy định này là phù hợp với
bản chất pháp lý của thời hiệu, tạo công cụ pháp lý tốt hơn để Tòa án bảo vệ
các quyền dân sự của tổ chức, cá nhân. Việc quy định thời hiệu khởi kiện như hiện
hành chưa giúp giải quyết được một cách triệt để và dứt điểm các tranh chấp
phát sinh. Bên cạnh đó, khi không được Nhà nước bảo vệ quyền lợi thì các chủ thể
có thể sử dụng những biện pháp hành xử ngoài vòng pháp luật để xử lý nội bộ với
nhau, gây mất trật tự, an toàn xã hội;
Thứ hai, quy định này là để hạn chế
tình trạng Tòa án có thể căn cứ vào thời hiệu mà từ chối yêu cầu giải quyết vụ
việc, góp phần cụ thể hóa và triển khai thi hành khoản 3 Điều
102 Hiến pháp năm 2013, theo đó, “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”;
Thứ ba, nghiên cứu kinh nghiệm lập
pháp của một số nước cho thấy, Bộ luật dân sự của các nước cũng quy định về thời
hiệu hưởng quyền dân sự, miễn trừ nghĩa vụ dân sự; không quy định về thời hiệu
là căn cứ để Tòa án từ chối giải quyết vụ, việc dân sự.
- Loại ý kiến thứ hai: đề nghị tiếp tục
quy định về thời hiệu khởi kiện như Bộ luật dân sự hiện hành vì các lý do sau
đây:
Thứ nhất, để nâng cao trách nhiệm của
các bên trong việc yêu cầu Nhà nước bảo vệ quyền lợi cho mình;
Thứ hai, không tạo áp lực cho Tòa án
trong việc giải quyết những vụ việc đã xảy ra trong thời gian dài, khó xác định
về chứng cứ cũng như nội dung vụ việc;
Thứ ba, thời hiệu khởi kiện đã được
quy định và áp dụng ổn định trong pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng dân
sự ở nước ta; việc bỏ quy định về loại thời hiệu này có thể gây ra những xáo trộn
nhất định trong thi hành pháp luật./.